You are on page 1of 12

Tại sao nói , đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trong xã hội có giai cấp.

Lấy vd minh chứng . Hiện


nay ở VN còn đấu tranh giai cấp không ? Nếu còn biểu hiện như thế nào .

Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta đi từ khái niệm giai cấp là gì? Đấu tranh? Và 2 cụm từ này kết
hợp với nhau mang ý nghĩ gì “ Đấu tranh giai cấp “ ? . Giai cấp là Giai cấp xã hội đề cập đến các thứ
bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn
hóa. Theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì
những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công
lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. có thể vd như giai cấp nông
dân và địa chủ , giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị ....

Đấu tranh là gì: Dùng sức mạnh vật chất hoặc tinh thần để chống lại hay diệt trừ; để bảo
vệ hoặc giành lấy vd như đấu tranh tư tưởng dựa trên tinh thần lý lẽ thuyết phục , đấu tranh bảo vệ
tổ quốc có thề dùng đàm phán, vũ lực để dành thắng lợi, đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong nạn
phân biệt trủng tộc

Như vậy đấu tranh giai cấp chính là Đấu tranh giai cấp, hay còn gọi là mâu thuẫn giai cấp, là sự
căng thẳng hoặc đối kháng tồn tại trong xã hội do cạnh tranh về lợi ích kinh tế xã hội và mong muốn
giữa người dân của các tầng lớp khác nhau. Quan điểm cho rằng đấu tranh giai cấp cung cấp đòn
bẩy cho sự thay đổi xã hội triệt để cho đa số người dân là hạt nhân các tác phẩm của Karl Marx và
triết gia vô chính phủ Mikhail Bakunin. Tuy nhiên, việc phát hiện ra sự tồn tại của cuộc đấu tranh giai
cấp không phải là sản phẩm của sách vở; lý thuyết của các triết gia trên dựa trên sự tồn tại có sẵn
trong xã hội của cuộc đấu tranh giai cấp thời kỳ họ sống.
Đấu tranh giai cấp có thể có nhiều hình thức khác nhau:

 bạo lực trực tiếp, chẳng hạn như các cuộc chiến tranh tranh giành các nguồn tài nguyên
và lao động rẻ;
 bạo lực gián tiếp, chẳng hạn như tử vong vì nghèo đói, đói khát, bệnh tật hoặc điều kiện
làm việc không an toàn;
 ép buộc, chẳng hạn như nguy cơ mất việc làm hoặc một khoản đầu tư quan trọng;
 hay ý thức hệ, hoặc là cố ý (với các sách và bài báo quảng bá chủ nghĩa tư bản) hoặc
vô ý (như với việc thúc đẩy tiêu thụ thông qua quảng cáo)[cần dẫn nguồn]
Ngoài ra, có nhiều các hình thức chính trị của đấu tranh giai cấp. hợp pháp hoặc bất hợp pháp,
thông qua vận động hành lang hoặc hối lộ các nhà lãnh đạo chính phủ thông qua luật cho đảng phái
bao gồm luật lao động, mã số thuế, luật người tiêu dùng, luật Quốc hội hoặc thuế má. Các cuộc đấu
tranh giai cấp có thể mang tính mở, như công nhân đình công với mục đích nhằm tiêu diệt một công
đoàn lao động, hoặc mang tính ẩn, như công nhân cố tình giảm năng suất lao động nhằm phản đối
mức lương thấp hoặc các điều kiện lao động không công bằng.
Vậy đấu tranh giai cấp là động lực để phát triển
Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự phát triển của sản xuất, là sự thay thế các phương thức
sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, do lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã duy trì, bảo vệ quan hệ
sản xuất cũ bằng tất cả sức mạnh hiện có, đặc biệt dùng bộ máy nhà nước thống trị để chống lại lực
lượng của các giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Vì vậy muốn thay đổi quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển phải
gạt bỏ sự cản trở của giai cấp thống trị, phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp. Rõ ràng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị muốn duy trì quan hệ sản
xuất cũ, để bảo vệ lợi ích của chúng. Song, vì giai cấp thống trị có cả bộ máy quyền lực nhà nước
để chống lại các lực lượng tiến bộ, cho nên cuộc đấu tranh giai cấp ấy dẫn tới cách mạng xã hội.
Cách mạng xã hội – “cái đầu tiên của lịch sử ấy” dẫn đến xoá bỏ chế độ xã hội chũ, xoá bỏ giai cấp
thống trị và quan hệ sản xuất thống trị, thiết lập chế độ mới, tạo điều kiện để quan hệ sản xuất mới
ra đời phát triển, trở thành quan hệ sản xuất chi phối, thống trị, mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Bởi vậy, đấu tranh giai cấp có ý nghĩa là động lực lớn của sự phát triển xã hội, nó là một
phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xác lập
phương thức sản xuất mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói rằng, đấu tranh giai cấp trong mỗi
thời kỳ lịch sử có các giai cấp đối kháng đều xuất phát từ kinh tế và nhằm giải quyết vấn đề kinh tế,
từ đó kéo theo những vấn đề khác và thông qua đó thúc đẩy xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp là phương tiện, điều kiện chứ không phải là mục đích, mục đích của đấu tranh
giai cấp là làm cho sản xuất phát triển, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ, xác lập một hình thái kinh tế
– xã hội mới tiến bộ, thay thế cho hình thái kinh tế xã hội cũ đã lỗi thời.

