You are on page 1of 32

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------***--------

ĐỀ TÀI

QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ


NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM – HOA KỲ

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1 - Wabi


Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã lớp: 180
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
Giảng viên: Tô Ngọc Hằng

Nhóm trưởng: Ngô Đức Phương – MSSV: 2011115474

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2022


2

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và tên MSSV Đánh giá mức độ tham gia Ghi chú

1 Ngô Đức Phương 2011115474 100% Nhóm trưởng

2 Nguyễn Gia Bảo Ngọc 2011116491 100%

3 Bùi Thu Uyên 2011115662 100%

4 Nguyễn Thị Khuyên 2011116417 100%

5 Trần Thị Thu Thảo 2011116565 100%

6 Huỳnh Phạm Cẩm Nhung 2011116527 100%

7 Đặng Thị Thanh Trúc 2011116607 100%

8 Bùi Loan Trinh 2011115771 100%

9 Nguyễn Trần Yến Vy 2011116632 100%

10 Trịnh Thị Hồng Nhung 2011115445 100%

11 Đặng Hữu Viễn 2011115682 100%

12 Nguyễn Ngọc Trúc Linh 2011116437 100%

13 Lê Trúc Linh 2011115286 100%

14 Nguyễn Văn Phong 2011116531 100%


3

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TRƯỚC NĂM 1975 2

1. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1945 2

2. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kì giai đoạn 1954 - 1975 2

2.1. Mỹ thay chân Pháp sau hiệp định Giơnevơ 1954 2

2.2. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965) 3

2.3. Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến
tranh” 3

2.4. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 4

3. Kết luận 4

4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống đế quốc
1954 - 1975 4

CHƯƠNG II: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1975 - 1995 6

1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 6

1.1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ qua các giai đoạn 6

1.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống đế quốc
1975 – 1995 8

2. Việt Nam sau giai đoạn chiến tranh 1975 – 1995 và quan hệ ngoại giao với các
nước 10

2.1. Tình hình Việt Nam 1975 – 1995 10

2.2. Quan hệ ngoại giao với các nước 11

CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ

NGOẠI GIAO VIỆT NAM – HOA KỲ (GIAI ĐOẠN 1995 – NAY) 14

1. Dấu mốc bình thường hóa 14


4

1.1. Giai đoạn 1995 - 2010 14

1.2. Giai đoạn 2011 – 2022 16

2. Thành tựu nổi bật trong mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 18

3. Vị trí Việt Nam trên trường thế giới sau khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ 19

3.1. Khẳng định vị thế 20

3.2. Thành tựu kinh tế 21

4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1995 – nay 21

4.1. Giai đoạn 1996 - 2010: thiết lập mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế 21

4.2. Giai đoạn 2011 - nay: Đưa quan hệ Việt Nam đi vào chiều sâu và hội nhập
quốc tế 1 cách toàn diện 23

CHƯƠNG IV: LIÊN HỆ 25

1. Tác dụng và ý nghĩa của đường lối của Đảng trong việc bình thường hóa quan hệ
với Hoa Kỳ 25

2. Bài học cho Đảng ta 25

3. Vai trò của sinh viên 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27


1

LỜI MỞ ĐẦU
Đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua kể từ khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton
và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức tuyên bố bình thường hóa, thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (12/7/1995). Việt Nam chủ trương “gác
lại quá khứ, hướng tới tương lai”, cùng Hoa Kỳ xây dựng quan hệ hợp tác trên nguyên
tắc hợp tác cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Với nỗ lực không biết mệt mỏi của hai Nhà nước, đặc
biệt là người dân hai nước, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu, trên tất cả các lĩnh vực và cấp độ, thể hiện đúng tinh thần
quan hệ Đối tác toàn diện.
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi phân tích và đưa ra những đánh giá về quá
trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Hoa Kỳ. Từ đó, chúng tôi
- những người chủ tương lai của đất nước rút ra và phát huy những bài học kinh
nghiệm về đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước, góp phần tạo lập và giữ vững
nền hòa bình, ổn định, cũng như hội nhập quốc tế trong những giai đoạn phát triển
tiếp theo của đất nước.
2

CHƯƠNG I: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ TRƯỚC NĂM 1975


1. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1945
Vào những năm 1944 – 1945, những năm cuối của chiến tranh thế giới thứ hai,
Hoa Kỳ đã là đồng minh duy nhất chống phát xít Nhật tại Việt Nam. Ngày 7/12/1941,
phát xít Nhật tấn công Trân Châu Cảng, sự kiện đã buộc Mỹ chính thức tham gia
đồng minh chống Nhật trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng lúc đó tại Việt
Nam, mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh thành lập tháng 5/1941 đã xác định trực
tuyến của mình là nằm trong đội ngũ đồng minh chống phát xít và giành độc lập cho
dân tộc Việt Nam.
Tại khu căn cứ địa Việt Bắc, du kích Việt Minh đã nhiều lần giải cứu các phi
công Mỹ nhảy dù xuống Việt Nam khi máy bay của họ bị Nhật bắn rơi, bảo vệ và đưa
họ sang Trung Quốc an toàn. Trong số đó, có phi công William Shaw bị bắn hạ ở Cao
Bằng cuối năm 1944 đã được đích thân Hồ Chí Minh hộ tống qua Trung Quốc bàn
giao cho Bộ Tư lệnh Mỹ ở Côn Minh. Nhân chuyến đi này, nhà lãnh đạo Việt Minh
đã liên lạc với các sĩ quan OSS (Cơ quan Tình báo Chiến lược) và OWI (Phòng Thông
tin Chiến tranh), đề nghị họ công nhận Việt Minh để thiết lập quan hệ hợp tác chính
thức chống Nhật.
Tại cuộc gặp giữa Hồ Chí Minh và tướng Claire Chennault, hai bên đã thỏa
thuận về sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Việt Minh sẽ lập trạm cứu trợ phi công Mỹ ở
Bắc Kỳ, cung cấp tin tức về tình hình quân đội Nhật ở Đông Dương; còn phía Mỹ sẽ
giúp phương tiện cần thiết bao gồm vũ khí và huấn luyện quân sự cho Việt Minh. Từ
đó, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Minh với các lực lượng quân Mỹ có trách nhiệm
ở Đông Dương đã được thiết lập.
Tuy nhiên, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, mối quan hệ đồng minh
giữa Việt Nam - Mỹ trở nên mờ nhạt. Sự im lặng của Mỹ trước những bức thư của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc công nhận nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam đã gián
tiếp tạo nên mối quan hệ thù địch sau này.
2. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kì giai đoạn 1954 - 1975
2.1. Mỹ thay chân Pháp sau hiệp định Giơnevơ 1954
Hiệp định Giơ-ne-vơ (Genève) năm 1954, khôi phục hòa bình Đông Dương,
bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam,
3

