Professional Documents
Culture Documents
Phân Tích Chương 3
Phân Tích Chương 3
- Sự hợ p lý (Rationality)
Đâ y là giả định quan trọ ng nhấ t và gâ y tranh cã i, là nền tả ng củ a tấ t cả cá c lý
thuyết độ thỏ a dụ ng. Theo giả định củ a tính hợ p lý, sở thích củ a cá nhâ n sẽ
khô ng thể nà o là mộ t vò ng trò n, nghĩa là , nếu gó i A đượ c ưu tiên hơn B và
gó i B đượ c ưu tiên hơn C, thì A cũ ng sẽ đượ c ưu tiên hơn C. Sẽ khô ng có bấ t
kỳ trườ ng hợ p cá nhâ n thích C hơn A nà o. Từ đó có thể hiểu tạ i sao giả định
nà y lạ i gâ y tranh cã i. Nó giả định rằ ng các sở thích bẩ m sinh (thứ tự xếp
hạ ng củ a gó i hà ng hó a) là cố định, bấ t kể bố i cả nh và thờ i gian
II .Tính bất định, Giá trị kỳ vọng và Trò chơi công bằng
Mn ai là m ppt phầ n nà y thì coi lạ i hết phầ n này củ a em/tui nha. Sử a lạ i
gầ n như toà n bộ á . Vì coi lạ i bà i giả ng củ a thầ y nên sử a theo cá ch thầ y
giả ng cho dễ hiểu và tó m gọ n lạ i.
---------
Slide
3.2 - Sự không chắc chắn, Giá trị kỳ vọng và Trò chơi công bằng
---------
Slide
Định nghĩa 1. Sự không chắc chắn - Uncertainty
Tố t hơn mộ t xíu, đó là tình huống mang tính chất rủi ro. Có nghĩa ở đâ y,
nhữ ng kết quả về củ a cả i, vậ t chấ t hay hà ng hó a, đó là nhữ ng xá c suấ t xảy ra
tương ứ ng. Chú ng ta có thể đo lườ ng đượ c nhữ ng cá i xá c suấ t và ướ c lượ ng
đượ c nhữ ng cá i tà i sả n, củ a cả i, vậ t chấ t, nhữ ng cá i thiệt hạ i tổ n thấ t.
---------
Slide
Trong mộ t hộ p kín có 300 quả bó ng, trong đó có 100 quả mà u trắ ng,
200 quả cò n lạ i mà u đỏ và xanh nhưng khô ng biết chính xá c có bao
nhiêu quả mà u đỏ và bao nhiêu quả mà u xanh.
Mỗ i ngườ i chỉ đượ c chọ n tham gia 1 trong 2 trò chơi sau:
Kết luận: Phần lớn các bạn chọn Trò chơi A nhiều hơn Trò chơi B
-------
Giả sử bây giờ đổi luật chơi một chút như sau. Mỗi người được chọn
chơi 1 trong 2 trò sau:
- Trò chơi C: Bạn thắng 1 triệu nếu quả bóng rút ra không phải màu
trắng
- Trò chơi D: Bạn thắng 1 triệu nếu quả bóng rút ra không phải màu đỏ
Kết luận: Cũng tương tự như vậy, nếu phải chọn giữa C và D thì đa số
sẽ chọn C vì xác suất của « không trắng » có thể tính được một cách
chính xác là 2/3, trong khi xác suất của « không đỏ » không thể biết
chính xác
---------
Slide
Nhận xét:
- Trong cuộ c số ng, có nhiều tình huố ng phả i ra quyết định trong điều
kiện khô ng chắ c chắ n (mạ o hiểm/may rủ i)
- Con ngườ i thườ ng khô ng thích sự bấ t trắ c
- Thá i độ trướ c tình huố ng khô ng chắ c chắ n củ a mỗ i ngườ i là khá c
nhau
---------
Slide
Định nghĩa 2: Giá trị kỳ vọng - Expected Value
Giá trị kỳ vọ ng củ a mộ t tình huố ng là bình quâ n gia quyền giá trị củ a cá c kết
cụ c có thể xả y ra, trong đó trọ ng số (hay quyền số ) là xá c suấ t xảy ra củ a
mỗ i kết cụ c.
