You are on page 1of 23

I.

Khái quát về Tổng Công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC)


Tổng công ty điện lực miền Trung (tên viết tắt là EVNCPC) mà trước đây là Công ty
Điện lực 3 được thành lập vào ngày 07/10/1975, là doanh nghiệp thành viên thuộc Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hoạt động đa ngành nghề trong đó ngành nghề chính là
sản xuất và kinh doanh điện trên địa bàn 13 tỉnh, thành phố miền Trung - Tây Nguyên.
EVNCPC có 17 đơn vị trực thuộc, 05 Công ty con và 09 Công ty liên kết, quản lý cung
ứng điện trên địa bàn 13 tỉnh, thành phố - từ Quảng Bình đến Khánh Hòa và 04 tỉnh Tây
Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông).
II. Thực trạng về NSLĐ của tập đoàn EVN nói chung và EVNCPC nói riêng trong
giai đoạn 2012-2014
2.1 Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng của EVN
* Một số thống kê mô tả cơ bản
NSLĐ trung bình của các công ty điện lực thuộc 5 TCTĐL của EVN có giá trị lớn nhất
khoảng 5.683 nghìn kWh/người, giá trị nhỏ nhất ở mức 224,7 nghìn kWh/người. Giá trị
trung bình của NSLĐ theo sản lượng của EVN là 1.712 triệu kWh/người, con số trung bình
này chênh lệch khá nhiều so với số lớn nhất và nhỏ nhất của NSLĐ. Bên cạnh đó, độ lệch
chuẩn của NSLĐ là khá cao cho thấy mức độ phân tán của NSLĐ giữa các công ty điện lực
(CTĐL) thuộc Tập đoàn EVN là lớn. Như vậy, trên bề mặt số liệu, mức chênh lệch NSLĐ
giữa các công ty điện lực thành viên là đáng kể.
Bảng 1: Thống kê mô tả NSLĐ theo sản lượng của hệ thống phân phối và bán lẻ của
tập đoàn EVN
Chỉ tiêu Giá trị

Giá trị nhỏ nhất (kWh/người) 224.745

Giá trị lớn nhất (kWh/người) 5.683.001

Trung bình (kWh/người) 1.712.213

Độ lệch chuẩn 1.006.734

2.1.1 Thực trạng NSLĐ theo sản lượng và ảnh hưởng của số lượng khách hàng đến
NSLĐ
Về NSLĐ theo sản lượng của 5 TCTĐL thuộc Tập đoàn EVN và NSLĐ tính chung cho
cả 5 TCTĐL này được thể hiện dưới bảng 2 dưới đây:
Bảng 2: NSLĐ theo sản lượng của Tập đoàn EVN và các TCTĐL
từ năm 2012 đến 2014

TCTĐL 2012 2013 2014

NSLĐ Mức Tốc độ NSLĐ Mức Tốc độ NSLĐ Mức Tốc độ


tăng so tăng so tăng so tăng tăng so tăng so
(kWh/ (kWh/ (kWh/
với 2011 với 2011 với 2012 so với với 2013 với 2013
người) người) người)
(%) 2012 (%)
(kWh/ (kWh/ (kWh/
(%)
người) người)
người)

EVN NPC 1.211.676 39.599 3,38 1.297.285 85.609 7,07 1.502.712 205.427 15,84

EVNSPC 1.844.862 18.576 1,02 1.895.763 50.901 2,76 2.135.334 239.571 12,64

EVNCPC 959.480 55.335 6,12 1.010.826 51.346 5,35 1.116.460 105.634 10,45

EVNHN 1.343.011 -53.642 -3,84 1.365.025 22.014 1,64 1.533.542 168.517 12,35

EVNHCM 2.381.784 136.000 6,06 2.557.425 175.641 7,37 2.725.303 167.878 6,56
C

5 TCTĐL 1.482.687 26.711 1,83 1.554.546 71.859 4,85 1.743.912 189.366 12,18

NSLĐ bình quân theo sản lượng tính chung cho 5 TCTĐL tăng từ năm 2012 đến năm
2014 với mức tăng và tốc độ tăng ngày càng lớn. Cụ thể, năm 2012, NSLĐ tăng 1,83% so
với cùng kỳ năm 2011, tương ứng với mức tăng 26.711 kWh/người. Đến năm 2014, NSLĐ
tăng tới 12,18% so với năm 2013, mức tăng tương ứng lên tới 189.366 kWh/người, gấp
gần 7 lần mức tăng NSLĐ của năm 2012, đây là một con số khá ấn tượng. Khi xem xét
chênh lệch NSLĐ năm 2014 với năm 2012 ta thấy, NSLĐ năm 2014 tăng 17,62% so với
năm 2012, tăng tương ứng 261.225 kWh/người.
Hầu hết các TCTĐL đều có NSLĐ tăng từ năm 2012 đến năm 2014 với mức tăng và tốc
độ tăng của từng TCTĐL là khác nhau. Nhưng ngược với xu hướng tốc độ tăng NSLĐ
ngày càng tăng của cả tập đoàn EVN và các TCTĐL còn lại, tốc độ tăng NSLĐ của
EVNCPC giảm từ 6,12% năm 2012 xuống còn 5,35% năm 2013. Tuy nhiên, đến năm
2014, NSLĐ của Tổng này cũng tăng lên 10,45% so với năm 2013, với mức tăng tương
ứng là 105.634 kWh. Tuy nhiên so với các TCTĐL khác, EVNCPC vẫn có mức NSLĐ
thấp nhất trong suốt giai đoạn 2012-2014
Năng suất theo sản lượng của cả tập đoàn EVN và TCTĐL EVNCPC xét theo các
công ty điện lực trực thuộc
NSLĐ theo sản lượng của cả tập đoàn EVN được đánh giá qua NSLĐ trung bình giai
đoạn 2012 -2014 của 105 công ty điện lực thuộc 5 TCTĐL của EVN. Nội dung phân tích
dữ liệu ở phần này sẽ trình bày NSLĐ trong mối quan hệ với số lượng khách hàng.
Hình 2.1: NSLĐ của Tập đoàn EVN theo các TCTĐL giai đoạn 2012-2014
Trước tiên, đánh giá NSLĐ trung bình theo sản lượng giai đoạn 2012-2014 của các
công ty điện lực, ta thấy, NSLĐ giữa các CTĐL trong một TCTĐL cũng có sự khác biệt và
khác biệt ở những mức độ khác nhau. Cụ thể, các công ty điện lực thuộc EVNNPC có
NSLĐ khoảng 200 nghìn kWh/người đến 3,5 triệu kWh/người; các công ty thuộc
EVNCPC là 500 nghìn kWh/người đến 1,8 triệu kWh/người; các công ty thuộc EVNHN từ
600 nghìn kWh/người đến 3 triệu kWh/người; các công ty thuộc EVNHCMC khoảng từ
1,7 triệu kWh/người đến 4,8 triệu kWh/người và các công ty thuộc EVNSPC khoảng từ
600 nghìn kWh/người đến 3 triệu kWh/người.
Sau khi xem xét tổng quan về NSLĐ của Tập đoàn EVN, chúng ta sẽ xem xét một cách
cụ thể hơn về NSLĐ của các công ty thuộc từng TCTĐL.