Lào và Campuchia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Với
việc ký kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành
hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Đây là cột mốc bắt đầu cho khoảng thời
gian mà mối quan hệ Việt Nam - Mỹ trở thành mối quan hệ thù địch.
2.2. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965)
2.2.1. Miền Nam đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn
– Những năm 1957 – 1959, Mỹ và tay sai tăng cường dùng bạo lực khủng bố
phong trào đấu tranh của quần chúng. Sự đàn áp của kẻ thù làm cho mâu thuẫn giữa
nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ và tay sai càng phát triển gay gắt.
– Phong trào Đồng Khởi diễn ra và giành được thắng lợi, dẫn đến sự ra đời
của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960).
– Chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chế độ thực dân mới của Mỹ ở miền
Nam, mở ra thời kì khủng hoảng của chế độ Sài Gòn.
– Chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961- 1965)
2.2.2. Miền Nam đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn Miền Nam ra sức
đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, đã đẩy lùi nhiều
cuộc tiến công, tiêu diệt nhiều đồn bốt lẻ của địch
– Do thất bại, nội bộ Mỹ và tay sai lục đục, dẫn tới cuộc đảo chính.
– Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược thứ hai của quân dân miền Nam, đồng
thời là thất bại có ý nghĩa chiến lược lần thứ hai của Mỹ.
2.3. Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến
tranh”
– Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải chuyển sang chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”.
– Thực chất là tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”,
để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường.
– Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” là chống lại cuộc chiến tranh
toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương. Ta vừa chiến đấu trên
chiến trường vừa đấu tranh trên bàn đàm phán với địch và giành được thắng lợi.
4

2.4. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước


Ngày 30/4/1975, đại thắng mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến
tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Đại thắng
mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và
chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người
dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước
ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang
tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.
3. Kết luận
Niềm tin ban đầu giữa Việt Minh và quân đội Mỹ đã được lãnh tụ Hồ Chí
Minh gây dựng. Đề nghị quân đội Mỹ giúp đỡ vũ khí, huấn luyện quân sự của Việt
Minh để chống phát xít Nhật đã được hai bên thỏa thuận. Đáng tiếc là cục diện thế
giới thay đổi quá nhiều sau Thế chiến II nên kế hoạch hợp tác này bị bỏ lỡ.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư và điện cho Tổng thống Mỹ
Harry Truman đề nghị Mỹ ủng hộ đối với nền độc lập non trẻ của Việt Nam nhưng
phía Mỹ đã không hồi đáp. Niềm tin ban đầu với Mỹ đã mất.
Trong những năm 60, căng thẳng trong quan hệ Việt - Mỹ bị đẩy lên đỉnh điểm
do những đối đầu về ý thức hệ. Ngày 8/3/1965, Mỹ đưa quân đổ bộ lên bờ biển Đà
Nẵng, chính thức bắt đầu quá trình can thiệp quân sự công khai ở Việt Nam. Niềm
tin vỡ vụn, hai nước trở thành đối đầu.
4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống đế quốc
1954 - 1975
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975), Đại hội III (1960) của Đảng đề ra nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân tộc tiến
hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và tiến hành cuộc kháng chiến tranh bạo lực chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam).
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy những tác động tiêu cực từ sự khủng
hoảng của các đảng và các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới, nên đã chủ động phòng
ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch; cảnh giác, không sa vào các cuộc “cách
mạng màu” mà nhiều đảng, nhiều nước đã rơi vào dẫn đến kết cục thất bại, để mất
quyền lãnh đạo. Đảng Cộng Sản Việt Nam tích cực tìm đường đổi mới, dựa chắc trên
5

cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau Hiệp định Pa-ri năm 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 (khóa III) xác
định: “Chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách
mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”.
Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường cách mạng
miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: Lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và
đấu tranh ngoại giao; đánh địch bằng ba mũi giáp công: Quân sự, chính trị, binh vận;
kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, thực hiện đánh địch trên mọi
quy mô: Đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ của lực lượng vũ trang ba thứ quân; thực hiện
làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ.
Đảng đã thiết kế con đường đúng đắn, đó là cùng một lúc giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở
hai miền nhằm mục tiêu chung và bao trùm là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Bên cạnh đó, Đảng có đường lối quốc tế
đúng đắn, luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả; luôn coi cuộc chiến đấu chống
Mỹ vừa là nhiệm vụ dân tộc thiêng liêng, vừa là nghĩa vụ quốc tế cao cả; mọi hoạt
động chống Mỹ, cứu nước đều nhằm phục vụ lợi ích cả cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới nên đã tranh thủ được sự giúp đỡ rộng lớn của nhân dân yêu chuộng
hòa bình trên thế giới.
6

CHƯƠNG II: QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1975 - 1995
1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
1.1. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ qua các giai đoạn
 Giai đoạn 1975 - 1977
Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn
chưa có bước tiến triển đáng kể. Mặc dù đã rút khỏi Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ
vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách thù địch:
– Hoa Kỳ đóng cửa Đại sứ quán tại Sài Gòn và di tản toàn bộ nhân viên Đại sứ
quán vào ngày 29/4/1975, ngay trước khi quân đội Bắc Việt đầu hàng miền
Nam Việt Nam.
– Ngày 30/4/1975, chính quyền Hoa Kỳ đã phong tỏa toàn bộ tài sản Việt Nam.
– Ngày 15/5/1975 Hoa Kỳ tuyên bố cấm vận thương mại đồng thời phủ quyết
việc Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc
 Giai đoạn 1977 – 1978
Khi Tổng thống Carter lên nắm quyền thì Mối quan hệ hai nước được cải thiện
một phần . Chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố không công nhận bất cứ một chính phủ lưu
vong nào tại Việt Nam, nhiều lần gửi thông điệp cho chính phủ Việt Nam nói Hoa
Kỳ không thù địch với Việt Nam, tỏ ý sẵn sàng nói chuyện với Việt Nam về quan hệ
hai nước, không phản đối Việt Nam gia nhập tổ chức y tế và khí tượng thế giới, cấp
thị thực cho các đoàn Việt Nam dự họp ở Liên Hợp Quốc và Quỹ tiền tệ quốc tế ở
Hoa Kỳ .
Trong giai đoạn này, hai bên đã chấp nhận và tiến hành đàm phán về vấn đề
bình thường hóa quan hệ hai nước. Có thể thấy cơ hội bình thường hóa quan hệ đã
xuất hiện ngay từ những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân cả từ hai phía, quan hệ giữa hai nước vẫn chưa thể bình thường hóa.
Về phía Mỹ:
– Do tâm lý cay cú vì thất bại trong cuộc chiến với Việt Nam, làm nội bộ lục
đục, đặc biệt là trong Quốc hội Mỹ.
– Từ năm 1978, Hoa Kì có những thay đổi trong chính sách là ngăn cản chính
quyền Carter tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Về phía Việt Nam:
7