Cô ng thứ c:
EV=Σ pi ×W i
---------
Slide
Fair game dự a trên sự liên kết, gắ n liền sự liên kết giữ a sự hà i lò ng thỏ a
mã n vớ i củ a cả i, vậ t chấ t.
Fair game là mộ t trò chơi, mộ t sự kiện cô ng bằ ng khi mà ở đó họ sẽ cả m
thấ y rằ ng cá i sự đá nh đổ i giữ a sự hà i lò ng thỏ a mã n củ a họ vớ i nền tả ng củ a
cả i, vậ t chấ t nó phả i đả m bả o sự cô ng bằ ng vớ i nhữ ng gì mà họ bỏ ra.
⇒ Fair game
Nghĩa là kết quả dự tính có đượ c ≥ phầ n chi phí phả i bỏ ra ⇒ thì đó là Fair
game
III. Lựa chọn dưới điều kiện không chắc chắn: Lý thuyết độ thỏa
dụng kỳ vọng
Kết quả Xổ số 1 Xổ số 2 Xổ số 3
(Xác suất)
H (0,5) 10 20 30
T (0,5) −2 −5 −10
E(G) 4 7,5 10
Nếu tham gia trò chơi: thắ ng thì tà i sả n cuố i cù ng là 16 và thua thì tà i sả n
cuố i cù ng là 4
=> Thỏ a dụ ng mong đợ i củ a trò chơi là u (W) = 0.5 × 162 + 0.5 × 42 = 136
Nếu T khô ng tham gia trò chơi thì độ thỏ a dụ ng sẽ là 102 = 100
IV. Những Thiên kiến ảnh hưởng đến lựa chọn dưới sự không
chắc chắn
Trên thực tế, chúng ta không thể dự đoán đưa ra một quyết định chính xác hoàn toàn
bởi nó bị ảnh hưởng những yếu tố mà chúng ta không thể lường trước được, những
yếu tố này cũng không được biểu thị trong khung Thỏa dụng kỳ vọng, từ đó mà kết
quả của dự đoán có thể đi sai lệch ra khỏi lý thuyết E(U).
Chúng ta có thể xem qua một số ví dụ đi sai lệch ra khỏi lý thuyết E(U) như: tâm lý
đám đông hiện tượng “giấy vệ sinh cháy hàng” xuất phát từ châu Á hồi tháng Hai vừa
qua, sau đó theo đà lan xa của virus SARS-CoV-2 trên thế giới, tiếp tục xảy ra ở châu
Âu, Bắc Mỹ và Australia…, có lẽ sẽ được coi như “điểm nhấn” của làn sóng tích trữ
hàng hóa liên quan tới dịch COVID-19.
Kinh tế học hành vi: là những nghiên cứu về tâm lý học liên quan đến quá trình ra
quyết định kinh tế của các cá nhân và tổ chức. Hai câu hỏi quan trọng nhất trong lĩnh
vực này là:
1. Liệu các giả thiết về ích lợi hay tối đa hoá lợi nhuận của các nhà kinh tế học có phải
là các ước tính đúng về hành vi thực tế của con người?
2. Liệu các cá nhân có tối đa hoá lợi ích kỳ vọng chủ quan?
Ví dụ thực tiễn về kinh tế học hành vi: Các công ty đang ngày càng kết hợp việc sử
dụng kinh tế học hành vi để tăng doanh số bán sản phẩm của họ. Năm 2007, giá của
iPhone 8GB được công bố là 600 USD và nhanh chóng giảm xuống còn 400 USD.
Tại sao họ phải làm thế nếu giá trị nội tại của điện thoại là 400 USD?
Nếu Apple bán điện thoại với giá 400 USD ngay từ đầu, phản ứng ban đầu về mức giá
trên thị trường điện thoại thông minh có thể là tiêu cực vì bị cho là quá đắt. Nhưng
bằng cách giới thiệu điện thoại với mức giá cao hơn và hạ giá xuống còn 400 USD,
người tiêu dùng tin rằng họ đang có được một khoản hời và doanh số của Apple tăng
vọt
Lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng được sử dụng như một công cụ để phân tích các tình
huống trong đó các cá nhân phải đưa ra quyết định mà không biết kết quả nào có thể
dẫn đến từ quyết định đó, tức là ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn.
