You are on page 1of 12

I.

Hai nguyên lý
* Khái niệm về phép biện chứng
- Định nghĩa phép biện chứng:
+ Ăngghen: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và
sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
- Sơ lược về các giai đoạn hình thành và phát triển của phép biện chứng trong lịch sử:
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: Phản ánh tính chất chung của thế giới là vận động biến đổi không
ngừng nhưng chủ yếu dựa trên cơ sở quan sát mang tính trực quan, cảm tính.
+ Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức (đại biểu là Hêghen): đã xây dựng được một hệ thống
các nguyên lý, quy luật, phạm trù về sự vận động, phát triển của thế giới nhưng lại mang tính chất duy tâm
thần bí, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan.
+ Phép biện chứng duy vật do Mác-Ăngghen xây dựng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng, nó mang tính khoa học. Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, ba
quy luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ: cho rằng sự vật hiện tượng tồn tại độc lập tách biệt với nhau, giữa
chúng không có sự liên hệ, nếu thừa nhận có sự liên hệ thì đó chỉ là liên hệ bề ngoài, thụ động, một chiều,
giữa các hình thức liên hệ không có sự chuyển hoá lẫn nhau.
- Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ:
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay các mặt sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mlh, chỉ những mlh tồn tại ở mại sự vật, hiện tg của
TG
* Tính chất của mối liên hệ
- tính khách quan: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của
con người. VD: cung cầu, nhân quả
- tính phổ biến, thể hiện:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm
ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới
hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
-tính đa dạng, phong phú:
Sự vật hiện tượng trong thế giới là phong phú, đa dạng, vì vậy hình thức liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng.
Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trí, phạm vi vai trò, tính chất mà phân chia ra thành những mối liên hệ khác
nhau như: mối liên hệ bên trong - mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất - mối liên hệ không bản chất,
mối liên hệ trực tiếp - mối liên hệ gián tiếp, mối liên hệ chủ yếu - mối liên hệ thứ yếu v.v… Nhưng sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đối.
VD: thành công trong việc chống lại đại dịch Covid
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật hiện tượng phải có quan điểm toàn diện.
Yêu cầu của quan điểm toàn diện:
+ Phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khâu trung gian của nó.
+ Phải nắm được và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ trong
quá trình cấu thành sự vật .
- Bản thân quan điểm toàn diện đã bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem xét sự vật, hiện tượng
phải đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời gian mà sự vật, hiện tượng tồn tại .
2. Nguyên lý về sự phát triển
* Quan điểm siêu hình về sự phát triển:
- phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng
- Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự
vật, hiện tượng mới
* Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển:
- phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện của sự vật
- Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi
- Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật, hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng quy
định.
- Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới.
* Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan: nguồn gốc của sự phát triển so các ql khách quan chi phối mà cơ bản nhất là sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập
- Tính kế thừa nhưng trên cơ sở phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế thừa nguyên xi hay lắp ghép
từ cái cũ sang cái mới một cánh máy móc, hình thức.
- Tính phổ biến: phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
trong thế giới khách quan.
- Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng,
song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên tắc phát triển
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động, biến đổi, chuyển hóa nhằm phát
hiện ra xu hướng biến đổi
+ Nhận thức sự vật, hiện tượng trong tính biện chứng để thấy được tính quanh co, phức tạp của sự phát triển
+ Biết phát hiện và ủng hộ cái mới, chống bảo thủ, trì trệ định kiến
+Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới
- Nguyên tắc lịch sử- cụ thể
+ phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể, trong những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, tránh cái nhìn chung chung, trừu tượng
+ khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải tái tạo lại được sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng qua
những ngẫu nhiên lịch sử, qua những bước quanh co, qua những điều kiện lịch sử- cụ thể
+ Khi đánh giá một luận điểm khoa học, cần đặt nó trong những điều kiện lịch sử- cụ thể. Một luận điểm nào
đó có thể đúng trong trường hợp này nhưng lại sai trong trường hợp khác, không có chân lý trừu tượng, chân
lý bao giờ cũng cụ thể
 Ý nghĩa:
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng, cần đặt chúng trong những điều kiện cụ thể, tránh rơi vào giáo điều,
chiết trung, ngụy biện
- Chống lại thái độ tuyệt đối hóa cái cụ thể, xem nhẹ tiến trình chung, quy luật chung
*Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Cái riêng và cái chung
* Định nghĩa
- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định
- Cái chung là một phạm trù triết học, dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một
kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những đặc điểm, những mặt, những thuộc tính … chỉ có ở một sự vật,
một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
* Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Quan điểm của phái duy danh và duy thực về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
+ Phái duy danh: Cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại còn cái chung (khái niệm, phạm trù) chỉ là những tên
gọi trống rỗng do tư tưởng của con người sáng tạo ra.
+ Phái duy thực: Cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, không
phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không có
cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. 2 quả bóng khác màu nhau có cùng kích cỡ
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại độc lập tách rời
tuyệt đối với cái chung. Vd: bầy đàn
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những điểm chung cái riêng còn có cái đơn
nhất.
Thứ tư, cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh thuộc tính, những mối liên hệ ổn định tất nhiên
lặp lại ở nhiều cái riêng còn lại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại
và phát triển của cái riêng.
Thứ năm, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự
chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng.
- Trong thực tiễn thấy sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung nào có lợi ta cần chủ động tác động vào
đó để nó nhanh chóng chuyển hoá.
2. Nguyên nhân và kết quả
* Định nghĩa
- Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
- Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự
vật với nhau gây ra.
- Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ, điều kiện:
+ Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân, nhưng nó chỉ là quan hệ bề
ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả.
+ Điều kiện là những sự vật hiện tượng gắn liền với nguyên nhân, tác động vào nguyên nhân, làm cho nguyên
nhân phát huy tác dụng, những điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả.
* Tính chất của mối liên hệ nhân quả
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
- Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra, chỉ có
điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
- Tính tất yếu: Một nguyên nhân nhất định, trong điều kiện hoàn cảnh nhất định sẽ gây ra kết quả tương ứng
với nó.
* Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất
hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nào về mặt thời gian cũng là
mối liên hệ nhân quả.
- Tính phức tạp của quan hệ nhân quả:
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
+ Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Nếu những nguyên nhân tác động cùng chiều có thể hình
thành kết quả nhanh chóng, còn nếu nguyên nhân tác động ngược chiều thì có thể hạn chế hoặc triệt tiêu việc
hình thành kết quả.
- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân;
+ Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự hoạt động của
nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực).
- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau:
Một sự vật nào đó trong mối liên hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác lại là kết quả và ngược
lại. Chuỗi nhân quả là vô cùng không có bắt đầu và không có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được xem là
nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải bắt đầu từ việc đi tìm những nguyên nhân xuất hiện
sự vật, hiện tượng
- Cần phải phân loại các loại nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.
- Phải tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt
mục đích đã đề ra.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
* Định nghĩa
- Tất nhiên là phạm trù chỉ những cái do nguyên nhân cơ bản, bên trong sự vật quy định; do đó, trong những
điều kiện, hoàn cảnh nhất định, nó tất yếu phải xảy ra đúng như thế, không thể khác.
VD: học bài thì phải kiểm tra
- Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ những cái do nguyên nhân không cơ bản, hoặc ngẫu hợp của các điều kiện, hoàn
cảnh bên ngoài quy định; do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc
xuất hiện như thế khác
VD: Lúc thi, kiểm tram thầy giáo gọi ai là ngẫu nhiên
- Lưu ý: phân biệt tất nhiên với các phạm trù cái chung
+ Tất nhiên trước hết cũng là cái chung nhưng không phải mọi cái chung đều là cái tất nhiên. Chỉ những cái
chung nào được quyết định bởi bản chất, quy luật phát triển của sự vật mới đồng thời là cái tất nhiên, là hình
thức biểu hiện của cái tất nhiên.
