Professional Documents
Culture Documents
Đề tài:
Nhận thấy tầm quan trọng trong việc nghiên cứu tính độc lập của KTV cùng
với sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn, em chọn đề tài “Tính độc lập của kiểm toán
viên trong cung cấp dịch vụ kiểm toán” cho đề án môn học Kiểm toán. Bài viết của
em được trình bày thành ba phần:
Phần 1: Lý luận chung về tính độc lập của kiểm toán viên trong cung cấp
dịch vụ kiểm toán.
Phần 2: Thực trạng về tính độc lập của kiểm toán viên trong cung cấp dịch
vụ kiểm toán ở nước ta.
Phần 3: Nhận xét và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính độc lập của
kiểm toán viên trong cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Em xin chân thành cám ơn Th.S Phan Thị Thanh Loan đã tận tình giúp đỡ,
phân tích để em có thể hoàn thành tốt đề tài này.
Sinh viên
1.1. Khái quát về tính độc lập của kiểm toán viên .
1.1.1. Khái niệm về tính độc lập của kiểm toán viên trong cung ứng dịch vụ
kiểm toán.
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, độc lập có nghĩa là tự mình tồn tại,
hoạt động, không nương tựa hoặc phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác. Hiểu theo một
cách chung nhất, độc lập là sự khách quan, không bị phụ thuộc vào các yếu tố
ngoại cảnh khi đưa ra một quyết định, một ý kiến. Do nhiều yếu tố khác nhau mà
tính độc lập cũng sẽ được hiểu theo những chiều hướng khác nhau phụ thuộc vào
quan điểm, cách nhìn nhận, đặc điểm văn hóa, xã hội, chính trị…
Trong lĩnh vực kiểm toán, tính độc lập của kiểm toán viên đóng một vai trò
quan trọng và vẫn đảm bảo ý nghĩa chung nêu trên. Đối với kiểm toán viên, tính
độc lập là một trong những yêu cầu về đạo đức khi hành nghề. Điều này được quy
định cụ thể trong các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quốc tế và Việt Nam.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 200 (ISA 200) quy định về mục tiêu
chung của kiểm toán viên độc lập và thực hiện cuộc kiểm toán tuân theo chuẩn
mực kiểm toán quốc tế, đoạn 14 trong chuẩn mực này có đề cập đến yêu cầu khi
thực hiện cuộc kiểm toán BCTC: “Kiểm toán viên phải tuân theo những yêu cầu
liên quan đến đạo đức, bao gồm những gì liên quan đến tính độc lập khi thực hiện
cuộc kiểm toán BCTC.” Cụ thể trong phần áp dụng và giải nghĩa của ISA 200,
đoạn A16 nêu rõ trong trường hợp cuộc kiểm toán mang lợi ích công chúng, các
nguyên tắc đạo đức của IESBA - Ủy ban chuẩn mực kiểm toán quốc tế thuộc Liên
đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) yêu cầu KTV phải độc lập với khách thể kiểm toán
và đối tượng kiểm toán, tính độc lập này bao gồm độc lập trong tư tưởng và độc
lập về hình thức: tinh thần của KTV và đòi hỏi KTV trong thực tế cẩn phải độc lập
với bất cử khách hàng nào mà họ cung cấp dich vụ kiểm toán.
Như vậy, có thể hiểu rằng, tính độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của
KTV mà trong quá trình hành nghề, KTV phải duy trì tính độc lập trên cả hai khía
cạnh tư tưởng và hình thức. KTV phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động
bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực,
khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
1.1.2. Vai trò của tính độc lập trong kiểm toán.
Lý thuyết người đại diện (Agency Theory) được phát triển bởi Jensen và
Meckling trong một công bố năm 1976 nghiên cứu về mối quan hệ giữa bên ủy
quyền và bên được ủy quyền hay nói cách khác, nghiên cứu mối quan hệ giữa
người chủ sở hữu và người thay mặt người chủ sở hữu để điều hành hoạt động của
đơn vị - gọi là người đại diện. Người chủ sở hữu mong muốn người đại diện hoàn
thành mục tiêu của mình đặt ra và người đại diện phải thực hiện công việc một
cách hiệu quả và trung thực. Người đại diện có nhiều thẩm quyền trong việc điều
hành hoạt động của đơn vị, trong khi người chủ sở hữu khó có thể giám sát hoạt
động của đơn vị. Vì vậy, lý thuyết cho rằng, tồn tại khả năng người đại diện không
thực hiện hết hoặc không đúng những yêu cầu của người sở hữu vốn đề ra. Do đó
xảy ra xung đột lợi ích giữa người sở hữu vốn và người đại diện.
Đối với KTV, trong quá trình hành nghề KTV có thể bị ảnh hưởng bởi rất
nhiều nhân tố. Tính độc lập của KTV đối với khách thể kiểm toán sẽ giúp đảm bảo
khả năng KTV đưa ra ý kiến kiểm toán mà không bị ảnh hưởng bởi bất cứ yếu tố
nào làm thay đổi ý kiến kiểm toán. Chuẩn mực đồng thời khẳng định, KTV không
được nhận làm kiểm toán cho đơn vị mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh
tế như góp vốn cổ phần, cho vay, hoặc là cổ đông công ty khách hàng…; KTV
không được nhận làm kiểm toán cho công ty mình có quan hệ nhân thân; KTV
không được cung cấp dịch vụ kiểm toán cho đơn vị khách hàng mà mình cung cấp
dịch vụ tư vấn khác. Mặt khác, tính độc lập còn giúp KTV gia tăng tính chính trực,
khách quan và giữ một thái độ hoài nghi nghề nghiệp.
Đối với khách hàng kiểm toán, việc sử dụng dịch vụ kiểm toán từ bên thứ ba
độc lập cũng đóng vai trò như một sự phòng ngừa gian lận hay sai sót xảy ra. Cụ
thể, những cá nhân hay bộ phận chịu trách nhiệm hay tham gia vào quá trình chuẩn
bị và lập BCTC sẽ phải thận trọng để tránh sai sót và điều này cũng làm giảm cơ
hội thực hiện gian lận trong doanh nghiệp.
Đối với người sử dụng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, thông tin tài
chính được đảm bảo bởi bên thứ ba độc lập sẽ giúp người sử dụng tăng sự tự tin và
tránh các rủi ro khi ra các quyết định kinh tế. Ví dụ, trong quá trình thẩm định năng
lực tài chính của doanh nghiệp để ra quyết định cho vay vốn, ngân hàng có thể sử
dụng BCTC đã được kiểm toán như một căn cứ có độ tin cậy cao để ra quyết định.
Roger W. Bartlett (1993) đã định nghĩa về tính độc lập của kiểm toán như là
“một thái độ tinh thần khách quan trong việc đưa ra các quyết định về công tác
kiểm toán và BCTC”. Theo đó, độc lập được hiểu là trong quá tình kiểm toán,
KTV không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào
làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Tính độc lập là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức nghề
nghiệp của KTV.
Tính độc lập trong kiểm toán được chia thành hai khía cạnh là độc lập trong
tư tưởng và độc lập về hình thức biểu hiện. Độc lập trong thực tế đề cập đến việc
KTV phải đưa ra ý kiến khách quan và vô tư trong suốt quá trình kiểm toán.
Cho đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh
hưởng tới tính độc lập của KTV như:
- Teoh & Lim, “An empirical study of the effects of audit committees”,
Journal of Accounting, Auditing and taxation, 1996…
Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu về tính độc lập của KTV nhằm
nâng cao chất lượng kiểm toán như bài báo:
- Bài báo “Bàn về dự án Luật Kiểm toán độc lập: Về luân phiên KTV”, Tạp
chí Kiểm toán của TS. Hà Thị Ngọc Hà (2011);
- Bài báo “Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV – Bằng chứng
thực nghiệm tại Việt Nam” của Nguyễn Thị Phương Hồng và Hà Hoàng
Nhân (Tạp chí Kinh tế và Phát triển – 2015)…
Căn cứ vào các nghiên cứu trên về các nhân tố ảnh hưởng tới tính độc lập của
KTV trên thế giới nói chung và Việt Nam nói chung, tính độc lập của KTV trong
kiểm toán chịu tác động bởi các nhân tố sau:
Thời kỳ kiểm toán được hiểu là thời kỳ mà các công ty kiểm toán cung cấp
dịch vụ kiểm toán cho khách hàng.