Những cá nhân này sẽ chọn hành động mang lại hiệu quả mong đợi cao nhất, là tổng
tích của xác suất và độ hữu dụng trên tất cả các kết quả có thể có. Quyết định được
đưa ra cũng sẽ phụ thuộc vào mức độ ngại rủi ro của đại lý và tiện ích của các tác
nhân khác. Hay nói cách khác, lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng được biết đến như công cụ
phân tích mà những người lý trí đưa ra các quyết định không có sự chắc chắn, những
hành vi không chỉ dựa vào quan sát mà có thể đưa ra được.
Ví dụ:Trong một hộp kín có 300 quả bóng, trong đó có 100 quả màu trắng, 200 quả
còn lại màu đỏ và xanh nhưng không biết chính xác có bao nhiêu quả màu đỏ và bao
nhiêu quả màu xanh. Luật chơi như sau.
Mỗi người được chọn tham gia 1 trong 2 trò chơi sau:
- Trò chơi A: Bạn sẽ thắng 100$ nếu quả bóng rút ra màu trắng
- Trò chơi B: Bạn sẽ thắng 100$ nếu quả bóng rút ra có màu đỏ.
Nếu tiến hành thí nghiệm này trong lớp học, kết quả thường gặp sẽ là phần lớn học
viên thích Trò chơi A hơn Trò chơi B với lý do là khi chơi trò chơi A, họ biết chắc xác
suất thắng và thua cược. Ngược lại, vì không ai biết chính xác có bao nhiêu quả bóng
màu đỏ và bao nhiêu quả bóng màu xanh nên không ai biết chắc chắn về xác suất
thắng và thua.
Qua thí nghiệm trên, chúng ta cũng thấy thái độ đối với mạo hiểm của mọi người
thường không giống nhau. Bản tính của con người là thường ưa những gì chắc chắn và
đồng thời muốn tránh những điều may rủi và bất trắc. Tuy nhiên, trong đời sống hàng
ngày, chúng ta đối diện với rất nhiều tình huống ra quyết định trong đó chúng ta
không biết chắc kết cục của các tình huống ấy là như thế nào. Để ra những quyết định
như vậy, hiển nhiên một yêu cầu đặt ra là đo lường mức độ may rủi của các lựa chọn,
và trên cơ sở đó chọn phương án có độ may rủi thấp nhất (với các điều kiện khác như
nhau).
Một số thông tin dẫn đến sự lựa chọn khác nhau giữa các nhóm.
Hiệu ứng đóng khung tâm lý hay hiệu ứng khung là một xu hướng của nhận thức khi
đó não bộ sẽ đưa ra quyết định về thông tin dựa trên cách thông tin được trình bày.
Hiệu ứng đóng khung tâm lí thường được sử dụng trong mục đích tăng năng suất kinh
doanh. Nó thường được tận dụng để mọi người có thể cùng nhận một thông tin nhưng
lại đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau dựa vào việc chọn lựa cụ thể có thể đưa ra một
khung âm hay khung tích cực.
Ví dụ: hình ảnh so sánh giữa người lạc quan và người bi quan. Cùng là một ly nước,
những người lạc quan sẽ nghĩ rằng nó đang đầy một nửa, trong khi người bi quan cảm
thấy nó đang bị vơi đi một nửa. Cùng một sự vật, hiện tượng, nhưng với khung tâm lý
của mỗi cá nhân, mọi thứ được nhìn nhận khác nhau ít nhiều.
Kahneman và Tversky cho rằng nên sử dụng hàm giá trị để đánh giá sự thay đổi. Hàm
giá trị trong lý thuyết triển vọng thay thế cho hàm hữu dụng trong lý thuyết hữu dụng
kỳ vọng. Trong khi mức hữu dụng được đo bằng mức độ tài sản, thì giá trị lại được
định nghĩa bằng việc được và mất so với một điểm tham chiếu.
