You are on page 1of 5

2.1.

Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo quy định trong Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét
xử và thi hành án về tài sản, cụ thể là các khoản tiền, vàng được tính lại như sau:
“1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có
lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa
vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án
quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương
(từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh
nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét
xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án
phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà
giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ
xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng
tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói
trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do
Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2- Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ
quyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản
1 nói trên.
3- Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của
các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng
Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không
phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về
tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ
ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng
do Ngân hàng Nhà nước quy định.
4- Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn)
ở ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó cũng đã
được bảo đảm thông qua việc chịu lãi của bên vay tài sản, cho nên trong mọi
trường hợp toà án đều không phải quy đổi số tiền đó ra gạo, mà chỉ buộc người
vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng với số tiền lãi chưa trả.
5- Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lai suất chỉ
được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất
không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính
bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Như vậy, theo Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 cách tính lại khoản tiền phải
thanh toán quy định tại mục 1 được điều chỉnh thông qua trung gian là “gạo”, cụ
thể khoản tiền được quy đổi ra gạo theo giá gạo trung bình tại thời điểm gây thiệt
hay hoặc phát sinh thiệt hại, sao đó tính lượng gạo đã được quy đổi ra theo giá gạo
tại thời điểm xét xử. Đối với quy định tại mục 2, 3, 4, 5 các khoản tiền phải thanh
toán được quy định bằng mức tiền cụ thể hoặc được đảm bảo bằng mức lãi xuất
Ngân hàng, không thông một trung gian thanh toán khác.
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống thứ nhất, căn cứ theo quy định tại điểm a mục 1 Chương I của
Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997, :
 50.000đ quy đổi được số gạo: 365 kg
 Số tiền ông Quới phải hoàn trả cho bà Cô theo giá gạo hiện nay: 6.570.000đ
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao?
Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Đối tượng chỉnh của nghĩa vụ về tài sản quy định trong thông tư trên là các khoản
tiền, vàng (tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền
truy thu do thu lợi bất chính) và hiện vật, không điều chỉnh việc thanh toán tiền
trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản.
2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, năm 1991 cụ Ngô Quang Bảng Chuyển
nhượng căn nhà cùng toàn bộ thửa đất cho vợ chồng bà Mai Hương và ông Hoàng
Văn Thịnh với giá 5.000.000 đồng, đã thanh toán trước 4.000.000 đồng tương
đương với 4/5 giá trị thửa đất và còn nợ lại 1.000.000 đồng tương đương với 1/5
giá trị thừa đất chưa thanh toán. Giá nhà đất tại thời điểm xét xử theo định giá tài
sản của Tòa án nhân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh là 1.697.760 đồng.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội căn cứ theo quy định tại điểm b2, tiểu mục 2.1,
mục 2, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004, cụ thể:
“2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác
lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành
Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công
tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh
tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:
b.2) Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên
chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả
một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện
tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã
nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng
giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên
nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa
số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ
đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính
theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải
làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận
chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao
số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần
hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng
phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính
theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ
thẩm.”
Như vậy, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội khoản tiền mà bà Hường phải
thanh toán cho cụ Bảng là 1.697.760 đồng .
2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Nguyên đơn là cụ Ngô Quang Bảng, khởi kiện bị đơn là bà Mai Hương, yêu cầu bà
Mai Hương trả lại số tiền còn thiếu sau khi thực hiện giao dịch mua bán nhà đất.
Năm 1991, cụ Bảng chuyển nhượng cho vợ chồng bà Mai Hương và ông Hoàng
Văn Thịnh với giá 5.000.000 đồng, bà Hương đã trả cho cụ 4.000.000 đồng, còn
nợ lại 1.000.000đ tương đương 1/5 giá trị thửa đất chưa thanh toán. Cụ đã nhiều
lần đòi bà Hương trả số tiền còn thiếu, nhưng bà Hương không không trả nên cụ
khởi kiện yêu cầu bà Hương trả cho cụ số tiền còn thiếu tương đương 1/5 giá trị
nhà, đất với số tiền là 1.697.760.000 đồng (theo định giá tài sản của Tòa án nhân
dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh).
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày 08/6/2015, Tòa án nhân dân thị
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh quyết định buộc bà Mai Hương phải trả cho cụ
Ngô Quang Bảng tổng số tiền 2.710.000 đồng, trong đó: Tiền nợ gốc là 1.000.000
đồng, tiền lãi 1.710.000 đồng.
Ngày 19/6/2015, cụ Bảng kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, tại bản án dân sự
phúc thẩm số 38/2015/DS-PT ngày 22/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
quyết định không chấp nhận kháng cáo của cụ Ngô Quang Bảng, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, cụ Ngô Quang Bảng có đơn đề nghị xem xét bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm, tại Quyết định giám đốc thẩm
số 15/2018/DS-GĐT Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội buộc bà Hương phải
thanh toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định
giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 38/2015/DS-PT
ngày 22/9/2015 và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST.

You might also like