Hình 2.2: NSLĐ của tập đoàn EVN theo từng công ty điện lực giai đoạn 2012-2014
Hình 2 biểu đạt tọa độ kép giữa số lượng khách hàng và NSLĐ của các công ty điện lực
thuộc tập đoàn EVN. Dễ dàng thấy một số điểm dữ liệu có sự khác biệt đáng kể có thể
quan sát hình học thông thường như Nghệ An, Đồng Nai, Nam Định, Bình Dương, Bình
Phú, v.v.
NSLĐ của một số công ty điện thuộc EVNNPC như Lai Châu, Điện Biên, hay các công
ty như Cao Bằng, Bắc Kạn... là khá nhỏ so với các công ty khác. Điều này có thể dễ dàng
lý giải do đặc điểm địa lý tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa không thuận lợi cho
việc kéo các đường dây điện để đưa điện lưới đến với người dân, do vậy lượng điện phân
phối ra vẫn còn ít và chưa đủ đáp ứng nhu cầu của người dân, dẫn đến NSLĐ theo sản
lượng điện của vùng này vẫn chưa cao.
Xét tổng quan về mối quan hệ giữa NSLĐ với số lượng khách hàng của EVN, khó có
thể đưa ra một kết luận cụ thể nào. Nhiều công ty có NSLĐ ở mức cao nhưng số lượng
khách hàng lại ở mức trung bình như công ty Bình Phú, Bình Dương, Thủ Đức,... Trong
khi đó, các công ty có lượng khách hàng lớn như Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định,... năng
suất lại ở mức trung bình hoặc mức thấp. Cụ thể, Bình Dương, Bình Phú, Thủ Đức với số
lượng khách hàng lần lượt là gần 400 nghìn, trên 200 nghìn và 100 nghìn khách, thì đều có
năng suất đều trên 4 triệu kWh/người. Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định có số khách hàng
trên 500 nghìn khách nhưng năng suất chỉ trên dưới 1 triệu kWh/người. Bên cạnh đó, các
công ty như Bắc Ninh, Hưng Yên cũng có năng suất trên 3 triệu kWh/người nhưng chỉ có
trên 350 khách hàng.
Năng suất tính theo sản lượng của TCTĐL EVNCPC

Hình 2.6: NSLĐ của các công ty thuộc EVNCPC giai đoạn 2012-2014
Từ hình 2.6 về NSLĐ trong mối quan hệ với khách hàng của EVNCPC, so sánh với các
TCTĐL khác thì đây là TCTĐL duy nhất thể hiện rõ hơn về mối quan hệ cùng chiều giữa
số lượng khách hàng và NSLĐ. Nghĩa là, các công ty có số lượng khách hàng lớn như
Bình Định, với khoảng hơn 300 nghìn khách hàng, thì có NSLĐ cao hơn các công ty khác
trong EVNCPC. Các công ty thuộc tỉnh miền núi như Đăk Nông, Kon Tum có NSLĐ chỉ
dưới mức 600 nghìn kWh/người, và đây cũng là hai công ty có số khách hàng ít nhất trong
khu vực, chỉ khoảng trên 100 nghìn khách. Vậy sơ bộ ta thấy NSLĐ tại các tỉnh thuộc
Tổng CPC có thể sẽ tăng theo số lượng khách hàng.
2.1.2 Tương quan giữa NSLĐ và chi phí phân phối điện
Trong giai đoạn 2012-2014, NSLĐ tính theo sản lượng ngày một tăng lên, nhưng mức
tăng chi phí phân phối cho 1 đơn vị sản lượng lại giảm dần.
Bảng 2.3 Mức tăng NSLĐ theo sản lượng và mức tăng chi phí phân phối của EVN giai đoạn 2012-2014
2013 so với 2012 2014 so với 2013
Tốc độ Tốc độ Tốc độ Tốc độ
TCTĐL Mức tăng NSLĐ tăng Mức tăng CPPP tăng Mức tăng NSLĐ tăng Mức tăng CPPP tăng
(kWh/người) NSLĐ (kWh/người) CPPP (kWh/người) NSLĐ (kWh/người) CPPP
(%) (%) (%) (%)
EVN NPC 85.609 7,07 33,73 11.37 205.427 15,84 -16,348 -4.95
EVNSPC 50.901 2,76 23,41 15.27 239.571 12,64 7,730 4.37
EVNCPC 51.346 5,35 72,13 20.89 105.634 10,45 1,310 0.31
EVNHN 22.014 1,64 47,03 21.91 168.517 12,35 25,570 9.77
EVNHCMC 175.641 7,37 37,18 24.25 167.878 6,56 29,520 15.50
5 TCTĐL 71.859 4,85 36,01 16.37 189.366 12,18 6,201 2.42
Tính toán của V&A sử dụng từ dữ liệu gốc do EVN tập hợp. © 2015.
Mức tăng và tốc độ tăng CPPP của cả tập đoàn EVN giai đoạn 2013-2014 giảm so với
giai đoạn 2012-2013. Cụ thể, giai đoạn 2012-2013, mức tăng CPPP của EVN đạt 36,01
đ/kWh ứng với tốc độ tăng 16,37%, nhưng từ 2013 đến 2014, mức tăng này dừng lại ở con
số khá khiêm tốn là 6,201 đ/kWh ứng với tốc độ tăng 2,42%. Đây là một dấu hiệu tốt cho
việc giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động của toàn Tập đoàn. Đối với riêng từng TCTĐL,
dấu hiệu tích cực này cũng được thể hiện rõ rệt, CPPP của các Tổng đều có mức tăng giảm
dần. Trong đó, EVNCPC chứng kiến một một sự giảm rõ rệt khi tốc độ tăng từ chỗ cao
hơn mức trung bình (20.89%) năm 2013 xuống còn 0.31% năm 2014 (thấp thứ 2 so với các
TCTĐL khác).
Hình 2.8 Tương quan giữa NSLĐ theo sản lượng và chi phí phân phối giai đoạn 2012-2014
CPPP của phần lớn các CTĐL là nhỏ hơn 500 đ/kWh, trong đó, mức chi phí từ dưới 100
– 300 đ/kWh là mức chi phí phổ biến nhất. Xem xét chi phí phân phối của từng Tổng công
ty điện lực, có thể thấy CPPP giữa các công ty của Tổng công ty NPC có mức độ phân tán
cao nhất. CPPP của các công ty thuộc Tổng này dao động từ 200 đ/kWh đến gần 2000
đ/kWh. Các Tổng còn lại có chi phí (của các công ty) dao động trong khoảng dưới 100
đ/kWh đến gần 600 đ/kWh.
Quan sát mối tương quan giữa năng xuất lao động theo sản lượng và chi phí phân phối
của Tập đoàn EVN, ta thấy NSLĐ của EVN ở mức cao khi CPPP cao và ngược lại. Khi
NSLĐ ở mức cao nhất khoảng 5,8 triệu kWh/người, CPPP ở mức thấp nhất khoảng 80
đ/kWh. Khi CPPP ở mức trên 1000 đ/kWh, thì NSLĐ lại ở mức thấp nhất (dưới 500 nghìn
kWh/người) và CPPP gần như không có sự chênh lệch giữa các công ty.
* Đối với EVNCPC
Trong giai đoạn 2012-2014, có thể thấy, CPPP của các công ty thuộc EVNCPC không
tập trung tại một mức nào đó mà rải rác từ 250 đ/kWh đến gần 550 đ/kWh. Các công ty Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Phú Yên,…có chi phí dao động ở mức 250 đ/kWh đến 350 đ/kWh.
Các công ty Quảng Trị, Đăk Lak, KonTum, Gia Lai có CPPP từ trên 400 đ/kWh đến gần
500 đ/kWh. Quảng Bình là công ty có CPP lớn nhất trong số các công ty thuộc EVNCPC
nhưng năng suất chỉ gần 800 nghìn kWh/người. Trong khi đó, Đà Nẵng có CPPP ở mức
thấp nhất nhưng NSLĐ đạt được ở mức cao nhất. Như vậy, có thể thấy, CPPP càng thấp thì
NSLĐ ở EVNCPC thường có xu hướng cao.

