You are on page 1of 16

TRÌNH BÀY VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP.

LIÊN HỆ VỚI
VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

1.KHÁI QUÁT VỀ NỘI DUNG và khái niệm của giai cấp ( THỦY
MAI )

Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm lệch lạc, sai trái và cả
những quan điểm của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong đó, nói
lên là quan điểm cho rằng: “trong điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh
giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia rẽ, phân hoá nội bộ…
làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc” hay: “hiện nay, nói đến đấu trnh
giai cấp ở Việt Nam là đi ngược lại xu thế của thời đại, là lạc hậu,
không thức thời, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay”. Do
vậy, có thể nói, việc nâng cao nhận thức khoa học về đấu tranh giai cấp
sẽ góp phần đấu tranh phòng chống những quan điểm sai trái, thù địch,
bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng
trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa thiết thực.

Trong một xã hội sẽ có hai giai cấp khác nhau bao gồm giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị.

Đấu tranh giai cấp là tất yếu trong xã hội có giai cấp.

khái niệm của giai cấp

Trên cơ sở lý luận của C.Mác, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I Lênin đã đưa ra
định nghĩa giai cấp:

Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa
nhận đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội,
và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.

Từ định nghĩa Lênin đã đưa ra các đặc trưng cơ bản của giai cấp:

Thứ nhất, giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau
trong một hệ thống sản xuất nhất định.

Thứ hai, các giai cấp có mối quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản
xuất.

Thứ ba, các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao
động xã hội.

Thứ tư, các giai cấp có những phương thức và quy mô thu nhập
khác nhau về của cải xã hội.

1.2 Nguồn gốc của giai cấp ( KIỆT)

Giai cấp được hình thành từ sự phân chia các nhóm người trong xã
hội dựa trên các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị. Theo chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các giai cấp xã hội ở trên thế giới được hình thành một cách
khách quan và gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định
của hoạt động sản xuất.

- Cuối xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất phát triển lên một trình
độ mới do con người biết sử dụng công cụ sản xuất bằng kim loại và do
thường xuyên cải tiến công cụ sản xuất, v.v..

- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến năng suất lao động tăng
lên và xuất hiện “của dư” trong xã hội.

- Sự xuất hiện “của dư” không chỉ tạo khả năng cho những người này
chiếm đoạt lao động của những người khác, mà còn là nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới phân công lao động xã hội phát triển.

- Tình trạng sản xuất lúc bấy giờ cho thấy, sản xuất cộng đồng nguyên
thủy không còn phù hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình
thức sản xuất có hiệu quả hơn.

- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất dần dần được hình thành thay thế
cho chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất.

- Sự phát triển tiếp theo của sản xuất vật chất từng bước phân hóa xã
hội thành những tập đoàn người có sự đối lập về địa vị kinh tế -xã hội
và giai cấp xuất hiện.

-Từ sự phân công xã hội lớn lần đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia
lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột
và người bị bóc lột.

+ Nguồn gốc trực tiếp của giai cấp trong xã hội: Là từ sự phân hóa
xã hội do sự ra đời, tồn tại của chế độ tư hữu đối với những tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội.

+ Nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội : Là do
tình trạng phát triển chưa đầy đủ của lương thực sản xuất

1.3 Kết cấu XH ( MAI DUYÊN )

● Giai cấp cơ bản:

Đặc điểm: Giai cấp cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất thống trị
và là kết quả của các mối quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản.

Vai trò trong kết cấu xã hội: Giai cấp cơ bản định hình kết cấu xã hội
thông qua quyền lực kinh tế và chính trị của họ. Họ thường kiểm soát
tài nguyên, sản xuất, và quyền lực chính trị.

● Giai cấp không cơ bản:

Đặc điểm: Giai cấp không cơ bản gắn liền với phương thức sản xuất
tàn dư hoặc có sự xuất hiện của mầm mống mới trong xã hội.

Vai trò trong kết cấu xã hội: Giai cấp không cơ bản có thể là nhóm
những người chưa đạt được quyền lực kinh tế và chính trị cao, có thể
không có ảnh hưởng lớn đến việc xác định hình thành kết cấu xã hội so
với giai cấp cơ bản.

● Tầng lớp xã hội trung gian:

Đặc điểm: Tầng lớp này không bị bóc lột hoặc bóc lột ít trong các chế
độ bóc lột.

Vai trò trong kết cấu xã hội: Có thể họ không đóng góp nhiều vào quá
trình sản xuất chủ nghĩa tư bản, nhưng cũng không chịu đựng sự áp đặt
hay bóc lột lớn. Tầng lớp này có thể bao gồm những người làm công
việc có tính chất trung gian, như nhóm trung ương trong các tổ chức
hay ngành nghề giáo dục.

2.1 Định nghĩa về đấu tranh giai cấp ( HẠNH AN )

Theo quan điểm mác xít, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới
sự phân công lao động xã hội; sự phân công lao động xã hội, làm cho
năng suất lao động được nâng cao. Các quá trình này tác động qua lại
với nhau đã tạo ra của cải vật chất dư thừa tương đối và chính số của
cải dư thừa có giới hạn này đã tạo ra chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự
phân hóa xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự mâu thuẫn lợi ích
giai cấp không thể điều hòa được làm nảy sinh đấu tranh giai cấp.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều


kiện mới của lịch sử, V.I.Lênin chỉ rõ: “Đấu tranh giai cấp là gì? Đấu
tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này chống lại một bộ
phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người làm thuê hay những người vô
sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản. Đấu tranh giai
cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản
đối lập nhau trong phương thức sản xuất nhất định.

2.2 Vai trò của đấu tranh giai cấp ( HẠNH AN )

Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp, quan
trọng của lịch sử. Sự phát triển của xã hội là kết quả của sự tác động
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng
sản xuất có sự phát triển về tính chất và trình độ, mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu, đòi hỏi phải phá bỏ quan hệ sản xuất
cũ. Thông qua cách mạng xã hội mà quan hệ sản xuất cũ bị xoá bỏ,
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất được thiết lập. Khi cơ sở kinh tế mới được hình thành, phát triển
thì kiến trúc thượng tầng mới sớm hay muộn cũng được ra đời, phát
triển theo, xã hội thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội
thấp sang hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn.

Vai trò là động lực của đấu tranh giai cấp, còn được thể hiện trong
những thời kỳ tiến hoá xã hội. Ngay trong phạm vi vận động của một
hình thái kinh tế - xã hội, đấu tranh giai cấp thường xuyên tác động
thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Thực tiễn cho thấy,
sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hóa và ngay cả tư tưởng, lý luận
của xã hội,... đều là sản phẩm ít hoặc nhiều mang dấu ấn của cuộc đấu
tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp không những cải tạo xã hội, xóa bỏ
các lực lượng xã hội phản động, mà còn cải tạo bản thân các giai cấp
cách mạng. Thông qua thực tiễn đấu tranh giai cấp, giai cấp của cách
mạng có sự trưởng thành về mọi mặt, phải tự nâng mình lên đáp ứng
được yêu cầu của lịch sử.

Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp. Song
vai trò là động lực của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử không
giống nhau. Vai trò của đấu tranh giai cấp đến mức độ nào đó phụ
thuộc vào quy mô, tính chất của các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội
mà mỗi cuộc đấu tranh giai cấp phải giải quyết. Cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giai cấp
cuối cùng trong lịch sử. Do tính chất, quy mô rộng lớn và triệt để của
các nhiệm vụ mà nó phải giải quyết, vì vậy đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản là “đòn bẩy vĩ đại nhất” trong lịch sử xã hội có giai cấp.

Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng không phải
là động lực sâu xa và động lực duy nhất mà là một động lực trực tiếp
và quan trọng. Vì vậy, trong đấu tranh cách mạng cần phải xác định hệ
thống các động lực của xã hội, có nghệ thuật sử dụng những động lực
đó để giải phóng giai cấp và thúc đẩy xã hội phát triển.

2.3 Sự cần thiết phải thực hiện đấu tranh giai cấp ( HỒNG )
1. Các thế lực thù địch cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định đấu
tranh giai cấp là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử, là tuyệt đối
hóa vai trò của đấu tranh giai cấp.

Chủ nghĩa Mác - Lênin không hề tuyệt đối hóa vai trò của đấu tranh giai cấp,
các ông luôn cho rằng giai cấp và đấu tranh giai cấp là một phạm trù lịch sử, chỉ
xuất hiện trong xã hội có giai cấp. Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai
cấp thống trị chiếm đoạt lao động của giai cấp bị trị. Giai cấp bị trị không những
bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư tưởng và
tinh thần. Giai cấp thống trị bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện
bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế, xã hội cho phép họ
được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích căn bản của giai cấp bị
trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị - đây là nguyên nhân trực tiếp
dẫn tới đấu tranh giai cấp.

Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C.Mác là mâu thuẫn giữa
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội
phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó
bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất

2. Các thế lực thù địch, một số học giả tư sản đã cường điệu hóa quan
điểm của C. Mác về đấu tranh giai cấp và cho rằng chủ nghĩa Mác -
Lênin là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”. Họ cho rằng Mác lúc nào cũng
chỉ nói đến đấu tranh giai cấp, đến bạo lực cách mạng, như vậy là kích
động chiến tranh, cổ vũ cho bạo lực trong xã hội.

Cần phải khẳng định, trong nhiều tác phẩm, chủ nghĩa Mác – Lênin luôn cho
rằng đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ,
chỉ có ý nghĩa phá hoại gây chia rẽ, bè phái, gây rối loạn, làm tổn thất cho xã
hội mà là một quá trình tất yếu, khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, là
những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp
thống trị.

Nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp này bắt nguồn từ những mâu thuẫn
về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế không thể điều hòa được giữa các giai cấp.
Cuộc đấu tranh này có ý nghĩa cách mạng sâu sắc, nhằm xóa bỏ những cơ sở
kinh tế của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ xã hội cũ lỗi thời, xây dựng chế độ
xã hội mới tiến bộ hơn. Do vậy, đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy xã
hội phát triển, chứ không phải là sự gây rối, phá hoại, chủ nghĩa Mác – Lênin
không phải là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”, đây là sự quy chụp vô căn cứ,
không dựa trên bất cứ cơ sở khoa học nào.

Chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt đối không sùng bái bạo lực mà coi bạo lực cách
mạng là “bà đỡ” để đưa xã hội mới ra đời trong lòng xã hội cũ. Vấn đề xã hội
mới trưởng thành, phát triển như thế nào thì chủ yếu là vấn đề xây dựng. Trong
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, sở dĩ dùng bạo lực cách mạng là
để chống lại bạo lực phản cách mạng.

3. Những kẻ chống đối chủ nghĩa Mác – Lênin còn cho rằng sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu chính là minh chứng cho sự sai lầm của học thuyết
Mác - Lênin trong đó có lý luận về đấu tranh giai cấp.

Mục đích của sự xuyên tạc này là nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội nói chung và về
đấu tranh giai cấp nói riêng.

Trước tiên, chúng ta không thể phủ nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và Đông Âu là một bước lùi lịch sử của của phong trào cộng sản
và công nhân toàn thế giới. Sự sụp đổ đó cũng không phải là sự “cáo chung”
của chủ nghĩa Mác, nó cũng không phải là do chủ nghĩa Mác đã lạc hậu, lỗi thời
mà đó thực sự là do đã hiểu sai, vận dụng sai những quan điểm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô “bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại
trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng cầm quyền, cùng sự
phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Sự phát triển của các nước theo con đường
chủ nghĩa xã hội hiện nay đã chứng minh những luận điệu trên là thiếu tính
khoa học, là sự bịa đặt hoang đường. Thực tế cho thấy, các nước xã hội chủ
nghĩa hiện nay vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận
dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới để tìm kiếm những
mô hình phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của quốc gia - dân tộc mình:

Trung Quốc với sự cải tổ của mình, ngày càng chứng tỏ được vị thế của họ trên
thế giới; công cuộc đổi mới của Việt Nam, Lào, Cuba và một số trào lưu xã hội
chủ nghĩa trên thế giới đã minh chứng cho sức sống của chủ nghĩa Mác –Lênin.

4. Các thế lực thù địch, bọn cơ hội chính trị cho rằng do kết cấu giai cấp
trong xã hội Việt Nam khác với các nước khác, nên sự vận dụng quan
điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là
không phù hợp.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, việc nhận thức và giải quyết vấn đề
đấu tranh giai cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể
của mỗi quốc gia, dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm về giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong việc lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Khi phân tích, so sánh
về đấu tranh giai cấp ở phương Đông và phương Tây, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ
rõ sự khác biệt do điều kiện kinh tế - xã hội quy định: “Ấn Độ hay Trung Quốc
về mặt cấu trúc kinh tế không giống với các xã hội phương Tây thời trung cổ
hay thời cận đại và đấu tranh ở đó không quyết liệt như ở đây”. Do vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm phiến diện, giáo điều về đấu tranh giai cấp
ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai
cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho
đúng”

Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về đấu tranh giai cấp. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Ðảng Cộng
sản Việt Nam vẫn giữ vững lập trường cách mạng, trung thành với quan điểm
về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta luôn xác định rằng,
hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta vẫn còn
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đó là một thực tế khách quan. Song quan niệm
đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện mới, nội dung và
hình thức mới.

-> Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh giai
cấp vẫn còn nguyên giá trị. Nhưng trước sự chống phá của các thế lực thù địch,
đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu cho thấu đáo, không được tuyệt đối hóa vai trò
của đấu tranh giai cấp, nhưng cũng không được mơ hồ, xóa nhòa đi đấu tranh
giai cấp. Việc nắm vững các lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin giúp chúng ta
nhận diện được các luận điểm phản động, từ đó có những căn cứ và luận
chứng sắc bén để đánh bại sự xuyên tạc của kẻ thù, qua đó bảo vệ thành quả
cách mạng, giữ vững con đường mà đất nước ta đã lựa chọn.

2.4 Đặc điểm của đấu tranh giai cấp ( THU TRANG )

Đấu tranh giai cấp là hiện tượng xã hội phản ánh sự xung đột giữa các
tầng lớp xã hội với sự chênh lệch về tài nguyên và quyền lực. Điều này
thường dẫn đến sự đối lập về lợi ích và quan hệ sản xuất. Quá trình này
thường được thể hiện qua các biểu hiện như cuộc đấu tranh lao động và sự
bất đồng về quản lý tài sản, tạo nên một động lực chính cho phát triển xã
hội và thay đổi cấu trúc xã hội. Dưới đây là một số đặc điểm quan trọng
của đấu tranh giai cấp:

1. Chia rẽ xã hội:
○ Marx cho rằng xã hội chia thành hai giai cấp chính: giai cấp
tư sản (chủ nghĩa tư bản) và giai cấp vô sản (công nhân). Sự
chia rẽ này là kết quả của mối quan hệ sản xuất và sở hữu
tư bản.
2. Mục tiêu của đấu tranh:
○ Giai cấp vô sản đấu tranh để giải phóng bản thân khỏi ách
đô hộ của giai cấp tư sản và thiết lập một xã hội không còn
sự phân biệt giai cấp.
3. Chủ nghĩa tư bản và tư sản:
○ Marx mô tả chủ nghĩa tư bản như là một hệ thống kinh tế
mà trong đó tư sản sở hữu các phương tiện sản xuất (như
nhà máy, đất đai) trong khi công nhân chỉ sở hữu lao động
của mình. Sự mất cân bằng này dẫn đến sự chia rẽ giai cấp.
4. Chuyển động lịch sử:
○ Marx tin rằng lịch sử xã hội diễn ra qua các giai đoạn phát
triển, từ xã hội nô lệ, qua chủ nghĩa tư bản, đến xã hội cộng
sản. Mỗi giai đoạn này đều đi kèm với một giai cấp thống
trị và một giai cấp bị áp bức.
5. Xung đột và đối đầu:
○ Đấu tranh giai cấp thường diễn ra qua các xung đột và đối
đầu giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Marx mô tả đấu
tranh này như là một lực đẩy chủ yếu đằng sau sự thay đổi
xã hội.
6. Sự đổi mới kỹ thuật và kinh tế:
○ Marx lưu ý rằng sự phát triển của kỹ thuật và kinh tế có thể
tạo ra các thay đổi trong đấu tranh giai cấp. Sự tiến bộ này
có thể tạo ra cơ hội mới cho công nhân nhưng cũng có thể
tăng cường sức mạnh của tư sản.
7. Phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất:
○ Đấu tranh giai cấp liên quan đến sự xung đột giữa phương
thức sản xuất (cách mà hàng hóa được sản xuất) và quan hệ
sản xuất (cách mọi người tổ chức và chia sẻ công việc).

Đặc điểm đấu tranh giai cấp ở Việt Nam:

- Lịch sử chiến tranh: Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam


có ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc chiến tranh giành độc
lập. Cuộc chiến này đã thể hiện sự đoàn kết của các
tầng lớp xã hội khác nhau chống lại thực thể ngoại
xâm.
- Chuyển động giai cấp xã hội: Sau chiến tranh, Việt
Nam đã trải qua quá trình đổi mới kinh tế với sự
xuất hiện của thị trường và kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa. Điều này đã tạo ra những thách thức mới
và tình trạng không đồng đều trong phân phối lợi
ích.
- Mối quan hệ giữa công nhân và chủ nhân: Sự đối lập
giữa công nhân và chủ nhân trong quá trình sản xuất
và phân phối vẫn là một khía cạnh quan trọng của
đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, đặc biệt là trong bối
cảnh kinh tế thị trường phát triển.
- Phong trào xã hội: Các phong trào xã hội như phong
trào công nhân, nông dân, và sinh viên đã đóng góp
vào đấu tranh giai cấp, đặt ra những yêu cầu về
quyền lợi và công bằng xã hội.

3. Nội dung đấu tranh giai cấp ở Việt Nam ( KHẢI DUY )

Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở
nước ta hiện nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân
tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ
và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu
tranh giai cấp là tất yếu.
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu cuộc
đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập
dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh,
nhân dân hạnh phúc.

Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà


chính là thông qua đấu tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo
thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm củng cố, tăng cường và
phát huy vai trò của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân
dân.

Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ tính chất
gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Chúng ta cần nghiên cứu
thấu đáo, cẩn thận, nghiêm túc những tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và quan điểm của Đảng ta, kết hợp với nghiên
cứu thực tiễn một cách cụ thể, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: hoặc
là quá cường điệu đấu tranh giai cấp, dẫn đến mất phương hướng trong
huy động nguồn lực phát triển đất nước; hoặc là xem thường, xóa nhòa
đấu tranh giai cấp đi đến mơ hồ, mất cảnh giác, mắc vào âm mưu diễn
biến hòa bình của các lực lượng phản động trên thế giới đang luôn tìm
cách lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.

4. Thực trạng đấu tranh giai cấp ở việt nam hiện nay( THÁI SƠN )

Hiện nay, Việt Nam đang có thực trạng đấu tranh giai cấp nhưng đã có
những điều chỉnh và thay đổi so với quá khứ. Trong những năm gần
đây, chính phủ Việt Nam đã hướng tới xây dựng một xã hội công bằng
và tiến bộ, tạo điều kiện phát triển cho tất cả các tầng lớp trong xã hội.

Các hành động và chính sách của chính phủ nhằm giảm độ chênh lệch
giai cấp, đảm bảo quyền lợi của lao động và tăng cường sự công bằng
trong xã hội. Một số biện pháp như tăng cường đào tạo nghề nghiệp
cho lao động, tạo ra cơ hội việc làm, nâng cao mức sống và tiêu chuẩn
cuộc sống cho người dân.

Tuy nhiên, việc đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại ở một số lĩnh vực,
đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Hiện vẫn có sự
chênh lệch về thu nhập và cơ hội phát triển giữa các tầng lớp, đặc biệt
là giữa thành phố và nông thôn.

Đồng thời, trong giai đoạn hiện nay, một số vấn đề xã hội như thất
nghiệp, nhà đất, tệ nạn ma túy cũng góp phần làm gia tăng sự chênh
lệch giai cấp và tạo ra những bất bình đẳng xã hội.

Thực tế, Việt Nam đang tiếp tục đối mặt với một số vấn đề liên quan
đến đấu tranh giai cấp:

1. Sự chênh lệch thu nhập: Các nhóm giai cấp khác nhau đang tồn tại
sự chênh lệch về thu nhập và phúc lợi. Một số người giàu có và các
doanh nhân thành công tận hưởng lợi ích của sự phát triển kinh tế
nhanh chóng, trong khi một số người dân vẫn đối mặt với khó khăn
trong việc cải thiện mức sống của mình.

2. Vấn đề công nhân: Công nhân và lao động trong các ngành công
nghiệp cũng đang phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. Các vụ
việc liên quan đến việc làm giờ miễn phí, điều kiện làm việc kém an
toàn và hạn chế tự do là những vấn đề đang được thảo luận.

3. Khiếm khuyết về quyền tự do ngôn luận: Mặc dù đã có sự tiến bộ


trong việc mở cửa cho tự do ngôn luận, vẫn còn tồn tại những hạn chế
và kiểm soát về thông tin. Một số cá nhân và tổ chức còn bị hạn chế
trong việc phát biểu ý kiến công khai và tư do thông tin gặp yếu kém.

Để giải quyết tình trạng này, chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai
các chính sách và biện pháp cụ thể như tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
đầu tư vào hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ quyền lợi của lao
động. Tuy nhiên, thực trạng đấu tranh giai cấp ở Việt Nam vẫn còn là
một thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước.

5. Kết luận bài học rút ra và thông điệp ( PHƯỚC DUY )

Đầu tiên là việc nhận thức rõ ràng về sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội dựa trên vị
thế kinh tế và quyền lực xã hội. Điều này bao gồm việc nhận diện được mục tiêu và lợi
ích riêng của từng giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp và là một xu thế
tất yếu, khách quan của xã hội có giai cấp, nó không chỉ là một hiện tượng lịch sử mà còn
là một động lực xã hội có thể dẫn đến thay đổi và tiến bộ xã hội.
Bài học từ quá trình lịch sử cần ghi nhận là đấu tranh giai cấp đã có những đóng góp quan
trọng trong việc hình thành và phát triển của dân tộc, điển hình qua các thời kỳ đấu tranh
giành độc lập và xây dựng đất nước. Việc áp dụng những bài học lịch sử vào thời đại hiện
đại đòi hỏi phải hiểu và giải quyết các mâu thuẫn giai cấp theo hướng đảm bảo công bằng
xã hội và phát triển bền vững. Trong xã hội Việt Nam hiện đại, đấu tranh giai cấp được
thể hiện qua các chính sách pháp luật, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng xã
hội và chăm sóc xã hội.

Thông Điệp: Để có một xã hội hài hòa và phát triển, Việt Nam cần tiếp tục nâng cao nhận
thức khoa học về đấu tranh giai cấp và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội
có sự tham gia rộng rãi của tất cả các tầng lớp nhân dân, đồng thời giải quyết mâu thuẫn
giai cấp thông qua đối thoại, cải cách và hợp tác xã hội để đạt được mục tiêu chung là sự
thịnh vượng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Đảng, Nhà nước và cuộc sống tốt
đẹp hơn cho mọi người dân.

You might also like