Con người thể hiện sự e ngại rủi ro trong miền lời và tìm kiếm rủi ro trong miền lỗ,
điều đó có nghĩa là hàm giá trị lõm trong miền lời và lồi trong miền lỗ; các quyết định
chú trọng vào lời và lỗ, điều này có nghĩa là: hàm giá trị không phải là mức tài sản;
mà là sự thay đổi của mức tài sản; và con người ghét bị mất mát (thua lỗ), do đó hàm
giá trị dốc hơn trong miền lỗ so với miền lời.
Ngoài ra, thay vì sử dụng xác suất đơn giản như trong lý thuyết hữu dụng kỳ vọng, lý
thuyết triển vọng sử dụng tỷ trọng quyết định (decision weight). Các tỉ trọng quyết
định này là một hàm xác suất. Chúng ta sẽ sử dụng v(z) để đề cập đến sự thay đổi của
mức tài sản, ở đây z thay cho w (mức tài sản). Chúng ta cũng sẽ gọi giá trị của triển
vọng là V(P). Đối với triển vọng P(pr, z1, z2), giá trị được tính như sau:
Ngoài ra, một số lý do làm sai lệch khỏi hành vi dự đoán như:
- Con người có xu hướng coi trọng các sự kiện trong quá khứ hơn là nhìn vào
toàn bộ lịch sử, chúng ta có thể kết luận như vậy vì con người không thể nhớ
hết tổng thể lịch sử trong quá khứ , con người đi ra khỏi lý thuyết E(U) vì nhiều
lý do hơn, đơn giản vì tần số sự kiện quá khứ xuất hiện gần đây cao hơn tổng
thể lịch sử trong quá khứ.
- Cá nhân phản ứng cao đối với những sự kiện đã trải nghiệm, vì con người luôn
phần nào định hình bởi những kinh nghiệm của chính mình, nên xu hướng
chúng ta gán trọng số những sự kiện mà bản thân đã trải qua cao hơn so với
những sự kiện của người khác, chính vì thế những sự kiện tồi tệ mà bản thân đã
trải qua sẽ được đánh một trọng số rất thấp, thậm chí chúng ta còn thuyết phục
bản thân điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.
- Những điều tốt đẹp đang xảy ra với chúng ta thì bản thân sẽ gán những sự kiện
đó với trọng số cao hơn, bất kể điều đó có nguyên nhân là gì trọng số sẽ được
tùy chỉnh theo mỗi cá nhân, chính vì thế mà sai lệch ra khỏi lý thuyết E(U).
- Thành kiến mỏ neo cũng tác động làm sai lệch các ước lượng xác suất của cá
nhân. Điển hình thông qua ví dụ sau:
Một thí nghiệm về thành kiến mỏ neo rõ hơn liên quan đến phép tính toán học được 2
chuyên gia đầu ngành là Tversky và Kahneman thực hiện năm 1974. Cụ thể, hai nhà
khoa học này đã yêu cầu 2 nhóm đưa ra kết quả cho hai phép tính dưới đây trong vòng
5 giây.
– Nhóm A: 1x2x3x4x5x6x7x8x9
– Nhóm B: 9x8x7x6x5x4x3x2x1
Nếu bình tĩnh suy nghĩ thì bạn sẽ thấy bản chất của hai phép tính này là hoàn toàn
giống nhau và đương nhiên, kết quả sau khi được tính ra cũng sẽ phải giống nhau. Tuy
nhiên, cả hai nhóm đều không có thời gian suy nghĩ nhiều, họ chỉ có 5s để đưa ra kết
quả mà không hề có các công cụ hỗ trợ như máy tính. Kết quả là nhóm A đưa ra đáp
án là 512 và nhóm B là 2.250.