Có hai luồng quan điểm về sự tác động của thời kỳ kiểm toán tới tính độc lập
của KTV. Một quan điểm thì cho rằng, một thời kỳ kiểm toán dài sẽ làm giảm tính
độc lập của KTV và theo đó làm giảm chất lượng kiểm toán. Quan điểm khác thì
cho rằng chính sự luân chuyển của các chủ phần hùn kiểm toán (partners) được
đánh giá là một trong những nhân tố làm tăng tính độc lập của KTV.
Ở Việt Nam hiện nay, quy định về thời kỳ kiểm toán và luân chuyển KTV
hành nghề được quy định rất rõ trong các văn bản Luật và các chuẩn mực kiểm
toán. Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 quy định tại điều 58: “Doanh nghiệp kiểm
toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam không được bố
trí KTV hành nghề thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong
năm năm tài chính liên tục” khi kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng.
Tuy nhiên, tại Điều 16 Nghị định số 17/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày
13/3/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Kiểm toán độc lập
Như vậy, quy định về thời gian kiểm toán giữa hai văn bản chưa thống nhất.
Thời gian kiểm toán từ 03 năm trở xuống so với quy định trên thế giới là ngắn.
Điều này có thể khiến KTV gặp rủi ro khi phải bỏ qua những kinh nghiệm thực tế
ở những năm đầu kiểm toán, đồng thời họ lại gặp khó khăn và rủi ro khác trong
việc tìm hiểu một khách hàng mới.
Hơn nữa, hiểu theo văn bản này thì luân chuyển KTV chỉ áp dụng đối với
KTV hành nghề ký tên trên BCKT chứ không phải là công ty kiểm toán vì thế sau
03 năm chỉ cẩn thay thế người phụ trách cuộc kiểm toán.
Dịch vụ phi kiểm toán là những dịch vụ khác với dịch vụ kiểm toán mà công
ty kiểm toán độc lập cung cấp cho cùng một khách hàng kiểm toán. Các dịch vụ
phi kiểm toán gồm có: Dịch vụ tư vấn quản lý, dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn
thuế…
Căn cứ vào nhiều nghiên cứu liên quan tác động của dịch vụ phi kiểm toán
đến tính độc lập của kiểm toán viên tại nhiều thị trường khác nhau qua các thời kỳ.
Kết quả của sự tác động là hỗn hợp. Dịch vụ phi kiểm toán có thể làm giảm tính
độc lập kiểm toán hoặc không ảnh hưởng đánh kể tới tính độc lập. Một số nghiên
cứu còn cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán làm tăng chất lượng kiểm toán. Có thể kể
tới các nghiên cứu tiêu biểu sau:
Dịch vụ phi kiểm toán có thể ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán. RandolphA.
Shockley (1981) nghiên cứu thông qua bảng câu hỏi qua mail, kết quả là công ty
kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý thì làm giảm tính độc lập kiểm toán.
Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra mối quan hệ giữa phí phi kiểm
toán và tính độc lập kiểm toán thì phụ thuộc vào nhiệm kỳ kiểm toán, và phí phi
kiểm toán có tác động âm tới tính độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn
và quy mô công ty khách hàng nhỏ. Dahlia Robinson (2008) cho rằng, dịch vụ thuế
cung cấp bởi kiểm toán viên thì làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Allen D.
Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh được mối quan hệ giữa sự suy
giảm tính độc lập và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ.
Kiểm toán viên cung cấp dịch vụ hỗ trợ kiện tụng có nhiều khả năng biện hộ
quan điểm khách hàng của họ, từ đó làm giảm tính độc lập kiểm toán. Tiêu biểu có
các nghiên cứu của: Crain và cộng sự (1994); Trompeter (1994); Ponemon (1995);
Brody & Masselli (1996); Haynes và cộng sự (1998); Shaub (2004); Francis
(2006); Jenkins & Lowe (2011). Dịch vụ thiết kế hệ thống cũng làm giảm tính độc
lập kiểm toán như nghiên cứu của Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983).
Tuy nhiên, có nhiều nghiên cứu cho rằng, dịch vụ phi kiểm toán không làm
giảm tính độc độc lập toán. Mark L . Defond và cộng sự (2002) không tìm thấy sự
liên quan đáng kể giữa các phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính độc lập
kiểm toán viên. A A Ghosh và cộng sự (2009) cho rằng, không có bằng chứng về
mối liên quan giữa tính độc lập kiểm toán và tỷ lệ phí phi kiểm toán.
Mohinder Parkash và Rajeev Singhal (2009) cho thấy không có sự tương quan
đáng kể giữa ý kiến chấp nhận toàn phần và phí dịch vụ phi kiểm toán. Philip
Beaulieu và Alan Reinstein (2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít có
khả năng hơn kiểm toán viên ở công ty nhỏ trong vấn đề tin rằng dịch vụ phi kiểm
toán làm suy giảm tính độc lập kiểm toán.
Dịch vụ phi kiểm toán tạo ra sự lan tỏa kiến thức, từ đó mang lại nhiều lợi ích.
Zoe-Vonna Palmrose (1986) cho rằng khách hàng cảm nhận tốt hơn với việc được
công ty kiểm toán cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán.
Mohinder Parkash và Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có xu hướng mua
dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch
vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán từ một công ty kiểm toán.
Michael Firth (1997) giải thích công ty có chi phí ủy quyền đại diện cao hơn
thì có liên quan đến mua dịch vụ phi kiểm toán nhỏ hơn từ kiểm toán viên của họ.
Jennifer R. Joe và Scott D. Vandervelde (2005) chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán được
cung cấp bởi kiểm toán viên có thể có nhiều lợi ích từ việc kiến thức chuyển giao
thêm cho tiếp cận rủi ro kiểm toán khi cùng một kiểm toán viên thực hiện cả dịch
vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Nghiên cứu của W. Robert Knechel và Divesh S.
Sharma (2012) cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên
thì mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến mất sự hiệu quả kiểm
toán.
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy dịch vụ phi kiểm toán với dịch vụ ghi sổ
kế toán và tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán. Những dịch
vụ phi kiểm toán khác không những không làm tính độc lập kiểm toán mà còn làm
tăng hiệu quả kiểm toán do có được sự lan tỏa kiến thức.
Tại Mỹ: Đạo luật Sarbanes-Oxley được quốc hội Mỹ phê chuẩn ngày
30/07/2002 đã tạo ra ảnh hưởng to lớn đến nghề kiểm toán mà đặc biệt là vấn đề
kiểm soát đạo đức của KTV trong quá trình hành nghề. Trong 11 chương của đạo
luật thì chương 2 của ‘nó” dành để đưa ra các quy định liên quan đến tính độc lập
Nội dung của Luật Sarbanes-Oxley có khác biệt so với các quy định trong
chuẩn mực đạo đức đó là đạo luật chỉ tập trung vào mỗi tính độc lập của KTV
trong quá trình kiểm toán, các quy định trong luật rất chặt chẽ và được ban hành
dưới dạng các điều cấm và những điều mà KTV cần phải tuân thủ để thực hiện tính
độc lập của mình.
Việt Nam cũng có những quy định rất rõ ràng về việc cung cấp dịch vụ kiểm
toán và dịch vụ phi kiểm toán. Theo quy định của điều 40 Luật Kiểm toán độc lập
năm 2011, dịch vụ phi kiểm toán được các công ty kiểm toán cung cấp gồm có:
Đồng thời, quy tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam cũng không
cho phép công ty kiểm toán cung cấp đồng thời 2 dịch vụ này cùng lúc cung cấp
dịch vụ kiểm toán cho 1 khách hàng (Điều 30 Luật 67/2011/QH12 Luật Kiểm toán
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 14
độc lập) .Các dịch vụ phi kiểm toán còn lại thì không ảnh hưởng tính độc lập kiểm
toán do bộ phận cung cấp dịch vụ phi kiểm toán khác với nhóm thực hiện kiểm
toán.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa phí trả cho KTV với chất lượng kiểm toán độc
lập ở Mỹ giai đoạn 2000-2003 cho thấy yếu tố kinh tế quyết định hành vi của KTV
ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Theo đó, một số công ty kiểm toán
thực hiện cắt giảm giá phí kiểm toán để giữ chân khách hàng, duy trì tăng trưởng
doanh thu hoặc mở rộng thị phần và điều này có thể làm suy giảm tính độc lập của
KTV cũng như gây ra các vấn để về chất lượng kiểm toán.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Phan Thanh Hải (2012) chỉ ra một số hạn chế
của dịch vụ kiểm toán Việt Nam trong quá trình hoạt động, đó là tình trạng hạ thấp
giá phí, rút ngắn thời gian kiểm toán để giữ chân khách hàng ảnh hưởng đến chất
lượng kiểm toán và tính minh bạch của BCTC.
1.2.4. Mối quan hệ giữa KTV và khách hàng (Client affliation with auditors)
Mối quan hệ giữa khách hàng và công ty kiểm toán sẽ làm ảnh hưởng đến tính
độc lập của KTV. Tính độc lập của KTV sẽ bị suy yếu nếu họ tham gia hoặc có
một vị trí có thể gây ảnh hưởng đến nhóm kiểm toán đang thực hiện cuộc kiểm
toán tại khách hàng kiểm toán.
Imhoff (1978) đã thực hiện một cuộc điều tra về KTV và những người sử
dụng BCTC để đánh giá về tính độc lập của KTV khi KTV đồng ý nhận lời làm
việc cho công ty khách hàng của họ. Kết quả điều tra cho thấy cả 2 nhóm (KTV và
người sử dụng BCTC) đều cho rằng tính độc lập của KTV sẽ giảm đi khi khoảng
thời gian mà KTV chấp nhận sẽ làm việc tại công ty khách hàng tăng lên.
- Thành viên tham gia cuộc kiểm toán, người quản lý, điều hành của
doanh nghiệp kiểm toán là thành viên, cổ đông sáng lập hoặc mua cổ
phần, góp vốn vào đơn vị được kiểm toán hoặc có quan hệ kinh tế, tài
chính khác với đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán;
- Người có trách nhiệm quản lý, điều hành của doanh nghiệp kiểm toán có
bố, mẹ, vợ, chẳng. con, anh, chị, em ruột là thành viên, cổ đông sáng lập
hoặc mua cổ phần, góp vốn và có ảnh hưởng đáng kể đối với đơn vị
được kiểm toán hoặc là người có trách nhiệm quản lý, điều hành, thành
viên ban kiểm soát hoặc kế toán trưởng của đơn vị được kiểm toán;
- Người có trách nhiệm quản lý, điều hành, thành viên ban kiểm soát hoặc
kế toán trưởng của đơn vị được kiểm toán đồng thời là người góp vốn và
có ảnh hưởng đáng kể đối với doanh nghiệp kiểm toán;
- Doanh nghiệp kiểm toán và đơn vị được kiểm toán có cùng một cá nhân
hoặc doanh nghiệp, tổ chức thành lập hoặc tham gia thành lập.
1.2.5. Cạnh tranh của thị trường kiểm toán, quy mô công ty kiểm toán
Theo nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999), sự cạnh tranh cao trong thị
trường kiểm toán và quy mô công ty kiểm toán nhỏ theo quan điểm của cả KTV và
người sử dụng BCTC là các nhân tố tiềm ẩn đe dọa tính độc lập của KTV.
Các công ty kiểm toán lớn, thành viên các hãng quốc tế thường được đánh giá
là độc lập hơn so với các công ty kiểm toán nhỏ hay các hãng địa phương. Tuy
nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng quy mô công ty kiểm toán nhỏ và sự
gần gũi của thị trường kiểm toán ví dụ ở Ailen lại làm tăng cường tính độc lập.
Theo danh sách doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ
kiểm toán (cập nhật đến ngày 01/1/2020) được liệt kê từ trang thông tin chính thức
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 16
của bộ tài chính, có 193 công ty đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán và
hàng năm có hàng nghìn cuộc kiểm toán độc lập được thực hiện và đảm bảo tính
độc lập của kiểm toán viên. Số lượng công ty nhỏ và vừa chiếm hơn 3/4.
Điều này làm cho tính cạnh tranh trong hoạt động kiểm toán và các hoạt động
dịch vụ phi kiểm toán rất cao, tiềm ẩn nhiều nhân tố đe dọa đến tính độc lập của
KTV.
1.3. Đảm bảo tính độc lập trong cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 1: Kiểm soát chất lượng doanh
nghiệp thực hiện kiểm toán, soát xét BCTC, dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên
quan khác quy định: “Doanh nghiệp kiểm toán phải xây dựng các chính sách và
thủ tục để có sự đảm bảo hợp lý rằng doanh nghiệp kiểm toán, tất cả cán bộ, nhân
viên của doanh nghiệp và nếu cần thiết, các đối tượng khác phải tuân thủ chuẩn
mực và các quy định về tính độc lập (kể cả cán bộ, nhân viên của công ty mạng
lưới) sẽ duy trì được tính độc lập cần thiết theo chuẩn mực và các quy định về đạo
đức nghề nghiệp có liên quan.”
Các chính sách và thủ tục này sẽ cho phép doanh nghiệp kiểm toán xác định
và đánh giá các trường hợp và các mối quan hệ có thể đe dọa đến tính độc lập, và
có biện pháp thích hợp để loại trừ hoặc giảm các nguy cơ đó xuống mức thấp có
thể chấp nhận được bằng cách sử dụng các biện pháp phòng vệ hoặc nếu cần thiết,
rút khỏi hợp đồng dịch vụ nếu việc đó được pháp luật và các quy định cho phép.
Chuẩn mực về kiểm soát chất lượng kiểm toán đưa ra những yêu cầu về duy
trì tính độc lập cần thiết đối với doanh nghiệp kiểm toán là bởi những ảnh hưởng rõ
rệt của tính độc lập đối với chất lượng dịch vụ, cụ thể trong các trường hợp dưới
đây.
Một là, khi được phân chia công việc kiểm toán tại công ty khách hàng, KTV
cần xem xét các mối quan hệ xã hội với công ty khách hàng, và khi chấp nhận
tham gia cuộc kiểm toán, KTV cần phải đảm bảo được tính độc lập của mình.
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 17
Hai là, KTV cần chuẩn bị hành trang kiến thức, đảm bảo khi thực hiện cuộc
kiểm toán sẽ theo đúng các chuẩn mực, pháp luật hiện hành; từ đó đưa ra các kế
hoạch, quyết định độc lập.
Ba là, trong quá trình thu thập bằng chứng, nếu KTV thực tính độc lập với
khách hàng thì các bằng chứng mà họ thu thập sẽ đáng tin cậy hơn dựa trên nguồn
gốc của bằng chứng. KTV phải có quyền tự do tiếp cận với những tài liệu và sổ
sách ghi chép của khách hàng và có quyền đòi hỏi các KTV nội bộ và Ban quản trị
doanh nghiệp phải cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan. Tuy vậy, các thông tin
này vẫn chưa đảm bảo độ tin cậy tối đa vì có thể đã bị điều chỉnh theo ý muốn của
Ban quản trị. Do đó, bằng tính độc lập và đạo đức nghề nghiệp của mình, KTV cần
xác minh một cách chắc chắn về độ tin cậy đối với bằng chứng và thu thập thêm
nhiều bằng chứng khác từ bên ngoài doanh nghiệp. Nếu không xác minh được, thì
các thông tin trên BCTC sẽ thiếu tin cậy, ảnh hưởng lớn đến các đối tượng sử dụng
thông tin.
Như vậy có thể nói rằng, tính độc lập của KTV ảnh hưởng trực tiếp đến từng
giai đoạn cuộc kiểm toán, và từng công việc KTV. Nếu KTV đảm bảo được tính
độc lập, khách quan thì những gì mà họ đưa ra trong báo cáo kiểm toán đều đáng
tin cậy cho những người sử dụng thông tin, tăng niềm tin của công chúng đối với
báo cáo kiểm toán, công ty kiểm toán và các KTV.
2.1. Văn bản pháp lý tại Việt Nam quy định về tính độc lập của kiểm toán
viên.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam ban hành kèm
theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 08 tháng 5 năm 2015 của Bộ Tài chính
dựa trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán quốc tế, yêu cầu KTV phải đảm bảo tính độc
lập với đơn vị được kiểm toán trên hai khía cạnh tư tưởng và hình thức.
Thứ nhất, độc lập trong tư tưởng là trạng thái của tâm trí cho phép KTV đưa
ra kết luận mà không bị tác động bởi nhân tố nào ảnh hưởng đến xét đoán chuyên
môn và gia tăng tính chính trực, đảm bảo tính khách quan và sự hoài nghi nghề
nghiệp của KTV. Trong quá trình hành nghề, KTV bị tác động bởi rất nhiều yếu tố
nên để duy trì trạng thái độc lập tư tưởng cần sự tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp bởi
chính KTV.
Thứ hai, độc lập về hình thức là việc tránh các sự kiện hay hoàn cảnh đáng kể
mà bên thứ ba phù hợp và có hiểu biết, sau khi xem xét tất cả các sự kiện và hoàn
cảnh cụ thể ấy, có khả năng đưa ra kết luận rằng tính chính trực, khách quan và
hoài nghi nghề nghiệp của KTV nói riêng hay doanh nghiệp kiểm toán nói chung
không được đảm bảo. Hay nói cách khác, tính độc lập về hình thức được đánh giá
từ bên ngoài, hay công chúng đối với KTV.
Tính độc lập là nền tảng của hoạt động kiểm toán. Đây được coi là điều kiện
cần thiết để doanh nghiệp đạt được mục tiêu trong hoạt động kiểm toán và là
nguyên tắc hành nghề cơ bản của KTV. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi KTV phải
trung thực, có tinh thần trách nhiệm cao, không bị chi phối hoặc tác động bởi bất
kỳ lợi ích vật chất nào.
Chuẩn mực này đã xây dựng một khuôn khổ, trong đó, yêu cầu các công ty
kiểm toán và thành viên nhóm thực hiện dịch vụ đảm bảo phải xác định, đánh giá,
Cùng với đó, Luật Kiểm toán độc lập cũng quy định độc lập là một trong
những nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập. Để đảm bảo nguyên tắc này
trong hoạt động, công ty kiểm toán không được kiểm toán khi đang thực hiện hoặc
để thực hiện trong năm trước liền kề công việc ghi sổ kế toán, lập BCTC (BCTC)
hoặc kiểm toán nội bộ cho đơn vị được kiểm toán.
Dưới hệ thống pháp luật và chuẩn mực được ban hành, hiên nay, đa số các
doanh nghiệp đều tuân thủ đúng và đảm bảo tính độc lập khi cung cấp kiểm toán
tài chính cho khách hàng. Độc lập cả về mặt hình thức và độc lập cả về mặt tư
tưởng.
2.2. Thực trạng bảo đảm tính độc lập của kiểm toán viên.
Trong chương 5 giáo trình Kiểm toán tài chính của trường đại học Kinh Tế
Quốc Dân có đề cập đến ngay từ giai đoạn đầu tiên của bước lập kế hoạch kiểm
toán là chuẩn bị kiểm toán khi quyết định việc có chấp nhận khách hàng kiểm toán
hay không “công ty kiểm toán phải lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích
hợp cho hợp đồng kiểm toán không những đạt hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn
tuân thủ các CMKT chung được thừa nhận” và đặc biệt là tuân thủ tính độc lập.
Thực tế, khi các công ty xem xét việc có chấp nhận các khách hàng hay không, họ
sẽ xem xét lựa chọn kiểm toán viên phù hợp đảm bảo tính độc lập khách quan với
khách hàng kiểm toán.
Thực tế cũng cho thấy, không ít công ty kiểm toán và KTV chưa đảm bảo tính
độc lập trong hoạt động nghề nghiệp. Do có sự thỏa hiệp, thiếu trung thực khách
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 20
quan khi đưa ra các ý kiến đánh giá đối với đơn vị được kiểm toán nên một số
KTV và công ty kiểm toán từng bị Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt, đình
chỉ công tác như: Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Thăng Long, Công ty
TNHH Kiểm toán BDO, Công ty Kiểm toán Mỹ AA, Công ty Kiểm toán và Kế
toán Hà Nội…
Đối với các công ty kiểm toán, việc xem xét tính độc lập của kiểm toán viên
rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm toán, uy tín công ty
và các rủi ro pháp lý vì vậy, đa phần các công ty kiểm toán hiện nay đều có các
quy trình đánh giá tính độc lập của kiểm toán xuyên suốt các giai đoạn của cuộc
kiểm toán. Đặc biệt tại các công ty kiểm toán lớn như Big4 hay non-Big đều có
những chính sách hệ thống rất chặt chẽ đảm bảo tính độc lập. Cụ thể, khi quyết
định có chấp nhận hoặc duy trì hợp đồng dịch vụ, hoặc một cá nhân có là thành
viên nhóm kiểm toán hay không, doanh nghiệp kiểm toán phải xác định và đánh
giá các nguy cơ đe dọa tính độc lập. Khi đưa ra các quyết định này, nếu các nguy
cơ không ở mức có thể chấp nhận được thì các công ty xác định các biện pháp bảo
vệ để loại trừ hoặc làm giảm các nguy cơ đó xuống mức có thể chấp nhận được.
Khi cân nhắc quyết định tiếp tục duy trì hợp đồng dịch vụ, công ty thường xem xét
các biện pháp bảo vệ hiện tại có hiệu quả để loại trừ hoặc làm giảm các nguy cơ đó
xuống mức có thể chấp nhận được hay không, hoặc cần phải áp dụng các biện pháp
bảo vệ khác, hoặc phải chấm dứt hợp đồng dịch vụ đó. Ngoài ra, trong quá trình
thực hiện hợp đồng, nếu xuất hiện các thông tin mới về nguy cơ đe dọa tính độc
lập, sẽ đánh giá mức độ nghiêm trọng của các nguy cơ đó và giải quyết chúng
trong từng trường hợp cụ thể.
Công ty kiểm toán hàng đầu đều chú trọng tới việc thực hiện các chính sách
đảm bảo tính độc lập một cách đầy đủ. Trên Báo cáo minh bạch của công ty kiểm
toán Ernst & Young Việt Nam năm 2019 phần 6 đảm bảo rằng “các chính sách và
quy trình đảm bảo tuân thủ tính độc lập của E&Y được thiết kế đảm bảo E&Y Việt
- Triển khai các ứng dụng, công cụ và các quy trình của E&Y Toàn cầu để
hỗ trợ nhân viên trong việc tuân thủ các chính sách độc lập.
- Xây dựng và áp dụng chương trình kiểm tra soát xét công tác đảm bảo
tính minh bạch định kỳ, việc kiểm tra được thực hiện ở các cấp độ khác
nhau như ở từng cuộc kiểm toán, ở từng phòng ban, và ở cấp công ty.
- Áp dụng các chính sách thưởng phạt đặc biệt liên quan đến các quyết
định nâng bậc, lên lương và các hình thức kỉ luật khác.
Trên Báo cáo minh bạch năm 2019 của công ty TNHH Deloitte Việt Nam đề
cập “công ty thiết lập các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo một cách hợp lí về
tính độc lập. Các chính sách và thủ tục dựa trên bộ quy tắc đạo đức và trong một số
trường hợp được quy định chặt hơn nhằm phản ánh các chuẩn mực của Việt Nam”.
Các biện pháp phòng vệ được công ty thực hiện qua hệ thống quản lí chất lượng
của công ty liên quan đến tính độc lập bao gồm:
- Xây dựng các chính sách và thủ tục về tính độc lập.
- Sử dụng kết hợp hệ thống DESC (là hệ thống chứa cơ sở dữ liệu về các
công ty bị hạn chế quốc tế), GIMS (là hệ thống chứa cơ sở dữ liệu về các
- Công ty có quy trình đánh giá và giám sát mối quan hệ kinh doanh. Mục
đích của quá trình này là nhằm đảm bảo rằng, trước khi bắt đầu bất kỳ
mối quan hệ kinh doanh nào với một công ty bị hạn chế hoặc Ban Giám
đốc hoặc các cổ đông quan trọng của công ty này, cần có việc xem xét,
đánh giá để đảm bảo rằng mối quan hệ này không làm ảnh hưởng đến
tính độc lập đối với công ty bị giới hạn này.
- Cung cấp các khóa học về tính độc lập cho các thành viên ban giám đốc
và nhân viên nghiệp vụ.
- Nhân viên của Deloitte đều được yêu cầu phải tuân thủ luật pháp về việc
không được nhận, đề nghị và chi trả hối lộ và/hoặc biểu tặng bất kỳ thứ
gì có giá trị cho các cá nhân và tổ chức với ý định gây ảnh hưởng đến cá
nhân và tổ chức đó để có lợi cho Công ty. Công ty cũng có các chính
sách và quy trình nội bộ riêng để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp
luật và đạo đức. Trong quá trình cung cấp dịch vụ, Công ty cam kết với
khách hàng và ngược lại, không đề nghị, hứa hẹn hoặc đưa ra các lợi ích
tài chính hoặc bất kỳ lợi ích nào khác cho người khác với ý định khiến
họ thực hiện các hành vi sai trái hoặc khuyến khích các hành vi sai trái vì
lợi ích của khách hàng và Công ty.
- Giám sát hệ thống độc lập và kiểm soát liên quan đến tính độc lập của cá
nhân, các đợt soát xét chất lượng và hợp đồng. Đối với cá nhân, định kỳ
công ty thực hiện kiểm tra tính tuân thủ đối với các quy trình và chính
- Có các hành động và các biện pháp xử lý các trường hợp không tuân thủ.
- Phân công trách nhiệm đối với các hệ thống kiểm soát về hệ thống độc
lập. Công ty đã bổ nhiệm một Giám đốc phụ trách tính độc lập, chịu
trách nhiệm thực hiện và duy trì hệ thống kiểm soát chất lượng về tính
độc lập. Có các kênh liên lạc giữa Giám đốc phụ trách tính độc lập của
Công ty, Ban Giám đốc của Công ty và Nhóm phụ trách về tính độc lập
của DTTL. DTTL đã bổ nhiệm một trưởng nhóm cấp cao và các thành
viên nhóm phụ trách về tính độc lập DTTL, có trách nhiệm cung cấp
cách tiếp cận tới các thông tin chính xác và kịp thời, được thiết kế nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho bộ phận phụ trách về tính độc lập của Công
ty.
- Lãnh đạo của Công ty nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ tính
độc lập và các chuẩn mực kiểm soát chất lượng có liên quan, thiết lập
chính sách truyền thông nội bộ về cam kết của lãnh đạo cấp cao và
truyền đạt tầm quan trọng của chính sách này tới các giá trị chuyên môn
và văn hóa của Công ty. Các chiến lược và quy trình truyền đạt tầm quan
trọng của tính độc lập tới các thành viên Ban Giám đốc, nhân viên
nghiệp vụ và nhân viên hành chính đã được áp dụng, nhấn mạnh tới
trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc hiểu biết về các yêu cầu về tính
độc lập.
Theo Báo cáo minh bạch năm 2019 của hãng Kiểm toán AASC quy định cụ
thể toàn bộ các thành viên tham gia cuộc kiểm toán (bao gồm cả thành viên Ban
Tổng Giám Đốc phụ trách hợp đồng dịch vụ, người thực hiện soát xét KSCL, kiểm
toán viên và các thành viên khác) khi thực hiện cung cấp dịch vụ phải đảm bảo xác
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 24
định, đánh giá, báo cáo các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập, và các biện pháp
bảo vệ cần thiết làm giảm các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được.
Các biện pháp phòng vệ chung được thực hiện bao gồm:
- Các thành viên nhóm kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu về trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp.
- Kiểm toán viên phải liên tục cập nhật, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm
nghề nghiệp chuyên môn.
- Cuộc kiểm toán phải tuân thủ các quy định về thủ tục, trình tự soát xét.
Các biện pháp bảo vệ cụ thể đối với từng cuộc kiểm toán được thực hiện bao
gồm:
- Toàn bộ các thành viên của nhóm kiểm toán (bao gồm cả các cấp soát
xét) phải ký cam kết về tính độc lập và hành động phù hợp với cam kết.
- Cuộc kiểm toán phải tuân thủ đúng các quy định nội bộ về giám sát việc
tuân thủ các chính sách và thủ tục của công ty có liên quan đến tính độc
lập.
- Sử dụng thành viên Ban Tổng Giám đốc và các nhóm cung cấp dịch vụ
khác nhau và đảm bảo các tuyến báo cáo độc lập khi cung cấp dịch vụ
phi đảm bảo cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo.
- Thông báo đầy đủ về Quy chế xử lý kỷ luật nhằm nâng cao sự tuân thủ
các chính sách và thủ tục về tính độc lập.
- Bổ sung kiểm toán viên khác để soát xét lại các công việc đã làm và
tham khảo ý kiến nếu cần thiết.
- Xin ý kiến tư vấn từ bên thứ ba, như tổ chức nghề nghiệp, chuyên gia,
chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc một kiểm toán viên hành nghề khác đối
với các vấn đề liên quan đến cuộc kiểm toán , bao gồm cả các vấn đề liên
quan đến tính độc lập.
2.2.4. Tại công ty TNHH kiểm toán và định giá Thăng Long.
Theo Báo cáo minh bạch năm 2019 của công ty TNHH kiểm toán và định
giá Thăng Long, Công ty quy định:
- Đảm bảo tính độc lập về tư tưong và độc lập về hình thức. Đối với một
khách hàng kiểm toán cụ thể, công ty kiểm toán phải độc lập với khách
hàng kiểm toán. Tương tự đối với trường hợp hợp đồng cung cấp dịch vụ
đảm bảo khác không phải là hợp đồng kiểm toán (hợp đồng phi toán),
công ty kiểm toán cũng phải đoc lập hàng dịch vụ đảm bảo phi kiểm
toán.
- Xác định các nguy ảnh hưởng đến tính độc lập trong từng hợp đồng kiểm
toán hoặc hợp đồng phi kiếm toán cụ thế như: do tu lợi, tự kiêm tra, sự
bào chữa, quan hệ ruột thịt, quan hệ khác và sự đe dọa.
- Đưa ra các biện pháp bảo vệ nhằm loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ
xuống mức có thể chấp nhận được, trong đó đặc biệt chú trong đen việc
ban hành và áp dụng các quy trình và thủ tục.
3.1. Nhận xét về thực trạng đảm bảo tính độc lập của kiểm toán.
3.1.1. Ưu điểm.
Hệ thống pháp luật và chuẩn mực về việc đảm bảo tính độc lập được ban hành
khá đầy đủ và mang tính hướng dẫn cao cho các công ty kiểm toán và nhân viên
nghiệp vụ.
Các công ty lớn và vừa hầu như có quy định, chính sách và hệ thống đảm bảo
tính độc lập và thực hiện các nguy cơ phòng vệ rất tốt. Đặc biệt tại các công ty
Big4 đã áp dụng hệ thống thông tin, ứng dụng, công cụ và các quy trình của công
ty mẹ toàn cầu để hỗ trợ nhân viên trong việc tuân thủ các chính sách độc lập. Cu
thể tại Deloitte sử dụng kết hợp hệ thống DESC (là hệ thống chứa cơ sở dữ liệu về
các công ty bị hạn chế quốc tế), GIMS (là hệ thống chứa cơ sở dữ liệu về các lợi
ích tài chính) và quy trình xác nhận tính độc lập. Đây được coi là một trong những
phương pháp hiện đại giúp công ty kiểm toán xác định và kiểm soát được tính độc
lập của nhân viên nghiệp vụ với khách hàng kiểm toán. Ngoài ra tại các công ty
này còn đảm bảo giám sát trong quá trình thực hiện kiểm toán đồng thời định kỳ
kiểm tra tính độc lập của kiểm toán viên và công ty cũng được đảm bảo soát xét 3
năm 1 lần.
Ngoài ra các công ty kiểm toán nhỏ cũng đang từng bước nỗ lực hoàn thiện hệ
thống soát xét chất lượng liên quan đến tính độc lập. Từng công ty cũng đang ngày
càng xây dựng và thực hiện một cách hiệu quả các biện pháp phòng vệ tại Việt
Nam.
3.1.2.1. Hạn chế về pháp luật và các chuẩn mực hiện hành.
Pháp luật và chuẩn mực về tính độc lập của kiểm toán viên có đoạn vẫn chưa
ghi cụ thể từng trường hợp để hướng dẫn một cách triệt để cho công ty kiểm toán
và nhân viên nghiệp vụ. Cụ thể trong đoạn 290.19 của chương 290 tính độc lập -
Áp dụng cho dịch vụ kiểm toán và dịch vụ soát xét trong Chuẩn mực đạo đức kế
toán kiểm toán (Ban hành kèm theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC) có ghi rõ “trong
hầu hết các trường hợp, chương này không quy định trách nhiệm cụ thể của các cá
nhân trong doanh nghiệp kiểm toán đối với các hành động liên quan đến tính độc
lập vì trách nhiệm này có thể khác biệt, tùy thuộc vào quy mô, cấu trúc và tổ chức
của doanh nghiệp kiểm toán”. Đồng thời chính sự quy định không rõ ràng từ việc
đảm bảo tính độc lập, quy định pháp lý và các trường hợp được cho là kiểm toán
viên đã vi phạm tính độc lập cùng với việc chịu trách nhiệm cho việc phát hiện
gian lận và sai sót trên BCTC của khách hàng. Dẫn đến một số trường hợp kiểm
toán viên lợi dụng lá chắn luật để thực hiện các hành vi vi phạm đến tính độc lập.
Cụ thể, theo luật kiểm toán thì kiểm toán viên không chịu trách nhiệm trong
việc tìm ra những gian lận. Trong các báo cáo kiểm toán có cả Báo cáo của Ban
giám đốc, nói lên trách nhiệm của Ban giám đốc trong việc cam kết những số liệu
đưa cho kiểm toán là đúng. Kiểm toán viên không có trách nhiệm tìm ra các gian
lận.
Năm 2016, CTCP Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành công bố BCTC quý
2/2016 gây bất ngờ với khoản lỗ lên đến cả nghìn tỷ đồng. Nguyên nhân là do công
ty chưa trích lập dự phòng đối với khoản phải thu khó đòi và kiểm kê phát hiện
thiếu tới gần 980 tỷ đồng hàng tồn kho trong giá vốn hàng bán. Lật lại các báo cáo
kiểm toán của Gỗ Trường Thành do công ty TNHH Kiểm toán DFK Việt Nam
thực hiện, đặc biệt là báo cáo kiểm toán tại thời điểm 31/12/2015 các ý kiến đều là
chấp nhận toàn phần, không có BCTC nào chỉ được chấp nhận từng phần hoặc từ
chối nêu ý kiến hoặc không chấp nhận. Chỉ đến khi công ty kiểm toán E&Y vào
3.1.2.2. Hạn chế xuất phát từ ban lãnh đạo công ty.
Bên cạnh các công ty đã thực hiện tốt công tác đảm bảo tính độc lập và thực
hiện các biện pháp phòng vệ một cách hiệu quả thì một số công ty còn chưa đảm
bảo được tính độc lập này. Theo như phần 2.2 thực trạng có thể thấy việc xây dựng
các chính sách, hệ thống và qui trình bảo đảm tính độc lập về cả quy mô và hiệu
quả có sự giảm dần từ các công ty big4, non-big và các công ty kiểm toán nhỏ. Đặc
biệt có thể thấy ban lãnh đạo các công ty Kiểm toán nhỏ còn đang hời hợt, quy
định chưa cụ thể cho các vấn đề liên quan đến việc đảm bảo tính độc lập. Ngay
trong bản báo cáo minh bạch của các công ty này (cụ thể là công ty TNHH Kiểm
toán và Đinh giá Thăng Long) giải trình rất ít việc đảm bảo tính độc lập và thực
hiện các biện pháp phòng vệ của công ty.
Bên cạnh đó, câu chuyện liên quan đến việc Thăng Long TDK và IFC, 2 công
ty kiểm toán cho CTCP Mỏ và xuất nhập khẩu khoáng sản miền Trung (mã MTM).
Sau quá trình điều tra, mới đây, Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an đã chính
thức kết luận: “Các bị can đã làm giả chứng từ, hồ sơ kế toán, hồ sơ công ty đại
chúng của CTCP Mỏ và xuất nhập khẩu khoáng sản miền Trung; lập khống hồ sơ
đăng ký giao dịch; tạo cung cầu giả tạo để bán cổ phiếu MTM trên thị trường
UPCoM, lừa đảo chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư cổ phiếu”. Khi kiểm toán, các
kiểm toán viên chỉ căn cứ vào hồ sơ, chứng từ ngân hàng do Ngô Văn Hiến cung
cấp, không soát xét kỹ hồ sơ, nhưng vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Vụ
việc này một phần có thể do năng lực của kiểm toán viên chưa đủ cao để có thể
phát hiện ra sai phạm, mặt khác có thể do ảnh hưởng từ tính độc lập của kiểm toán
viên, có thể có sự thông đồng cấu kết giữa KTV và công ty khách hàng.”
Xét cho cùng việc nhận biết và chấp hành tính độc lập xuất phát cơ bản từ bản
thân nhân viên nghiệp vụ của công ty, các kiểm toán viên phải luôn nhận biết và
hiểu biết về tính độc lập của mình với công ty khách hàng, tách biệt được các lợi
ích cá nhân ra khỏi cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, hiện nay một số kiểm toán viên còn
chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của tính độc lập của kiểm toán viên và cố
tình vi phạm tính độc lập nhằm đạt được mục đích tư lợi nào đó.
Ngoài ra, tính độc lập của Kiểm toán viên hiện nay đang có nguy cơ cao bị
xâm phạm bởi việc kiểm toán viên có thể trở thành nhân viên của khách hàng. Cụ
thể, kiểm toán viên là một nghề mang tính chất cực nhọc, đi lại nhiều và áp lực
công việc cao. Thông thường các sinh viên kiểm toán mới ra trường sẽ đầu quân
cho các công ty kiểm toán. Sau quá trình làm việc dài khoảng 2 đến 3 năm, khi các
kiểm toán viên có đủ trình độ năng lực, tích lũy đủ kinh nghiệm, họ thường được
các công ty khách hàng mời gọi với vị trí tốt và mức lương hấp dẫn. Nhiều kiểm
toán viên sẽ lựa chọn đi theo khách hàng để đảm bảo cuộc sống ổn định và có mức
lương tốt thay vì ở lại công ty kiểm toán chịu áp lực và hay phải đi công tác. Thực
trạng này xảy ra nhiều trong thực tế đặc biệt là các nhân viên tại 4 công ty kiểm
toán lớn là PricewaterhouseCoopers, Deloitte, Ernst & Young, KPMG. Việc
thuyên chuyển công tác của các nhân viên kiểm toán có thể ảnh hưởng đến tính
độc lập của kiểm toán viên, họ có thể không muốn làm ảnh hưởng việc làm của họ
trong tương lai.
Ban giám đốc là người thực hiện việc lựa chọn các thành viên vào cuộc kiểm
toán, vì vậy họ phải đảm bảo các nhân viên được chọn lựa đảm bảo tính độc lập
trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán. Trong giai đoạn thực hiện và kết thúc kiểm
toán, thành viên ban giám đốc là người chịu trách nhiệm quan sát giám sát tính độc
lập của các thành viên trong đội kiểm toán. Tuy nhiên chính do tư lợi cá nhân hoặc
phải chịu áp lực trước các mối quan hệ lợi ích xã hội nên ban giám đốc có thể chỉ
thị KTV có những hành động gian lận, thiếu khách quan trong công việc nhằm
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 31
giúp các đơn vị, công ty che giấu sai phạm, hành vi trái pháp luật. Bên cạnh đó, có
thể do BGĐ nhìn nhận sai năng lực, đạo đức của KTV nên đã tạo điều kiện cho
KTV thực hiện các hành vi vi phạm tính độc lập khi phân chia công việc trong
cuộc kiểm toán.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên trong cung cấp
dịch vụ kiểm toán.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập mạnh mẽ với
quốc tế, đặc biệt các doanh nghiệp đang trong xu hướng chuyển dịch từ áp dụng
Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) sang Chuẩn mực Lập BCTC quốc tế (IFRS)
thì chất lượng kiểm toán đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa. Tính độc lập là một
thành phần thiết yếu của chất lượng kiểm toán, đảm bảo sự khách quan của ý kiến
kiểm toán. Vi phạm tính độc lập ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng của cuộc
kiểm toán, nó có thể làm suy giảm danh tiếng của KTV và các hãng kiểm toán,
nghiêm trọng hơn sẽ bị tước giấy phép hành nghề. Vì vậy trong quá trình thưc hiện
kiểm toán BCTC, KTV và công ty kiểm toán luôn hướng đến việc đảm bảo tính
độc lập. Qua các khía cạnh còn hạn chế về sự đảm bảo tính độc lập của KTV tại
Việt Nam, em xin được đề xuất một số giải pháp cần thiết được thực hiện để nâng
cao cũng như phòn vệ tính độc lập cho kiểm toán viên. Các chủ thể tham gia giải
quyết ở đây gồm: KTV; công ty kiểm toán; các cơ quan chức năng và hiệp hội
hành nghề.
3.2.1. Trách nhiệm của các cơ quan chức năng và hiệp hội hành nghề.
Các hiệp hội nghề nghiệp cần được trao quyền nhiều hơn trong việc phát triển
chuẩn mực kiểm toán, kế toán cũng như đưa ra hướng dẫn về các chuẩn mực này,
để đồng bộ hóa các chuẩn mực và quy định về pháp luật, tránh việc tạo các lá chắn
luật. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước nên tập trung giám sát, quản lý nhiều
hơn đối với các hiệp hội nghề nghiệp và công ty kiểm toán.
- Nghiên cứu ban hành công văn hướng dẫn và thực hiện việc thí điểm
cho phép các công ty kiểm toán được quyền đăng ký lựa chọn công ty
kiểm toán khác thực hiện việc kiểm soát chéo công ty của mình trong
một khoảng thời gian nhất định (ví dụ như 1-2 năm).
- Nên nghiên cứu ban hành các hướng dẫn chi tiết dưới dạng các thông tư
tương tự đối với lĩnh vực kế toán. Vì hiện tại ngay đến cả những nước
phát triển như Mỹ và Pháp, mặc dù ngành kiểm toán đã phát triển hàng
trăm năm nhưng họ vẫn đưa ra các hướng dẫn chi tiết và cụ thể đối với
việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Điều này sẽ làm cho
việc áp dụng nội dung các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vào thực tế
được dễ dàng hơn và góp phần làm cho công chúng có thể thực hiện
việc kiểm soát đối với hoạt động của ngành kiểm toán.
Mặt khác, thực tiễn hoạt động kiểm toán độc lập đã đặt ra vấn đề: ranh giới
giữa tư vấn và kiểm toán. Nghĩa là, nếu công ty kiểm toán tham gia tư vấn quá sâu
vào các quy trình kiểm soát của doanh nghiệp và sau đó lại thực hiện kiểm toán
doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột, thậm chí làm ảnh hưởng
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 33
đến tính minh bạch của các BCTC được kiểm toán (đặc biệt là BCTC của các
doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán). Bởi vậy, để giúp các công ty kiểm
toán phát huy tốt vai trò mà không bị vướng vào những xung đột lợi ích, bên cạnh
việc đưa ra những yêu cầu chung về tính độc lập trong kiểm toán, Cục Quản lý
giám sát kế toán, kiểm toán (Bộ Tài chính) cần phối hợp với Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước xây dựng những yêu cầu riêng, cụ thể về ranh giới giữa kiểm toán và tư
vấn cho những doanh nghiệp niêm yết.
Theo Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 1: Kiểm soát chất lượng doanh
nghiệp thực hiện kiểm toán, soát xét BCTC, dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ liên
quan khác, các công ty kiểm toán phải có trách nhiệm trong việc xây dựng các
chính sách và thủ tục để đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng công ty kiểm toán và
nhân sự của công ty kiểm toán đã tuân thủ chuẩn mực và các quy định về đạo đức
nghề nghiệp có liên quan, bao gồm cả tính độc lập.
Hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán của công ty kiểm toán cũng là nhóm
yếu tố quan trọng để đảm bảo yêu cầu về tính độc lập và chất lượng trong hoạt
động kiểm toán. Từ quan điểm này, Phó Tổng Giám đốc PwC Việt Nam Trần
Hồng Kiên khuyến nghị, các công ty kiểm toán phải có những quy trình thủ tục cần
thiết liên quan đến việc quản lý chất lượng kiểm toán nói chung như: tuyển dụng,
đào tạo, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ… Trong giai đoạn kiểm soát chất lượng kiểm
toán của công ty phải đảm bảo tính độc lập giữa KTV và khách hàng kiểm toán.
Các công ty vừa và nhỏ cần ban hành các chính sách, thưởng phạt cụ thể có
liên quan đến tính độc lập, cần xây dựng quy trình kiểm soát tính độc lập giữa nhân
viên nghiệp vụ, thành viên ban tổng giám đốc với các công ty khách hàng. Nếu có
thể, cần học hỏi cách các công ty kiểm toán hàng đầu trong big4 về việc họ kiểm
soát tính độc lập của nhân viên công ty như thế nào và việc họ thực hiện các hoạt
động giám sát, hoạt động phòng vệ sao cho hiệu quả.
- Thu thập các thông tin liên quan từ doanh nghiệp kiểm toán và công ty
mạng lưới, nếu cần thiết, để có thể phát hiện và đánh giá các yếu tố và
các mối quan hệ đe dọa đến tính độc lập.
- Đánh giá thông tin về các vi phạm phát hiện được (nếu có) đối với chính
sách và thủ tục đảm bảo tính độc lập của doanh nghiệp kiểm toán để xác
định xem liệu các vi phạm đó có đe dọa đến tính độc lập của cuộc kiểm
toán hay không.
- Tiến hành các biện pháp thích hợp để loại bỏ các đe dọa trên hoặc giảm
thiểu xuống mức có thể chấp nhận được bằng cách áp dụng các biện
pháp bảo vệ, hoặc nếu cần, có thể rút khỏi cuộc kiểm toán trong trường
hợp pháp luật và các quy định có liên quan cho phép.
Nếu xét thấy không có khả năng giải quyết vấn đề, thành viên Ban Giám đốc
phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán phải báo cáo kịp thời với Giám đốc doanh
nghiệp kiểm toán để có biện pháp giải quyết phù hợp.
3.2.2.2. Cụ thể trong từng giai đoạn của cuộc kiểm toán
Tính độc lập của KTV cần được đảm bảo và duy trì xuyên suốt các giai đoạn
của cuộc kiểm toán, bao gồm: (1) Bổ nhiệm KTV trong giai đoạn chuẩn bị kiểm
toán; (2) Thực hiện kiểm toán; (3) Soát xét chât lượng kiểm toan trong giai đoạn
kết thuc kiểm toán; (4) Lưu trữ tài liệu và hồ sơ kiểm toán.
a. Bổ nhiệm kiểm toán viên trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Thủ tục bộ nhiệm KTV phải đảm báo có giá trị, tức trước khi khách hàng
kiểm toán mới được chấp nhận, KTV phải xác định liệu tính độc lập hay các chuẩn
Việc bổ nhiệm KTV là trách nhiệm của thành viên Ban Giám đốc phụ trách
tổng thể cuộc kiểm toán, họ phải đảm bảo cho nhóm kiểm toán và các chuyên gia
không thuộc nhóm kiểm toán có năng lực chuyên môn và khả năng phù hợp để
thực hiện cuộc kiểm toán phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật và
các quy định có liên quan; và tạo điều kiện để báo cáo kiểm toán được phát hành
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán.
b. Các giải pháp khi tính độc lập không được đảm bảo trong giai đoạn thực hiện
kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán tính độc lập của KTV sẽ bị ảnh hưởng
bởi các nguy cơ do tư lợi, nguy cơ tự kiểm tra, nguy cơ về sự bào chữa, nguy cơ từ
sự quen thuộc, và nguy cơ bị đe dọa.
Khi phát hiện tính độc lập bị vi phạm, nhóm kiểm toán phải khẩn trương
thông báo (theo các chính sách và thủ tục của doanh nghiệp) cho thành viên Ban
Giám đốc phụ trách tổng thể hợp đồng dịch vụ, những người chịu trách nhiệm về
các chính sách và thủ tục liên quan đến tính độc lập, những nhân sự có liên quan
khác trong doanh nghiệp, mạng lưới (khi thích hợp), và những đối tượng phải tuân
thủ các quy định về tính độc lập để có biện pháp giải quyết thích hợp. Công ty
kiểm toán phải đánh giá mức độ nghiêm trọng của vi phạm và ảnh hưởng của vi
phạm đó đến tính khách quan và khả năng phát hành báo cáo kiểm toán. Mức độ
nghiêm trọng của vi phạm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Số lượng và tính chất của các vi phạm trước đó có liên quan đến cuộc
kiểm toán hiện tại
- Liệu các thành viên trong nhóm kiểm toán đã có hiểu biết về lợi ích hoặc
mối quan hệ là nguyên nhân dẫn đến vi phạm hay không
- Vai trò của thành viên trong nhóm kiểm toán, nếu vi phạm liên quan đến
thành viên đó
- Ảnh hưởng của dịch vụ chuyên môn (nếu có) đối với tài liệu kế toán hoặc
BCTC mà doanh nghiệp kiểm toán đưa ra ý kiến, nếu vi phạm là do việc
cung cấp dịch vụ chuyên môn đó gây ra
- Mức độ nghiêm trọng của các nguy cơ do tư lợi, nguy cơ về sự bào chữa,
nguy cơ bị đe dọa hoặc các nguy cơ khác phát sinh do vi phạm. Tùy
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vi phạm, công ty kiểm toán có thể
phải chấm dứt hợp đồng kiểm toán khi không có biện pháp bảo vệ nào
có thể áp dụng để làm giảm ảnh hưởng của nguy cơ đó tới tính độc lập
xuống mức có thể chấp nhận được và ngược lại sẽ phải áp dụng các biện
pháp phù hợp để xử lý thỏa đáng hậu quả của vi phạm. Các biện pháp
mà công ty kiểm toán của thể áp dụng như:
- Rút thành viên có liên quan đến vi phạm ra khỏi nhóm kiểm toán
- Cử một thành viên khác soát xét lại công việc kiểm toán bị ảnh hưởng
hoặc thực hiện lại công việc đó ở mức cần thiết
- Khi vi phạm liên quan đến một dịch vụ phi đảm bao có ảnh hưởng đến
tài liệu, sổ sách kế toán hoặc BCTC, công ty kiểm toán phải thuê một
công ty kiểm toán khác đánh giá kết quả của dịch vụ phi đảm bảo hoặc
thực hiện lại dịch vụ phi đảm bảo ở mức độ cần thiết để đảm bảo trách
nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán đối với dịch vụ mình cung cấp.
c. Soát xét chất lượng kiểm toán trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Thành viên Ban Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán sẽ đảm nhiệm
việc soát xét việc kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán đảm bảo rằng người
soát xét kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán phải được bổ nhiệm. Người soát
Doanh nghiệp kiểm toán phải lưu lại tài liệu, hồ sơ về vi phạm, biện pháp xử
lý đã thực hiện, các quyết định quan trọng đã đưa ra và tất cả những vấn đề đã trao
đổi với Ban quản trị của khách hàng, với tổ chức nghề nghiệp nơi họ là thành viên,
cơ quan quản lý hoặc cơ quan giám sát có liên quan. Nếu quyết định tiếp tục thực
hiện hợp đồng kiểm toán, doanh nghiệp kiểm toán cũng phải ghi chép và lưu lại tài
liệu, hồ sơ các kết luận, dựa trên xét đoán chuyên môn, rằng tính độc lập và khách
quan không bị ảnh hưởng và giải thích lý do, biện pháp thực hiện giúp xử lý thỏa
đáng hậu quả vi phạm, và do đó doanh nghiệp kiểm toán có thể phát hành báo cáo
kiểm toán.
Việc KTV và công ty kiểm toán thiếu tính độc lập trong hoạt động nghề
nghiệp sẽ làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp có lợi ích công chúng, nhà đầu tư
và thị trường chứng khoán. Do đó, để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động kiểm
toán, KTV cần tuân thủ nghiêm chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cũng như các quy
định của pháp luật đồng thời cần luôn luôn có ý thức đảm bảo tính độc lập giữa
mình và khách hàng kiểm toán:
- Nhận thức đúng về vai trò của KTV trong đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác. Đồng thời phải nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc đảm bảo tính độc lập, đặc biệt là nhận thức đầy
đủ về các quyền và nhiệm vụ của KTV liên quan đến việc bảo đảm tính
độc lập trong quá trình thực hiện kiểm toán.
- Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, chú ý cập nhật, bổ
sung kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, rèn luyện tính chuyên nghiệp
và bản lĩnh nghề nghiệp.
- KTV là trưởng đoàn kiểm toán càng phải chú trọng đến việc đảm bảo
tính độc lập, đồng thời luôn nhắc nhở các thành viên của Đoàn chú
trọng đến tầm quan trọng của tính độc lập và yêu cầu họ phải hành động
phù hợp với cam kết về tính độc lập.
Em hy vọng đề tài này sẽ cung cấp được những thông tin hữu ích, phục vụ
cho những mục đích khác nhau nhằm củng cố những vấn đề liên quan đến tính độc
lập của kiểm toán viên.
2. Báo cáo minh bạch năm 2019 của công ty TNHH Deloitte Việt Nam.
3. Báo cáo minh bạch năm 2019 của hãng Kiểm toán AASC.
4. Báo cáo minh bạch năm 2019 công ty TNHH kiểm toán và định giá Thăng
Long.
6. Chuẩn mực kiểm soát chất lượng số 1: Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp
thực hiện kiểm toán, soát xét báo cáo tài chính, dịch vụ đảm bảo và các dịch
vụ liên quan khác (Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày
06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính).
7. Danh sách doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm
8. https://phantichtaichinh.com/cac-nhan-to-anh-huong-den-tinh-doc-lap-cua-
kiem-toan-vien-trong-kiem-toan-bctc/ , truy cập ngày 09/03/2021.
9. https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/dich-
vu-phi-kiem-toan-va-tinh-doc-lap-cua-kiem-toan-vien-viet-nam-
126687.html , truy cập ngày 09/03/2021.
10. https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/dich-
vu-phi-kiem-toan-va-tinh-doc-lap-cua-kiem-toan-vien-viet-nam-
126687.html , truy cập ngày 09/03/2021.
11. Luật kiểm toán độc lập, luật số 67/2011/QH12 của Quốc hội.
12. Giáo trình Kiểm toán tài chính, đồng chủ biên: GS. TS. Nguyễn Quang
Quynh, PGS. TS Ngô Trí Tuệ, nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
13. Giáo trình Lý thuyết kiểm toán, đồng chủ biên: GS. TS. Nguyễn Quang
Quynh, TS. Nguyễn Thị Phương Hoa, nhà xuất bản Tài chính.
Nguyễn Thị Hiền - 11181676 41
14. Tạp chí Kiểm toán, số 11/2010: Kiểm soát đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
độc lập ở Mỹ và Pháp-Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong xu thế
hội nhập phát triển-NCS Phan Thanh Hải.
15. Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 08 tháng 5 năm 2015 của Bộ Tài chính.