VD: tất cả sv có điểm chung là phải thi TNQG
+ Những cái chung đơn thuần laowj lại một dố mặt, yếu tố, thuộc tính nào đó của sự vật chỉ là hình thức biểu
hiện của ngẫu nhiên
VD: thi kết thúc môn có 3 bạn đc 9. Cả 3 đều là nữ
- Có quan niệm cho rằng chỉ những cái tất nhiên mới có nguyên nhaanm còn cái ngẫu nhiên không có
nguyên nhân
 Sai lầm. thực tế cho thấy, cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Chỉ khác nhau ở chỗ, cái tấ
nhiên gắn với những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu chung của sự vật quy định VD: đc điểm cao: chăm chỉ,
thời gian… còn ngẫu nhiên là do nguyên nhân thứ yếu, không cơ bản, bên ngoài gây nên. VD: ko học, khoanh
bừa ngẫu nhiên đc đáp án đúng
- Một số người quan niệm, chỉ cái tất nhiên mới có tính quy luật còn cái ngẫu nhiên không có tính quy luật:
triết học Mác- lê nin quan niệm: cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật nhưng khác nhau là
+cái tất nhiên tuân theo quy luật động lực-quy luật mà trong đó, quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là quan
hệ đơn trị- ứng với một nguyên nhân là một kết quả trương ứng, xác định
VD: không học bài  tất nhiên bị điểm kém
+ cái ngẫu nhiên tuân theo quy luật thống kê – quy luật mà trong đó, quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là
quan hệ đa trị-ứng với một nguyên nhân thì kết quả có thể như thế này hoặc như thế khác.
VD: đánh lô, đề ngẫu nhiên trúng hoặc trượt
* Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đều có vị trí nhất định đối
với sự phát triển của sự vật.
-Nếu như cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên làm cho sự phát triển
của sự vật diễn ra nhanh hay chậm.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên thống nhất hữu cơ với nhau, trong đó ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất
nhiên. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ:
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
- Tất nhiên vạch đường đi xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên chổ sung cho tất nhiên
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau:
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong
những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành ngẫu nhiên và ngược lại.
+ Khi xem xét trong mối quan hệ này thì nó là ngẫu nhiên nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khách thì nó
là tất nhiên. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải nắm bắt cái tất nhiên, hành động theo cái tất nhiên. -
-- Muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua nhiều cái ngẫu nhiên.
- trong nhận thức và hành độngt hực tiến phải chú ý cái ngẫu nhiên. Dự kiến được nhuaxnwg cái ngẫu nhiên
có nahr hưởng tới quá trình phát triển của sự vật
4. Nội dung và hình thức
* Định nghĩa
- Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp những mặt, những yêu stoos nhxuwng quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối quan hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.
VD: Nd của truyện kiều nói về….Hình thức: thơ lục bát
Sự vật nào cũng có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong của sự vật chính là
phương thức tồn tại cảu sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành sự
vật, là cơ cấu của nội dung, hình thức bên ngoài là biểu hiện bề mặt của nội dung, là hình dáng tồn tại của sự
vật, có thể được nhận thức trực tiếp bằng giác quan
VD: nd về mặt tri thức, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức. hình thức: lời ăn, tiếng nói
* Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn
tại thuần túy không chứa nội dung, ngược lại, cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình
thức xác định. Nội dung nào có hình thức
+ Một nội dung có thể được biểu hiện bằng nhiều hình thức và một hình thức cũng có thể thể hiện bnafwg
nhiều nội dung
VD: thi kth bằn tn, tl,…
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
VD: nắm chắc nd, thi ntn cx k lo
+ Nội dung quyết định hình thức, nội dung thay đổi thì trước sau hình thức cũng thay đổi phù hợp với nội
dung.
+ Hình thức biến đổi chậm hơn và không thường xuyên như nội dung.
- hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự
tác động trở lại của hình thức đối với nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo
điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với nội dung thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của hình thức.
VD: pp giảng dạy
* Ý nghĩa phương pháp luận
- để nhận thức và cải tạo được dự vật, trước hết ta phải căn cứ vào nội dung
Những hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải
thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức pù hợp với nội dung để thúc đẩy nội
dung phát triển
5. Bản chất và hiện tượng
* Khái niệm
- Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật
- Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra “bên ngoài” của bản chất.
VD: bản chất của CNTB là bóc lột, hiện tượng thể hiện bản chất bóc lột của CNBT: giảm lương, tăng giờ lm,

* Phân biệt phạm trù bản chất – hiện tượng với phạm trù cái chung và quy luật
- Có cái chung là cái bản chất, nhưng cũng có cái chung không phải là cái bản chất.
- Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của
nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.
* Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lặp với nhau trong sự vật.
- Thống nhất:
+ bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện
tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất
+ Sự thống hất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp
với nhau.
Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ
bộc lộ những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện của nó cũng thay đổi theo. Khi
bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện của nó cũng mất theo
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng
+ Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. do vậy, không
phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ, bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của
sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái rieengm cái cá biệt. cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện
tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất,
còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện còn thể hiện ở chỗ
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiệ thực KQ; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực
KQ đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác
nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất, biểu hiện bản chất đươi hình thức đã biến đổi, nhiều
khi xuyên tạc bản chất
* Ý nghĩa phương pháp luận
- phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ
được bản chất của sự vật
- nhận thức bản chất của sự vật là một quá trinhg phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn
- Nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật
6. Khả năng và hiện thực
* Định nghĩa
- Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiên, sẽ tồn tại thực sự
khi có các điều kiện tương ứng.
- Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế
- Điều kiện là phạm trù dùng để chỉ những tác động, hoàn cảnh tác động trực tiếp hoặc, gián tiếp đến SV, HT.
thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của SV, HT
- Phân biệt khả năng với tiền đề hoặc điều kiện của sự vật:
+ Tiền đề hay điều kiện của một sự vật nào đó đều là những cái hiện đang tồn tại thật sự, là những yếu tố hiện
thực để trên cơ sở đó xuất hiện cái mới
+ còn khả năng không phải là bản thân các tiền đề, đk của cái mới mà là cái mới đang ở dạng tiềm thế, chỉ
trong tương lai với những điều kiện thích hợp nó mới tồn tại thực
- Có thể phân chia thành các loại khả năng: KN tất nhiên, kn ngẫu nhiên, KN gần, KN xa, KN chủ yếu , kn
thứ yếu,…
* Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại tron mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời và luôn chuyển hóa lẫn
nhau trong quá trình phat triển của sự vật
- Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật
chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng
nàu nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới. quá trình đó cứ diễn ra liên tực, làm cho sự vật vận
động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất
- Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. điều đó thể hiện ở chỗ cùng trong những đk nhất
định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.
- VD:baayh chiến tranh xảy ra có thể tiến công bằng: đường biển, đg thủy…
- Bên cạnh những khả năng sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng
mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện
- Để một khả năng biến thành hiện thực, thường không chỉ cần một điều kiện mà là một tập hợp các điều
kiện
- Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn để biến khả năng
thành hiện thực
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương
hướng hành động cho mình.
- Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, để biến khả năng thành hiện
thực, thúc đẩy xã hội phát triển hơn nữa.
- Cần tránh hai thái cực sai lầm, một là, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan; hai là hạ thấp vai trò nhân tố
chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.
* Những quy luật cơ bản của phép biện chứng.
1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại
Vai trò của quy luật: chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm về chất và lượng
- Quan điểm triết học ngoài Mác-xít:
+ Arixtot, ông đã luận giải phạm trù chất và lượng một cách tương đối có hệ thống. theo ông, chất là tất cả
những gì làm cho sự vật là nó, còn lượng là tất cả những gì có thể phân chia (thành số lượng và đại lượng).
Arixtot còn là người đầu tiên đưa ra quan niệm về tính nhiều chất của sự vật. ông đã đạt được những thành tựu
quan trọng trong tiếp cận nghiên cứu sự thống nhất không thể phân chia giữa chất là lượng của sự vật-cơ sở
hình thành phạm trù độ
+ Đối lập với quan điểm của trường phái DV, CNDT lại phủ nhận tính khách quan của chất. chủ nghĩa
DTCQ, đại biểu nhà triết học Bec cơ ly, Hium, từ chỗ quy các sự vật và hiện tượng của thế giới vào cmar
giác, họ coi chất của sự vật, hiện tượng như thuộc tính của ý thức con người. CNDTKQ, mà đại biểu như nhà
triết học Heeghen do coi các sự vật, hiện tượng xung quanh chỉ là sự biểu hiện của ý niệm tuyệt đối nên chất
là cái thuộc về ý niệ tuyệt đối, không tồn tại khách quan
- Khái niệm về chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
+ Chất là chỉ những tính quy định khách quan, vốn có.
+ Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, chứ không phải là một sự kết hợp máy móc hay hỗn hợp. Theo
Ph.Ăngghen: “Những chất lượng không tồn tại, mà những vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn
chất lượng mới tồn tại”.
+ Sự thống nhất đó tạo cho sự vật thành một chỉnh thể cho phép phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật,
hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với thuộc tính:
+ Chất là tổng hợp nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính là một bộ phận của chất, mỗi sự vật có nhiều chất.
+ Các thuộc tính bộc lộ theo một mối liên hệ cụ thể, khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất mới thay đổi, sự
phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ là tương đối.
+ Chất gắn với kết cấu sự vật.
- Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
VD: chiều cao, sĩ số lớp
- Đặc điểm:
+ Lượng là khách quan, quy định về sự vật, bên trong sự vật mặc dù nhiều khi dường như là vẻ bề ngoài.
+ Lượng gắn liền với cấu trúc, có tính phổ biến: dùng để chỉ kích thước (dài, ngắn, to, nhỏ….); số lượng
(nhiều, ít…); mức độ (cao, thấp…), nhịp điệu (nhanh, chậm…)
+ Lượng không nói lên sự vật đó là cái gì, các thông số về lượng thường xuyên thay đổi trong quá trình vận
động phát triển của sự vật.
+ Phân biệt khái niệm giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
* Mối liên hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
- Thực chất, chất và lượng là hai mặt của sự vật; cho nên, chất bao giờ cũng thể hiện ra một lượng nhất định,
không có chất thuần tuý; và lượng bao giờ cũng là lượng quy định một chất nhất định, không có lượng thuần
tuý.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay
đổi chất căn bản của sự vật.
+ Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật.
+ Độ là sự ổn định của sự vật: trong độ, sự vật vẫn là nó chứ chưa biến thành cái khác.
+ Các sự vật khác nhau có độ khác nhau.
- Điểm nút: là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi chất của sự vật
- bước nhảy: là sự chuyển hóa về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng gây nên
- Lượng biến đổi dần tới một mức độ nhất định dẫn tới sự thay đổi về chất. Không có sự thay đổi về lượng thì
không có sự thay đổi về chất.
+ Muốn có sự thay đổi về chất thì phải biến đổi dần dần về lượng.
+ Quá trình thay đổi từ lượng đến chất trải qua các giai đoạn sau: Khi thay đổi về lượng mà vẫn chưa dẫn tới
thay đổi về chất thì quá trình đó gọi là tiệm tiến, tiến hoá. Tới một mức độ dẫn đến sự thay đổi về chất gọi là
bước nhảy và giới hạn xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút. Trong tiến trình phát triển của sự vật có nhiều điểm
nút tạo nên đường nút. Quy luật này phổ biến, thể hiện sự vận động liên tục trong tính đứt đoạn của lượng
chất.
Tính phổ biến của quy luật được thể hiện:
Trong thế giới vô cơ: Bảng tuần hoàn Menledeev, hoặc các phản ứng hoá học, theo Ăngghen: “Người ta có
thể gọi hoá học là khoa học của biến đổi chất sự biến đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi về thành
phần số lượng”. Trong thế giới hữu cơ sự tiến hoá về loài trải qua hàng triệu năm.
Trong xã hội: xã hội phương Tây phải hơn 1000 năm phong kiến mới chuyển sang được xã hội mới, xã hội tư
bản, còn xã hội phương Đông trải qua 4-6 ngàn năm mà vẫn chưa đạt được như trình độ phương Tây hiện nay.
Trong tư duy: Triết học Mác ra đời là do kế thừa thành tựu lý luận trước đó: I. Cantơ, L.Phoiơbăc, G.Hêghen.
* Khi chất mới ra đời tạo điều kiện cho lượng mới phát triển
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm
thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ: Nước ở trạng
thái lỏng với 1 lít = 1dm3, nhưng ở trạng thái khí thì thể tích lớn hơn, vận tốc phân tử cũng lớn hơn. Sự thay
đổi đó được thể hiện bằng các hình thức bước nhảy. V.I.Lênin từng nói: “Nhưng đời sống thực tế, lịch sử thực
tế thì lại bao hàm cả những khuynh hướng khác nhau đó, cũng như đời sống và sự phát triển trong tự nhiên
vẫn bao hàm cả sự tiến hoá chầm chậm lẫn những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự gián đoạn của quá
trình tiệm tiến”*
* Các hình thức bước nhảy
+ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận (cục bộ)
+ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần

Các hình thức cơ bản của bước nhảy: 


+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhẩy đột
biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất
của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến
khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước nhảy
được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những
nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả
sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự
vật.  Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự
vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực
hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

* Một số kết luận về phương pháp luận


- cần tích lũy ddue lượng để dẫn đến thay đổi về chất
- tránh tư tưởng chủ wun, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn”
- vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy để thúc đẩy quá trình chuyển hóa
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
* Một số khái niệm cơ bản:
- Khái nệm mâu thuẫn đã được chỉ ra trong triết học cổ đại, tuy nhiên do hạn chế bởi trình độ phát triển của
KH nên chỉ hiểu mâu thuaanc trong lĩnh vực tư duy (ý kiến, quan điểm)
- Quan điểm biện chứng đã khẳng định: Sự vật là một thể thống nhất nhiều mặt khác nhau, trong đó có ít nhất
hai mặt đối lập, như: nguyên tử (điện tử và hạt nhân); xã hội tư bản (vô sản và tư sản); tư duy (chưa biết và
biết).
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan, tạo nên sự vật.
+ Sự tồn tại các mặt đối lập là phổ biến. Nếu sự vật không có mặt đối lập thì sự vật không tồn tại.
VD: cây vừa quang hợp vừa hô hấp
- Mâu thuẫn biện chứng: là các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau trong sự thống nhất, là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển…
+ Mâu thuẫn biện chứng quy định sự tồn tại của sự vật chứ không phải tiêu diệt sự vật, nó là sự thống nhất của
các mặt đối lập, sự chuyển hoá các mặt đối lập tạo nên sự ra đời hay kết thúc sự tồn tại sự vật.
+ Mâu thuẫn biện chứng có tính khách quan, tính phổ biến. Như: cơ học (hút- đẩy); vật lý (hạt-sóng); hoá học
(liên kết –phân rã); sinh học (đồng hoá- dị hoá, hưng phấn- ức chế); xã hội (xã hội-tự nhiên, tồn tại xã hội-ý
thức xã hội, giai cấp); (chưa biếtbiết).
+ Các mặt đối lập nhưng không trong một thể thống nhất, một chỉnh thể chỉ có thể tạo nên mâu thuẫn hình
thức, không biện chứng.
- Sự thống nhất: hai mặt đối lập nương tựa, làm tiền đề cho nhau, không tách rời nhau.
Phân biệt hai khái niệm: đồng nhất và thống nhất
+ Đồng nhất: là sự phát triển ngang nhau, các yếu tố giống nhau giữa các mặt đối lập.
+ Thống nhất: thể hiện đòi hỏi sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.
Ví dụ: Khi giai cấp tư sản muốn lật đổ xã hội phong kiến, giai cấp đó đã liên minh với các giai cấp khác như
công nhân, nông dân, tiểu tư sản…;lúc đó, lợi ích các giai cấp trong liên minh thống nhất với nhau. Nhưng
sau khi thắng lợi giai cấp tư sản quay trở lại bóc lột các giai cấp khác, biến họ thành giai cấp vô sản, lúc này
biểu hiện sự đối lập.
- Sự đấu tranh: đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đó.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định sự vận động và phát triển của sự vật, chứ không phải tiêu diệt sự
vật.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất của sự vật, hiện tượng.
*Đặc điểm của mâu thuẫn
-tính khách quan: mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người. vd: mth ctr
- tính phổ biến: tồn tại trong mọi svht, có mth trong tự nhiên, trong xh là tư duy
Vd: đồng hóa, dị hóa; gai cấp, đảng, chân lý và sai lầm
- tính đa dạng, phong phú:
Phân loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
- Trong quá trình vận động phát triển của các sự vật, hiện tượng, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập không tách rời nhau. Sự thống nhất là tương đối, tạm thời (đứng im cũng tương đối); sự đấu tranh là tuyệt
đối (vận động là tuyệt đối).
- Khi mới hình thành, mâu thuẫn chỉ là hai mặt khác nhau, có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Sư
khác nhau đó dần dần trở thành đối lập nhau. Khi hai mặt đối lập xung đột gây gắt với nhau, (lúc này sự vật
vận động với một nhịp điệu ngày càng tăng) đến một lúc nào đó đủ điều kiện các mặt đối lập sẽ chuuyển hoá
lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũ mất đi, sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời, lại có những mặt đối lập và những mâu thuẫn mới đấu tranh với nhau. Cứ như vậy làm cho sự vật vận
động phát triển.
- Như vậy, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong là nguồn gốc và động lực của sự vận
động, phát triển của các sự vật hiện tượng .
* Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập, trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập
không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối
lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới
xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ những xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt
đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức nào đó sẽ hình thành mâu
thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Kể từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dụng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nề kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá
dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng bãi
bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội. Nhưng nền kinh tế
thị trường vẫn còn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt dối lập (còn
gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn
khác biệt nhau, nhưng tất cả sự vật, hiện tượng đó lại luôn tồn tại mối liên hệ phổ biến với nhau.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì cái vốn có trong các sự vật,
hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong  tất cả
các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có tính
đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi
một sự vật hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập đạt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn
cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận
động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kì quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế của nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ
nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp, nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.

* Ý nghĩa phương pháp luận


- Muốn nhận thức đựơc bản chất của sự vật phải phát hiện ra mâu thuẫn, vì mâu thuẫn quy định bản chất của
sự vật. Phải thừa nhận mâu thuẫn tồn tại khách quan, để nhận thức được đầy đủ sự vật phải nhận thức hình
thức được ít nhất hai mặt đối lập.
- Phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể: Sự vật khác nhau, quá trình khác nhau, bản chất khác nhau, thì mâu
thuẫn cũng khác nhau, cho nên cách giải quyết mâu thuẫn cũng khác nhau, tránh rập khuôn, máy móc.
- Muốn thay đổi bản chất sự vật thì phải giải quyết mâu thuẫn, tránh điều hoà.
3. Quy luật phủ định của phủ định.
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
- Khái niệm phủ định:
+ Quan điểm siêu hình: Do dựa trên quan điểm không thừa nhận sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến,
không thừa nhận nguồn gốc sự phát triển bên trong của sự vật và hiện tượng cho nên, khi nhìn nhận sự phát
triển không có gì mới, không thay đổi về chất, chỉ lặp lại hình thức, hoặc phủ định sạch trơn (như diệt một con
sâu, nghiền một cái hạt…), hoặc xoá bỏ không có gì mới.
+ Quan điểm chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo: Thế giới khách quan là do sự sáng tạo của Thượng đế, không có
sự phát triển, nếu có sự phát triển thì theo sự biến đổi nói chung, là sự thay cũ đổi mới tạo nên sự vận động
của sự vật.
+ Quan điểm triết học Mác: sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình quá trình
vận động, phát triển. Thực chất sự phủ định là sự biến đổi nói chung là sự thay đổi cái cũ bằng cái mới, tạo
nên sự vận động của sự vật.
- Khái niệm phủ định biện chứng: Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân,
sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
+ Tính khách quan: Phủ định biện chứng là tự thân của sự vật, là giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, chứ
không phải do sự tác động bên ngoài. Phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan của quá trình vận động
và phát triển của sự vật.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng không xoá bỏ sạch trơn, mà là sự “lột bỏ” cái
cũ, kế thừa cái hợp lý và bảo tồn nó trong giai đoạn mới.
* Nội dung quy luật phủ định của phủ định
- Thế giới vật chất vận động và phát triển diễn ra thông qua quá trình phủ định biện chứng vô tận. Sự phát
triển của sự vật diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kỳ.
Tính chu kỳ của sự phủ định biện chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định, cái mới xuất hiện
dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Hạt thóc cây lúa bông lúa
(khẳng định) (phủ định) (p.định của p.định)
+ Qua lần phủ định thứ nhất, sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính mình (cây lúa phủ định hạt thóc).
+ Qua lần phủ định thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với nó và dường như trở lại dạng ban
đầu nhưng trên cơ sở cao hơn (bông lúa phủ định cây lúa).
Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển
từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất. Đó là sự “lọc bỏ” biện chứng những giai
đoạn đã qua để đạt đến cái mới về chất cao hơn. Đó chính là quá trình phủ định biện chứng. Ở thí dụ trên, qua
hai lần phủ định, sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ ràng, ở sự vật đơn giản ít ra cũng phải thông qua
hai lần phủ định mới có được sự phát triển, ở các sự vật phức tạp số lần phủ định có thể nhiều hơn. (Vòng đời
của con tằm: tằm – nhộng- bướm- ngài- trứng- tằm)
- Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một
chu kỳ mới. Song sự phát triển đó không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
- Phát triển theo đường “xoáy ốc” diễn tả rõ ràng tính biện chứng của quá trình phát triển - đó là tính liên tục,
tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
- Trong sự phát triển có sự thụt lùi. Theo V.I.Lênin: “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va
vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn, là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý
luận”
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Cho phép chúng ta nhận thức được khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng
- Sự phát triển của sự vật là tất yếu khách quan, phải nhận thức đúng chu kỳ phát triển của sự vật, con người
có thể góp phần thúc đẩy hay hãm sự phát triển của sự vật.
- Cái mới, cái tiến bộ có khả năng chiến thắng cái cũ là tất yếu. Trong tự nhiên, cái mới ra đời một cách tự
phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn với hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, cần nhận thức và
thúc đẩy cái mới tiến bộ để nó ra đời. Trong khi phê phán cái cũ, cần biết lọc bỏ và trân trọng cái quá khứ.

You might also like