Một kết quả chênh lệch đến đáng kinh ngạc. Và tất nhiên, chẳng có đáp án nào trong
đó là đúng cả. Đó chỉ là kết quả ước lượng dựa trên thành kiến mỏ neo mà các nhóm
bị ảnh hưởng: với nhóm A, họ bị neo ở con số (1) ngay đầu; còn với nhóm B thì là con
số (9). Đó là lý do tại sao kết quả của nhóm B đưa ra lại lớn hơn nhóm A nhiều đến
vậy, đồng thời cũng thể hiện rằng con người quả thực bị ảnh hưởng rất lớn bởi nguyên
lý mỏ neo.
Các loại thành kiến nhận thức khác can thiệp có thể dẫn đến hành vi sai lệch so với lý
thuyết E (U). Nhưng chúng ta phải lưu ý một điều về lý thuyết E(U) so với cách tiếp
cận hàm giá trị. Lý thuyết E (U) là một cách tiếp cận tiên đề để nghiên cứu hành vi
con người. Nếu những tiên đề đó đúng, nó thực sự có thể dự đoán hành vi. Mặt khác,
cách tiếp cận hàm giá trị được thiết kế chỉ để mô tả những gì thực sự xảy ra, hơn là
những gì sẽ xảy ra.
E ngại rủi ro đề cập đến xu hướng của nhà đầu tư là thích sự chắc chắn hơn là
sự không chắc chắn. Một nhà đầu tư có biểu hiện sợ rủi ro được cho là e ngại rủi
ro. Về mặt hình thức, một nhà đầu tư không thích rủi ro hoàn toàn, họ thích giá
trị kỳ vọng của một canh bạc hơn chính canh bạc đó. Hay nói một cách thực tế
hơn, e ngại rủi ro là một khái niệm quan trọng đối với các nhà đầu tư. Các nhà
đầu tư cực kỳ sợ rủi ro thích các khoản đầu tư mang lại lợi nhuận được đảm
bảo, hoặc “không có rủi ro”. Họ thích điều này ngay cả khi lợi nhuận tương đối
thấp so với lợi nhuận tiềm năng cao hơn mang mức độ rủi ro cao hơn.
Mức ngại rủi ro (Risk Aversion) là mức sẵn lòng chi trả vào một khoản đầu tư trước sự không chắc
chắn của các tình huống xảy ra
Để tìm hiểu chúng ta sẽ đến với 1 ví dụ:
Giả sử Ty là một sinh viên được trợ cấp hàng tháng $200 (tài sản ban đầu W0) từ cha mẹ anh
ấy. Anh ta có thể mất 100 đô la vào bất kỳ ngày nào với xác suất 0.5 hoặc không mất bất kỳ
số tiền nào với cơ hội 50%.
Do đó, tổn thất dự kiến (E[L]) của Ty bằng = 0,5 ($ 0) + 0,5 ($ 100) = $ 50.
Nói cách khác, tài sản dự kiến cuối cùng của Ty E (FW) = 0,5 ($ 200 - $ 0) + 0,5 ($ 200 - $ 100)
= W0 - E (L) = $ 150.
Câu hỏi đặt ra là Ty sẽ sẵn sàng trả bao nhiêu để phòng ngừa tổn thất dự kiến là $ 50. Chúng
tôi sẽ giả sử rằng hàm ích lợi của Ty là U (W) = √W ( Hàm ích lợi của người không thích
rủi ro.)
Để áp dụng lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng để trả lời câu hỏi trên, chúng ta giải quyết vấn đề theo
từng trường hợp: Có 3 trường hợp
- A và B nằm trên đường cong hàm hữu dụng e ngại rủi ro, lý do A và B nằm trên đường cong vì
rủi ro giao động từ khả năng tuyệt đối không thể xảy ra (0%) đến khả chắc chắn xảy ra (100%) chứ
không thể ngoài khoảng này. Nên A là điểm giới hạn dưới của đường cong với rủi ro 100% và B là
điểm giới hạn trên của đường cong với rủi ro là 0%
Kết luận: Ở trường hợp này Ty không phòng ngừa cho rủi ro không chắc chắn có thể xảy đến với
số tiền mình đang có và mức thỏa dụng kỳ vọng cho số tiền $150 là 12,071
Trường hợp 2: AFP, Mức ngại rủi ro và quyết định mua bảo hiểm
Tại trường hợp này Ty mua bảo hiểm tại mức giá được công ty bảo hiểm tính toán rủi ro một cách
công bằng (AFP). Tức là mỗi người được bảo hiểm trả một mức giá được xem như sự đảm bảo
nhận được tương đương với rủi ro mà người đó có từ số tiền đóng vào, dựa trên những thông tin, sự
kiện có sẵn.