Do thiếu những thông tin và hiểu biết chính trị nội bộ Hoa Kỳ, chính vì thế mà
chúng ta không đánh giá hết ảnh hưởng của Quốc hội Mỹ đối với chính sách đối ngoại
của Nhà nước vào thời điểm nhạy cảm ở Mỹ nên không điều chỉnh kịp thời lập trường
đàm phán để nắm bắt cơ hội ngắn ngủi và mong manh đó, tiến tới bình thường hóa
quan hệ với Mỹ, củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát
triển đất nước sau bao năm chiến tranh và san bằng khoảng cách với các nước trong
khu vực.
 Năm 1978
Vào lúc này diễn ra một sự kiện làm ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình bình
thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là việc Việt Nam đưa quân đội vào
Campuchia phối hợp với quân cách mạng để lật đổ chế độ độc tài Pôn Pốt. Sau đó,
Việt Nam rút quân ra khỏi lãnh thổ Campuchia là một trong những điều kiện tiên
quyết để Hoa Kỳ nối lại việc đàm phán đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
 Năm 1989
Việt Nam rút toàn bộ lực lượng tình nguyện của mình ra khỏi Campuchia sau
khi giúp nước bạn ổn định tình hình đất nước sau thảm họa. Động thái này đã được
Hoa Kỳ nhìn nhận, ngày 18 tháng 7 năm 1990, Tổng thống Bush đã liên lạc với Hà
Nội để tìm kiếm liên minh quốc tế trong nỗ lực đạt đến một Hiệp định hòa bình ở
Campuchia.
Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cần phải
đề cập đến là vào thời điểm này là sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông u, đánh dấu sự kết thúc của cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài hơn 4 thập kỷ. Đây
là bước ngoặt lớn làm thay đổi chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Những thay đổi
nhanh chóng của thế giới trong những năm cuối của thế kỷ XX, với xu hướng toàn
cầu và hội nhập, chính phủ Hoa Kỳ nhận thấy những chính sách cấm vận và cô lập
của mình đối với Việt Nam cũng như các nước khác ngày càng trở nên bất lợi đối với
lợi ích chiến lược của mình.
 Năm 1991
Tháng 4 – Chính quyền của Tổng thống George Bush đề xuất với Chính phủ
Việt Nam “lộ trình” từng bước bình thường hóa quan hệ.
8

Tháng 7 – Văn phòng MIA của Hoa Kỳ chính thức đi vào hoạt động tại Hà
Nội. Đây là cơ quan chính thức đầu tiên của Chính phủ Hoa Kỳ hoạt động thường trú
tại Việt Nam từ năm 1975.
Tháng 12 – Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền cho Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ (USIA)
bắt đầu trao đổi các chương trình với Việt Nam.
 Giai đoạn 1992 – 1993
Cho dù tại Hoa Kỳ, vẫn có một số ít người còn mang tư tưởng thù hận, bảo thủ
chống lại Việt Nam, kêu gọi kéo dài cấm vận và trừng phạt đối với Việt Nam, nhưng
với những gì mà Việt Nam thể hiện, nhiều người Mỹ nhận thấy cấm vận đã trở nên
bất lợi cho chính Hoa Kỳ và cấm vận mãi đối với một nước nhỏ không bao giờ xâm
lấn tới quyền lợi của Hoa Kỳ là một lối hành xử không đẹp. Họ đã lên tiếng kêu gọi
bãi bỏ trừng phạt và cấm vận cũng như cải thiện mối quan hệ với Việt Nam.
 Năm 1994
Ngày 3/3 – Tổng thống William J. Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối
với Việt Nam. Tháng 5 – Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết Hiệp định Lãnh sự.
1.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống đế
quốc 1975 – 1995
1.2.1. Chính trị
Sau chiến tranh, mặc dù nước ta dành được thắng lợi nhưng Đảng không hề
có những động thái hay kế hoạch thù địch gì mà ngược lại còn sớm chủ động bày tỏ
ý chí muốn hòa giải với Hoa Kỳ ( 3/7/1975 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố
Việt Nam mong muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ). Đường lối này là sự kế thừa
truyền thống hàng nghìn năm đấu tranh quân sự và ngoại giao bảo vệ Tổ Quốc. Đây
là nền ngoại giao linh hoạt dựa trên hoàn cảnh thực tế của từng thời kỳ, đề cao lợi ích
của dân tộc. Bởi vì việc duy trì thái độ thù hận trong chiến tranh với Mỹ sẽ chỉ làm
cho nước ta thêm khó khăn. Mặc dù Mỹ thất bại trong cuộc chiến với Việt Nam nhưng
ta không thể phủ nhận đây là một siêu cường, có ảnh hưởng lớn trong quan hệ quốc
tế.
1.2.2. Kinh tế
Mặc dù sau chiến tranh, bước đầu Mỹ cay cú và có những chính sách đối đầu
với nước ta như là cấm vận, gây cản trở nước ta tham gia các tổ chức kinh tế thế
9

những Đảng ta vẫn giữ vững tinh thần hòa giải - tháng 8/1988, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VI đã thông qua Nghị quyết 13, nhấn mạnh chủ trương
“thêm bạn, bớt thù”, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, “kiên quyết và chủ
động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác
trong cùng tồn tại hoà bình”. Mở rộng hợp tác và gia nhập các tổ chức kinh tế ASEAN,
EU,... Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội
chủ nghĩa.
1.2.3. Xã hội
Đảng và Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ
túc văn hóa, xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và
thành phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Hơn thế nữa, hệ thống y tế được
mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao sức khỏe của nhân
dân.
1.2.4. Kết luận
Việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tuy đến muộn sau nhiều cơ
hội bị bỏ lỡ, nhưng nếu xét đến tình hình khách quan của Việt Nam thì đây là thời
điểm thuận lợi cho Việt Nam nối lại quan hệ với Hoa Kỳ. Bình thường hóa mối quan
hệ vào 7/1995 là một bước ngoặt chính trị quan trọng đối với cả hai nước vì đây là
lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đạt được quan hệ bình thường và cơ bản hòa bình
với tất cả các cường quốc trên thế giới, còn Hoa Kỳ chính thức chuyển từ chỗ coi
Việt Nam là kẻ thù sang thành đối tác.
Khi đi đến quyết định bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, phía Hoa Kỳ
coi việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích là ưu tiên hàng đầu; còn về phía Việt
Nam, chúng ta xác định quan hệ kinh tế – thương mại là nội dung cơ bản của mối
quan hệ mới. Nhưng trong thực tế, để đi đến bình thường hóa, Việt Nam và Hoa Kỳ
đã hợp tác trong việc giải quyết nhiều vấn đề về hậu quả chiến tranh, hòa giải mâu
thuẫn, xúc tiến thương mại… để đi đến những sự đồng thuận nhất định cho việc nối
lại quan hệ ngoại giao. Từ những nỗ lực này, đã mở ra một thời kỳ mới trong các
10

quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam, thời kỳ xây dựng và phát triển các mối quan hệ hợp tác
nhiều mặt và cùng có lợi giữa hai nước.
Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã để lại nhiều
bài học quý giá. Đó là bài học về tinh thần hòa giải, bỏ qua những hiềm khích trong
quá khứ để hướng về tương lai vì một đất nước Việt Nam phát triển giàu mạnh; bài
học về đường lối ngoại giao mềm dẻo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra: linh hoạt trong xử lý tình huống để nắm bắt, tranh thủ mọi cơ hội có được
nhằm củng cố và phát triển các mối quan hệ ngoại giao. Những bài học này sẽ là hành
trang tốt để Việt Nam bước vào một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ:
thời kỳ sau bình thường hóa.
2. Việt Nam sau giai đoạn chiến tranh 1975 – 1995 và quan hệ ngoại giao với các
nước
2.1. Tình hình Việt Nam 1975 – 1995
2.1.1. Thời kỳ 1976 - 1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
2.1.1.1. Chủ trương của Đảng
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về
mặt lãnh thổ. Nguyện vọng của nhân dân cả nước là sớm có một nhà nước chung,
một cơ quan quyền lực chung.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9/1975) đề ra nhiệm
vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
2.1.1.2. Về chính trị - xã hội
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ
hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã
đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề
của chiến tranh; Khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn
phá.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Thương nghiệp quốc doanh phát
triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây dựng, nhưng đã có những bước
vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu
11

