You are on page 1of 12

VẤN ĐỀ 02: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ ( THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN )............

2
Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua
ba trung gian là tài sản gì?.......................................................................................................2
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể
là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?.......................................................................3
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất
động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?....................................3
Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được
xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì
sao?...........................................................................................................................................4
Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một
tiền lệ (nếu có)?........................................................................................................................4
VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN....................................5
Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ theo thỏa thuận?........................................................................................................5
Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?....6
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?......................................................................................7
Câu 4: Suy nghĩ của anh/ chị về đánh giá của Tòa án?............................................................7
Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người
có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời?..........................................................................................................8
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao ? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết?.................................8
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền?................................................................................9
Câu 8: Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ ban
đầu và người có quyền?...........................................................................................................9
Câu 9: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?.....................................10
Câu 10: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không?
Nêu rõ cơ sở pháp lý..............................................................................................................10
VẤN ĐỀ 02: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ ( THANH TOÁN
MỘT KHOẢN TIỀN )
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao Hà Nội:
Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng
Bị đơn: Bà Mai Hương
Thửa đất số 49 có diện tích 1.010 m2 tại số 49A phố Trần Hưng Đạo, thị trấn Quảng
Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ban đầu là của cụ Ngô Quang Phúc, sau khi
ông Phúc chết, mảnh đất được để lại thừa kế cho con trai ông Phúc là ông Ngô Quang
Phục. Năm 1982, ông Phục chuyển nhượng mảnh đất trên cho cụ Ngô Quang Bảng.
Năm 1991, cụ Bảng chuyển nhượng mảnh đất và căn nhà hai gian cho bà Mai Hương
và ông Hoàng Văn Thịnh với giá 5 triệu đồng nhưng bà Hương mới chỉ thanh toán 4
triệu đồng, còn 1 triệu đồng chưa thanh toán, tương đương với giá trị ⅕ mảnh đất. Cụ
Bảng nhiều lần yêu cầu bà Hương thanh toán nhưng bà Hương lấy lý do chồng ốm,
không có tiền mà không trả. Năm 1996, bà Hương chuyển nhượng lại toàn bộ nhà và
đất cho bà Phạm Thị Sáu và ông Hoàng Văn Chinh nhưng vẫn không chịu trả số tiền
còn thiếu cho cụ Bảng nên cụ Bảng khởi kiện bà Hương, yêu cầu bà Hương phải trả ⅕
giá trị mảnh đất chưa thanh toán (1.697.760.000 đồng theo định giá của Tòa án nhân
dân thị xã) hoặc trả lại ⅕ diện tích đất (188,6 m2). Căn cứ vào “Giấy biên nhận tiền”
giữa hai bên thì Tòa án nhân dân cấp cao đã nhận định bà Hương còn nợ ⅕ giá trị nhà
đất và phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền nợ tương đương ⅕ giá trị nhà, đất theo định
giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán
như thế nào? Qua ba trung gian là tài sản gì?
Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán theo hai trường
hợp:
Trường hợp 1: Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy
ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì
Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa
phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét

2
xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí
theo số tiền đó.
Trường hợp 2: Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau
ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời
gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án
chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng
tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên
còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng
Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ
thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về
tài sản cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán qua trung gian là tài sản
“Gạo”. Cụ thể là Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở
địa phương tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản
phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Căn cứ vào điểm a khoản 1 mục I Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng
dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền là:
Trong tình huống này, thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Qưới và bà
Cô trước ngày 1/7/1997. Bên cạnh đó, trong thời gian gây ra thiệt hại và phát sinh
nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm gia gạo đã tăng quá 20%. Từ đó chúng ta quy
đổi khoản tiền 50.000đ ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương
Khoản tiền thế chân 50.000đ quy ra gạo với giá trị tại thời điểm phát sinh
nghĩa vụ: 50.000 : 137 = 365 kg.
Chúng ta tính 365kg gạo thành tiền theo giá tại thời điểm bà Cô yêu cầu
ông Qưới hoàn lại tiền thế chân: 365 x 15000 = 5.475.000
Vậy số tiền ông Quới phải trả cho bà Cô là 5.475.000đ.

3
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không?
Vì sao?

Thông tư 01/TTLT, ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, VKS nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản và
các quy định liên quan khác. Cụ thể, đối tượng điều chỉnh của thông tư 01 là nghĩa vụ
về tài sản là các khoản tiền, vàng và hiện vật. Trong khi đó, trong Quyết định số
15/2018/DS-GĐT có đối tượng điều chỉnh là hợp đồng chuyển nhượng bất động sản
được định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT
không thể áp dụng thông tư 01 bởi đối tượng điều chỉnh khác nhau. Bởi đất đai qua
thời gian có thể tăng, giảm rất lớn khi được định giá thành tiền. Do đó, nếu áp dụng
thông tư 01 sẽ rất thiệt thòi cho chủ sở hữu.

Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá
trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?

Tính tới thời điểm xét xử sơ thẩm thì bà Hương còn nợ cụ Bảng 1/5 giá trị thửa
đất chưa thanh toán là: 1.697.760.000đ.

Vì căn cứ vào điểm b.2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/8/2004 quy định:

“b.2) Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất;
bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp
đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới
trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần
diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất
đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng
giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên
nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa
số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã
nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo

4
giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển
nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền
lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng
tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh
toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị
quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.”

Tới thời điểm xét sử sơ thẩm thì Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng
Ninh đã định giá thửa đất của ông Bảng có trị giá là 1.697.760.000

Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội đã có tiền lệ.
Tóm tắt Quyết định số 741/2011/DS-GĐT ngày 26-9-2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao:
Ông Hoanh với ông An có ký hợp đồng chuyển nhượng đất tuy nhiên ông An đã
không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán; nhưng ông An đã nhận đất và được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông An đã bán thửa đất mà ông nhận chuyển nhượng của ông Hoanh. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng đất là có căn cứ.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông An đã vi phạm hợp đồng, không thực
hiện nghĩa vụ trả tiền nhận chuyển nhượng đất đúng thời hạn. Do đó, ông An phải
thanh toán cho ông Hoanh số tiền nhận chuyển nhận đất còn thiếu theo giá thị trường
tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

VẤN ĐỀ 03: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA


THUẬN
*Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Cẩm Tú
Bị đơn: Bà Phùng Thị Bích Phượng

5
Ngày 27/4/2004 bà Phượng vay của bà Tú 615.000.000 đồng với lãi suất
1.8%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng. Ngoài ra, bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh qua việc lập hợp đồng
ngày 12/5/2005 cho bà Ngọc vay 465.000.000 và bà Loan, ông Thạnh vay
150.000.000. Theo đó, Tòa án cũng nhận định rằng sau khi bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú
đã chấm dứt đồng thời đã làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
với bà Tú trong quan hệ nghĩa vụ trả nợ vay. Do đó, việc bà Tú yêu cầu bà Phượng
thanh toán khoản vay là không có căn cứ.

Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Điểm giống nhau:
Đều dẫn đến hậu quả pháp lí là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa
vụ theo đó chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách
chủ thể cho người nhận chuyển giao.
Sau khi chuyển giao quyền/ nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu
chấm dứt toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền/ nghĩa vụ.
Xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên.
Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển giao
quyền/ chuyển giao nghĩa vụ.
Về hình thức chuyển giao thì chuyển giao quyền/ nghĩa vụ đều được thể
hiện bằng văn bản hay lời nói.
Điểm khác nhau:
Khác Chuyển giao yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ
nhau

Nguyên Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần sự Việc chuyển giao nghĩa
tắc CG đồng ý của bên có nghĩa vụ. Người chuyển giao vụ bắt buộc phải được
quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản bên có quyền đồng ý
cho bên có nghĩa vụ về việc chuyển giao quyền
yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

6
Đối tượng Bên có quyền là người thực hiện chuyển giao Bên có nghĩa vụ là
có quyền người thực hiện việc
CG chuyển giao

Biện pháp Sau khi chuyển giao quyền yêu cầu thì biện Sau khi chuyển giao
đảm bảo pháp đảm bảo vẫn duy trì. nghĩa vụ thì biện pháp
đảm bảo chám dứt trừ
trường hợp có thỏa
thuận khác.

Quyền Người chuyển giao quyền yêu Người chuyển giao


hạn không phải trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ phải chịu trách
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. nhiệm về khả năng thực
hiện nghĩa vụ để đảm
bảo lợi ích của người có
quyền.

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh
toán cho bà Tú?
Bản án cho biết rằng bà Phượng có trách nhiệm thanh toán cho bà Tú dựa trên
các thông tin sau đây: Theo các biên nhận tiền mà bà Tú đã cung cấp, có cho thấy rằng
bà Phượng đã trực tiếp nhận tiền từ bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền là
555.000.000 đồng. Ngoài ra, theo biên nhận ngày 27/4/2004, bà Phượng đã ghi nhận
việc nhận số tiền 615.000.000 đồng từ bà Lê Thị Nhan. Bản án chỉ ra rằng bà Phượng
không thể cung cấp bằng chứng xác định rằng bà Ngọc đã thỏa thuận vay tiền với bà
Tú.
Thêm vào đó, bà Phượng cũng thừa nhận rằng vào tháng 4 năm 2004, do bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền để trả vốn vay ngân hàng cho bà Tú, bà
Phượng và bà Tú đã cùng nhau vay tiền bên ngoài để có đủ tiền để trả cho ngân hàng.

7
Từ những thông tin này, bản án kết luận rằng bà Phượng là người đã thiết lập quan hệ
vay tiền với bà Tú.
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã
được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của bản án này cho biết rằng nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển giao cho bà Ngọc và ông Thạnh thông qua việc bà Tú đã chấp nhận chuyển
giao nghĩa vụ này. Điều này được thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay một số tiền là 465.000.000 đồng và lập hợp đồng cho bà Loan và ông Thạnh
vay một số tiền là 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005. Vì vậy, từ thời điểm bà Tú
ký hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng
đối với bà Tú đã kết thúc và thay vào đó, nghĩa vụ trả nợ này đã phát sinh đối với bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh theo hợp đồng vay tiền mà họ đã ký.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/ chị về đánh giá của Tòa án?
Dựa trên phần “Xét thấy” của Bản án số 148/2007/DSST cho thấy:
Việc bà Phượng sử dụng hành vi pháp lý là chuyển giao nghĩa vụ trả nợ qua cho
bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh, đã được Tòa án xác định là có căn cứ, vì có sự chấp
thuận của bà Tú, người đã lập hợp đồng cho vay số tiền 465.000.000 đồng của bà Ngọc
và số tiền 150.000.000 đồng với bà Loan và ông Thạnh. Căn cứ theo Điều 370 của
BLDS 2015:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ
nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân
của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa
vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên
có nghĩa vụ.”
Do bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, cũng chính
là lúc phát sinh nghĩa vụ, cũng là lúc chấm dứt nghĩa vụ đối với bà Phượng. Chính vì
vậy, bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh.

8
Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu không có trách nhiệm đối
với người có quyền khi người thay thế nghĩa vụ không thực hiên nghĩa vụ được chuyển
giao.
Theo khoản 1 điều 370 BLDS 2015 : “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao
nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa
vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được
chuyển giao nghĩa vụ”. Bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả
nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh qua việc bà Tú đã xác lập hợp đồng cho vay
đối với bà Ngọc , bà Loan và ông Thạnh vào ngày 12/2/2005 mà không có thêm thoả
thuận gì với bà Phượng ( người có nghĩa vụ ban đầu ) và các bên thế nghĩa vụ.
Theo điều 371 BLDS 2015: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được
chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, bà Phượng đã chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh nên bà Phương không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, chấm dứt hoàn toàn mối
quan hệ pháp lý trong mối quan hệ với bà Tú. Nếu bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
(bên thế nghĩa vụ) không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú thì bà Phương
cũng không phải chịu trách nhiệm về vấn đề này.
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban
đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao ? Nêu rõ quan điểm của các tác giả
mà anh/chị biết?
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền khi người thay thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao, trừ khi giữa các bên có thoả thuận khác.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài đã đề cập trong giáo trình “Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, một trong những đặc điểm của việc
chuyển giao nghĩa vụ là người có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận riêng với nhau.
Trên cơ sở thoả thuận có sự đồng ý của bên có quyền, người thứ ba thay thế cho người
có nghĩa vụ trước đó sẽ trở thành người có nghĩa vụ mới (người thế nghĩa vụ). Người

9
có nghĩa vụ ban đầu chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ đối với bên có quyền sau
khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cam
kết với bên có quyền với nội dung khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà người thế nghĩa
vụ thực hiện nghĩa vụ không đúng, không đủ thì người có nghĩa vụ ban đầu sẽ thực
hiện nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ với tư cách là người bảo lãnh.
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền là:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng cho vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Loan đã chấm dứt,
làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là
không có căn cứ chấp nhận”.
Câu 8: Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người
có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền?
Về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý: Để thực hiện việc
chuyển giao nghĩa vụ theo một thoả thuận có giá trị pháp lý, điều quan trọng nhất là
cần sự đồng tình của bên có quyền. Điều này không chỉ áp dụng trong phạm vi quốc
gia mà còn được đề cập trong các hệ thống luật quốc tế. Chẳng hạn, theo Điều 9.2.3
của Bộ nguyên tắc Unidroit, quy định rằng để thực hiện việc chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới, sự đồng ý của
người có quyền là điều kiện không thể thiếu.
Về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan: Thực tế cho thấy rằng quy định
liên quan đến việc chuyển giao nghĩa vụ khác nhau trong các hệ thống luật trên thế
giới. Tại châu Âu, một số quốc gia cho phép người có nghĩa vụ ban đầu được giải
phóng hoàn toàn, trong khi một số khác lại đề xuất hướng tiếp cận khác, cho phép
người thứ ba tham gia với vai trò người có nghĩa vụ bổ sung. Điều này được thể hiện
trong Điều 9.2.5 của Bộ nguyên tắc Unidroit, mà quy định rằng "người có quyền có thể
giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu." Tức là, người có quyền có thể
hoàn toàn giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, hoặc quyết định rằng người có nghĩa
vụ ban đầu vẫn giữ nghĩa vụ, đặc biệt trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không
thực hiện đúng nghĩa vụ của họ. Một quyền khác của người có quyền là quyền bảo lưu

10
yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu. Trong trường hợp không có quyết định cụ
thể từ phía người có quyền, quy định tại Điều này trong Bộ nguyên tắc Unidroit thể
hiện rằng người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới sẽ phải chịu trách
nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ.
Câu 9: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?
Hướng giải quyết mà Tòa án đưa ra là vô cùng hợp lý và có căn cứ pháp lý và
những bằng chứng rõ ràng.
Thông qua phần “Xét thấy”, “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan và
ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/05/2005”. Vì vậy nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tú của bà Phượng được chuyển giao sang bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh. Và
căn cứ theo khoản 2, Điều 370 của BLDS 2015: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì
người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.”
Vì việc chuyển giao nghĩa vụ đã làm chấm dứt nghĩa vụ của bà Phượng đối với
bà Tú, Tòa án nhận định rằng: “việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh
toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận.” và Tòa án “buộc bà Tú hoàn trả lại bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan”, vì việc bà Tú giữ giấy chứng minh của bà
Phượng theo thỏa thuận là không thể thực hiện do nghĩa vụ giữa bà Tú và bà Phượng
không phát sinh.
Tóm lại, chính quyết định này của Tòa án đã giúp cho bà Phượng bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Câu 10: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp
bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý.
Cơ sở pháp lý: Điều 335; Khoản 1 Điều 343; Điều 371 BLDS 2015.

Nếu trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh đó sẽ
chấm dứt.

Theo khoản 1 Điều 335, “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn

11
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ”. Do đó, khi thực hiện chuyển giao nghĩa vụ, người phải chịu trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ thay đổi thì nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh (người có nghĩa vụ ban
đầu) sẽ chấm dứt.

Bên cạnh đó, xét khoản 1 Điều 343, bảo lãnh chấm dứt khi “nghĩa vụ được bảo
lãnh chấm dứt”. Mà bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm nên “nghĩa vụ
dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt”
căn cứ theo điều 371 BLDS 2015. Tuy nhiên, nếu các bên có thoả thuận khác thì phải
thực hiện theo thoả thuận đó.

12

You might also like