Hình (b) " Mức độ e ngại rủi ro"
Giả sử công ty bảo hiểm thỏa thuận bảo hiểm cho Ty là $50 phí bảo hiểm (AFP), nói cách khác phí
bảo hiểm đóng vào bằng giá trị dự kiến của khoản bồi thường nhận được, E(L) = AFP = $50
Khả năng thứ nhất, Ty mua bảo hiểm AFP và anh ta xảy ra bất kỳ rủi ro nào thì tài sản cuối cùng
của anh ta luôn là Tài sản ban đầu W0 ($ 200) - AFP ($ 50) = $150
Khả năng thứ 2 là khi Ty bị lỗ mất $100 thì tài sản cuối cùng của anh ta là Tài sản ban đầu W0
($ 200) - AFP ($ 50) - Mất mát ($ 100) + Bồi thường ($ 100) = $ 150
Qua đó, ta có thể thấy sau khi mua bảo hiểm AFP, tài sản cuối cùng của Ty vẫn ở $150 bất kể có
xảy ra rủi ro hay không.Vậy nên đó là lý do tại sao Ty đã mua một tài sản nhất định 150 đô la, bằng
cách trả AFP là 50 đô la hay E(FW) = W2 = $150 và tương ứng U(W2) = = 12,247 cắt nhau tại
điểm C
Lúc này điểm C nằm trên đường cong hàm thỏa dụng e ngại rủi ro vì lúc này Ty đã quan tâm đến
việc phòng ngừa rủi ro, không còn trung lập rủi ro nữa nên phải thuộc hàm đường cong. Và lúc này
U(W2) > EU mặc dù AFP = E(L) = 50 hay điểm C nằm trên điểm D thế nên Ty sẽ luôn mua đầy đủ
bảo hiểm AFP
Đặc điểm đáng chú ý đối với người không thích rủi ro là họ sẽ luôn phòng ngừa hoàn toàn đối với
rủi ro có thể xảy ra với chi phí bằng với tổn thất dự kiến.
Tuy nhiên, Ty có thể có một hành vi khác như việc trả nhiều tiền hơn AFP để loại trừ rủi ro. Đó là
hành vi của trường hợp thứ 3 sắp nói đến và cũng là một phần thú vị nhất đối với một người e ngại
rủi ro như Ty
Trường hợp 3: Mức thỏa dụng khi bảo hiểm ở một mức giá cao hơn AFP
Trong trường hợp phí bảo hiểm thực tế bằng AFP (hoặc mất mát dự kiến cho Ty), nghĩa là công ty
bảo hiểm không có chi phí / lợi nhuận riêng. Đây hẳn là một trường hợp không thực tế tí nào phải
không nào bởi vì trong thực tế thì phí bảo hiểm luôn cao hơn AFP.
Nhìn vào hình (C) thì khoảng cách từ W2 = [W0] $200 – P đến E(FW) = $150 được xem là phần
bù rủi ro. Nghĩa là so với việc Ty mua bảo hiểm tại mức giá AFP = $50, thì lúc này Ty sẵn sàng bỏ
ra một khoản tiền cao hơn mức AFP và là số tiền lớn nhất để Ty sẵn lòng chi trả để phòng ngừa rủi
ro và nhận được giá trị thỏa dụng nào với sự chắc chắn.
Câu hỏi đặt ra là Ty có thể chi trả thêm tối đa bao nhiêu? Ở đây, khoảng tối đa của P được xác định
giữa điểm trung lập rủi ro (D) và điểm có phần bù rủi ro P (E).
Nếu Ty trả phí bảo hiểm là P, lúc này số tiền còn lại của Ty là W2 = $200 – P. Nếu Ty không bị lỗ,
tài sản của anh ta vẫn là 200 đô la - P. Trong trường hợp anh ta phải chịu một rủi ro nào đó thì sau
đó anh ta vẫn sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường. Vì vậy, bất kể kết quả xảy ra như thế nào, tài
sản nhất định của anh ta vẫn là $200 - P.
