You are on page 1of 18

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - PLT06A

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ


NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN VÀ
VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HIỆN NAY.

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan Phương


Sinh viên thực hiện: Ngân Nguyên Ngọc
Mã sinh viên: 23A4060182
Nhóm Lớp: PLT06A11

Cán bộ chấm thi Điểm


1.
2.

Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2022


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................... 1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................ 2

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................... 2

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. ............................................... 2

NỘI DUNG..................................................................................................... 3

I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ ......................... 3

1.1. Về sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. ........... 3

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ .................................... 3

II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN. .......................................................................................... 5

2.1. Nhà nước của dân........................................................................... 5

2.2. Nhà nước do dân ............................................................................ 7

2.3. Nhà nước vì dân ........................................................................... 10

III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY 11

3.1. Những thành tựu đạt được .......................................................... 11

3.2. Những điểm hạn chế .................................................................... 12

3.3. Nguyên nhân của những điểm hạn chế ...................................... 13

3.4. Những biện pháp để tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.................................... 14

KẾT LUẬN .................................................................................................. 16

*Tài liệu kham khảo.................................................................................... 16


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc đời của sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn khao
khát cháy bỏng đem lại độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân
dân. Người từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Với những khát vọng và lý tưởng đó đã thôi
thúc Người trong suốt cuộc đời cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Tư tưởng và quan niệm của Người về nhà nước của dân, do dân, vì dân vô
cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng
những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt
Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.
Để hiểu hơn tư tưởng của Người và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng
trong xây dựng nhà nước, em xin nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và vận dụng
trong xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân; từ đó vận dụng vào quá trình xây dựng Nhà
nước Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn tập
trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, làm sáng tỏ sự hình thành và những nội dung cơ bản trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.

1
Hai là, làm sáng tỏ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân và một số nội dung vận dụng vào xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện qua các bài nói, bài viết và tác phẩm của
Người.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, của tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị
quyết của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các
phương pháp: phương pháp so sánh, phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, khái quát
hoá, trừu tượng hoá và các phương pháp khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Nghiên cứu đề tài nhằm nắm rõ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà nước, phục vụ nhân dân, phục
vụ xã hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay.

2
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Về sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trong hơn 80 năm đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, vào tháng
2/1930 Đảng đã ra đời lãnh đạo nhân dân ta vùng lên đấu tranh chống lại áp bức
bóc lột của chế độ thực dân phong kiến và giành lại nền độc lập cho dân tộc. Vào
ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh
trọng tuyên bố dõng dạc với nhân dân trong nước và nhân dân thế giới “Bản tuyên
ngôn độc lập”. Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945), trở thành nhân tố
nền tảng đảm bảo vững chắc cho nền độc lập, tự do mà nhân dân khao khát. Ngay
sau khi thành lập, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện rõ bản chất
chuyên chính vô sản, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Không
lâu sau khi thành lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tổ chức cuộc tổng tuyển
cử bầu Quốc hội (6/1/1946) và Hội đồng Nhân dân các cấp nhằm củng cố chính
quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của chế độ mới, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để đập tan những luận điệu xuyên tạc và hành động của các thế lực thù
địch đang nuôi dưỡng mưu đồ đặt lại ách đô hộ lên đất nước ta.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong ngôn ngữ của Hồ Chí Minh, chữ “Dân” có tần số lớn nhất. Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta nhận ra điều quý giá, có ý nghĩa sâu sắc không
chỉ về nhận thức lý luận mà còn là hoạt động thực tiễn, thể hiện sự gắn bó chặt
chẽ giữa lý luận với thực tiễn bằng thực hành tư tưởng trong các công việc thực
tế của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ
của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân
trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng nhân dân truyền thống ở
Phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học
thuyết Mác – Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực
tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính
khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
3
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ hết sức ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc, có giá
trị như một định nghĩa khoa học: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. “Là
chủ” thể hiện vị thế, vai trò của dân, họ là người chủ, là chủ thể chứ không phải
nô lệ. “Làm chủ” thể hiện năng lực của người dân với tư cách người chủ, chủ
động, tích cực, sáng tạo trong mọi việc làm, mọi hoạt động đem lại lợi ích cho
mình và cho xã hội. Quan điểm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung về
bản chất về dân chủ quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào
đảm bảo cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: Dân chủ thể hiện ở việc bảo
đảm quyền con người, quyền công dân. Dân chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực
chính trị là quan trọng nhất, được biểu hiện tập trung trong các hoạt động của Nhà
nước. Dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong
các quan hệ quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ
được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng,
đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân
người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ,
động viên khuyến khích họ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và nếu nhân
dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện
được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế đảm
bảo quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một nhà nước của
dân, do dân, vì dân; với hệ thống pháp luật, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm
mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người
lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

4
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO
DÂN, VÌ DÂN.
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước ở Việt Nam
là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của
Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan điểm đó
xuyên suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nhà
nước cách mạng ở Việt Nam.
2.1. Nhà nước của dân
Hồ Chí Minh khẳng định Nhà nước của dân là nhà nước mà tất cả quyền lực
đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này được thể hiện trong các bản Hiến pháp
(1946, 1959) do Người lãnh đạo soạn thảo.

Hiến pháp 1946 nêu rõ:


Mọi công việc quốc gia do dân phán quyết: Tất cả quyền bính trong nước đều
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo, những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân
phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,
bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao
của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu,
ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh.
Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp.
5
Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát nhà nước: Phải đảm bảo quyền kiểm
soát của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra… Tất cả các cơ quan Nhà nước
phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe theo ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân
chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về
vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người”.
Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ
yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng,
tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp
luật là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được
kiểm tra, giám sát bởi nhân dân.
Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân: Quyền
làm chủ của nhân dẫn thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không
tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước,
phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri
bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do
bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách
là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Và cao hơn nữa là “Nếu Chính
phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Những tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của bộ máy
nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng.

6
2.2. Nhà nước do dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc phát huy quyền làm chủ của
dân được thể hiện và thực hiện qua việc phát huy vai trò của dân trong xây dựng
Đảng. Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra điều hệ trọng “phải dựa vào dân mà xây dựng
Đảng”. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp lý của
một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc
quyết,... Đó là Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Đó là
Nhà nước do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu hoạt động, đó
là Nhà nước do dân phê bình, xây dựng. Nhân dân phải tham gia vào công việc
của nhà nước, mọi công việc xây dựng đất nước là trách nghiệm của dân.
Nhân dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước,
cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.

(Chủ tịch Hồ Chí Minh với cuộc tổng tuyển cử)


Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946) vốn là một Quốc hội lập
hiến. Song do hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến nên Hiến pháp 1946 chưa
được ban hành. Quốc hội đã giao cho Chính phủ và Ban thường trực Quốc hội
căn cứ vào nguyên tắc đã định của Hiến pháp để thực thi việc lập pháp.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Quốc hội đã giải quyết mọi vấn đề của toàn quốc, lập hiến và lập pháp, biểu
quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.

7
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ (Chính phủ).

(Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng) (Thủ tướng Phạm Minh Chính)

Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ
viên. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về
dân tộc, thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách Dân tộc, các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc
thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ
phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được
tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các
phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc.
Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của cả Nhà nước,
thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
Theo Hiến pháp 1946: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quyền hạn của Chính Phủ: a, Thi hành các đạo
luật và quyết định của Nghị viện; b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện;
c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện
không hợp mà gặp trường hợp đặc biệt; d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết
của cơ quan cấp dưới, nếu cần; đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong
các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn; e) Thi hành luật động viên và mọi
phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước; g) Lập dự án ngân sách hàng năm.

8
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực
hiện ý chỉ của nhân dân.
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho
nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám
sát của cử tri thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri
với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu
và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó Đại
biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vẫn Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao…
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của
quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể
trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề
nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất
nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”,
“công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà
nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa
vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm
lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.”
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông
qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước
bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “ Làm
việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ
dàng và làm được tốt…”. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ,
đặt dưới sự kiểm soát và kiểm tra của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn
9
là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở dân, do dân nắm quyền hành. Nhà nước
tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được.
2.3. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất kì một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kì một đặc quyền, đặc lợi
nào.
Hồ Chí Minh là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà
nước, các cán bộ nhà nước đều phải vì dân phục vụ. Người nói: “Các công việc
của Chính phủ phải nhằm vào mục đích duy nhất là mang lại tự do hạnh phúc cho
mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên
hết thảy. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ mấy ta cũng phải hết sức làm, việc gì có
hại cho dân nhỏ mấy ta cũng phải hết sức tránh”. Người luôn tâm niệm: “Phải làm
cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho
dân được học hành”.
Một nhà nước vì dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch nước
đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ
không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do
dân ủy thác cho, như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đông thời là người lãnh đạo hướng dẫn
dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn,
sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy,
“Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.
Ngay từ đầu, tư tưởng độc đáo, sáng tạo rất Hồ Chí Minh về một Chính phủ
toàn dân, liêm khiết, biết làm việc đã được xác định: “Chính phủ sau đây là một
Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái… một
Chính phủ liêm khiết…biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong
kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất nhà nước”. Một Chính phủ
10
coi trọng tính hiệu quả và thiết thực: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi”.
Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong
thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm
công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật
pháp, đại điện cụ thể cho “cán cân công lý”. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ
phải có phẩm chất đạo đức cần thiết. Trong công tác xử án phải công bằng, liêm
khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của
mình trong khung tòa mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp
mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY
Qua 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu về kinh tế, xã hội, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại... việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới - một Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
3.1. Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, vai trò và quyền làm chủ của nhân dân được củng cố phát huy, bảo
đảm và lan tỏa tinh thần tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tiếp tục
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị.
Việc mở rộng dân chủ về kinh tế đã tạo động lực to lớn đến việc giải phóng sức
sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về
chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc thực thi dân chủ trực tiếp và gián
tiếp, nhân dân được nắm quyền làm chủ, giao quyền lực cho Nhà nước.
Thứ hai, Hiến pháp được xác định giữ vị trí tối thượng trong hệ thống pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội; mọi văn bản quy phạm pháp luật phải phù
11
hợp và không được trái với Hiến pháp. Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng
của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước (năm 1986) đến nay, Quốc hội đã 2 lần tiến hành hoạt động lập hiến (ban
hành Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013) và 3 lần tiến hành hoạt động sửa
đổi Hiến pháp (năm 1988, 1989 - sửa đổi Hiến pháp năm 1980) và năm 2001 (sửa
đổi Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản
chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dẫn quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh
tế, xã hội văn hóa. giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc,
tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp.
Thứ ba, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt
được nhiều kết quả. Phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng làm
trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra.
Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt những
kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá:
“Trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng.
Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
đã giảm khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng,
quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã
được tiếp tục giải quyết…”
3.2. Những điểm hạn chế
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Thủ tướng Phạm Minh
Chính cũng đã nhấn mạnh, thẳng thắn chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất
nước trong tình hình mới”. Điều đó thể hiện:
Một là, các giá trị của nền dân chủ XHCN đã được phát huy nhưng chưa
xứng tầm với yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN. Biểu hiện ở chỗ, thể chế
luật pháp để bảo đảm dân chủ được thực thi chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, thiếu
12
ổn định và tính khả thi của nó. Không ít quy định pháp luật được xây dựng công
phu, tốn kém, nhưng mới ban hành chưa lâu đã có nhu cầu phải bổ sung, sửa đổi.
Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, thiếu tính thực tiễn, vẫn
còn tình trạng có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn. Cơ chế kiểm soát quyền
lực chưa hoàn thiện.
Hai là, công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị còn
nhiều hạn chế: tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa thật trong sạch, vững mạnh;
một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa tinh gọn; phẩm chất, năng
lực, uy tín ở một bộ phận còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; sự phản công phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn nhiều
điểm chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ.
Ba là, đối với nguyên tắc Đảng lãnh đạo thì sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp
ứng yêu cầu của quá trình đổi mới, tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn còn
tình trạng buông lỏng và bao biện nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng
và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Một số cấp uỷ và tổ chức Đảng vừa
lúng túng, vừa thiếu quan tâm lãnh đạo việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của
Đảng chưa được tiến hành thường xuyên, các biện pháp xử vi phạm của Đảng còn
nhẹ nên hạn chế về tính răn đe.
3.3. Nguyên nhân của những điểm hạn chế
Những hạn chế, yếu kém trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và
khách quan.
Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội thấp cùng những ảnh hưởng nặng nề của
cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, bao cấp áp dụng trong một thời gian dài
đã tác động không nhỏ đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước XHCN ở
Việt Nam.
Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN chưa được
nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống, chưa xác định rõ vai trò của Nhà
13
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp chưa được thể chế đầy đủ, rõ ràng về phương diện pháp luật, chưa tạo sự
gắn kết, đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp, tư pháp.
Công tác quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chưa ổn
định nên việc bố trí, sử dụng công chức vận theo tình huống, bị động.
3.4. Những biện pháp để tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
3.4.1 Tăng cường dân chủ XHCN
Đổi mới về nhận thức và hành động về mối quan hệ giữa Nhà nước và công
dân, trong đó phải đặt người dân vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của bộ
máy nhà nước, toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên
nền tảng phục vụ nhân dân”. Với tinh thần đó, bộ máy nhà nước cần phải tổ chức
gọn nhẹ, rõ ràng về chức năng, cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm; tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến
chính quyền địa phương phải tạo điều kiện để dân dễ tiếp cận, dễ đối thoại, dễ
kiểm tra, giám sát, huy động được tối đa trí tuệ, sáng kiến và sự đóng góp của
người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
3.4.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước
Về vai trò, chức năng của Nhà nước: Để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của
nhân dân thì Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển. Nhà nước
không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và
tạo điều kiện cần thiết để mọi người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích
của chính mình và đóng góp cho xã hội.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, hiệu
quả trong các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước. Phát huy dân chủ hơn nữa phương thức hoạt động của Quốc
hội, tăng cường tranh luận, phản biện, giám sát, đưa ra các quyết định dưới hình
thức luật.

14
3.4.3 Hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp luật
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ
giữa xây dựng pháp luật với tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Thứ hai, xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện tốt
trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của tổ chức, cá nhân.

15
KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một nhà nước do toàn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước hoàn toàn hợp hiến,
hợp pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân
ủy thác; là một nhà nước lấy quyền và lợi của nhân dân, lấy sự tự do và hạnh phúc
của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước
không có mục mục đích tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục vụ nhân dân, phục
vụ yêu cầu phát triển của xã hội. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu như chính quyền
làm hại đến dân, không mưu cầu quyền lợi và hạnh phúc cho nhân dân thì nhân
dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền
mới.

*Tài liệu kham khảo


1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ( dùng cho sinh viên học viện
Ngân Hàng) – NXB Khoa Lý luận chính trị.
3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
https://dangcongsan.vn/thoi-su/nhung-tien-bo-cua-nha-nuoc-phap-quyen-
xhcn-gop-phan-cung-co-niem-tin-cua-nhan-dan-599404.html

16

You might also like