hái niệm đấu tranh giai cấp được V.I.Lênin định nghĩa một cách khoa học như sau:
“Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận
khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước các quyền, bị áp bức và lao động, chống
bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và ăm bám, cuộc đấu tranh của những người công
nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư
sản” .
Cần hiểu đấu tranh giai cấp qua định nghĩa này như thế nào ?
Một là, cũng như giai cấp trong định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp
không phải là xung đột cá nhân hay xung đột của các nhóm nhỏ, mà là đấu tranh trên
qui mô rộng lớn của xã hội (đặc trưng về lượng).

Hai là, đấu tranh giai cấp có nguyên nhân xã hội từ xung đột về lợi ích, trước hết là lợi
ích kinh tế giữa các giai cấp đối kháng – dù cho các thành viên của các giai cấp nhận
thức được hay không. Xét đến cùng, cội nguồn vật chất của đấu tranh giai cấp là mâu
thuẫn ngày càng sâu sắc và chín muồi giữa lực lượng sản xuất mới đòi được giải
phóng với quan hệ sản xuất lỗi thời. Như vậy, nếu đặc trưng bản chất của giai cấp
(được phân tích từ định nghĩa của V.I.Lênin) vốn mang tính vật chất – khách quan, thì
đấu tranh giai cấp qua định nghĩa vừa được phân tích cũng mang tính vật chất – khách
quan một cách tương ứng. Nói vắn tắt: đấu tranh giai cấp là biểu hiện tất yếu về mặt xã
hội của mâu thuẫn trong lòng phương thức sản xuất.

Ba là, trong định nghĩa đấu tranh giai cấp, V.I.Lênin không quên nhấn mạnh cuộc đấu
tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản như là cuộc đấu tranh cao nhất, điển hình
nhất và cũng là cuối cùng của lịch sử đấu tranh giai cấp. Các cuộc đấu tranh giai cấp
trước kia từ thời chiếm hữu nô lệ tới thời phong kiến là kém điển hình, vì thường diễn
ra dưới hình thức đẳng cấp hơn là giai cấp.