Điểm W2 được gọi là khoảng chắc chắn tương đương của một phương án rủi ro. Nghĩa là mức thỏa
dụng chắn chắn nhận được CE bằng với mức thỏa dụng kỳ vọng của khi Ty không mua bảo hiểm
(ở trường hợp 1).
Nói một cách dễ hiểu, điểm D là điểm của những người trung lập về rủi ro, có mức thỏa dụng E(U)
là 12,071, vậy nếu khi mình đã bỏ ra 1 số tiền để phòng ngừa rủi ro rồi mà mức thỏa dụng lại thấp
hơn người không quan tâm rủi ro. Vậy là phi kinh tế, sẽ không có một ai chấp nhận bỏ tiền ra đầu
tư cả. Vậy nên U(CE) = EU, trong đó CE = E(FW) – Pó = 12,071 => Ta sẽ tìm được P= $54,29
Mong muốn của Ty là : “Miễn là phí bảo hiểm P của tôi trên vạch E (U) – đường mức hữu dụng kỳ
vọng khi tôi không mua bảo hiểm, thì tôi sẵn sàng trả nó”. Vì vậy, bắt đầu từ mức giàu có ban đầu
W0, chúng tôi trừ P, cho đến khi mức độ thỏa dụng của của cải cuối cùng bằng mức độ hữu ích kỳ
vọng được cho bởi điểm E (U) trên trục y. Điểm này được cho bởi W2 = W0 - P = $54,29 - $50 =
$4,29
Vậy số tiền Ty có được mặc kệ rủi ro có xảy ra hay không = $200- $54,29 = $145,71
Kết luận: Như vậy, chúng ta có thể thấy tâm lý e ngại rủi ro là một phần quan trọng trong việc định
giá bảo hiểm. Trường hợp 2 khác trường hợp 3 ở điểm, Ty trả nhiều tiền hơn để phòng ngừa rủi ro.
Điều không vô lý, đây là 1 hành vi của con người trước rủi ro, họ e ngại rủi ro nên việc chi trả thêm
nhiều hơn khoản $4,29 để thoát khỏi rủi ro được xem là phần bù rủi ro, đây là mức cao nhất cho
việc sẵn lòng chi thêm của họ vì mức thỏa dụng của $4,29 không cao. Nếu công ty nào bán bảo
hiểm cao hơn giá $54,29 thì Ty sẽ không mua. Do đó chúng ta thấy rằng, tâm lý ngại rủi ro của các
cá nhân là một yếu tố quan trọng trong việc định giá bảo hiểm. Người càng không thích rủi ro thì
càng sẵn sàng trả mức bảo hiểm càng lớn.
Như vậy thái độ ngại rủi ro là yếu tố xảy ra sự chuyển giao rủi ro cho bên thứ 3.Vì bảo hiểm là một
cơ chế mà thông qua đó người không thích rủi ro để chuyển giao một phần hoặc toàn bộ, nên e ngại
rủi ro là điều quan trọng trong việc xác định nhu cầu bảo hiểm.
Tóm lại, mức e ngại rủi ro chỉ là một trong những khía cạnh ảnh hưởng đến bảo hiểm. Giá bảo
hiểm cũng phản ánh các thành phần quan trọng khác. Để nghiên cứu chúng, bây giờ chúng ta sẽ
chuyển sang vai trò của thông tin đối với thị trường, cụ thể là thông tin và sự bất cân xứng thông tin
ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm như thế nào?
1. Khái niệm
Ví dụ , trên thị trườ ng chứ ng khoá n, trong điều kiện bấ t câ n xứ ng thô ng tin,
nhữ ng ngườ i tham gia có thể đẩ y thị trườ ng đến mộ t trạ ng thá i lự a chọ n
đố i nghịch, đó là việc mua chứ ng khoá n củ a nhữ ng cô ng ty hoạ t độ ng kém
và đẩy khỏ i thị trườ ng nhữ ng chứ ng khoá n có chấ t lượ ng cao. Thị trườ ng
chứ ng khoá n sẽ mấ t dầ n tính thanh khoả n và ngà y cà ng bị thu hẹp, hà ng
hó a chỉ cò n nhữ ng loạ i chứ ng khoá n chấ t lượ ng kém.