2.1.3 Tương quan giữa NSLĐ và giá điện bình quân


Tình hình giá điện bình quân của EVN giai đoạn 2012-2014
Bảng 2.4: Giá điện bình quân của Tập đoàn EVN và của các TCTĐL giai đoạn 2012-2014
TCTĐL Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Giá điện Giá điện Mức tăng Tốc độ Giá điện Mức tăng Tốc độ Mức tăng Tốc độ
(đồng/kWh) (đồng/kWh) so với 2012 tăng so bình quân so với 2013 tăng so so với 2012 tăng so
với 2012 (đồng/kWh với 2013 với 2012
(đồng/kWh) (đồng/kWh) (đồng/kWh)
(%) ) (%) (%)
EVN NPC 1,266.12 1,392.96 126.83 10.02 1,438.04 45.08 3.24 171.92 13.58
EVNSPC 1,312.43 1,445.87 133.44 10.17 1,474.85 28.98 2.00 162.42 12.38
EVNCPC 1,358.17 1,494.76 136.58 10.06 1,537.3 42.54 2.85 179.13 13.19
EVNHN 1,499.46 1,650.07 150.60 10.04 1,694.5 44.43 2.69 195.04 13.01

EVNHCMC 1,558.59 1,719.03 160.44 10.29 1,746.67 27.64 1.61 188.08 12.07

5 TCTĐL 1,362.18 1,497.74 135.56 9.95 1,531.00 33.26 2.22 168.82 12.39

Tính toán của V&A sử dụng từ dữ liệu gốc do EVN tập hợp. © 2015.
Giá điện bình quân của Tập đoàn EVN nói chung và các TCTĐL nói riêng tăng qua các
năm, tuy nhiên, tốc độ tăng giá đã giảm dần. Từ năm 2012 đến 2013, giá điện bình quân
của cả Tập đoàn mà đại diện là 5 TCTĐL tăng 135,56 đ/kWh, ứng với tốc độ tăng 9,95%.
Năm 2014, giá điện vẫn tăng nhưng chỉ tăng 2,22% so với năm 2013. Tổng mức tăng giá
điện bình quân từ năm 2012 đến 2014 là 168,82 đ/kWh với tốc độ tăng là 12,39%. Nhìn
chung, mức tăng và tốc độ tăng của EVNCPC đều lớn hơn so với bình quân của Tập đoàn
EVN.

Hình 2.14 Ảnh hưởng của giá điện bình quân đến NSLĐ theo sản lượng năm 2012-2014
Nhìn chung, giá điện bình quân của phần lớn các công ty nhỏ hơn 2.000 đ/kWh, trong
đó, khoảng từ 1.300 đ/kWh đến 1.500 đ/kWh là mức giá điện bình quân của nhiều công ty
nhất, và chủ yếu là các công ty thuộc 3 Tổng NPC, SPC và CPC. Tại mỗi Tổng công ty,
giá điện giữa các công ty cũng có sự khác biệt. Cụ thể, công ty điện lực thuộc EVNHN có
giá dao động từ mức gần thấp nhất là trên 1.300 đ/kWh đến gần 2.000 đ/kWh, các công ty
thuộc EVNHCMC có giá điện từ 1.450 đ/kWh đến 2.100 đ/kWh. Giá điện bình quân của
các công ty EVN NPC từ dưới 1.300 đ/kWh đến 1.500 đ/kWh, các công ty thuộc EVNSPC
bán điện với giá ở mức trên 1.300 đ/kWh đến dưới 1.600 đ/kWh và các công ty thuộc
EVNCPC có giá điện bình quân từ 1.350 đ/kWh đến gần 1.600 đ/kWh.
Hình 2.15: Tương quan giữa sản lượng và giá điện ảnh hưởng đến NSLĐ của EVN giai đoạn 2012-2014
Có thể thấy, tại điểm đại diện cho mỗi công ty điện lực có mức sản lượng cao thì mức
giá điện tại đó lại thấp. Tức là ở mức giá càng cao thì sản lượng điện sẽ càng thấp. Tuy
nhiên khi xem xét về tương quan giữa giá điện và NSLĐ, bán kính đường tròn thể hiện cho
độ lớn của NSLĐ tại điểm biểu diễn các mức giá bình quân khác nhau không tăng giảm
theo một quy luật cụ thể nào. Chẳng hạn, mức giá 1.400 đ/kWh là giá bình quân của một
công ty có NSLĐ lớn nhất, nhưng cũng tại mức giá này, còn rất nhiều công ty khác hoạt
động với nhiều mức NSLĐ khác nhau. Do vậy, chưa thể kết luận về sự tương quan giữa
NSLĐ theo sản lượng và giá điện bình quân.

Hình 2.14 Ảnh hưởng của giá điện bình quân đến NSLĐ theo sản lượng của EVNCPC năm 2012-2014
Xem xét mối quan hệ giữa giá bình quân và NSLĐ theo sản lượng của các công ty
trong EVNCPC ta thấy, mối tương quan giữa giá điện bình quân và NSLĐ theo sản lượng
của các công ty thuộc EVNCPC là không rõ ràng. Giá điện bình quân ở tỉnh Khánh Hòa là
cao nhất, với mức trên 1.550 đ/kWh và thấp nhất ở công ty điện Quảng Ngãi, với mức trên
1.350 đ/kWh. Các CTĐL có NSLĐ theo sản lượng ở mức trung bình như Bình Định,
Quảng Nam thì giá điện bình quân cũng ở mức trung bình. Tuy nhiên, các công ty có
NSLĐ thấp hơn so với các công ty khác trong khu vực như KonTum, DakNong lại có mức
giá bình quân ở mức trung bình. Từ đó, chưa thể đưa ra kết luận chính xác cho mối liên hệ
giữa hai yếu tố giá và NSLĐ tại khu vực này.
2.1.4 Mối quan hệ giữa sản lượng điện, số lao động và NSLĐ
Nhìn nhận về sản lượng điện của Tập đoàn EVN

Hình 2.21: Sản lượng ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí giai đoạn
2010-2013
Cùng với sự gia tăng về sản lượng của ngành công nghiệp nói chung, ngành sản xuất
phân phối điện, khí đốt nói riêng, sản lượng điện thương phẩm phân phối và bán lẻ hàng
năm của 5 TCTĐL cũng tăng qua các năm. Cụ thể, sản lượng năm 2013 của 5 TCTĐL đạt
trên 113,4 tỷ kWh, tăng 9,1% so với năm 2012. Năm 2014, sản lượng của 5 TCTĐLtăng
lên mức trên 127,14 tỷ kWh, tăng 12,1% so với năm 2013. Xét cả giai đoạn 2012-2013,
sản lượng điện thương phẩm tăng lên hơn 23 tỷ kWh, ứng với mức tăng 22,27%.
Mối quan hệ giữa NSLĐ theo sản lượng và số lao động
Hình 2.22 Tương quan giữa sản lượng và số lượng lao động của các công ty điện lực thuộc 5 TCTĐL
Sản lượng điện trung bình và số lao động trung bình trong giai đoạn từ 2012-2014 của
các CTĐL là khác nhau dẫn đến sự khác biệt của NSLĐ trung bình giữa các công ty. Phần
lớn các CTĐL đều có sản lượng điện trung bình trong giai đoạn này nhỏ hơn 4 tỷ kWh và
số lượng lao động ít hơn 1.500 người. CTĐL Đồng Nai có sản lượng điện trung bình và số
lượng lao động trung bình trong 3 năm là lớn nhất với 8,5 tỷ kWh và 2500 người. Tuy
nhiên, giá trị NSLĐ lớn nhất giai đoạn này lại thuộc về công ty điện Bình Dương với giá
trị là 5,68 triệu kWh/người, được thể hiện ở đường tròn có bán kính lớn nhất.
Quan sát hình trên, có thể thấy, sự chênh lệch về sản lượng giữa hai công ty không đồng
nhất với sự chênh lệch về số lượng lao động. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt về
NSLĐ ở các mức sản lượng và số lao động khác nhau. Một điểm đáng chú ý, với độ lớn
của bán kính đường tròn thể hiện cho giá trị NSLĐ tính theo sản lượng, bằng trực quan ta
cũng có thể thấy được, khi lượng lao động trung bình dao động dưới khoảng 500 lao động,
thì sự gia tăng về số lượng lao động sẽ góp phần tăng về NSLĐ. Tại các điểm đó, sự gia
tăng về số lượng lao động sẽ góp phần làm gia tăng sản lượng lao động, tuy nhiên, tốc độ
tăng về sản lượng sẽ lớn hơn tốc độ tăng về lao động, từ đó làm tăng NSLĐ.
Hình 2.23: Ảnh hưởng của sản lượng đến NSLĐ theo sản lượng
Xem xét một cụ thể hơn về mức độ ảnh hưởng của sản lượng điện đến NSLĐ theo sản
lượng, có thể thấy NSLĐ bình quân cho giai đoạn 2012-2014 tăng khi sản lượng trung bình
tăng lên. Sản lượng của phần lớn các công ty ở mức dưới 2 tỷ kWh, tương ứng với đó là
mức năng suất dưới 3 triệu kWh/người. Một số công ty có sản lượng vượt mức 2 tỷ kWh
với NSLĐ lên tới 4-5 triệu kWh/người.

Hình 2.24: Ảnh hưởng của số lao động đến NSLĐ theo sản lượng
Về mức độ ảnh hưởng của số lượng lao động đến NSLĐ, trong phân khúc lao động dưới
500 người, NSLĐ bình quân tăng ngày càng mạnh khi số lao động tăng lên. Tuy nhiên, từ
phân khúc 500 đến gần 1.000 người, NSLĐ có tăng nhưng mức tăng đã giảm và không rõ
rệt như phân khúc dưới 500 lao động. Từ phân khúc gần 1.000 lao động trở lên, NSLĐ có
xu hướng giảm dần. Từ đây, có thể đưa ra một gợi ý giải pháp cho việc cải thiện NSLĐ
của EVN thông qua việc phân phối lượng lao động giữa các công ty một cách hợp lý.
2.1.5 Tương quan giữa doanh thu, tổn thất điện năng và NSLĐ
Doanh thu và tác động của doanh thu đến NSLĐ theo sản lượng
Doanh thu của EVN nói chung cũng như 5 TCTĐL nói riêng tăng dần qua các năm và
tăng với con số khá ấn tượng. Năm 2013, doanh thu của 5 TCTĐL EVN đạt gần 170 nghìn
tỷ, tăng 19,96% so với năm 2012. Năm 2014, doanh thu tăng lên con số 194,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 14,6% so với năm 2013. Xét cả giai đoạn 2012-2014, tốc độ tăng doanh thu của
EVN đạt 37,42%, tương ứng với con số hơn 53 nghìn tỷ. EVNSPC luôn là TCTĐLcó
doanh thu đứng đầu giai đoạn 2012-2014 so với các TCTĐLcòn lại. Cụ thể, doanh thu của
đơn vị này đạt 65.773 tỷ đồng năm 2014, chiếm gần 34% tổng doanh thu của cả 5 TCTĐL.

Hình 2.25: Tốc độ tăng sản lượng và doanh thu của EVN giai đoạn 2012-2014
Với các con số tốc độ tăng trưởng dương, có thể thấy doanh thu cũng như sản lượng của
EVN đều tăng trong giai đoạn 2012-2014. Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ tăng doanh thu
hàng năm của EVN đang giảm dần và giảm từ mức 23,84% ở năm 2012 xuống mức 14,6%
năm 2014. Bên cạnh đó, sản lượng điện thương phẩm cũng có tốc độ tăng giảm vào năm
2013, từ mức tăng 11,47% năm 2012 (so với năm 2011), xuống còn mức tăng 9,1% năm
2013 (so với năm 2012).
Hình 2.26: Ảnh hưởng của doanh thu đến NSLĐ theo sản lượng của EVN giai đoạn 2012-2014
Dễ dàng thấy được, độ lớn của doanh thủ tỷ lệ thuận với độ lớn của sản lượng, tức là,
doanh thu sẽ cao hơn ở các công ty điện lực có sản lượng cao và ngược lại. Về mối quan hệ
giữa doanh thu và NSLĐ, một số lượng lớn các công ty thuộc 5 TCTĐL của Tập đoàn
EVN có doanh thu ở mức dưới 2.000 tỷ đồng và NSLĐ của các công ty này chỉ ở mức
dưới 3,5 triệu kWh/người. Một số lượng nhỏ các công ty có doanh thu trên 2.000 người, thì
NSLĐ của hầu hết các công ty này đều ở mức trên 3,5 triệu kWh/người. Điều này cho
thấy, cùng với sản lượng điện, doanh thu cũng có thể có tác động làm tăng NSLĐ, khi
doanh thu ở mức thấp thì NSLĐ cũng ở mức thấp và ngược lại. Tuy nhiên, mức độ tác
động của doanh thu đến NSLĐ sẽ là không lớn.
Ảnh hưởng của tỷ lệ điện dùng để truyền tải và phân phối đến NSLĐ
Tỷ lệ điện dùng để truyền tải và phân phối hay còn gọi là tổn thất điện năng (TTĐN), là
lượng điện tiêu hao cho quá trình truyền tải và phân phối điện từ các nhà máy phát điện
đến các tổ chức, các hộ tiêu thụ. Năm 2014, tỷ lệ tổn thất điện năng của toàn EVN là
8,49%. Đây là một con số ở mức trung bình so với một số nước trong khu vực ASEAN
Bảng 2.5: Tỷ lệ tổn thất điện năng của một số nước trong khu vực ASEAN giai đoạn 2011-2014
Quốc gia Tỷ lệ TTĐN (%) Quốc gia Tỷ lệ TTĐN (%)
Singapore 5 Indonesia 9
Malaysia 6 Philippines 11
Brunei 7 Myanmar 21
Thái Lan 7 Campuchia 28
Nguồn: Thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB)
Từ năm 2013 đến 2014, nước ta đã có một sự tiến bộ trong việc cải thiện hệ thống
truyền tải và phân phối điện năng được thể hiện bởi sự giảm đi của con số tỷ lệ TTĐN.
Năm 2013, tỷ lệ TTĐN của Toàn tập đoàn EVN là 8,87%, tăng 0,02% so với cùng kỳ
2012. Đến năm 2014, con số này giảm xuống còn 8,49%, giảm 0,38% so với năm 2013.
Hình 2.27: Ảnh hưởng của tỷ lệ tổn thất điện năng tới NSLĐ của EVN giai đoạn 2012-2014
Tổng quan có thể thấy được sự tăng về tỷ lệ tổn thất điện năng sẽ làm giảm NSLĐ. Với
tỷ lệ TTĐN khoảng từ 4 đến dưới 6%, giá trị năng suất tương ứng dao động từ 500 nghìn
kWh/người đến trên 5 triệu kWh/người. Với TTĐN có tỷ lệ từ 6% đến dưới 8%, NSLĐ chỉ
ở mức 200 nghìn kWh/người đến hơn 3 triệu kWh/người. Và với tỷ lệ tổn thất lên trên 8%,
NSLĐ còn từ 200 nghìn kWh/người đến 2 triệu kWh/người.
Tuy nhiên, vẫn chưa thể khẳng định một cách rõ ràng về mối quan hệ giữa NSLĐ và tổn
thất điện năng. Bởi lẽ, khi xét trên từng công ty điện lực, ảnh hưởng của tỷ lệ tổn thất điện
năng tới NSLĐ là không thể hiện rõ một xu hướng nào. Hầu hết các công ty điện ở TP
HCM có tỷ lệ tổn thất ở mức thấp hơn so với các khu vực khác, mức 4-5%. Các công ty
điện thuộc EVNCPC, EVNSPC có tỷ lệ TTĐN ở mức trung bình từ 6-8%.
2.2.6 Ảnh hưởng của tỷ lệ điện thương phẩm cấp theo ngành đến NSLĐ
Điện thương phẩm của EVN được dùng để cấp cho các tất cả các ngành, trong đó, một
lượng lớn chủ yếu cấp cho lĩnh vực công nghiệp và quản lý tiêu dùng.
Bảng 2.6: Tỷ lệ điện thương phẩm cấp theo ngành của EVN giai đoạn 2012-2014
Năm 2012 2013 2014
Tăng so
Tăng so Tăng so
Tăng so với với
Ngành Tỷ lệ (%) với 2011 Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) với 2013
2012 (%) 2012
(%) (%)
(%)