(thiếu hụt nguồn cung). Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy
mạnh bổ túc văn hóa, xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các
tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Hệ thống y tế được mở
rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
2.1.2. Thời kỳ 1986 - 1995: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế
2.1.2.1. Đường lối đổi mới
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra từ Đại hội VI (12/1986), được bổ sung
và phát triển qua các Đại hội tiếp theo (Đại hội VII (6 /1991). Mục tiêu: Dân giàu
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “xây lại dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong
thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.2.2. Về chính trị - xã hội
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng – an ninh được tăng
cường. Bước đầu thực hiện dân chủ hoá và công khai hoá các hoạt động xã hội.
Đã giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội như lao động và việc làm,
xoá đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học – công
nghệ, thể dục thể thao… Tỉ lệ đói nghèo trên cả nước 1995 là 20%.
2.2. Quan hệ ngoại giao với các nước
2.2.1. Từ năm 1975 – 1986
Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến
tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam đã thiết lập quan
12

hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được
sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và
phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc (9/1977), tham
gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước hữu nghị và Hợp tác với Liên
Xô (11/1978).
2.2.2. Từ năm 1986 – 1995
Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế như Liên hợp
quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ chức Pháp ngữ (1986), ASEAN
(1995).
2.2.3. Những khó khăn về ngoại giao của nước ta giai đoạn 1975 – 1995
Đảng và Nhà nước ta chú trọng đến quan hệ song phương với các nước, đi sâu
vào lợi ích thực chất và hiệu quả hơn thể hiện qua việc tích cực thúc đẩy những cuộc
đàm phán và nhiều hiệp định phát triển trên nhiều mặt. Tuy nhiên, vẫn còn một số
khó khăn, hạn chế:
– Môi trường quốc tế luôn diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường gây nhiều
khó khăn cho mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước.
– Trong giai đoạn 1975 - 1986, chính sách đối ngoại của Việt Nam chưa thực sự
phù hợp và theo sát với thực tế của thời đại, việc giúp đỡ Campuchia đã ảnh
hưởng đến mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc, Mỹ và các nước
ASEAN.
– Chính sách hợp tác với các nước lớn còn chịu nhiều động và còn ở quan hệ cơ
bản, đi vào chiều sâu còn gặp nhiều khó khăn. Chưa khai thác và phát huy hiệu
quả quan hệ lợi ích đan xen, ổn định, bền vững với các nước lớn và đối tác
quan trọng.
– Việc xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng rất khó khăn vì liên quan đến quan
hệ quốc tế, lợi ích tổng thể quốc gia - dân tộc.
2.2.4. Những khó khăn về kinh tế của nước ta giai đoạn 1975 – 1995
Kinh tế Việt Nam (1975 - 1985) là giai đoạn chúng ta đã phạm phải một số sai
lầm cơ bản. Lúc đó, chúng ta đặt rất nhiều kỳ vọng vào phát triển kinh tế nhờ sức
mạnh bổ sung vào những ưu thế hiện có và sẵn có của đất nước về điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế của hai miền Nam - Bắc. Bên cạnh đó, nền kinh tế nhiều thành phần
13

không được thừa nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ đạo, để tiến
hành xóa bỏ kinh tế tư nhân, cá thể và sở hữu tư nhân khỏi xã hội. Do đó, kinh tế Việt
Nam thời kì này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ với nhiều tiêu cực.
Không chỉ tình hình trong nước mà hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ cũng không
thuận lợi. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung khiến kinh tế Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu
khủng hoảng. Trong quan hệ quốc tế, Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu thực hiện cấm
vận kinh tế với Việt Nam. Còn ở trong nước, chiến lược phát triển kinh tế dựa trên
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Nền kinh tế chỉ dựa vào hai thành
phần quốc doanh và tập thể, kinh tế tư nhân không được phát triển, thị trường không
được công nhận… đã làm thui chột động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là
trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... Có thể nói là cả nước làm không đủ ăn.
Giai đoạn khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng nhất là các năm 1983, 1984,
1985. Lạm phát bị đẩy lên mức 700 - 800%, tem phiếu phân phối thiếu thốn, người
dân không đủ lương thực. Bốn mặt hàng dân dụng phụ thuộc lớn vào viện trợ của
Liên Xô là xăng dầu; lương thực, bột mì; bông xơ phục vụ ngành dệt; phân bón thì
lượng viện trợ giảm dần. Kinh tế đất nước gần như kiệt quệ. Bên cạnh đó, do bị Mỹ
cấm vận từ sau năm 1975 nên tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986 khó
khăn chồng chất khó khăn.
14

CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ


NGOẠI GIAO VIỆT NAM – HOA KỲ (GIAI ĐOẠN 1995 – NAY)
1. Các dấu mốc bình thường hóa
1.1. Giai đoạn 1995 - 2010

Tính đến ngày 11/07/2020, hai nước Việt Nam - Hoa Kỹ đã kỷ niệm 25 năm
ngày bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Đây là một chặng đường không dài nhưng
nó là một mốc quan trọng để thúc đẩy những sự phát triển trên nhiều mặt cho cả hai
nước, từ cựu thù trở thành quan hệ Đối tác toàn diện, phát triển trên tất cả các lĩnh
vực về chính trị, ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật…

Chúng ta hãy cùng nhìn lại quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ từ 1995 đến nay.

Ngày 28/01/1995: Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức ký Hiệp định giải quyết
các vấn đề về bồi thường và thiết lập Văn phòng Liên lạc tại thủ đô của mỗi nước.
Ngày 11/07/1995: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam
Võ Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa 2 nước.
Đây là cột mốc quan trọng nhất đánh giấu những sự phát triển vượt bậc của quan hệ
giữa 2 nước nói riêng và quan hệ giữa Việt Nam với thế giới nói chung. Với việc lúc
bấy giờ Hoa Kỳ đã và vẫn đang là một cường quốc có sự chi phối đến chính trị, kinh
tế và ngoại giao của các nước khác, việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại
giao với Mỹ đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham gia tích
cực vào cộng đồng quốc tế (gia nhập ASEAN(1995).
Ngày 11/3/1998: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton ban hành quy chế tạm miễn
áp dụng Đạo luật Sửa đổi bổ sung Jackson – Vanik đối với Việt Nam. Năm 1998 khi
tổng thống Mỹ lần đầu tiên miễn áp dụng Luật bổ sung Jackson - Vanik đối với VN,
trao đổi thương mại hai chiều giữa Mỹ và VN đã tăng gần gấp đôi, mở đường cho
hoạt động của nhiều công ty và tổ chức của Hoa Kỳ tại Việt Nam như Cơ quan Hỗ
trợ đầu tư tư nhân hải ngoại, Ngân hàng Ex-Im Bank, Cơ quan Thương mại và phát
triển Hoa Kỳ, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, và Cơ quan Quản lý Hàng hải Hoa Kỳ.
15

Ngày 13/07/2000: Bộ trưởng Bộ Thương mại Vũ Khoan và Đại diện Thương


mại Mỹ Barshefsky ký Hiệp định Thương mại Song phương tại văn phòng Đại diện
Thương mại Mỹ. Tổng thống Bill Clinton đã công bố Hiệp định này tại buổi lễ ở
Vườn Hồng, Nhà Trắng. Hiệp định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình
hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Nếu không đạt được BTA (Bilateral Trade
Agreement), Việt Nam sẽ khó có cửa gia nhập WTO (2007), một tổ chức mà luật chơi
do Mỹ định hình và dẫn dắt. Sau BTA, Việt Nam tự tin đẩy mạnh hội nhập sâu rộng,
gắn cam kết quốc tế với cải cách trong nước, đặc biệt là cải cách thể chế kinh tế. Và
ngay lập tức hiệp định này đã mang lại những hiệu quả rõ rệt.

Ngày 16 -19/11/2000: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton thăm chính thức Việt
Nam. Đây là chuyến thăm lịch sử mang tính “mở đường”. Lần đầu tiên một chủ nhân
Nhà Trắng đương nhiệm đến thăm VN sau khi chiến tranh kết thúc tròn 1/4 thế kỷ và
5 năm sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, mở ra chương mới trong quan hệ
giữa 2 nước, góp phần mở đường cho các chuyến thăm sau này.

Ngày 19-24/06/2005: Thủ tướng Phan Văn Khải hội kiến Tổng thống George
W. Bush ở Washington D.C. trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ đầu tiên của một Thủ
tướng Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký Thỏa
thuận Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật cũng như các thỏa thuận về sự phê chuẩn quốc tế,
tình báo và hợp tác quân sự. Tại trụ sở Bộ Thương mại Mỹ, Thủ tướng Phan Văn
Khải sẽ chứng kiến lễ ký kết hợp đồng mua 4 máy bay Boeing 787 của Vietnam
Airlines, cùng hợp đồng của Tổng Cty Dầu khí VN và Tổng Cty Bưu chính Viễn
thông VN. Hàng loạt doanh nghiệp tên tuổi khác cũng đem theo nhiều hợp đồng làm
ăn lớn. Giá trị hợp đồng được ký kết tại Mỹ ước tính đạt hơn 1,5 tỷ USD.
Ngày 31/05/2006: Hoa Kỳ và Việt Nam ký kết thỏa thuận song phương về vấn
đề Việt Nam gia nhập WTO. Thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương về WTO
lần này có tầm quan trọng đặc biệt, mở đường cho bước tiếp theo là Quốc hội Mỹ tiến
hành bỏ phiếu thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt
Nam đồng thời là tiền đề đê Việt Nam gia nhập WTO một cách suôn sẻ.
Ngày 08/12/2006: Hạ viện Hoa Kỳ thông qua Luật dành Quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn cho Việt Nam. Dự luật trên sau đó đã được Thượng viện Hoa Kỳ
16

thông qua ngày 9/12/2006. Đây là một bước đi quan trọng góp phần thúc đẩy quan
hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đáp ứng sự mong đợi của nhân dân hai nước. Sự kiện
này có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đánh dấu việc
bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế - thương mại.
Ngày 18 – 23/06/2007: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thăm chính thức
Hoa Kỳ. Chuyến thăm đầu tiên của người đứng đầu Nhà nước CHXHCN Việt Nam
đến Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã được bình
thường hóa hoàn toàn và có những bước phát triển tích cực, đem lại nhiều kết quả
thiết thực đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân hai nước. Chuyến thăm này
đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam có cơ hội vào thị trường Hoa Kỳ nhiều hơn,
đồng thời thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư Hoa Kỳ đến Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch-
Đầu tư, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đến tháng 4/2007 ước đạt hơn 2,3 tỷ USD,
xếp thứ 8 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Các tập đoàn lớn lúc bấy giờ bao gồm: Boeing, Microsoft, IBM, Intel, Ford,
Citigroup,…
Ngày 7 - 10/11/2009: mối quan hệ quân sự Việt – Mỹ được tăng cường khi
hai tàu hải quân Mỹ, USS Lassen và USS Blue Ridge đã cập cảng Đà Nẵng vào ngày
7 tháng 11 bắt đầu chuyến thăm thiện chí. Sự kiện này đã đánh dấu lịch sử lần đầu
tiên có hai tàu hải quân Mỹ cùng lúc ghé thăm Đà Nẵng. Hạm trưởng tàu USS Lassen,
Lê Bá Hùng sinh ra ở thành phố Huế, nhưng lớn lên ở miền Bắc Virginia, và trở thành
công dân Mỹ vào năm 1985. Ông là người Mỹ gốc Việt đầu tiên chỉ huy một tàu hải
quân của Mỹ.
1.2. Giai đoạn 2011 – 2022
Năm 2012, Mỹ có sự điều chỉnh về sách lược, thay thế những cách diễn đạt
“chuyển hướng” sang châu Á, “trọng tâm chiến lược chuyển dịch sang phía Đông”
bằng cụm từ “tái cân bằng”, nhằm nhấn mạnh, Mỹ chưa từng rời xa châu Á. Không
những thế, Mỹ còn lôi kéo các đồng minh truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia..., đồng thời mở rộng quan hệ đối tác mới với những nước như Việt Nam
trong không gian chiến lược “tái cân bằng”.
Các vị lãnh đạo của các bên liên tục thực hiện nhiều chuyến thăm lẫn nhau.
17