Trên thự c tế, chỉ nhữ ng thị trườ ng tà i chính mạ nh, có hệ thố ng thô ng tin và
giá m sá t thô ng tin tố t mớ i có khả nă ng hạ n chế cá c chọ n lự a đố i nghịch, từ
đó tạ o điều kiện cho thị trườ ng phá t triển.
Hay, trên thị trườ ng chứ ng khoá n, dễ nhậ n thấ y tình trạ ng củ a rủ i ro đạ o
đứ c là tình trạ ng thao tú ng cá c mặ t hoạ t độ ng củ a cô ng ty cổ phầ n và giá cổ
phiếu.
- Tă ng cườ ng vai trò củ a các trung gian tà i chính để tă ng chấ t lượ ng thô ng
tin;
- Thự c hiện cơ chế tự sà ng lọ c thô ng tin
2. Các nhà quản lý muốn giảm chi phí phá sản dự kiến: Nếu mộ t cô ng ty
phá sả n, thì các giá m sá t viên phá sả n sẽ điều tra và giữ lạ i mộ t phầ n tà i sả n
củ a cô ng ty. Tà i sả n đượ c chuyển giao cho bên thứ ba và cấ u thà nh sự mấ t
má t tà i sả n cho cá c chủ sở hữ u hợ p phá p. Hã y tưở ng tượ ng mộ t ngọ n lử a
phá hủ y mộ t nhà má y. Nếu cô ng ty muố n trá nh phá sả n, họ có thể lậ p kế
hoạ ch xây dự ng lạ i nó . Nếu xâ y dự ng lạ i đượ c tà i trợ thô ng qua tà i trợ nợ ,
chi phí nợ sẽ rấ t cao vì cô ng ty có thể khô ng có bấ t kỳ tà i sả n thế chấ p nà o.
Trong trườ ng hợ p nà y, bả o hiểm hỏ a hoạ n có thể phụ c vụ như mộ t tà i sả n
thế chấ p cũ ng như bồ i thườ ng cho cô ng ty khi nó bị tổ n thấ t do hỏ a hoạ n.
3. Những người chủ động nhận rủi ro có thể ở vị thế tốt hơn để chịu
rủi ro: Các cô ng ty có thể khô ng đượ c đa dạ ng hó a, về mặ t sả n phẩ m hoặ c
địa lý. Họ có thể khô ng có quyền truy cậ p và o thị trườ ng vố n vĩ mô vì quy
mô nhỏ . Thế nhưng họ có thể chuyển rủ i ro cho nhữ ng ngườ i có thể tậ n
dụ ng rủ i ro tố t hơn nhằ m đượ c đa dạ ng hó a lĩnh vự c và từ đó có thể tiếp
cậ n tố t hơn và o thị trườ ng vố n.
4. Bảo hiểm rủi ro có thể làm tăng khả năng nợ: Lý thuyết tà i chính cho
chú ng ta biết về cấ u trú c vố n tố i ưu cho mọ i cô ng ty. Điều nà y có nghĩa là
mỗi công ty có sự kết hợp tối ưu giữa nợ và vốn chủ sở hữu. Số nợ
giúp xác định rủi ro tài chính của một công ty. Với bảo hiểm rủi ro,
công ty có thể chuyển đổi rủi ro ra bên ngoài công ty. Với rủi ro thấp
hơn, công ty có thể đảm nhận một khoản nợ lớn hơn, do đó thay đổi
cấu trúc vốn tối ưu.
5. Giảm trách nhiệm thuế: Vì phí bả o hiểm đượ c khấ u trừ thuế cho mộ t số
chính sá ch bả o hiểm củ a cô ng ty, cá c cô ng ty có thể giả m thuế dự kiến bằ ng
cá ch mua bả o hiểm.
Kết luận: