You are on page 1of 32

ĐỀ TÀI “NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH

LỰA CHỌN NGÀNH KIỂM TOÁN CỦA NGƯỜI HỌC”

TÓM TẮT

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài


2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
4.1 Ý nghĩa khoa học
4.2 Ý nghĩa thực tiễn
5. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp chọn mẫu
6.2 Phương pháp thu thập thông tin
6.3 Phương pháp xử lý thông tin

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1 Bối cảnh và tình hình tuyển sinh đối với ngành kiểm toán
1.2 Cơ sở lý thuyết
1.2.1 Khái niệm về yếu tố ảnh hưởng
1.2.2 Năm thành phần chính của yếu tố ảnh hưởng
1.2.2.1 Đặc điểm cá nhân
1.2.2.2 Đặc điểm nghề nghiệp
1.2.2.3 Đặc điểm trường đào tạo
1.2.2.4 Gia đình và người thân
1.2.2.5 Xã hội
1.2.3 Lựa chọn
1.2.4 Quyết định
1.2.5 Ngành kiểm toán
1.3 Cơ sở lý luận
1.3.1 Nguồn gốc lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý - thuyết lựa chọn duy lý
1.3.2 Lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý
1.3.3 Thuyết nhu cầu
1.4 Giới thiệu các nghiên cứu liên quan
1.4.1 Nghiên cứu của David W.Chapman (1981)
1.4.2 Nghiên cứu của Trần Văn Quí, Cao Hào Thi (2009)
1.4.3 Nghiên cứu của Lê Thị Minh Trúc (2014)
1.4.4 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự (2017)
1.4.5 Tổng hợp về kết quả nghiên cứu nói trên
1.5 Các giả thuyết nghiên cứu
1.5.1 Yếu tố thuộc về cá nhân
1.5.2 Yếu tố thuộc về môi trường
1.5.2.1 Đặc điểm nghề nghiệp
1.5.2.2 Đặc điểm trường đào tạo
1.5.2.3 Gia đình và người thân
1.5.2.4 Xã hội
1.6 Mô hình lý thuyết của nghiên cứu
1.7 Tóm tắt chương I

CHƯƠNG II: THIẾT KẾ VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

2.1 Tổng quan quy trình nghiên cứu


2.2 Quá trình nghiên cứu định tính của đề tài
2.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng
2.3.1 Phương pháp chọn mẫu
2.3.2 Phương pháp thu thập thông tin
2.3.3 Phương pháp xử lý thông tin
2.4 Thiết kế công cụ khảo sát
2.5 Đánh giá độ tin cậy và phù hợp của bộ công cụ đo lường
2.5.1 Số liệu điều tra
2.5.2 Đánh giá độ tin cậy đo lường bằng Cronbach’s Alpha cho các nhân tố
2.5.2.1 Đặc điểm cá nhân
2.5.2.2 Đặc điểm nghề nghiệp
2.5.2.3 Đặc điểm trường đào tạo
2.5.2.4 Gia đình và người thân
2.5.2.5 Xã hội
2.6 Tóm tắt chương II

CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG

3.1 Thông tin khách thể nghiên cứu


3.2 Thống kê mô tả
3.2.1 Thống kê mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn học ngành kiểm
toán
3.2.1.1 Đặc điểm cá nhân
3.2.1.2 Đặc điểm nghề nghiệp
3.2.1.3 Đặc điểm trường đào tạo
3.2.1.4 Gia đình và người thân
3.2.1.5 Xã hội
3.2.2 Giá trị trung bình của các biến độc lập
3.2.2.1 Giá trị trung bình của biến giới tính
3.2.2.2 Giá trị trung bình của biến nơi xuất thân
3.2.2.3 Giá trị trung bình của biến trạng thái theo học ngành kiểm toán
3.3 Kiểm định các mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc
3.3.1 Kiểm định sự khác biệt về sự ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân giữa các
nhóm khách thể có sự khác nhau về giới tính
3.3.2 Kiểm định sự khác biệt về sự ảnh hưởng của gia đình và người thân giữa
các nhóm khách thể có sự khác nhau về nơi xuất thân
3.3.3 Kiểm định sự khác biệt về sự ảnh hưởng của đặc điểm trường đào tạo
giữa các nhóm khách thể có sự khác nhau về trạng thái theo học ngành
kiểm toán
3.4 Phân tích hồi quy và kiểm định giả thuyết nghiên cứu
3.4.1 Yếu tố thuộc về cá nhân
3.4.2 Yếu tố thuộc về môi trường
3.4.2.1 Đặc điểm nghề nghiệp
3.4.2.2 Đặc điểm trường đào tạo
3.4.2.3 Gia đình và người thân
3.4.2.4 Xã hội
3.5 Tóm tắt chương III

CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1 Kết luận chung về kết quả nghiên cứu


4.2 Những đóng góp mới của đề tài
4.3 Giải pháp và kiến nghị để thu hút học viên cho ngành kiểm toán
4.4 Hạn chế của đề tài và định hướng phát triển trong tương lai

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán làm việc trong tất cả hình doanh nghiệp và các
lĩnh vực kinh doanh nên nhu cầu tuyển dụng là rất lớn. Theo nghiên cứu của Robert
Walters, nhu cầu lao động kế toán – kiểm toán có có trình độ cao như giám đốc tài
chính, CFO, chuyên gia tài chính đã tăng lên, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản, sản
xuất và những lao động có kỹ năng giao tiếp và sự nhạy bén sẽ có nhiều lợi thế tuyển
dụng. Cùng với Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS), thỏa thuận thừa nhận
lẫn nhau (MRA) có hiệu lực kể từ sau ngày 31/12/2015 đã đánh dấu một bước hội
nhập sâu hơn của ngành vào thị trường dịch vụ kiểm toán, kế toán. Do đó, việc nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng bối
cảnh hiện nay là rất cần thiết. Giáo dục đại học là bậc học cao nhất trong hệ thống
giáo dục quốc dân, có vai trò cung cấp lực lượng lao động có chất lượng cao cho xã
hội, góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia, bên cạnh đó còn giúp nâng cao tỷ lệ việc làm và cơ hội thăng tiến
cho sinh viên tốt nghiệp. Hơn nữa, người học có nhu cầu tham gia giáo dục đjai học
quan tâm rất lớn tới các ngành học. Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới
lựa chọn vào ngành kế kiểm sẽ hỗ trợ những cá nhân có hứng thú và tiềm năng sẽ tiếp
nhận được những góc nhìn khách quan, tổng quát về ngành kiểm toán, đồng thời sẽ
giúp người học khẳng định lại khả năng của bản thân kết hợp cùng các yếu tố cần thiết
mà ngành yêu cầu, từ đó sẽ đưa ra những giải pháp để họ có kế hoạch dài hạn và
hướng đi đúng đắn hơn. Về phía nhà trường, bài nghiên cứu này cũng sẽ giúp điều
chỉnh chương trình đào tạo cũng như nâng cao chất lượng các hoạt động, thay đổi các
chính sách để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng hơn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

❖ Mục tiêu tổng quát

Xác định và đánh giá các yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành kiểm
toán của người học trên địa bàn TP.HCM.

❖ Mục tiêu cụ thể

- Kiểm định và đo lường mức độ tác động của các đặc điểm trong các yếu tố ảnh
hưởng chính khi người học ở TP.HCM lựa chọn ngành kiểm toán.

- Từ đó, thấu hiểu được xu hướng lựa chọn ngành kiểm toán, giúp người học có
cái nhìn tổng quan và đa phương diện về ngành kiểm toán, đặc biệt những
người có nhu cầu chọn ngành để ra quyết định lựa chọn ngành kiểm toán.

- Qua đó, đề ra giải pháp hỗ trợ người học ra quyết định dài hạn về việc gắn bó
với ngành kiểm toán.

- Ngoài ra, nghiên cứu còn đưa ra các kiến nghị để thu hút học viên cho ngành
kiểm toán.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

❖ Câu hỏi nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu được đặt ra, đề tài tập trung trả lời các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Yếu tố cá nhân, yếu tố đặc điểm nghề nghiệp, yếu tố đặc điểm
trường đại học, yếu tố gia đình và người thân, yếu tố xã hội có ảnh hưởng như thế nào
đến quyết định lựa chọn ngành kiểm toán của người học tại TP.HCM?

Câu hỏi 2: Giới tính, nơi xuất thân và trạng thái theo học ngành kiểm toán của
người học có mối quan hệ như thế nào với các yếu tố ảnh hưởng tương ứng là đặc
điểm cá nhân, gia đình và người thân, đặc điểm trường đào tạo không?

Câu hỏi 3: Trong các đặc điểm của các yếu tố ảnh hưởng chính, đặc điểm nào
có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với từng yếu tố?

❖ Nhiệm vụ nghiên cứu

- Từ cơ sở lý thuyết và các giả thuyết, xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết
của đề tài.

- Khảo sát, kết hợp giữa phân tích định lượng và phân tích định tính để thấu hiểu
mối quan hệ giữa quyết định lựa chọn ngành kiểm toán và các yếu tố ảnh
hưởng.

- Khám phá các yếu tố ảnh hưởng chính đến quyết định lựa chọn ngành kiểm
toán thông qua mô hình hồi quy tuyến tính bội - phép kiểm định giữa các yếu
tố ảnh hưởng và mức độ hài lòng đối với quyết định lựa chọn ngành kiểm toán
của người học.

- Qua đó, trả lời các câu hỏi nghiên cứu và đề xuất giải pháp hỗ trợ người học ra
quyết định dài hạn về việc gắn bó với ngành kiểm toán. Đồng thời, đưa ra các
kiến nghị để thu hút học viên cho ngành kiểm toán.

4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

4.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu có thể là sự minh họa thêm, góp phần khẳng định các kết quả về
các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trường, ngành học mà các nghiên cứu trước
đã thực hiện. Bên cạnh đó, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên
cứu trước và từ những nét riêng biệt của đề tài nghiên cứu, tác giả đã ứng dụng xây
dựng mô hình nghiên cứu mới cho đề tài.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu giúp cho người lựa chọn ngành học có cơ sở lý luận về các yếu tố
ảnh hưởng đến việc chọn ngành kiểm toán trong phạm vi nghiên cứu những người có
hứng thú và hiểu biết về ngành kiểm toán ở nhiều độ tuổi đang sinh sống và học tập
trên địa bàn TP.HCM. Kết quả nghiên cứu có thể là một cơ sở chất lượng để người
học có thể tự tin hơn trong việc lựa chọn con đường phù hợp cho bản thân.

Nghiên cứu giúp cho lãnh đạo nhà trường có cơ sở lý luận về các yếu tố ảnh
hưởng đến việc chọn ngành toán trong phạm vi nghiên cứu các học sinh/ sinh viên
đang học tập trên địa bàn TP. HCM.

Mặt khác, từ kết quả nghiên cứu có thể mở ra hướng đi mới cho các nghiên cứu
sau phát triển và hoàn thiện, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn học ngành
kiểm toán mà đề tài còn chưa khám phá được.

5. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành
kiểm toán (đặc điểm cá nhân, đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm trường đào tạo, gia
đình và người thân, xã hội)

Khách thể nghiên cứu: Học sinh, sinh viên, người đã đi làm có hứng thú và
hiểu biết về ngành kiểm toán đang sinh sống và học tập tại TP.HCM.

Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện tại trường Đại học Kinh tế
TP.HCM, ngoài ra có học sinh THPT và những người đã đi làm ở khu vực TP.HCM.

+ Phạm vi thời gian: Để đảm bảo tính chính xác và cập nhật của đề tài nghiên cứu,
quá trình nghiên cứu định tính và định lượng bắt đầu từ tháng 6/2022 đến tháng
10/2022.

6. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện thông qua 2 bước: nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng.

❖ Nghiên cứu định tính


Kỹ thuật của nghiên cứu định tính được sử dụng dựa trên cơ sở lý thuyết và tham khảo
các mô hình đã nghiên cứu trước đó, hoạt động thảo luận nhóm tập trung để hình
thành bảng câu hỏi. Sau đó, khám phá về các biến quan sát dùng để đo lường các yếu
tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành kiểm toán của người học.

❖ Nghiên cứu định lượng

Nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm giải thích vấn đề nghiên cứu dựa trên số
liệu thu thập được từ các phiếu khảo sát của người học và đưa ra kết luận dựa trên
việc phân tích số liệu của mẫu khảo sát.

Dữ liệu cho nghiên cứu định lượng gồm khảo sát bằng phương pháp phỏng vấn ngẫu
nhiên thông qua bảng khảo sát có cấu trúc gồm 3 biến theo thang đo danh nghĩa và 30
biến theo đang đo Likert 5 mức độ. Dữ liệu được xử lý bằng công cụ SPSS với các kỹ
thuật như kiểm định độ tin cậy của thang đo, kiểm định giá trị trung bình giữa các biến
độc lập với biến phụ thuộc, xây dựng và phân tích mô hình hồi quy bội để phân tích
dữ liệu.

Công cụ nghiên cứu gồm: câu hỏi thảo luận nhóm, phiếu khảo sát và phần mềm xử lý
dữ liệu SPSS 20.0.

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT


1.1 Bối cảnh và tình hình tuyển sinh đối với ngành kiểm toán

Thực tế, Kế toán - Kiểm toán được coi là chuyên ngành được nhiều sinh viên lựa chọn
và theo học. Trong những năm gần đây, ngành Kiểm toán có mức điểm tuyển sinh cao
vượt bậc. Cụ thể hơn có thể đi qua điểm tuyển sinh đầu vào của một số trường đại học
lớn như trường đại học Kinh tế Quốc dân (năm 2021: 28.1, năm 2022: 28.15), đại học
Kinh tế TP.HCM (năm 2021: 26.1, năm 2022: 27.8), đại học Kinh tế - Luật (năm
2021: 26.85, năm 2022: 26.6),... Từ những dẫn chứng trên, có thể thấy rõ ngành Kiểm
toán hiện nay rất thu hút và được nhận sự quan tâm rất lớn từ phía các thí sinh.

Tại sao ngành Kiểm toán hiện nay lại có sức hút đến vậy? Lý do vì trong bối cảnh
toàn cầu hóa cũng như cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu về các dịch vụ tài
chính, đặc biệt là kế toán, kiểm toán không ngừng gia tăng. Tốt nghiệp ngành này,
sinh viên dễ dàng tìm được việc làm và có thu nhập ổn định vì kế toán là một bộ phận
không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp, bên cạnh đó doanh nghiệp còn có thể có bộ
phận kiểm toán nội bộ, hoặc đối với các công ty kiểm toán độc lập thì sẽ có nhân viên
kiểm toán. Ở Việt Nam hiện nay có không dưới 100 công ty lớn nhỏ cung cấp dịch vụ
kế toán - kiểm toán, hơn nữa các công ty ở Việt Nam ngày một nhiều lên và mỗi công
ty thường cần từ 2-5 nhân viên kế toán, vì vậy nhu cầu nhân lực ngành kế toán - kiểm
toán ngày một tăng cao. Ngoài ra, đặc thù của ngành kiểm toán cũng là một điểm thu
hút người học chọn ngành này. Kế toán - Kiểm toán luôn đòi hỏi người làm kế toán,
kiểm toán phải có những kiến thức chuyên biệt, chuyên sâu cũng như những phẩm
chất cần thiết. Kế toán và kiểm toán hiện đại sẽ không còn chỉ là những người ghi sổ
kế toán mà còn là những người biết cách phân tích dữ liệu, đánh giá thông tin và giúp
các nhà quản lý đưa ra các quyết định phù hợp. Nếu kế toán là người trực tiếp "sống
và làm việc" với các số liệu, báo cáo tài chính, thuế,... thì kiểm toán viên đóng vai trò
là "người bảo vệ giá trị của công ty" bằng cách thu thập và đánh giá các thông tin tài
chính để xác định và báo cáo tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính đã được thiết lập trước
đó. Bên cạnh đó, “dễ nhảy việc” cũng là một trong những lý do khiến cho nhiều người
học chọn ngành kiểm toán. Một nhân viên kiểm toán có thể lựa chọn làm việc trong
một công ty khoảng vài năm để lấy kinh nghiệm, sau đó tìm kiếm các doanh nghiệp
khác có chế độ tốt hơn để nhảy việc. Trường hợp khác, một kiểm toán viên sau vài
năm trải nghiệm thực tế công việc nhưng cảm thấy kiểm toán không còn phù hợp với
bản thân, thì họ có thể chuyển đổi sang làm một công việc khác thích hợp hơn nhưng
vẫn liên quan đến lĩnh vực tài chính.

Với tính đặc thù và tầm quan trọng trong nền kinh tế cạnh tranh cao, yêu cầu về giáo
dục và yêu cầu về trình độ chuyên môn cũng ngày càng tăng, vì thế ngành kiểm toán
được đào tạo theo định hướng thông qua các trường đại học, thay vì chỉ đào tạo
chuyên sâu ngành kế toán như trước đây. Đặc thù của công việc chuyên môn liên quan
đến số liệu và các quy định tài chính, đòi hỏi người học kiểm toán ngoài những phẩm
chất cần thiết như sự kỹ lưỡng, cẩn trọng, tập trung và tinh thần quan sát, so sánh,...
còn phải được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Hiện nay, một số
trường đại học đã bắt đầu xây dựng chương trình đào tạo và lồng ghép kiểm toán vào
giáo dục chuyên sâu gắn liền với các chứng chỉ quốc tế với mục tiêu đào tạo những
kiểm toán viên chuyên nghiệp.

1.2 Cơ sở lý thuyết

1.2.1 Khái niệm về ảnh hưởng

Trên phương diện khoa học Tâm lý học, ảnh hưởng xét trong quá trình tương tác
tương hỗ là một quá trình trong đó cá nhân làm thay đổi một cá nhân khác hay một
nhóm khác về mặt hành vi, tâm thế, ý định, quan điểm, hoặc sự đánh giá.

Đồng quan điểm với Tâm lý học ở góc độ sự thay đổi về hành vi, Giáo dục học xem
xét ảnh hưởng dưới phạm vi ảnh hưởng xã hội là tất cả những gì do sự chi phối từ một
tác nhân khác tạo ra sự biến đổi về mặt hành vi của chủ thể hoặc khách thể trong một
bối cảnh xã hội nhất định.

Trên cơ sở phân tích quan điểm của Tâm lý học, giáo dục học có thể hiểu: “ảnh
hưởng” chính là sự biến đổi của một cá nhân hay một nhóm do sự chi phối của một cá
nhân hoặc một tác nhân khác trong quá trình tương tác tương hỗ về tất cả các mặt:
hành vi, ý định, quan điểm,…

1.2.2 Năm thành phần chính của yếu tố ảnh hưởng

1.2.2.1 Đặc điểm cá nhân

Đặc điểm là từ ghép Hán Việt, được cấu tạo nên từ hai từ đơn “Đặc” (Đặc tính riêng
biệt của cá thể) và “Điểm” (Chi tiết cụ thể tồn tại trong cá thể). Nhìn chung, đặc điểm
là điểm nổi bật, riêng biệt của chủ thể, sự vật, đối tượng, thường được sử dụng trong
trường hợp nói đến chi tiết tất cả các dấu hiệu bên trong, bên ngoài của chủ thể, sự
vật, đối tượng.

Có rất nhiều quan điểm về cá nhân theo các ngành khoa học khác nhau:

- Theo từ điển giáo dục học, cá nhân là “Một đại diện riêng biệt của cộng đồng
người, hình thành trên cơ sở sinh học, phát triển trong môi trường xã hội…”

- Theo từ điển Bách Khoa, cá nhân được xem xét dưới góc độ cá nhân hóa - cá
thể hóa là một con người xã hội riêng biệt tồn tại trong xã hội, vì vậy mỗi cá
nhân là một chỉnh thể người đơn nhất bao gồm cả hệ thống những yếu tố, đặc
điểm cụ thể, riêng biệt từ đó có thể phân biệt với những cá nhân khác trên cơ sở
về cơ thể sinh học, tâm lý, tư tưởng, văn hóa và hoàn cảnh sống …

- Ngoài ra, theo tác giả Phạm Minh Hạc & Lê Đức Phúc (2004), cá nhân là một
thành viên của xã hội và là một thực thể độc lập.

Qua các quan điểm trên nhận thấy rằng, đặc điểm cá nhân là những đặc điểm riêng
biệt về mặt sinh học, tâm lý,… của một con người riêng biệt, một thực thể độc lập để
phân biệt với cá nhân khác trong các mối quan hệ. Trong giới hạn của đề tài nghiên
cứu, tác giả lựa chọn xem xét các đặc điểm riêng biệt thuộc về cá nhân bao gồm: năng
lực và sở thích.

1.2.2.2 Đặc điểm nghề nghiệp

Nghề nghiệp là danh từ được ghép bởi “nghề” và “nghiệp”. Thế nhưng để thật sự hiểu
được bản chất của nó trước hết cần phải phân tích rõ nghĩa của 2 từ này.

- Theo tác giả Hồng Nguyễn (2021), nghề là để chỉ một chức danh công việc do
người nào đó đảm nhận trong một thời gian cụ thể. Có rất nhiều người nhầm
lẫn giữa công việc và nghề, thế nhưng bạn cần phân biệt được hai khái niệm
này. Công việc là việc làm cụ thể, còn nghề là tên gọi chung của công việc.

- Theo giáo sư, tiến sĩ Phạm Tất Dong, “Nghiệp” là sự cống hiến hết mình cho
nghề.

- Nhà giáo ưu tú Đỗ Xuân Cẩm từng viết “Ai cũng biết nghề nào thì nghiệp đó.
Có chuyên môn thì sẽ có nghề tương xứng, nhưng có nghề chưa hẳn đã có
nghiệp và có nghề rồi mà không có nghiệp thì nghề cũng không tồn tại một
cách suôn sẻ được”.

Vậy nghĩa của từ nghề nghiệp là công việc đã được xã hội công nhận, tạo ra thu nhập
cho chính mình và đem lại những giá trị cho cộng đồng người. Nghề nghiệp cũng
chính là mục đích của mỗi chúng ta, cũng vì lý do này mà nghề luôn được lựa chọn
theo đam mê, sở thích.

Kết hợp với khái niệm “Đặc điểm”, có thể hiểu đặc điểm nghề nghiệp là điểm nổi bật,
riêng biệt của một công việc đã được xã hội công nhận, tạo ra thu nhập cho chính
mình và đem lại những giá trị cho cộng đồng người.
1.2.2.3 Đặc điểm trường đào tạo

Theo tác giả Bảo Danh (2022), đào tạo là cách thức để truyền dạy những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm nghề nghiệp cho người khác. Sau khi được đào tạo, bạn sẽ có thể
nâng tầm hiểu biết, phát triển bản thân và đạt đến một cấp bậc cao hơn.

Một trường thường được gọi là bất kỳ trung tâm nơi cung cấp giảng dạy, ở bất kỳ cấp
độ giáo dục: mầm non, tiểu học, trung học, dự bị, đại học. Cụ thể ở nghiên cứu này,
khái niệm trường được sử dụng chủ yếu xoay quanh cấp độ đại học.

Kết hợp với khái niệm “Đặc điểm”, có thể hiểu đặc điểm trường đào tạo là điểm nổi
bật, riêng biệt của một trung tâm nơi cung cấp giảng dạy.

Hiện hay giáo dục nước ta tồn tại cấp bậc đào tạo chủ yếu là hình thức chính quy, vừa
làm vừa học, đào tạo từ xa. Các trường đại học có hệ đào tạo chính quy do Bộ Giáo
dục và Đào tạo nên chương trình các môn học phải được xây dựng trên cơ sở chương
trình khung chuẩn do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Các chương trình
môn học sẽ được gắn với một ngành hoặc với một vài ngành đào tạo nếu như kiến
thức học đó có liên quan.

1.2.2.4 Gia đình và người thân

Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Người thân thích là những người có quan hệ thân thuộc và thích thuộc với một người.
Người thân thích có thể là những người thân thuộc - những người có mối quan hệ
huyết thống theo trực hệ hoặc bàng hệ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình
hoặc là những người thích thuộc - những người có quan hệ họ hàng được hình thành
từ quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng.

1.2.2.5 Xã hội

Theo từ điển tiếng Việt, xã hội là hệ thống trong đó con người sống chung với nhau
tạo thành những cộng đồng, tổ chức hay là tập đoàn người cụ thể nào đó, có cùng
chung phong tục, luật pháp,…
Xã hội là một thực thể tồn tại xung quanh mỗi người, trong xã hội chứa đựng từng cá
nhân, những mối quan hệ, những vấn đề xoay quanh, tác động đến đời sống của con
người.

Ở mỗi khu vực khác nhau trên thế giới, xã hội có tiến trình phát triển khác nhau. Tuy
nhiên, xét đến hiện tại, tất cả đều hướng tới một xã hội văn minh, dân chủ, phát triển
ưu tiên lợi ích của con người.

1.2.3 Lựa chọn

Theo Lê Ngọc Hùng (2009): “lựa chọn là cách thức để cân nhắc, tính toán để quyết
định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách
thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực”.

Dựa theo cách khái niệm về “lựa chọn” như trên, có thể gợi lên cách hiểu: lựa chọn là
một hành động có suy nghĩ, có chủ đích nghiêng về một khuynh hướng, một giải
pháp, hoặc một vấn đề nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để đạt được
mục đích.

1.2.4 Quyết định

Theo từ điển Tiếng Việt, quyết định được xem là sự phản ứng của con người đối với
một vấn đề - ra quyết định. Theo nghĩa hẹp, ra quyết định là sự lựa chọn cuối cùng
phương án hành động của con người. Theo nghĩa rộng, ra quyết định là một quá trình
gồm phát hiện vấn đề, xác định mục tiêu, tập hợp ý kiến và trí tuệ để định ra phương
án; phân tích đánh giá lựa chọn phương án tối ưu, thực hiện phương án, phản hồi điều
tiết. Như vậy, ra quyết định là quá trình cân nhắc và lựa chọn trong hành động để đạt
mục tiêu tốt nhất của người con người

Về bản chất, ra quyết định luôn thể hiện sự cân nhắc và lựa chọn: cân nhắc và lựa
chọn vấn đề giải quyết, lựa chọn mục tiêu cần đạt, sự cân nhắc các phương án để rồi
lựa chọn phương án hành động trong một không gian, thời gian cụ thể…

1.2.5 Ngành kiểm toán

Theo danh mục cấp IV ban hành kèm theo thông tư 14/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo, chuyên ngành Kiểm toán dành cho bậc cao đẳng (mã: 51340302) và
đại học (mã: 52340302) thuộc ngành Kế toán - Kiểm toán.
Công việc của kiểm toán chính là kiểm tra, xác minh tính trung thực của những báo
cáo tài chính đó, từ đó giúp cung cấp những thông tin chính xác nhất về tình hình tài
chính của tổ chức đó. Hay nói cách khác, kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá
bằng chứng liên quan đến những thông tin tài chính được kiểm tra (cung cấp bởi kế
toán) nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa thông tin đó với các chuẩn
mực đã được thiết lập.

Ngành kiểm toán có sức ảnh hưởng rất lớn đến nhiều đối tượng, không chỉ đối với chủ
thể doanh nghiệp được kiểm toán mà còn là căn cứ quan trọng của những nhà đầu tư
đang quan tâm đến tình hình tài chính. Báo cáo tài chính còn là cơ sở pháp lý để xác
định trách nhiệm và nghĩa vụ của một tổ chức đối với cơ quan nhà nước.

1.3 Cơ sở lý luận

1.3.1 Nguồn gốc lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý - thuyết lựa chọn duy lý

Lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý được phát triển dựa trên cơ sở thuyết lựa chọn duy
lý. Thuyết lựa chọn duy lý là sự kết hợp của triết học, kinh tế học và nhân học. Nội
dung của thuyết này đề cao vai trò của cá nhân: các cá nhân lựa chọn hành động và sự
lựa chọn là hành động của cá nhân. Xuất phát điểm của thuyết duy lý là dựa vào tiền
đề cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để đạt được
kết quả tối ưu nhất. Qua đây chúng ta có thể nhận thấy 2 đặc trưng cơ của bản thuyết
lựa chọn duy lý:

- Thứ nhất: Sự lựa chọn hành động là của cá nhân.

- Thứ hai: Sự tối ưu hóa.

Tuy nhiên, thuyết lựa chọn duy lý không chỉ giải thích hành động xã hội trên cấp độ
hành động của cá nhân mà còn để xem xét hành động xã hội trong mối tương tác giữa
cá nhân, nhóm, thiết chế và hệ thống xã hội hay nói cách khác thuyết này còn được
dùng làm phương pháp tiếp cận hành động của cá nhân, của nhóm, của mối liên hệ
chức năng giữa cá nhân, nhóm và hệ thống. Thuyết lựa chọn duy lý được diễn đạt và
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau gắn với tên tuổi của nhiều tác giả:

- Hoamans diễn đạt thuyết duy lý theo kiểu định lý toán học: ông cho rằng khi
đứng trước sự lựa chọn, cá nhân sẽ lựa chọn hành động mà tích (kí hiệu là C)
xác suất thành công (kí hiệu là P) và giá trị phần thưởng (kí hiệu là V) của hành
động này là lớn nhất. Cách diễn đạt trên được ông mô tả qua công thức toán
học: C=PxV=Maximum (trích dẫn từ Lê Ngọc Hùng, 2009, trang 354).

- Thuyết lựa chọn duy lý được phát triển mạnh trong kinh tế học hiện đại. Theo
Alfred Marschal, ông cho rằng cá nhân hành động theo nhu cầu tâm lý bên
trong thúc đẩy, tuy nhiên định hướng dẫn dắt hành động chính là lợi ích của sự
vật bên ngoài cá nhân, hay nói cách khác bản thân cá nhân lựa chọn hành động
nhưng sự lựa chọn này chịu ảnh hưởng bởi lợi ích của các tác nhân bên ngoài
cá nhân (trích dẫn từ Lê Ngọc Hùng, 2009, trang 355-356).

- Dựa trên thuyết lựa chọn duy lý, đứng trên lập trường xã hội học, Georg
Simmel đưa ra nguyên tắc cùng có lợi của mối tương tác xã hội giữa các cá
nhân (trích dẫn từ Lê Ngọc Hùng, 2009, trang 360).

Như vậy, dựa trên quan điểm cá nhân các tác giả đã phát triển thuyết lựa chọn duy lý
trong những trường phái khác nhau: về mặt xã hội học, kinh tế học hiện đại, tâm lý
học,...Từ đó, thuyết lựa chọn duy lý được phát triển thành hai lý thuyết cơ bản nhất đó
chính là: lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý và lý thuyết trao đổi xã hội.

1.3.2 Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý

Đại diện của lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý là George Homans. Ông cho rằng dùng
cách giải thích của tâm lý học và các nguyên lý tâm lý học là cách lý giải hợp lý nhất
cho các hiện tượng xã hội. Tác giả đưa ra một số định đề hành vi duy lý, và trong
phạm vi của nghiên cứu, người nghiên cứu sử dụng 3 định đề: định đề giá trị, định đề
mong đợi, và định đề duy lý. Nội dung từng định đề được tóm tắt như sau:

- Định đề giá trị: hành động mang lại giá trị cao đối với chủ thể bao nhiêu thì
càng làm cho chủ thể có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu.

- Định đề duy lý: đề cao vai trò của cá nhân, cá nhân sẽ lựa chọn hành động mà
giá trị mang lại của hành động đó cao và khả năng đạt được là lớn nhất.

- Định đề mong đợi: một khi sự mong đợi của cá nhân được đáp ứng, được thực
hiện thì cá nhân cảm thấy hài lòng, ngược lại khi sự mong đợi không được đáp
ứng thì cá nhân cảm thấy bực tức, không hài lòng.
Các định đề nêu trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó định đề duy lý mang
ý nghĩa bao hàm nhất. Vận dụng các định đề vào vấn đề nghiên cứu đang thực hiện
nhận thấy rằng việc lựa chọn ngành học là do chính bản thân cá nhân học sinh - sinh
viên lựa chọn. Tuy nhiên, cá nhân sẽ lựa chọn hành động mà giá trị hành động cao
nhất và khả năng đạt được lớn nhất, đạt được sự mong đợi của bản thân hay nói cách
khác bản thân cá nhân học sinh - sinh viên sẽ lựa chọn ngành học có cơ hội trúng
tuyển cao, phù hợp với năng lực cá nhân, đúng với sở thích nguyện vọng của cá nhân
và gia đình, phù hợp với truyền thống của gia đình, phù hợp với sự tư vấn của thầy
(cô), đáp ứng được sự mong đợi về cơ hội nhận được các học bổng trong và ngoài
nước, cơ hội việc làm và nhu cầu xã hội trong xu thế hiện tại,....Tóm lại, sự lựa chọn
ngành nghề của mỗi cá nhân được chính cá nhân lựa chọn một cách hợp lý dựa trên
việc xem xét, đánh giá các điều kiện khách quan, các yếu tố ảnh hưởng về: sở thích cá
nhân, năng lực cá nhân, gia đình, nhà trường, đặc điểm trường và ngành học lựa chọn,
nhu cầu và cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp từ góc độ nhìn nhận của bản thân cá
nhân, hay nói cách khác cá nhân sẽ lựa chọn ngành nghề dựa trên sự cân đối về năng
lực, sở thích bản thân với kì vọng đạt được từ ngành nghề sau khi tốt nghiệp.

1.3.3 Thuyết nhu cầu

Lý thuyết nhu cầu là một trong những lý thuyết về nhân cách trong tâm lí học phương
Tây, cụ thể chính là tâm lí học nhân văn. Theo tác giả Đào Thị Oanh (2007), thuyết
nhu cầu được phát triển bởi Maslow (1908 - 1970). Tháp nhu cầu của Maslow gồm 5
bậc thang, mỗi bậc thang thể hiện nhu cầu khác nhau từ thấp đến cao:

- Nhu cầu sinh lý cơ bản: hay có thể gọi đây là nhu cầu bản năng của con người:
đói, khát,...Như vậy, nhu cầu này có thể mất đi khi con người được thỏa mãn.

- Nhu cầu an toàn: là nhu cầu về sự trật tự, yên ổn và an ninh. Trong cuộc sống,
con người luôn phải có sự lựa chọn giữa an toàn và phát triển. Maslow cho
rằng: người lựa chọn sự an toàn sẽ nhận thấy phát triển là nguy hiểm, không
dám đối đầu với những khó khăn; người lựa chọn sự phát triển sẽ luôn muốn
khám phá, coi an toàn là sự buồn tẻ đối với họ.

- Nhu cầu yêu thương, lệ thuộc: nội dung của nhu cầu này mang tính phức tạp về
các vấn đề tâm lý như tình yêu, tình bạn, mong muốn được hòa nhập, sự ủng
hộ, tán thưởng,...thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá
trình phát triển của nhân loại.

- Nhu cầu ngưỡng mộ: thể hiện nhu cầu đạt kết quả, được người khác thừa nhận,
nhu cầu về niềm tin.

- Nhu cầu phát huy bản ngã: là bậc phát triển cao nhất trong tháp nhu cầu, thể
hiện qua nhu cầu sáng tạo, nhu cầu tự thực hiện, nhu cầu về sự hiểu biết và nhu
cầu này nếu được hình thành sẽ tồn tại trong một thời gian dài.

Trong quá trình phát triển, con người phải trải qua nhiều giai đoạn để hướng đến việc
phát huy được tiềm năng của bản thân (hay còn gọi là nhu cầu phát huy bản ngã) và
chỉ có một số ít người đạt đến trình độ này vì có sự khác biệt giữa các cá nhân trong
bậc thang nhu cầu, không phải tất cả mọi người đều đạt đến trình độ cao nhất trong
bậc thang tháp nhu cầu, ngược lại chỉ có một số ít người có thể đạt được trình độ này.

Nhu cầu là cơ sở cho hành vi của con người, hướng con người đến hành động. Do đó,
khi xem xét lý thuyết nhu cầu trong vấn đề nghiên cứu người nghiên cứu đang thực
hiện, nhận thấy rằng cá nhân học sinh sinh viên cũng dựa trên những nhu cầu của bản
thân theo bậc thang của Maslow để đi đến quyết định lựa chọn ngành học. Có những
cá nhân học sinh lựa chọn ngành học dựa trên nhu cầu để thỏa mãn sở thích của bản
thân, bên cạnh đó có những cá nhân lựa chọn ngành học vì lý do ngành học dễ dàng
hoặc có cơ hội trúng tuyển cao, có nhiều cơ hội về học bổng hoặc các ưu đãi, phúc lợi
khác khi quyết định lựa chọn trường và ngành học (thể hiện nhu cầu an toàn). Đồng
thời có những cá nhân lựa chọn ngành học do muốn được sự ủng hộ của bạn bè khi
cùng lựa chọn cùng ngành học, hoặc được sự ủng hộ của những người thân, thầy (cô)
(thể hiện nhu cầu yêu thương, lệ thuộc). Hoặc do nhu cầu được người khác thừa nhận
khi có được cơ hội việc làm tốt, lương cao, nhu cầu xã hội đang cần,..., hoặc do các cá
nhân có nhu cầu tự thực hiện dựa trên nhận thức mức năng lực về một lĩnh vực,...nên
cá nhân quyết định lựa chọn ngành học.

Tóm lại, tác giả sử dụng lý thuyết hành vi lựa chọn duy lý và lý thuyết nhu cầu, kết
hợp với các kết quả nghiên cứu của các nghiên cứu trong và ngoài nước làm cơ sở cho
việc phân tích và xây dựng các giả thuyết nghiên cứu của đề tài.
1.4 Giới thiệu các nghiên cứu liên quan

1.4.1 Nghiên cứu của David W.Chapman (1981)

Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu về mô hình sự lựa chọn trường đại học của học
sinh THPT và xác định các thành phần then chốt ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
trường đại học của học sinh THPT.

Mô hình nghiên cứu: Tác giả đưa ra mô hình sự lựa chọn trường đại học của
học sinh chịu ảnh hưởng bởi 2 nhóm yếu tố đó là đặc điểm cá nhân học sinh (bao gồm
tình trạng kinh tế xã hội, năng lực, mức độ kỳ vọng về giáo dục và kết quả học tập ở
bậc THPT) và các yếu tố ảnh hưởng bên ngoài (bao gồm các cá nhân quan trọng đối
với học sinh, đặc điểm cố định của trường đại học và nỗ lực giao tiếp của trường đại
học đối với học sinh).

- Đặc điểm cá nhân học sinh:

+ Tình trạng kinh tế xã hội:

Tầm quan trọng của tình trạng kinh tế xã hội được biểu thị theo những cách khá phức
tạp. Thu nhập gia đình là một phương diện quan trọng của tình trạng kinh tế xã hội.
Nó tác động trực tiếp đến việc lựa chọn trường đại học vì nó có mối quan hệ với chi
phí tổ chức giáo dục và hỗ trợ tài chính. Điều này dẫn đến những sinh viên thuộc
những gia đình có tình trạng kinh tế xã hội khác nhau sẽ có xu hướng phân bố vào các
trường đại học và cao đẳng có các mức chi phí khác nhau. Không những thế, tỉ lệ tiếp
tục bước vào bậc giáo dục cấp cao hơn cũng có sự khác nhau giữa các học sinh có tình
trạng kinh tế xã hội khác nhau. Cụ thể, những học sinh thuộc những gia đình thu nhập
cao có xu hướng lựa chọn các trường đại học tư thục. Những học sinh thuộc những gia
đình thu nhập trung bình, thấp có xu hướng lựa chọn các trường đại học công lập hoặc
cao đẳng, ngoài ra còn có khả năng họ lựa chọn không tiếp tục học ở bậc giáo dục đại
học.

+ Năng lực:

Năng lực cá nhân ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích học tập ở bậc THPT. Năng lực cá
nhân và kết quả học tập ở bậc THPT được sử dụng để mô tả sự cạnh tranh giữa các
ứng viên khi ứng tuyển vào một trường đại học cụ thể, đồng thời nó cũng được các
trường đại học xem là điều cơ bản để sàng lọc các ứng viên. Vì vậy, học sinh thường
có xu hướng tự lựa chọn các trường đại học phù hợp với năng lực của họ.

+ Mức độ kỳ vọng về giáo dục:

Kỳ vọng nói về việc một người nhận thức sẽ làm hoặc sẽ hoàn tất việc gì đó trong
tương lai, nó bao gồm một con số ước tính của tính thực tế, một sự đánh giá về thành
tích trong tương lai. Mức độ giáo dục kỳ vọng là những ao ước hoặc những ước muốn
của một cá nhân về cuộc sống học tập của đời sinh viên tương lai. Vì vậy, nó có liên
quan đến kế hoạch học đại học của học sinh, trước hết là việc chọn trường đại học.

- Các yếu tố ảnh hưởng bên ngoài:

+ Các cá nhân quan trọng đối với học sinh:

Trong quá trình lựa chọn trường đại học cho bản thân, tâm lý của học sinh thường có
sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự thuyết phục, lời nhận xét và lời khuyên của gia đình và
bạn bè. Ảnh hưởng của nhóm này hoạt động theo 3 cách: những lời nhận xét hình
thành sự kỳ vọng của học sinh vào một trường đại học cụ thể; những lời khuyên trực
tiếp cho học sinh nên học ở trường đại học nào và ở đâu; nơi mà những người bạn
thân thiết lựa chọn học đại học ảnh hưởng đến quyết định của học sinh.

+ Đặc điểm cố định của trường đại học:

Địa điểm, chi phí, môi trường khuôn viên đại học và các chương trình đào tạo sẵn có
trong mô hình này như là những đặc điểm cố định tương đối của trường đại học.
Những đặc điểm này có khuynh hướng định nghĩa trường đại học trong ngắn hạn. Học
sinh chọn những trường đại học mà họ tin rằng họ sẽ nhận được những khóa học giúp
họ ngày càng nâng cao được năng lực và tìm được việc làm sau khi ra trường. Vì vậy,
chương trình đào tạo sẵn có của trường đại học và lợi ích thu được từ nó là những đặc
điểm quan trọng nhất mà học sinh tìm kiếm khi chọn trường đại học.

+ Nỗ lực giao tiếp của trường đại học đối với học sinh:

Học sinh có hi vọng vào trường đại học nào sẽ tích cực tìm kiếm thông tin về trường
đại học đó. Tương ứng với điều đó, những chuyến viếng thăm trường THPT bởi các
nhân viên làm công tác tuyển sinh và những chuyến viếng thăm trường đại học bởi
các học sinh được tác giả đánh giá là hoạt động tuyển sinh hiệu quả nhất. Chapman
còn cho rằng các tài liệu tuyển sinh đại học nên được đặc biệt quan tâm, vì nó đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc quyết định chọn trường đại học của học sinh.

Hình 1.1: Các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn trường đại học của học
sinh (Chapman, 1981)

Nguồn: Chapman (1981)

Kết quả nghiên cứu: Quyết định lựa chọn trường đại học của học sinh THPT
chịu ảnh hưởng bởi 2 nhóm yếu tố, đó là đặc điểm cá nhân học sinh và các yếu tố bên
ngoài. Về đặc điểm cá nhân, học sinh có xu hướng lựa chọn trường đại học phù hợp
với năng lực của mình. Về các yếu tố bên ngoài, đặc điểm cố định của trường đại học
đóng vai trò quan trọng đối với quyết định lựa chọn trường đại học của học sinh.

1.4.2 Nghiên cứu của Trần Văn Quí, Cao Hào Thi (2009)

Nhóm tác giả Trần Văn Quí - Cao Hào Thi (2009) cũng đã sử dụng lý thuyết của
Chapman để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình về các yếu tố ảnh hưởng đến việc
chọn trường đại học của học sinh THPT. Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Phát triển
Khoa học & Công Nghệ, tập 12, số 15 - 2009 trường Đại học Bách Khoa, Đại học
Quốc Gia TP.HCM.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định và đánh giá tác động của các yếu tố then chốt
trong việc chọn trường đại học của học sinh THPT.
Thành phần xã hội mà nghiên cứu phục vụ: Kết quả nghiên cứu được sử dụng
để giúp đỡ gia đình, nhà trường và các tổ chức giáo dục có biện pháp thiết thực nhằm
định hướng có phương pháp và tạo điều kiện tốt nhất cho các học sinh THPT chọn
trường đại học.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Học sinh lớp 12 năm học 2008-2009
của 5 trường THPT tại Quảng Ngãi.

Tác giả phân tích định lượng dựa trên bảng trả lời của các học sinh, sử dụng phương
pháp phân tích hệ số Cronbach's Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA và sử dụng
phương pháp hồi quy đa biến được tính toán dựa trên phần mềm SPSS.

Mô hình nghiên cứu:

Hình 1.2: Các yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn trường đại
học của học sinh THPT (Trần văn Quí và Cao Hào Thi, 2009)

Nguồn: Trần Văn Quí, Cao Hào Thi (2009)

Kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu cho thấy 5 yếu tố then chốt ảnh hưởng
đến quyết định lựa chọn trường đại học của học sinh THPT đó là cơ hội việc làm
trong tương lai, đặc điểm cố định của trường đại học, đặc điểm cá nhân của học sinh,
các cá nhân quan trọng có ảnh hưởng đến quyết định của học sinh và sự nỗ lực giao
tiếp với học sinh của trường đại học.

Hạn chế của nghiên cứu: Mô hình chỉ giải thích vấn đề nghiên cứu ở mức độ
21,5% khi nhân rộng ra tổng thể do kích thước mẫu nhỏ và giới hạn ở tỉnh Quảng
Ngãi (227 bảng trả lời của học sinh lớp 12 thuộc 5 trường THPT tại tỉnh Quảng Ngãi).

Trong phần phương pháp nghiên cứu, tác giả có đề cập sử dụng phương pháp phân
tích hồi quy nhưng trong kết quả nghiên cứu tác giả không đưa ra phương trình hồi
quy, do đó tác giả chưa có sự phân tích sâu để đưa ra những dự đoán từ các phương
trình hồi quy.

1.4.3 Nghiên cứu của Lê Thị Minh Trúc (2014)

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định và đo lường một số yếu tố ảnh hưởng đến việc
chọn ngành Nông Lâm Ngư nghiệp đến quyết định lựa chọn ngành Nông Lâm Ngư
Nghiệp của sinh viên trường đại học Nông Lâm TP.HCM.

Thành phần xã hội mà nghiên cứu phục vụ: Kết quả nghiên cứu giúp lãnh đạo
Nhà trường có cơ sở khoa học về xu hướng chọn học các ngành Nông Lâm Ngư
Nghiệp của sinh viên, từ đó có thể đề ra những giải pháp nhằm thu hút học sinh sinh
viên cho ngành Nông Lâm Ngư Nghiệp tại trường đại học Nông Lâm TP.HCM.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sinh viên năm thứ nhất đang theo học
các ngành thuộc lĩnh vực Nông Lâm Ngư Nghiệp của trường đại học Nông Lâm
TP.HCM.

Mô hình nghiên cứu:


Hình 1.3: Một số yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn học ngành Nông
Lâm Ngư Nghiệp (Lê Thị Minh Trúc, 2014)

Nguồn: Lê Thị Minh Trúc (2014)

Kết quả nghiên cứu:

- Các yếu tố thuộc về cá nhân: Kết quả nghiên cứu cho thấy 2 yếu tố
thuộc về cá nhân bao gồm năng lực và sở thích cá nhân đều tác động đến quyết
định chọn học ngành Nông Lâm Ngư Nghiệp. Trong đó, yếu tố năng lực cá nhân
có tầm ảnh hưởng cao hơn so với yếu tố sở thích cá nhân.

- Các yếu tố thuộc về môi trường: Kết quả phân tích hồi quy theo phương
pháp Stepwise cho thấy chỉ có 2 yếu tố bao gồm đặc điểm của trường và ngành
học đã lựa chọn, nhu cầu xã hội và cơ hội việc làm sau tốt nghiệp có ảnh hưởng
đến quyết định chọn học ngành Nông Lâm Ngư Nghiệp của sinh viên, 2 yếu tố còn
lại là gia đình và nhà trường bị loại khỏi mô hình. Trong đó, yếu tố đặc điểm
trường và ngành đào tạo có tác động lớn hơn yếu tố nhu cầu xã hội và cơ hội việc
làm sau tốt nghiệp.

Về tổng thể, kết quả phân tích cho thấy yếu tố đặc điểm trường và ngành học đã lựa
chọn có mức độ ảnh hưởng quan trọng nhất so với các yếu tố còn lại.

Hạn chế của nghiên cứu: Đề tài chỉ thực hiện nghiên cứu trên nhóm khách thể
là sinh viên năm thứ nhất đang theo học các ngành thuộc nhóm Nông Lâm Ngư
Nghiệp tại trường đại học Nông Lâm TP.HCM, do đó kết quả nghiên cứu chưa khái
quát hết được sự ảnh hưởng của các yếu tố đối với việc lựa chọn học nhóm ngành này.

1.4.4 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự (2017)

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến việc
chọn ngành kế toán của sinh viên.

Thành phần xã hội mà nghiên cứu phục vụ: Kết quả nghiên cứu mang lại các
hàm ý quản trị cho lãnh đạo của các trường đại học.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sinh viên và cựu sinh viên từ một số
trường đại học ở TP.HCM và tỉnh Bình Dương.

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp định lượng, gồm khảo sát
bằng phương pháp phỏng vấn ngẫu nhiên thông qua bảng khảo sát. Dữ liệu được xử lý
bằng công cụ SPSS với các kỹ thuật như kiểm định độ tin cậy của thang đo, xác định
hệ số tương quan giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc, xây dựng và phân tích mô
hình hồi quy bội, kiểm định phi tham số.

Giả thuyết nghiên cứu: Sử dụng lý thuyết từ các nghiên cứu đi trước, tác giả
đưa vào nghiên cứu 5 nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành kế toán
bao gồm đặc điểm cá nhân, đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm trường đại học, gia đình
và người, xã hội.

- Giả thuyết H1: Đặc điểm cá nhân người học có tác động đến việc lựa chọn.

- Giả thuyết H2: Đặc điểm nghề nghiệp có tác động đến việc lựa chọn

- Giả thuyết H3: Đặc điểm trường đại học có tác động đến việc lựa chọn.

- Giả thuyết H4: Gia đình và người thân có tác động đến việc lựa chọn.

- Giả thuyết H5: Xã hội có tác động đến việc lựa chọn.

Mô hình nghiên cứu:


Hình 1.4: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành Kế toán của
sinh viên (Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự, 2017)

Nguồn: Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự (2017)

Kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố đặc điểm của trường
đại học có tác động rất lớn đến việc chọn học ngành kế toán của sinh viên, học sinh vì
họ rất quan tâm đến những thông tin về chất lượng đào tạo và môi trường học tập của
trường. Bên cạnh đó, 3 nhân tố bao gồm đặc điểm cá nhân, đặc điểm nghề nghiệp và
xã hội đều có tác động đến quyết định lựa chọn ngành kế toán của sinh viên, học sinh.
Riêng nhân tố gia đình và người thân, nghiên cứu này chứng minh không có sự tác
động đến việc lựa chọn ngành kiểm toán của người học.

1.4.5 Tổng hợp về kết quả nghiên cứu nói trên

Bảng 1.1: Tổng hợp các yếu tố lựa chọn từ những nghiên cứu đi trước

STT Mô hình Yếu tố Tác giả

1 Các nhóm yếu - Đặc điểm cá nhân David W.Chapman


tố ảnh hưởng
đến sự lựa chọn - Các cá nhân quan trọng (1981)
trường đại học - Đặc điểm cố định của trường đại
học

- Nỗ lực giao tiếp của trường đại học


đối với học sinh

2 Các yếu tố then - Cơ hội việc làm trong tương lai Trần Văn Quí và
chốt ảnh hưởng - Đặc điểm của trường đại học Cao Hào Thi
đến quyết định (2009)
- Đặc điểm của cá nhân học sinh
lựa chọn trường
đại học - Các cá nhân có ảnh hưởng đến
quyết định của học sinh

- Nỗ lực giao tiếp với học sinh của


trường đại học

3 Một số yếu tố - Yếu tố thuộc về bản thân: Lê Thị Minh Trúc


ảnh hưởng đến + Sở thích cá nhân (2014)
quyết định lựa
+ Năng lực cá nhân
chọn học ngành
Nông Lâm Ngư - Yếu tố thuộc về môi trường:

Nghiệp + Gia đình

+ Nhà trường (Trường THPT)

+ Đặc điểm của trường và


ngành học đã lựa chọn

+ Nhu cầu xã hội và cơ hội việc


làm sau tốt nghiệp

4 Các nhân tố ảnh - Đặc điểm cá nhân Nguyễn Thị Bích


hưởng đến quyết - Đặc điểm nghề nghiệp Vân và cộng sự
định lựa chọn
ngành Kế toán - Đặc điểm trường đại học (2017)

- Gia đình và người thân

- Xã hội

Nguồn: Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu trước năm 2022 của tác giả.

Tiểu kết: Có rất nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau về việc khám phá ra các
yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đối với việc chọn ngành nghề,
chọn trường của học sinh - sinh viên. Tuy nhiên, nhìn chung các kết quả nghiên cứu
có sự tương đồng với nhau về một số các yếu tố ảnh hưởng, có thể cùng một yếu tố
nhưng trong các nghiên cứu tác giả sử dụng từ ngữ khác nhau để diễn đạt. Bên cạnh
đó, các kết quả nghiên cứu trên đều mang lại hàm ý quản trị cho Nhà trường chứ chưa
thực sự hướng đến phục vụ cho học sinh, sinh viên trong quá trình lựa chọn hướng đi
mới cho bản thân. Do đó, thông qua việc tìm hiểu, phân tích tổng quan vấn đề nghiên
cứu, nhóm tác giả nghiên cứu lựa chọn quan điểm nghiên cứu của nhóm tác giả
Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự, đó là phân chia các yếu tố ảnh hưởng thành năm
yếu tố chính bao gồm đặc điểm cá nhân, đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm trường đào
tạo, gia đình và người thân, xã hội làm cơ sở để phân tích nghiên cứu đang thực hiện.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả nghiên cứu áp dụng một số lý thuyết nghiên cứu của tác
giả Lê Thị Minh Trúc để làm cơ sở phân chia yếu tố đặc điểm cá nhân thành năng lực
cá nhân và sở thích cá nhân. Ngoài ra, nhóm tác giả còn sử dụng một số lý thuyết mà
tác giả D.W.Chapman đã sử dụng trong đề tài nghiên cứu của mình để làm cơ sở lý
luận giả thuyết.

Thông qua kết quả của nghiên cứu này, người học sẽ có cái nhìn tổng quan và
đa phương diện về ngành kiểm toán, đặc biệt những người có nhu cầu chọn ngành để
ra quyết định. Qua đó, nhóm tác giả đề ra giải pháp hỗ trợ nhóm học sinh, sinh viên ra
quyết định dài hạn về việc gắn bó với ngành kiểm toán.

1.5 Các giả thuyết nghiên cứu

1.5.1 Yếu tố thuộc về cá nhân

Yếu tố về cá nhân ở nghiên cứu này bao gồm năng lực và sở thích của người học.
Ở khảo sát về các đặc điểm của học sinh ảnh hưởng tới sự lựa chọn trường đại học,
S.G. Washburn và cộng sự (2000) đưa ra kết luận “sự rộng lớn và đa dạng của các đặc
tính tác động đến lựa chọn trường đại học của học sinh”. Điều này cũng phù hợp với
lý thuyết về hành vi dẫn đến quyết định chọn trường. Đa số các nghiên cứu cho rằng
học sinh sẽ có xu hướng chọn trường đại học phù hợp với điều kiện kinh tế, tính cách,
sở thích và năng lực cá nhân.

Các đặc điểm thuộc về người tiêu dùng như giới tính, độ tuổi, thu nhập, nghề nghiệp,
… có ảnh hưởng đến quyết định chọn sản phẩm, dịch vụ (Thuyết hành vi người tiêu
dùng hành vi người tiêu dùng của Philip Kotler và Gary Armstrong (2012), thuyết về
lựa chọn dịch vụ của Philip Kotler (2001). Điều này gần như tương tự với ý kiến của
D.W.Chapman (1981) là yếu tố thuộc về cá nhân, đặc điểm tính cách người học là một
trong những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến quyết định chọn trường của bản thân họ.
Trong đó, yếu tố về sở thích và năng lực của người học là hai yếu tố thể hiện rõ ràng
tầm ảnh hưởng của chúng lên quyết định chọn trường, cũng như quyết định chọn
ngành.

Như vậy, từ những cơ sở trên, tác giả đưa ra được giả thuyết yếu tố thuộc về cá nhân
có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán.

H1: Đặc điểm cá nhân có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người
học.

1.5.2 Yếu tố thuộc về môi trường

1.5.2.1 Đặc điểm nghề nghiệp

Homans từng đưa trong định đề duy lý quan điểm rằng con người lựa chọn hành động
mà giá trị mang lại hành động là cao nhất. Điều đó khi xét trong nghiên cứu đang thực
hiện tương tự với việc có việc làm sau khi tốt nghiệp, công việc đó có dễ xin việc hay
không, thu nhập đem lại cao hay thấp.

Sinh viên rất quan tâm đến nhu cầu xã hội và cơ hội việc làm khi quyết định lựa chọn
học ngành NLNN vì trong giai đoạn xã hội đang phát triển như hiện nay, sau khi tốt
nghiệp bất kỳ một sinh viên nào cũng muốn có công việc tốt, dễ xin việc, lương cao,
… để có điều kiện nuôi sống chính bản thân, giúp đỡ gia đình và có cơ hội tiếp tục
phát triển hơn nữa trong công việc. Điều này đã được Minh Trúc rút ra trong nghiên
cứu vào năm 2014

Phan Thị Công (2018) đã đưa ra khái niệm Yếu tố “Cơ hội tương lai”, có nghĩa là hầu
như thí sinh khi tham gia thi đại học đều quan tâm đến việc tìm kiếm việc làm sau khi
tốt nghiệp. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra hiện trạng nhiều sinh viên sau khi tốt
nghiệp không đáp ứng được công việc được giao do hầu hết các kiến thức tiếp thu từ
trường đều là lý thuyết nên các em học sinh rất quan tâm đến việc trong quá trình học
cần được trang bị các kỹ năng đáp ứng được nhu cầu thực tế cũng như được tiếp cận
với môi trường thực tế để các em có không bị ngỡ ngàng khi làm việc sau khi tốt
nghiệp.

Như vậy, từ những cơ sở lý thuyết trên có thể đưa ra giả thuyết yếu tố đặc điểm nghề
nghiệp có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người học.

H2: Đặc điểm nghề nghiệp có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người
học.

1.5.2.2 Đặc điểm trường đào tạo

Để lựa chọn vào một khối ngành hợp với nhu cầu bản thân, yếu tố trường đào tạo
cũng là một trong những tác động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn của người
học. Dựa trên thuyết lựa chọn hợp lý của George Homans (1961) và John Elster
(1986): một trong các yếu tố tác động đến lựa chọn hợp lý là sản phẩm đầu ra, có
nghĩa là người lựa chọn sẽ dựa vào chất lượng sản phẩm mà đưa ra lựa chọn thích
hợp. Trước đây cũng đã có vô số cuộc nghiên cứu trong nước và quốc tế đã bàn về
vấn đề chất lượng ảnh hưởng như thế nào tới việc quyết định gồm: Mô hình tổng quát
về việc lựa chọn trường của D.W. Chapman (1981); Mô hình của Ruth E.Kallio
(1995); Mô hình của Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư và La Vĩnh Tín (2015). Như vậy,
có thể thấy rằng một trường đào tạo có danh tiếng, uy tín, cơ sở vật chất tân tiến,
chính sách tiến bộ, chất lượng đào tạo đảm bảo thì sẽ được nhiều người xem xét và
hướng tới.

D.W.Chapman cũng đã từng chỉ ra rằng những yếu tố cơ bản như học phí, vị trí địa lý,
chính sách hỗ trợ về chi phí hay môi trường ký túc xá sẽ có ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường của học sinh. Sau đó, để củng cố thêm khẳng định từ Chapman, M.J.
Burns và các cộng sự đã bổ sung thêm một số yếu tố của trường đào tạo tiên quyết
như điểm chuẩn, mức độ chọi đầu vào, sự phổ biến, uy tín của trường và mức độ hấp
dẫn của ngành học.

Dựa vào những cơ sở trên, đưa ra được giả thuyết về yếu tố đặc điểm trường đào tạo
có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người học.

H3: Đặc điểm trường đào tạo có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của
người học.

1.5.2.3 Gia đình và người thân

Đứng trước bước ngoặt của cuộc đời, khi một người học chọn trường đại học nói
chung, khối ngành nói riêng, họ đều rất mơ hồ, băn khoăn và một trong những giải
pháp họ có thể làm đó là tham khảo ý kiến, sự tư vấn từ những người thân xung
quanh, trong đó bao gồm: vợ/chồng, bố mẹ, bạn bè, anh chị hoặc cấp trên, đồng
nghiệp.

Thuyết Hành động hợp lý của Ajzen và Fishbein (1975) đã chỉ ra rằng một người khi
đứng trước quyết định hành động, họ sẽ chịu ảnh hưởng lớn từ những lời khuyên nên
hay không nên thực hiện từ những người thân thiết.

D.W.Chapman (1981) cũng đã chứng minh rằng, các cá nhân có ảnh hưởng là một
trong những yếu tố liên quan mật thiết cùng chiều với quyết định chọn trường của học
sinh, nghĩa là ý kiến của những người liên quan như bố mẹ, bạn bè, anh chị,… có sức
nặng khi học sinh cần đưa ra quyết định chọn trường.

Thêm nữa, Philip Kotler (2001) cũng đã đưa ra một nhóm người gọi là Nhóm tham
khảo. Nhóm này để chỉ những người tiêu dùng sẽ tham khảo ý kiến người khác trước
khi chọn sử dụng dịch vụ.

Ở Việt Nam, nghiên cứu của Võ Ngọc Bảo Châu (2015) cũng đã nhận định mặc dù
yếu tố Ý kiến tham khảo của những người xung quanh tác động yếu nhất đến quyết
định chọn trường của học viên nhưng đó cũng là một trong những yếu tố được người
học hết sức quan tâm bởi lẽ khi được người thân, bạn bè đánh giá tốt về trường đại
học, ngành học nào đó sẽ gây được ấn tượng tốt cho học viên, đồng thời sẽ tác động
một phần đến quyết định lựa chọn của họ.

Từ những cơ sở trên là tiền đề cho việc đưa ra giả thuyết yếu tố gia đình và người thân
có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người học.

H4: Gia đình và người thân có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của
người học.

1.5.2.4 Xã hội

Thực tế hiện nay, sinh viên học ngành Kiểm toán có thể có được các kỹ năng làm việc
đa dạng ở nhiều lĩnh vực như tư vấn quản trị rủi ro, quản lý tài sản cố định, tư vấn tài
chính doanh nghiệp, thuế hoặc kể cả những dịch vụ kế toán như hợp nhất báo cáo tài
chính, ghi chép sổ,… với kiến thức chuyên môn được đào tạo bài bản. Sở dĩ là vì đặc
thù công tác chuyên môn của ngành này luôn gắn liền với những quy định tài chính
cùng những con số, yêu cầu người học kiểm toán phải trang bị đầy đủ kiến thức bên
cạnh những tố chất cá nhân. Như vậy ta có thấy rằng nhu cầu đối với các dịch vụ tài
chính, trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán, không ngừng tăng lên trong bối cảnh hội
nhập quốc tế cũng như cách mạng công nghiệp 4.0. Ở Việt Nam hiện nay, phải có hơn
100 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Kiểm toán và đang ngày một tăng lên, kéo theo
nguồn cầu nhân lực lớn, đặc biệt là đối với cử nhân của ngành Kiểm toán.

Có thể nhận thấy rằng nếu nhu cầu xã hội về một nhóm ngành nghề cao thì cơ hội việc
làm sau khi tốt nghiệp càng cao. Do đó, tác giả đã đưa ra giả thuyết yếu tố xã hội có
tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người học.

H5: Xã hội có tác động đến việc lựa chọn ngành Kiểm toán của người học.

1.6 Mô hình lý thuyết của nghiên cứu


Hình 1.5: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngành Kiểm toán của
người học

1.7 Tóm tắt chương I

Chương I trình bày một số khái niệm, giới thiệu tổng quan về vấn đề nghiên cứu, cơ
sở lý thuyết có liên quan đến chủ đề nghiên cứu, một số nghiên cứu trước do các tác
giả trong và ngoài nước: David W.Chapman (1981), Trần Văn Quí và Cao Hào Thi
(2009), Lê Thị Minh Trúc (2014), Nguyễn Thị Bích Vân và cộng sự (2017). Ngoài ra,
đưa ra các khái niệm trên cơ sở phân tích, tổng hợp các khái niệm khoa học đã có.
Đồng thời trên cơ sở kết hợp giữa cơ sở lý luận với việc phân tích, lựa chọn một số kết
quả từ các nghiên cứu để đưa ra các giả thuyết nghiên cứu, tiến hành xây dựng mô
hình nghiên cứu cho đề tài gồm có các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
ngành Kiểm toán gồm: đặc điểm cá nhân, đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm trường đào
tạo, gia đình và người thân, xã hội.

You might also like