Bốn là, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, có thể có đối kháng về lợi ích giữa các
giai cấp, các tập đoàn bóc lột – thống trị, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng cấu kết với
nhau để đàn áp cuộc đấu tranh chính nghĩa của quần chúng lao động và các dân tộc bị
áp bức.
Năm là, cần lưu ý liên minh giai cấp là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giai
cấp, là một hình thức tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù trong đấu tranh giai cấp, đặc
biệt khi mà đấu tranh giai cấp phát triển tới giai đoạn quyết định: nó có thể và cần phải
lôi cuốn ngày càng đông đảo các giai cấp, tầng lớp vào bên này hay bên kia trận tuyến.
Có liên minh tạm thời giữa các giai cấp hay tầng lớp có lợi ích căn bản đối lập nhau. Có
liên minh lâu dài giữa các giai cấp hay tầng lớp có lợi ích căn bản phù hợp nhau. Liên
minh giai cấp cùng với liên minh dân tộc có thể diễn ra từ qui mô trong nước tới quốc tế
để hình thành nên các tầng mặt trận thống nhất dân tộc, khu vực và toàn thế giới.
Đương nhiên, không phải vì vậy mà ảo tưởng rằng đấu tranh giai cấp bị xóa nhòa trong
các liên minh hay trong các mặt trận. Xưa nay, không một liên minh hay mặt trận nào
khiến cho các giai cấp khác nhau tự nguyện vất bỏ lợi ích cơ bản sống còn của mình.

2. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển chủ


yếu của xã hội có giai cấp.
CNDV lịch sử khẳng định động lực phát triển chân chính và chủ yếu nhất của lịch sử xã
hội có giai cấp là đấu tranh cách mạng của các giai cấp bị áp bức, bị bóc lột chống lại
các giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Cùng với thời gian, cuộc đấu tranh này sẽ phát
triển tới đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Kết cục vật chất của những biến cố lịch
sử phi thường này là sự chiến thắng của các quan hệ sản xuất mới đối với các quan hệ
sản xuất cũ, giải phóng và phát triển vượt bậc lực lượng sản xuất nói riêng, thúc đẩy
tiến bộ xã hội nói chung trên mọi mặt của đời sống xã hội.

Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách
mạng xã hội long trời lở đất, mà còn được triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt
các khía cạnh dưới đây:

Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội trong thời bình. C.Mác
nêu ví dụ điển hình ở nước Anh, rằng “… kể từ 1925 (nổ ra khủng hoảng “thừa” đầu
tiên trong lịch sử phát triển TBCN – chú thích của chúng tôi), sự phát sinh và sử dụng
máy móc chỉ là do kết quả của đấu tranh của các chủ xí nghiệp và công nhân” . Xét đến
cùng thì điều đó vẫn đúng đối với cả cách mạng khoa – công nghệ trong điều kiện của
CNTB hiện đại ngày nay.

Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị lỗi thời thực hiện
không phải là “ban ơn”, mà chính là kết quả đấu tranh bền bỉ của quần chúng lao động
cùng với các lực lượng tiến bộ trong nước và trên thế giới.

Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt để lại những dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần
tinh tế và nhạy cảm của đời sống xã hội là lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, và cũng là
động lực mạnh mẽ của lĩnh vực này.

Thứ tư, đấu tranh giai cấp chẳng những có tác động cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực
lượng lỗi thời và phản động, mà còn cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng.
Thứ năm, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp,
nhưng là động lực mạnh mẽ nhất và trực tiếp nhất của xã hội có giai cấp. Các cuộc đấu
tranh khác như đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo… như nhận xét của Ăngghen –
đều phản ánh ít nhiều đấu tranh giai cấp.

3. Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản
a) Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để giành chính
quyền
Từ giữa thế kỷ XIX, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra tính tất yếu của
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa trình độ và tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất được công
nghiệp hóa với quan hệ sản xuất tư nhân TBCN ngày càng tỏ ra chật hẹp lỗi thời – mà
cốt lõi là chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất.
Với tất cả tính ưu việt vốn có của mình (đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến,
XHCN, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có bản chất cách mạng triệt để, có tinh thần quốc
tế cao cả, có đội tiền phong được trang bị lý luận Mác – Lênin lãnh đạo, có khả năng
liên minh chặt chẽ với tất cả những người lao động và các dân tộc bị áp bức), giai cấp
vô sản có được sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình là đấu tranh lật đổ ách thống trị
của giai cấp tư sản, xây dựng thành công CNXH, CNCS. Đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản chống giai cấp tư sản hoàn toàn khác về chất so với tất cả các cuộc đấu
tranh giai cấp trước đó trong lịch sử: thay đổi căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã
hội trong sản xuất, giải phóng triệt để và phát triển tất cả những người lao động thành
những con người phát triển tự do và toàn diện. Bản chất nhân đạo cao cả của sự
nghiệp vô sản chính là ở chỗ đó. Cách đây hơn 150 năm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng kết luận về giai cấp vô sản, rằng: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô
sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân đại công nghiệp” . Và theo đó, hai ông tin tưởng
một cách vững chắc rằng: “Trước hết, giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt
chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp đều là tất yếu
như nhau” .

Ngày nay, trong điều kiện cách mạng khoa học – công nghệ cùng với những cải biến
nhất định về kinh tế và xã hội của CNTB hiện đại, bản chất của mâu thuẫn đối kháng
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản vẫn không thay đổi, hơn nữa còn trở nên ngày
càng sâu sắc. Một loạt luận thuyết tư sản hiện đại về những cái gọi là “CNTB nhân
dân”, “xã hội kỹ trị”, “giai cấp vô sản biến mất”, “nhà nước phúc lợi chung”, “hội tụ”, v.v..
thực chất chỉ nhằm biện hộ cho CNTB, đánh lạc hướng cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản.

Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền được
thể hiện dưới ba hình thức cơ bản (như tổng kết của Ăngghen): đấu tranh kinh tế, đấu
tranh chính trị, và đấu tranh tư tưởng. Ba hình thức này quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó đấu tranh chính trị là quan trọng nhất nhằm giải quyết vấn đề chính quyền, vấn
đề cơ bản và chủ yếu của mọi cuộc cách mạng chính trị. Đúng như tư tưởng cơ bản
thứ hai của Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp khẳng định: “Đấu tranh giai cấp tất
yếu dẫn tới chuyên chính vô sản”.

b) Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản ở thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu mới của cuộc đấu tranh giai cấp này là ở chỗ cần phải giải quyết mâu
thuẫn cơ bản ở thời kỳ quá độ là mâu thuẫn “ai thắng ai” giữa hai con đường XHCN và
TBCN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

– Về chính trị, cần phải xây dựng một hệ thống chính trị kiểu mới vững chắc của đa số
(gồm Đảng Cộng sản, bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội của quần
chúng) nhằm phát huy ngày càng cao quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực,
đủ sức đè bẹp hay vô hiệu hóa mọi mưu đồ phá hoại của các thế lực phản động, bảo
vệ vững chắc các thành tựu của cách mạng.

– Về kinh tế, cần phải cải tạo nền kinh tế cũ, chưa mang tính XHCN, từng bước theo
con đường XHCN, mà nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ là công nghiệp
hóa (ngày nay kết hợp với hiện đại hóa).
– Về đời sống tinh thần, cần tiến hành cách mạng tư tưởng – văn hóa để chiến thắng
các tư tưởng lạc hậu phản động, từng bước xây dựng nền văn hóa mới và con người
mới, XHCN, từng bước nêu cao vai trò chi phối của hệ tư tưởng Mác – Lênin trong đời
sống tinh thần của xã hội.
– Về quan hệ quốc tế, cần có những đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn nhằm
phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước và góp phần đắc lực vào
sự nghiệp đấu tranh vì các mục tiêu cao cả của thời đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, tiến bộ xã hội và CNXH. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống XHCN sụp đổ, các
quan hệ quốc tế đan xen giữa đấu tranh, cạnh tranh và hợp tác, các thế lực đế quốc
phản động triển khai ráo riết chiến lược “diễn biến hòa bình” và “vượt qua ngăn chặn”,
tính tất yếu của đấu tranh giai cấp ở thời kỳ quá độ này không hề mất đi như một số
người lầm tưởng, trái lại càng trở nên sâu sắc và phức tạp chưa từng có.
Để phù hợp với những điều kiện mới và nhiệm vụ mới của thời kỳ quá độ, đấu tranh
giai cấp có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, trên khắp các lĩnh vực của đời
sống xã hội, để lôi cuốn các giai – tầng khác cùng tham gia.
Từ kinh nghiệm những năm đầu của nước Nga Xô viết, Lênin đã đi tới hai đúc kết quan
trọng về các hình thức đấu tranh giai cấp ở thời kỳ quá độ (đương nhiên không phải
thời kỳ quá độ ở nứơc nào cũng phải diễn ra y như vậy).
– Đúc kết thứ nhất là “có đổ máu và không đổ máu, có bạo lực và hòa bình, bằng quân
sự và bằng kinh tế, bằng giáo dục và hành chính”.
– Đúc kết thứ hai khái quát 5 hình thức như sau: Một là, đấu tranh chống lại sự phản
kháng của giai cấp tư sản; Hai là, nội chiến là hình thức gay gắt nhất của cuộc đấu
tranh đó; Ba là, sử dụng chuyên gia tư sản; Bốn là, giai cấp vô sản tập hợp giáo dục
các tầng lớp tiểu tư sản; Năm là, giáo dục kỷ luật lao động mới.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã
hội có giai cấp. Vì đấu tranh giai cấp giúp thay đổi phương thức sản xuất cũ,
lỗi thời, lạc hậu bằng phương thức mới cao hơn, đồng thời xây dựng lực lượng
sản xuất mới phù hợp quan hệ sản xuất tạo cơ sở phát triển mọi mặt đời sống
xã hội.

Đấu tranh giai cấp giúp cải tạo các giai cấp cách mạng và quần chúng lao
động thông qua việc xóa bỏ tập quán xấu do giai cáp thống trị sản sinh ra.

Đấu tranh giai cấp là đòn bẩy phát triển lịch sử cách mạng, là động lực phát
triển các mặt đời sống xã hội trong thời kì phát triển bình thường. Đấu tranh là
động lực để giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kĩ thuật mới
để tạo nên những thành tựu mới.

Vai trò của ĐTGC thể hiện ở những cuộc đấu tranh mang tính quần chúng rộng
lớn, do lực lượng tiến bộ xã hội lãnh đạo, được tổ chức khoa học nhằm đánh
đổ giai cấp thống trị cản trở sự phát triển XH.

♦♦♦ Sự vận dụng của ĐCSVN:

Thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta tồn tại nhiều giai cấp và mâu thuẫn GC.
Tuy nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường quá độ lên CNXH, mâu
thuẫn này bộc lộ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Nhìn chung lợi ích GC tư
bản thống trị lợi ích cộng đồng, đấu tranh là để hợp tác, đoàn kết xây dựng xã
hội dân giàu nước mạnh, công bằng, văn minh.

Thực chất ĐTGC ở nước ta trong thời kì quá độ là đấu tranh giữa khuynh
hướng tự giác theo định hướng XHCN và khuynh hướng phát triển tự phát lên
TBCN. Trong quá trình đó, nhất thiết chúng ta phải phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân.

Đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra hàng ngày trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, xã hội. Vì vậy đảng ta luôn xác định rõ cần phải: Đấu tranh chống khuynh
hướng và biểu hiện tiêu cực của tâng lớp tư sản; Đấu tranh chống khuynh
hướng tự phát TBCN của sản xuất nhỏ; Đấu tranh chống các thế lực thù địch,
âm mưu diễn biến hòa bình, phá hoại độc lập dân tộc và CNXH ở nước ta; xây
dựng CNXH đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quyền làm chủ nhân dân; xây
dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH định hướng CNXH, giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu những tinh hoa nhân loại làm cho đời sống
vật chất và tinh thần nhân dân ko ngừng nâng cao.

Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác
nhau, vừa mềm dẻo, vừa cương quyết.

Tóm lại, giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững biện pháp duy vật,
nắm vững quan điểm GC của CN Mac – Lenin để phân tích được tính chất tình
hình gay go, phức tạp của ĐTGC trong thời kì quá độ tránh rơi vào thái cực sai
lầm: cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, ko dám đổi mới, mơ hồ, mất
cảnh giác đi đến phủ nhận ĐTGC.

  Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta hiện
nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của
cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái
bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng”; Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự  nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc4.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức tạp.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh
khác nhau, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện bằng
bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù địch trong nước và trên thế giới luôn tìm cách
ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân ta, đấu tranh bằng giáo dục,
tuyên truyền, vận động, cả hành chính và đấu tranh chống khuynh hướng bảo
thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
          Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là
thông qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa,
biến chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách
khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng
trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá
hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến
lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ
đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức lợi dụng vấn đề
dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến chất
của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên
tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân
nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng
thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu
tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện mới.
          Đều kiện mới của đấu tranh giai cấp hiện nay đó là lợi ích cơ bản, lâu dài của
các giai cấp trong cộng đồng Việt Nam thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường vẫn còn nhưng gắn liền với sự
nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng
nước nghèo, chậm phát triển. Đấu tranh trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều
thành phần, mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, trong cơ cấu giai cấp - xã hội của
nước ta hiện nay, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và các
tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có tầng lớp tư sản. Với kết cấu giai cấp đó,
tất yếu nảy sinh mâu thuẫn giữa lợi ích của những người lao động làm thuê với
tầng lớp tư sản và mâu thuẫn giữa sự phát triển tự giác theo con đường xã hội
chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản. Đây là mặt mâu
thuẫn trong quan hệ giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với tầng lớp tư
sản. Mâu thuẫn đó biểu hiện rất rõ trong các doanh nghiệp tư bản, nhất là các
doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta có Nhà nước
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong điều kiện như vậy, mâu
thuẫn giữa công nhân và tầng lớp tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ở
nước ta, tầng lớp tư sản không có công cụ để thực hiện sự thống trị về chính trị và
kinh tế của nó. Giai cấp công nhân, dù làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân,
vẫn được Nhà nước ta bảo vệ quyền lợi. Mặt khác, kinh tế tư bản tư nhân là bộ
phận không thể thiếu trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tầng lớp tư sản có vai
trò nhất định trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng tham gia tích cực
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lợi ích hợp pháp của các
nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc. Đây là mặt
thống nhất giữa giai cấp công nhân và tầng lớp tư sản. Như vậy, quan hệ giữa giai
cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác, vừa
đấu tranh. Hợp tác cùng xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; đấu tranh chống khuynh hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư
sản.
           Những sự phân tích trên đây cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai
cấp vẫn là một tất yếu. Cuộc đấu tranh đó có lúc, có mặt còn gay go, quyết liệt
hơn so với những thời kỳ trước đây.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ tính chất gay go,
phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Chúng ta cần nghiên cứu thấu đáo, cẩn
thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và quan điểm
của Đảng ta, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn một cách cụ thể, tránh rơi vào hai
thái cực sai lầm: hoặc là quá cường điệu đấu tranh giai cấp, dẫn đến mất phương
hướng trong huy động nguồn lực phát triển đất nước; hoặc là xem thường, xóa
nhòa đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc vào âm mưu diễn biến
hòa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang luôn tìm cách lật đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Câu2: Phân tích đặc trưng, bản chất của nhà nước. Tại sao nói nhà nước XHCN là “
nhà nước nửa nhà nước” . Liên hệ với quá trình xây dựng nhà nước XHCN ở Việt
Nam hiện nay

Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật thì tương đương với một quốc gia, là một tổ chức xã hội đặc
biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị
phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm
quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ
hoạt động của xã hội trong một quốc gia do vậy nhà nước mang vai trò xã hội, trong đó chủ yếu để
bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất và xuất hiện những giai cấp đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức chính trị đứng
ra để điều hòa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội.

Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước có năm đặc trưng cơ bản sau đây:
 Nhà nước có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng chế, quản lý
những công việc chung của xã hội.
 Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính.
 Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
 Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các quan hệ
xã hội bằng pháp luật.
 Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế.

Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước mang bản chất giai cấp. Nhà nước chỉ ra đời
từ khi xã hội phân chia giai cấp. Giai cấp nào thì nhà nước đó. Do trong xã hội nguyên thủy không
có phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên thủy không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu
Nhà nước được hình thành: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước
vô sản (Nhà nước xã hội chủ nghĩa). Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống
trị của giai cấp mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Bản
chất nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống nhất
không thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, vốn có
của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị; tính xã
hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, và ở mức độ này
hay mức độ khác nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia dân tộc và công
dân mình.

Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN:


- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, là nhà nước và
quyền và lợi ích hợp pháp được đảm bảo và ngày càng mở rộng, nhà nước pháp quyền
mà ở đó vị trí của nhà nước và công dân bình đẳng.
- Ngoài ra, nhà nước XHCN còn có đặc trưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp
giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước của dân, do dân, vì dân trên cơ
sở liên minh công – nông – trí.
- Nửa nhà nước là giai cấp thống trị là số đông và giai cấp bị trị là số ít. Theo nguyên
nghĩa Nhà nước là bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị (số ít) dùng để trấn áp giai cấp
bị trị (số đông).
=> Vì vậy nhà nước ta là nửa nhà nước là làm giảm bớt phần trấn áp và xây dựng xã hội
mới.
: Việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật được chú trọng và tăng cường; hệ thống
pháp luật được từng bước xây dựng, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện phù hợp với
yêu cầu của tình hình mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được nhận thức
đúng đắn hơn và phát huy mạnh mẽ hơn, coi đây là cốt lõi của vấn đề đổi mới hệ
thống chính trị.
Về kinh tế, đó là quyền được tự do sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành nghề
mà pháp luật không cấm; quyền sở hữu hợp pháp tài sản và quyền sử dụng đất
được pháp luật bảo hộ; mọi tiềm năng, nhiệt tình, sáng tạo của các tầng lớp nhân
dân được phát huy...
Về chính trị, đó là quyền dân chủ trong bầu cử, ứng cử, đề cử; trong thảo luận,
đóng góp ý kiến xây dựng các dự án luật; là sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan
dân cử, các đoàn thể xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng; là quyền
con người, quyền công dân ngày càng được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt
hơn...
Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được đổi mới và có những tiến
bộ đáng kể. Quốc hội hoạt động ngày càng có chất lượng cao hơn, dân chủ hơn,
thiết thực hơn. 
Tổ chức, hoạt động và điều hành của Chính phủ từng bước được đổi mới, tập
trung vào công việc quản lý vĩ mô, đồng thời chỉ đạo tổ chức thực hiện tương đối
sâu sát, nhanh nhạy. 
Hoạt động của Viện kiểm sát và Toà án các cấp cũng có những bước tiến mới. Tổ
chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
có nhiều đổi mới, ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò trong đời sống xã hội. 
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có nhiều đổi mới, từng bước
được xác định rõ và cụ thể hơn, có chất lượng và hiệu quả cao hơn, tạo điều kiện
cho việc kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước


pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển mới, trước những yêu cầu và nhiệm vụ
mới, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định sự cần thiết phải "Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam"; coi đây "là nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị" ở nước ta; đồng thời, đề ra nhiệm vụ
tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có xác định những nhiệm
vụ trọng tâm đến năm 2030, tập trung ưu tiên xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật và cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Cùng với đó là chú ý đến việc hoàn thiện đồng bộ, đầy đủ hệ thống pháp luật, vận
hành thông suốt, thống nhất bộ máy Nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã
hội; phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực
Nhà nước; tăng cường kiểm soát quyền lực; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tinh gọn, liêm chính;
phòng, chống có hiệu quả tham nhũng, tiêu cực./.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một thành tố trung tâm của hệ thống chính
trị nước ta. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Đồng thời, tiếp tục xây dựng và đổi mới đồng bộ các thành tố khác của hệ thống chính
trị cũng là điều kiện để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Nhà nước vốn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất” (1) nhưng “là một vấn đề
rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị” (2). Vì thế, trong đường lối lãnh đạo của mình ở
từng thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước - yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị. Trong những năm sắp
tới, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(3).

You might also like