Về phía Việt Nam, năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang hoa Kỳ,
xác lập quan hệ Đối tác toàn diện;
Năm 2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành lãnh đạo Đảng cao nhất
lần đầu thăm chính thức Hoa Kỳ. Chuyến thăm này đã đã thể hiện sự “tôn trọng đầy
đủ” thể chế chính trị của Việt Nam và vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước của Đảng
ta.
Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc là nhà lãnh đạo đầu tiên
của một nước ASEAN tới Washington sau khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức.
Về phía Hoa Kỳ, các Tổng thống đương nhiệm đều đã ghé thăm Việt Nam,
riêng Tổng thống Donald Trump đã thăm Việt Nam hai lần vào năm 2017 và 2019.
Mỗi chuyến thăm của cả lãnh đạo 2 bên đều để lại những dấu mốc mới, mở ra những
giai đoạn mới cho quan hệ 2 nước.
Cụ thể, qua các chuyến thăm, hai bên đã thông qua 8 Tuyên bố chung. Đặc
biệt, Tuyên bố chung năm 2013 đã thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam –
Hoa Kỳ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, lần đầu tiên
xác định nguyên tắc hợp tác cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng thể chế chính trị, độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Tuyên bố chung năm 2015 đưa ra tầm nhìn chung cho quan hệ hai nước,
trong đó khẳng định làm sâu sắc hơn mối quan hệ Đối tác toàn diện trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, nhân quyền, an ninh và quốc phòng…, tăng
cường hợp tác trên các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Trong chuyến thăm, hai nước đã đạt được các thỏa thuận và hiệp định, bao
gồm: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế đối với các loại
thuế đánh vào thu nhập và Nghị định thư của Hiệp định; Thỏa thuận Tài trợ giữa Cơ
quan Phát triển và Thương mại Mỹ với Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam; Việt
Nam cấp giấy phép thành lập Trường Đại học Fulbright mới và năm 2016, Đại học
Fulbright Việt Nam đã được chính thức thành lập và một số thỏa thuận khác.
Tuyên bố chung năm 2017 đề ra lộ trình đưa quan hệ hai nước đi vào chiều
sâu.
18

Các chuyến thăm Việt Nam vào tháng 7/2021 của Bộ trưởng Quốc phòng
Lloyd Austin và Phó Tổng thống Kamala Harris vào tháng 8 cũng như chuyến thăm
Mỹ của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc cho thấy quan hệ Việt - Mỹ vẫn duy trì đà
phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, chuyến thăm của bà Harris tới Việt Nam từ ngày 24 -
26/8/2021 đánh dấu lần đầu tiên một Phó Tổng thống Mỹ công du Việt Nam. Nhân
chuyến thăm, Phó Tổng thống Harris thông báo Mỹ tặng thêm 1 triệu liều vaccine
Pfizer cho Việt Nam. Đến nay, Hoa Kỳ vẫn là nước tài trợ nhiều vaccine Covid-19
nhất cho Việt Nam.
Năm 2016, chuyến thăm chính thức của Tổng thống Barack Obama đến Việt
Nam đã đặt nền tảng vững chắc có thể đảm bảo hợp tác về lâu dài khi những rào cản
cuối cùng giữa hai quốc gia còn nhiều khác biệt đã được dỡ bỏ sau tuyên bố của Tổng
thống Obama về việc Xóa bỏ cấm vận vũ khí cho Việt Nam. Đặc biệt, sau khi
J.Biden lên làm Tổng thống, nhiều quan chức cấp cao trong chính quyền như Bộ
trưởng Quốc phòng Lloyd Austin, Phó Tổng thống Kamala Harris đã đến thăm Việt
Nam và để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp.
Bên cạnh đó, Mỹ còn mời Việt Nam tham gia đối thoại an ninh 4 bên, gồm
Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Australia (QUAD) vào ngày 24/05/2022 diễn ra tại Tokyo,
Nhật Bản. Điều này cho thấy Mỹ coi Việt Nam là đối tác an ninh ngang bằng với các
nước đối tác đối thoại, giúp Việt Nam nâng cao vai trò trong các vấn đề an ninh khu
vực.
2. Thành tựu nổi bật trong mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Về kinh tế, thương mại, đầu tư, đây là động lực rất quan trọng và có nhiều
tiềm năng trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Kim ngạch thương mại hai chiều năm
2021 đạt 111 tỷ USD, tăng 250 lần so với thời điểm hai nước bình thường hóa quan
hệ năm 1995, (tăng gần 21 tỷ USD so với năm 2020), bất chấp đại dịch COVID-19
kéo dài và diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Hoa Kỳ là đối
tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam, trong khi Việt Nam đã trở thành đối tác
thương mại lớn thứ 9 của Hoa Kỳ và là điểm đến quan trọng của các nhà đầu tư Hoa
Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng quan tâm đầu tư tại Hoa Kỳ, gần đây nhất
là dự án đầu tư của tập đoàn Vinfast trị giá 4 tỷ USD, dự kiến sẽ tạo hơn 7.000 việc
19

làm mới tại Hoa Kỳ. Hợp tác trong các lĩnh vực khác cũng đạt nhiều kết quả quan
trọng và thực chất.
Việt Nam đã thu hút hàng loạt tên tuổi lớn của Mỹ như Intel, Microsoft, Jabil,
Microchip, IBM, P&G, Coca-Cola, PepsiCo, các tập đoàn Boeing, Chevron, AIG,
Exxon Mobil, General Electric... cũng tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Gần đây,
mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, song nhiều thông tin cho thấy Việt
Nam tiếp tục thu hút các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ như Google và cả Apple.
Về quốc phòng - an ninh, đây được xem là một trong lĩnh vực nhạy cảm .Năm
2010, hai bên khởi động cơ chế đối thoại cấp thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đó là hội
nghị Đối thoại chính sách quốc phòng. Tháng 6/2015, hai nước đã ký kết Tuyên bố
tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong năm 2017, Mỹ đã
chuyển giao cho Việt Nam một tàu cảnh sát biển (Việt Nam đặt tên là tàu Cảnh sát
biển 8020 - tàu Cảnh sát biển hiện đại nhất Việt Nam). Đặc biệt, ngày 23/5/2018, sau
khi Trung Quốc “quân sự hóa” các đảo/đá chiếm đóng trái phép của Việt Nam ở Biển
Đông, Mỹ đã rút lại lời mời hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận “Vành đai
Thái Bình Dương” (RIMPAC) và mời Việt Nam lần đầu tham gia cuộc tập trận. Đó
được coi là tiến triển lớn trong quan hệ quân sự Việt-Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam.
Tháng 3/2020, tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đã vào cảng Đà Nẵng, thực hiện
chuyến thăm Việt Nam để tiến hành các hoạt động giao lưu về nhân đạo và hữu nghị
nhân kỷ niệm 25 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Về giáo dục, Việt Nam hiện đang đứng đầu Đông Nam Á về số lượng học
sinh, sinh viên đang học tập tại Hoa Kỳ với khoảng 30 nghìn người. Bên cạnh đó,
hợp tác khoa học - công nghệ, y tế, nông nghiệp, môi trường, du lịch, giao lưu nhân
dân,... còn nhiều tiềm năng và ngày càng được đẩy mạnh.
Về du lịch, đây là một điểm sáng khác trong quan hệ song phương, với lượng
khách Hoa Kỳ đến Việt Nam tăng đều đặn hàng năm. Năm 2019, Hiệp hội Du lịch
Hoa Kỳ đã bình chọn Việt Nam là một trong 10 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới.
3. Vị trí Việt Nam trên trường thế giới sau khi bình thường hóa quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ
3.1. Khẳng định vị thế
20

Sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ, Việt Nam đã có những
bước ngoặt quan trọng, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam và thế giới.
Cụ thể là:
Tại Hội Nghị Ngoại giao 28 (năm 2013), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định: “Ngoại giao đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút
nguồn lực cho phát triển đất nước.” Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển, Việt Nam đã dần nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Nhờ đó, từ chỗ bị bao vây cô lập, đến nay, Việt Nam đã tạo dựng được môi
trường đối ngoại thuận lợi.
Sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mỹ, Việt Nam đã có ngoại
giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập quan hệ Đối tác chiến
lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, gồm tất cả các nước lớn ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương và toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc.
Việt Nam đã gia nhập APEC năm 1998, trở thành thành viên sáng lập của
nhiều diễn đàn, liên kết khu vực và quốc tế quan trọng như Diễn đàn Hợp tác Á- u
(ASEM), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),
Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), ký Hiệp định Thương mại tự do và
Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên minh Châu , Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),...
Bên cạnh đó, vai trò và vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN và trên 70 tổ
chức khu vực, quốc tế ngày càng được coi trọng. Năm 2010, Việt nam đã đảm nhận
thành công vai trò Chủ tịch ASEAN với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ
tầm nhìn tới hành động”.
Việc Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu cao kỷ lục (192/193 phiếu) và đảm
nhận thành công rất nhiều trọng trách đa phương như chủ nhà APEC 2017, Diễn đàn
Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) 2018, tổ chức tốt Hội nghị thượng đỉnh
Mỹ-Triều lần thứ hai (2019) đã khẳng định tầm vóc và vị thế mới của đất nước.
21

Có thể nói, Ngoại giao Việt Nam đã thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ khi Người
phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Ngoại giao năm 1964 về mục đích của ngoại giao: “Nói
tóm tắt là nâng cao địa vị quốc tế của nước mình.”
Việt Nam hiện là thành viên của rất nhiều Hiệp định thương mại tự do có ảnh
hưởng lớn trên thế giới và đã khẳng định được vị thế của mình
3.2. Thành tựu kinh tế
Sau khi bình thường hóa quan hệ, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả
giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2000 đã đạt 29,5 tỷ USD, gấp 5,7 lần
năm 1990, trong đó xuất khẩu đạt 14,3 tỷ USD, gấp gần 6,0 lần; nhập khẩu đạt 15,2
tỷ USD, gấp 5,5 lần. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 2000 đạt 184,2 USD, đưa
nước ta ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt
Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo,
cà phê, hạt điều, thứ 4 về cao su.
Giai đoạn 2006 – 2010, nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp. GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ
USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay: Từ thu nhập trung bình thấp đến đẩy mạnh
tăng trưởng.
4. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1995 – nay
4.1. Giai đoạn 1996 - 2010: Thiết lập mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc
tế
Bước vào giữa thập niên 1990, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các xu thế
hòa bình, toàn cầu hóa, dân chủ hóa của thời đại ngày càng được củng cố và tăng
cường, được thể hiện rõ nét thông qua chủ trương chính trong các kỳ đại hội đại biểu
toàn quốc.
22

Đại hội VIII (1996) đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với chủ trương
“xây dựng một nền kinh tế “mở” và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế” là bước ngoặt chuyển đất nước sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân
dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương Đại hội VIII nêu ra và
đã đưa ra một khẩu hiệu: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đồng thời, nhấn
mạnh: Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân
tộc và bảo vệ môi trường.
Hướng đột phá trong giai đoạn này là chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được
đề cao tại các Đại hội VIII, Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006). Như vậy, chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từng bước được hình thành cùng với
sự phát triển của đất nước.
Đối với bên ngoài (thế giới): Việt Nam gia nhập một loạt các cơ chế đa phương
quan trọng như ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam
Á (ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (CEPT); Diễn đàn Hợp tác Á- u (ASEM) tháng 03/1996 với tư cách thành
viên sáng lập, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998,
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Chúng ta đã xử lý tốt mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế và tham gia Hiệp định thương mại tự do
ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm 2001.
Đối với trong nước, thực hiện 3 việc cơ bản:
‐ Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý
phù hợp cho hội nhập (Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty, Luật Đầu tư
nước ngoài…).
23

‐ Thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh
tế vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
‐ 10/2/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ ban
quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thống nhất việc chỉ đạo quá trình
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Giai đoạn 2011 - nay: Đưa quan hệ Việt Nam đi vào chiều sâu và hội nhập
quốc tế 1 cách toàn diện
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn, tuy nhiên đứng trước nhiều thách thức từ cạnh tranh nước lớn gia tăng, kinh tế
thế giới khủng hoảng và phục hồi chưa bền vững. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ, Cách mạng công nghiệp 4.0 một mặt tạo ra động lực mới cho tăng
trưởng sáng tạo, chuyển đổi số, mặt khác gia tăng nguy cơ tụt hậu nếu không bước
được lên “con thuyền” của kỷ nguyên số.
Đại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế” một cách toàn diện. Công tác đối ngoại được triển khai ngày càng
đồng bộ giữa các binh chủng đối ngoại với các định hướng công tác, phối hợp trong
Chỉ thị số 04 của Bộ Chính trị năm 2011 về đối ngoại nhân dân.
Đại hội XII (2016) có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng phạm vi,
lĩnh vực và mức độ hội nhập. Các nội dung này đã được cụ thể hóa và kế hoạch hóa
trong Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030. Tư duy đối
ngoại đa phương có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị 25 của Ban Bí thư năm 2018
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò “nòng cốt”,
dẫn dắt của Việt Nam.
Đại hội XIII (2021) của Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”. Mục tiêu trong tương lai, theo dự
đoán bối cảnh quốc tế và khu vực sẽ tiếp tục biến chuyển nhanh chóng với nhiều yếu
24

tố bất định. Hoà bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập vẫn là xu thế
lớn nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức từ cạnh tranh chiến lược nước lớn và dịch
Covid-19. Nền tảng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ là tiếp tục "xây dựng nền ngoại
giao toàn diện, hiện đại" ngày càng vững chắc và sự triển khai đồng bộ, toàn diện của
đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Đến nay, Việt Nam vẫn tiếp tục chủ động đàm phán nhiều FTA, trong đó có 2
FTA thế hệ mới là Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và ký Hiệp định RCEP.
25

CHƯƠNG IV: LIÊN HỆ


1. Tác dụng và ý nghĩa của đường lối của Đảng trong việc bình thường hóa quan
hệ với Hoa Kỳ

Cũng nhờ đường lối ngoại giao khéo léo và thông minh, 27 năm sau khi thiết
lập quan hệ song phương vào năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành đối tác
đáng tin cậy, hợp tác ngày càng tích cực và toàn diện. Hiện nay, mối quan hệ đối tác
đã phát triển vững chắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh và giao lưu giữa
nhân dân hai nước.

Với tình hữu nghị dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau, Hoa Kỳ ủng hộ Việt
Nam tiến bước vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, góp phần đảm bảo an ninh quốc
tế và tham gia các quan hệ thương mại hai bên cùng có lợi.

Mối quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ cũng phát triển vô cùng
nhanh chóng. Với hơn hàng chục ngàn du học sinh Việt Nam đến sinh sống và học
tập tại Hoa Kỳ, đã đóng góp gần 1 tỷ USD cho nền kinh tế Hoa Kỳ.

2. Bài học cho Đảng ta

Chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, cùng Hoa Kỳ xây dựng
quan hệ hợp tác trên nguyên tắc hợp tác cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng thể chế
chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau là một chủ trương phù
hợp với tinh thần hòa hiếu và truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt
Nam. Vì vậy, Việt Nam nên tiếp tục phát huy và thực thi nhất quán trong đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có nhiều sự khác biệt về chế độ chính trị và trình
độ phát triển, bên cạnh đó là sự đa dạng về văn hóa và lịch sử. Vậy nên, trong bối
cảnh mối quan hệ Đối tác toàn diện đang phát triển ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng
và Nhà nước cần nỗ lực tăng cường đối thoại, thúc đẩy hợp tác, giảm thiểu sự khác
biệt có thể ảnh hưởng đến tổng thể quan hệ, đồng thời, duy trì cơ chế đối thoại thiện
chí để xử lý bất đồng trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và xây dựng.
26

Cuối cùng, để phát triển nền kinh tế - xã hội một cách bền vững và lớn mạnh,
Việt Nam cần đánh giá và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế. Để từ đó
không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đối
ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc và xu thế thời đại.

3. Vai trò của sinh viên

Thứ nhất, sinh viên phải ý thức được trách nhiệm với bản thân, với gia đình,
với cộng đồng, với đất nước, quốc gia và dân tộc của mình để có động lực xây dựng
lộ trình, giải pháp để vươn lên, đưa vị thế thanh niên Việt Nam cao hơn trên bản đồ
nhân tài khu vực cũng như thế giới.

Thứ hai là phải chủ động trau dồi, hoàn thiện kỹ năng, kiến thức cần có trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhất là những kỹ năng thực hành xã
hội, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng sử dụng ngoại ngữ và khả năng bắt nhịp với
những tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, chủ động cập nhật, tiếp thu những vấn đề của quốc gia và thế giới,
phải hiểu được bối cảnh đất nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
cũng như sự đổi mới giáo dục hay lộ trình hội nhập các khu vực kinh tế toàn cầu.

Cuối cùng là tinh thần sẻ chia, ý thức với cộng đồng. Trong bối cảnh đất nước
đang hội nhập sâu rộng, sinh viên không nên chỉ biết sống vì bản thân mà cần phải
có sự sẻ chia một cách sâu rộng với cộng đồng, với bạn bè quốc tế xung quanh để
gián tiếp trở thành những đại sứ, những thông điệp góp phần củng cố và nâng cao
thêm vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Nguyễn Khánh, 2022, “Thủ tướng: Quan hệ Việt - Mỹ phát triển mạnh mẽ từ chân
thành, lòng tin, trách nhiệm”, tuoitre.vn
https://tuoitre.vn/thu-tuong-quan-he-viet-my-phat-trien-manh-me-tu-chan-thanh-
long-tin-trach-nhiem-20220512043951151.htm
(2) Báo quân đội Nhân dân, 2020, Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, qdnd.vn
https://www.qdnd.vn/45-mua-xuan-toan-thang/su-lanh-dao-dung-dan-cua-dang-la-
nhan-to-quyet-dinh-lam-nen-dai-thang-mua-xuan-1975-616475
(3) Lan Hương, 2021, Quan hệ Việt-Mỹ: Mốc son từ Hiệp định BTA, Việt Nam tự
tin hội nhập, laodong.vn
https://laodong.vn/kinh-te/quan-he-viet-my-moc-son-tu-hiep-dinh-bta-viet-nam-tu-
tin-hoi-nhap-956476.ldo
(4) Trường Sơn, 2016, Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam: Chuyện chưa kể về chuyến
thăm nhà Clinton, thanhnien.vn
https://thanhnien.vn/tong-thong-my-tham-viet-nam-chuyen-chua-ke-ve-chuyen-
tham-nha-clinton-post563376.html
(5) Embassy Of The Socialist Republic Of Vietnam In The United States Of America,
2022, Đại Sứ Lê Công Phụng gặp gỡ báo chí, vietnamembassy-usa.org
https://vietnamembassy-usa.org/vi/tin-tuc/2008/01/dai-su-le-cong-phung-gap-go-
bao-chi
(6) Asia Business Consulting, 2018, Các Hiệp định thương mại tự do của Việt Nam
với các nước, asiabusniessconsult.com
https://www.asiabizconsult.com/vi/tin-tuc/200-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-
cua-viet-nam-va-cac-nuoc
(7) Ths. Đỗ Thị Thảo Và Ths. Nguyễn Thị Phong Lan Học Viện Chính Trị - Hành
Chính Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2022, Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, tapchicongsan.org.vn
https://www.tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/21694/nhung-thanh-tuu-co-ban-
ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua-viet-nam-tu-khi-doi-moi-den-nay.aspx
(8) Lê Thủy Tiên, 2022, Lịch sử hoạt động đối ngoại của Việt Nam, luatminhkhue.vn
28

https://luatminhkhue.vn/lich-su-hoat-dong-doi-ngoai-cua-viet-nam.aspx
(9) Phạm Hồng Tung, “Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước Việt Nam từ 1954 đến
1975 – tiếp cận từ một số phương diện quốc tế”.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị Quốc
gia – Sự thật, 2004, tr. 6.
(11) Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998
(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011
(13) TS. Nguyễn Thị Hương, 2020, những dấu ấn quan trọng trong kinh tế - xã hội
trong hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê,
gso.gov.vn
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/
(14) Lê, Q.L., 2010. Chiến tranh Việt Nam, nhìn từ nước Mỹ - 125.234.102.27
(15) Lưu, T.T., 2010. Sưu tập vũ khí thô sơ, tự tạo do Việt Nam sản xuất trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
(Doctoral dissertation, Đại học Văn hóa Hà Nội).
(16) Chính, T., Tin, B., Hoạt, S., Luận, T., Hương, H.B.Q., Thuật, V.H.N. and Tín,
T., CHIẾN TRANH VIỆT NAM.
(17) Trần Khánh, 2015, “Ngài Bill Clinton: “Bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ là
thành tựu lớn nhất đời tôi””, vov.vn
https://vov.vn/the-gioi/binh-thuong-hoa-quan-he-viet-my-la-thanh-tuu-lon-nhat-doi-
toi-411202.vov
(18) Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, 2017, “Tuyên bố chung
giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Việt Nam – 2017”, vn.usembassy.gov
https://vn.usembassy.gov/vi/20170601-tuyen-bo-chung-giua-ho%CC%A3p-chung-
quoc-hoa-ky-va-viet-nam/
(19) Báo Lao động, 2022, “Quan hệ Việt-Mỹ tiếp tục đà phát triển mạnh mẽ”,
laodong.vn
https://laodong.vn/thoi-su/quan-he-viet-my-tiep-tuc-da-phat-trien-manh-me-
1043906.ldo
(20) Nguyễn Ngọc Dung, 2016, “Quan hệ Việt - Mỹ: từ bình thường hóa đến đối tác
toàn diện – một cách nhìn”, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 19, số X4-2016.

You might also like