Nông nghiệp 1.2 17.22 0.3 15.46 1.5 25.96 49.48

Công nghiệp 53.2 10.43 53.6 9.9 54.2 13.4 24.63

Thương mại 4.8 15.65 4.7 7.74 4.8 14.09 22.93

Tiêu dùng 36.9 12.21 36.6 7.97 35.8 9.61 18.34


Khác 3.9 11.22 3.8 7.6 3.7 9.65 17.99

Tính toán của V&A sử dụng từ dữ liệu gốc do EVN tập hợp. © 2015.
Sản lượng điện cấp cho ngành công nghiệp luôn chiếm hơn 50% tổng số lượng điện
EVN cung cấp và có tỷ trọng ngày một tăng. Năm 2014, lượng điện cấp cho công nghiệp
chiếm 54,2% tổng lượng điện, tăng 13,4% so với năm 2012 và 24,63% so với năm 2012.
Điện cấp cho quản lý tiêu dùng có tỷ trọng lớn thứ 2 với con số trên 35% hàng năm. Tuy
nhiên, con số tỷ trọng này lại theo chiều hướng giảm dần mặc dù giá trị của lượng điện
cung cấp cho quản lý tiêu dùng vẫn tăng lên cùng với đà tăng của tổng sản lượng điện.
Lượng điện cho các ngành khác như nông nghiệp, thương mại cũng tăng từ năm 2012
đến 2014, với tốc độ tăng đáng kể của năm nay so với năm trước trong ngành nông nghiệp,
nhưng tỷ trọng điện cấp cho những lĩnh vực này vẫn rất nhỏ trong tổng lượng điện thương
phẩm (dưới 5%).

Hình 2.28: Tương quan giữa tỷ trọng điện thương phẩm cấp cho quản lý tiêu dùng và NSLĐ theo sản lượng của EVN
giai đoạn 2012-2014
Hình vẽ thể hiện sự tương quan giữa tỷ trọng điện thương phẩm cấp cho tiêu dùng và
NSLĐ theo sản lượng cho thấy rõ một bức tranh về mối quan hệ giữa NSLĐ và tỷ trọng
điện cấp cho quản lý tiêu dùng. Tỷ trọng điện thương phẩm cho tiêu dùng càng cao, thì
NSLĐ càng cao và ngược lại. Một số lượng lớn các công ty điện lực có tỷ trọng điện cấp
cho quản lý tiêu dùng từ 40% đến 55%, và năng suất của các công ty này ở mức dưới 2
triệu kWh/người. Chỉ một lượng nhỏ các công ty có NSLĐ trên 3,5 triệu kWh/người thì tỷ
trọng điện cấp cho tiêu dùng là dưới 30%.
Hình 2.29: Mối quan hệ giữa tỷ trọng điện thương phẩm cấp cho ngành công nghiệp và NSLĐ theo sản lượng của
EVN giai đoạn 2012-2014
Mối quan hệ giữa NSLĐ và tỷ trọng điện công nghiệp có sự thay đổi ở mức tỷ trọng
khoảng 35%. Khi tỷ trọng điện cấp cho ngành này dưới 35% thì những công ty có tỷ trọng
thấp hơn đồng nghĩa với việc NSLĐ sẽ cao hơn. Trên mức tỷ trọng 35%, NSLĐ lại tăng
lên nhờ sự gia tăng của tỷ trọng điện cấp cho công nghiệp trong tổng sản lượng điện.

Hình 2.30: Tương quan giữa tỷ trọng điện thương phẩm cấp cho nông nghiệp và NSLĐ theo sản lượng của EVN giai
đoạn 2012-2014
Tỷ trọng điện thương phẩm dành cho nông nghiệp ở nhiều công ty điện lực chỉ chiếm
một mức rất nhỏ, dao động chủ yếu trong khoảng từ 0% đến 3%. Có thể thấy, các công ty
có NSLĐ cao thì tỷ trọng điện gần như xấp xỉ 0%. Các công ty có tỷ trọng điện cho nông
nghiệp trên 5% cũng chỉ có NSLĐ dưới mức 1 triệu kWh/người. Từ đây ta thấy, tỷ trọng
điện cho công nghiệp tăng lên có thể sẽ có tác động tiêu cực đến NSLĐ.

Hình 2.31: Tương quan giữa tỷ trọng điện thương phẩm cấp cho thương mại và NSLĐ theo sản lượng của EVN giai
đoạn 2012-2014
Đối với ngành nông nghiệp, thương mại và các thành phần khác, do tỷ trọng điện cấp
cho các ngành này rất nhỏ nên ảnh hưởng sự thay đổi con số tỷ trọng đến NSLĐ là không
nhiều. Tuy nhiên, có thể thấy, nếu tỷ trọng điện cấp cho thương mại tăng trên 10%, sẽ bắt
đầu xuất hiện xu hướng tăng lên của NSLĐ khi tỷ trọng này càng tăng. Nghĩa là, nếu con
số tỷ trọng điện cấp cho thương mại được tăng lên cao hơn một mức nào đó thì việc gia
tăng con số này có thể sẽ có tác động tích cực đến NSLĐ theo sản lượng.
2.2 NSLĐ tính theo doanh thu và NSLĐ tính theo số lượng khách hàng
Ngoài phương thức đánh giá chủ yếu thông qua NSLĐ theo sản lượng, có thể đánh giá
NSLĐ thông qua doanh thu và số lượng khách hàng. Tuy nhiên, mục này chỉ đề cập nhằm
bổ sung thêm cách tính NSLĐ nên các phân tích sẽ không đi quá sâu.
Bảng 2.7: Một số thống kê mô tả cơ bản về NSLĐ tính theo doanh thu và số lượng khách hàng
Biến Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Trung bình Độ lệch chuẩn
Ns_dt
332.605.263,16 8.146.156.583,63 2.616.127.139,02 1.657.281.886
(đồng/người)
Ns_kh
121,3 618,3 334,4 99,92
(KH/người)
Ns_dt, Ns_kh lần lượt là NSLĐ tính theo doanh thu và theo số lượng khách hàng.

Giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của NSLĐ theo doanh thu của Tập đoàn EVN giai đoạn
2012-2014 lần lượt là 332,6 triệu đồng/người và gần 8.146,2 tỷ đồng/người. Giá trị trung
bình của NSLĐ theo doanh thu là trên 2,616 tỷ đồng/người cho biết doanh thu trung bình
một người lao động tạo ra là hơn 2,616 tỷ đồng trong 1 năm. Tương tự, giá trị nhỏ nhất và
lớn nhất của NSLĐ theo số lượng khách hàng của EVN lần lượt là 121,3 và 618, 3
KH/người. Giá trị trung bình của NSLĐ theo số lượng khách hàng là 334,4 KH/người.
2.2.1 Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo doanh thu
Hình 2.32: Ảnh hưởng của số lao động đến NSLĐ theo doanh thu của EVN năm 2012-2014

Nếu xét trên cả tổng thể 5 Tổng công ty, có thể sẽ không nhìn ra tương quan giữa số
lượng lao động và NSLĐ theo doanh thu của EVN. Nhưng nếu chỉ đánh giá riêng những
công ty có số lao động dưới 400 người (khu vực Hà Nội và HCM), NSLĐ theo doanh thu
có xu hướng tăng khi số lượng lao động tăng. Đối với các công ty có lượng lao động trên
400 người, chỉ riêng các công ty thuộc TCTĐL CPC có sự đồng nhất giữa số lượng lao
động và năng suất, công ty nào có nhiều lao động thì năng suất theo doanh thu cao hơn và
ngược lại. Ở các công ty thuộc các Tổng còn lại, mối quan hệ giữa hai yếu tố năng suất và
lao động không được thể hiện rõ ràng.
Tương tác cùng chiều của hai yếu tố NSLĐ theo doanh thu và số lượng lao động cũng
được thể hiện ở TCTĐL miền Trung (tương tự EVNHN).
2.2.2 Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng NSLĐ tính theo số lượng khách hàng
Bảng 2.9: NSLĐ theo số lượng khách hàng của tập đoàn EVN giai đoạn 2012-2014

Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

Tốc độ
TCTĐL Tốc độ Mức tăng Mức tăng Tốc độ
Mức tăng tăng so
NSLĐ NSLĐ tăng so NSLĐ so với 2013 so với 2012 tăng so
so với 2012 với
(KH/người) (KH/người) với 2012 (KH/người) (KH/người (KH/người với 2012
(KH/người) 2013
(%) ) ) (%)
(%)

EVN NPC 285.35 291.28 5.93 2.08 321.55 30.28 10.39 36.20 12.69

EVNSPC 299.62 306.56 6.93 2.31 310.60 4.04 1.32 10.97 3.66

EVNCPC 275.45 289.63 14.18 5.15 308.45 18.82 6.50 33.00 11.98

EVNHN 254.40 248.60 -5.80 -2.28 260.00 11.41 4.59 5.60 2.20

EVNHCM
271.11 286.48 15.37 5.67 298.82 12.34 4.31 27.71 10.22
C

5 TCTĐL 282.81 286.38 3.57 1.26 307.40 21.02 7.34 24.60 8.70
Tính toán của V&A sử dụng từ dữ liệu gốc do EVN tập hợp. © 2015.
Qua các năm từ 2012 đến 2014, NSLĐ theo số lượng khách hàng của Tập đoàn EVN
nói chung đều tăng. Mức tăng và tốc độ tăng NSLĐ theo số lượng khách hàng năm nay so
với năm trước cũng ngày càng lớn. Năm 2013, NSLĐ theo số lượng khách hàng chỉ tăng
3,57 KH/người, ứng với tốc độ tăng 1,26% so với năm 2012. Các con số này có thể được
lý giải do năm 2013, số lao động của EVN tăng tới 2.800 lao động so với năm 2012, tăng
gần 4,1% so với năm 2011, trong khi số lượng khách hàng tăng gần 5,4% so với năm 2011,
nên tốc độ tăng NSLĐ cũng nhỏ. Năm 2014, lượng lao động của EVN giảm 73 người,
giảm 0,01% so với năm 2013 trong khi tốc độ tăng của số lượng khách hàng là hơn 7,2%.
Do đó, tốc độ tăng NSLĐ theo số lượng khách hàng năm 2014 tăng nhiều hơn so với năm
2013.
EVNCPC có mức tăng và tốc độ tăng năm 2014 so với năm 2012 lớn thứ 2 so với 5
TCTĐL với tốc độ tăng lớn hơn mức trung bình, đạt 11.98%. Tuy nhiên, mức tăng và tốc
độ tăng so với năm trước có phần sụt giảm đáng kể khi chỉ đạt 4.59% tương ứng với mức
tăng là 11.41 KH/người, chỉ đạt xấp xỉ một nửa so với trung bình chung.
Trong khi đó, NSLĐ của EVNCPC cũng chỉ nằm ở vị trí giữa so với 5 TCTĐL, và chỉ
nhỉnh hơn so với trung bình chung không quá nhiều.

Hình 2.37: Tương quan giữa số lượng khách hàng và NSLĐ theo số lượng khách hàng của EVN giai đoạn 2012-2014
Có thể thấy, số lượng khách hàng tăng lên đồng nghĩa với việc NSLĐ theo số lượng
khách hàng tăng. Cụ thể, tại những công ty có số lượng khách hàng nhỏ hơn 200 nghìn
khách, NSLĐ của những công ty đó lớn nhất là gần 450 KH/người. Tại những công ty có
số khách hàng lớn hơn, năng suất có thể lên tới trên 600 KH/người. Tuy nhiên, hầu hết các
công ty có NSLĐ dưới 500 KH/người.
Hình 2.38: Tương quan giữa số lượng lao động và NSLĐ theo số lượng khách hàng của EVN giai đoạn 2012-2014
Lấy con số 500 lao động làm mức để phân chia thành hai nhóm số lượng lao động,
nhóm công ty dưới 500 lao động và nhóm công ty từ 500 lao động trở lên. Những công ty
thuộc nhóm dưới 500 lao động có NSLĐ theo số lượng khách hàng từ gần 200 đến 450
KH/người. Đối với nhóm có số lượng khách hàng trên 500 người, con số năng suất dao
động với biên độ lớn từ khoảng 20 KH/người đến trên 600 KH/người.
Tuy có tác động trực tiếp đến NSLĐ với vị trí là mẫu số trong công thức tính NSLĐ,
nhưng việc tăng số lượng lao động không đồng nghĩa với việc giảm đi về năng suất. Hình
2.38 cho thấy mối quan hệ giữa năng suất và số lượng lao động của các công ty điện lực
không chỉ rõ một xu hướng cụ thể nào.
Khi xem xét về NSLĐ theo số lượng khách hàng của các TCTĐL, ta thấy sự phân bổ
các mức năng suất ở từng TCTĐL là khác nhau và mỗi công ty trong một Tổng lại có sự
khác biệt về mức năng suất.
Việc tăng hoặc giảm số lượng lao động sẽ không ảnh hưởng đến giá trị của NSLĐ theo
số lượng khách hàng của các công ty điện lực thuộc EVNCPC. (tương tự với EVNHN).
2.3 Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng của cả Tập đoàn
EVN
2.3.1 Đối với Tập đoàn EVN
Dựa vào các phân tích về thực trạng NSLĐ của EVN và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
đến NSLĐ theo sản lượng, cùng việc xây dựng mô hình thông qua việc lựa chọn biến (Phụ
lục F), ước lượng mô hình hồi quy đa biến với biến phụ thuộc là NSLĐ theo sản lượng thu
được kết quả sau:
Bảng 2.10: Bảng kết quả ước lượng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng của EVN
Tên biến Hệ số ước lượng P_value
Hệ số chặn -1.295.000 0,135
Giá bình quân (avrP) 1.436 0,009 **
Số lượng khách hàng (Ctm) 1,218 0,007 **
Sản lượng điện (Q) -0,002 0,002 **
Lao động (L) -1.656 2,70x10-12 ***
Doanh thu (Rvn) 0,000002 4,31x10-5 ***
Tỷ lệ điện cấp cho công nghiệp (Irate) 22.240 2,12x10-11 ***
Chi phí phân phối (dCost) -479,2 0,001 ***
Mức ý nghĩa thống kê: 0 ‘***’ 0,001 ‘**’ 0,01 ‘*’ 0,05 ‘.’ 0,1 ‘ ’ 1, z-value trong ngoặc vuông. Phần dư (residual
deviance) 334800 với 97 bậc tự do.
R2= 0,8969, R2 điều chỉnh = 0,8894
P_value < 2,2e-16
Tính toán của V&A sử dụng từ dữ liệu gốc do EVN tập hợp. © 2015.
Phương trình ước lượng NSLĐ của Tập đoàn điện lực Việt Nam
LP EVN =−1.295 .000+1.436 avrP+ 1,218Ctm−0,002Q−1.656 L−479,2 dCost +22.240 Irate+ 0,000002
Các yếu tố có ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng được chia làm hai nhóm là nhóm
các yếu tố có tác động tăng NSLĐ và nhóm các yếu tố có tác động làm giảm NSLĐ. Nhóm
các yếu tố làm tăng NSLĐ bao gồm giá bình quân (avrP), số lượng khách hàng (Cst), tỷ lệ
điện cấp cho công nghiệp (Irate) và doanh thu của công ty điện lực (Rvn), tuy nhiên, có thể
thấy doanh thu tác động rất ít tới sự thay đổi của NSLĐ theo sản lượng. Nhóm các yếu tố
tác động làm giảm NSLĐ bao gồm sản lượng điện (Q), số lao động (L) và chi phí phân
phối (dCost), trong đó, số lượng lao động có ảnh hưởng làm giảm NSLĐ nhiều nhất. Sự
thay đổi của tất cả các yếu tố thuộc hai nhóm này có tác động tới 89,69% sự thay đổi của
NSLĐ theo sản lượng.
Trong số các yếu tố làm tăng NSLĐ, tỷ lệ điện cấp cho công nghiệp có mức độ tác động
nhiều nhất đến việc tăng NSLĐ. Khi tăng tỷ lệ điện cấp cho công nghiệp lên 1%, NSLĐ
trung bình sẽ tăng tương ứng 22.240 kWh/người. Điều này gợi mở ra một giải pháp cho
việc cải thiện NSLĐ thông qua việc bảo trì, nâng cấp hệ thống lưới điện cung cấp cho các
khu công nghiệp.
Giá bình quân cũng có tác động khá lớn đến NSLĐ theo sản lượng. Nếu tăng giá bình
quân lên 1đ/kWh, NSLĐ trung bình theo sản lượng sẽ tăng lên 1.436 kWh/người. Bên
cạnh đó, sự thay đổi giá điện bình quân cũng không có tác động trực tiếp đến sản lượng
điện thương phẩm (Phụ lục G), nên việc điều chỉnh tăng giá điện một cách hợp lý có thể là
giải pháp hữu hiệu cho việc tăng NSLĐ theo sản lượng.
Số lượng khách hàng và doanh thu là hai yếu tố ảnh hưởng có mức độ ảnh hưởng không
quá lớn tới NSLĐ theo sản lượng, đặc biệt là doanh thu. Việc thêm một khách hàng chỉ
làm NSLĐ trung bình theo sản lượng của EVN tăng thêm 1,218 kWh/người. Bên cạnh đó,
con số 0,000002 về sự tác động của doanh thu đến năng suất cho thấy sự tăng lên của
doanh thu gần như tác động không đáng kể đến NSLĐ theo sản lượng.
Trong nhóm các yếu tố có tác động tiêu cực đến việc tăng NSLĐ theo sản lượng, số
lượng lao động có mức độ ảnh hưởng lớn nhất. Tăng số lao động thêm một người sẽ làm
giảm NSLĐ trung bình đi 1.656 kWh/người. Vì vậy, theo lý thuyết, giảm số lượng lao
động là được coi là một phương án cho việc cải thiện NSLĐ của EVN. Tuy nhiên, trên
thực tế việc này có thể sẽ khó thực hiện.
Ngoài ra, chi phí phân phối cũng có tác động tới việc giảm NSLĐ, chi phí phân phối
tăng lên 1đ/kWh sẽ làm NSLĐ trung bình theo sản lượng giảm 479,2 kWh/người.
2.3.2 Đối với TCTĐL EVNCPC
Phương trình đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng của TCTĐL
miền Trung
LPCPC =6.357 .000−2.351 avrP+ 0.0000006 Rvn+1,262 Ctm−1.183 L−777,5 dCost −18.910 Irate−21.0
Theo kết quả hồi quy các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ của TCTĐLCPC (Phụ lục H4),
99,83% sự thay đổi của NSLĐ theo sản lượng là do ảnh hưởng bởi các yếu tố giá bình
quân (avrP), doanh thu (Rvn), số lượng khách hàng (Ctm), số lượng lao động (L), chi phí
phân phối (dCost), tỷ lệ điện cấp cho công nghiệp (Irate) và tỷ lệ điện cấp cho quản lý tiêu
dùng (Rrate). Hầu hết các yếu tố kể trên đều tác động tiêu cực đến việc cải thiện năng suất.
Duy nhất có doanh thu góp phần làm tăng NSLĐ của EVNCPC, tuy nhiên, cũng giống như
tác động của yếu tố này đến NSLĐ của Tập đoàn EVN và các khu vực khác, doanh thu có
ảnh hưởng rất ít đến sự gia tăng về NSLĐ của TCTĐL CPC, mức độ ảnh hưởng này gần
như bằng không.
Trong các yếu có tác động làm giảm NSLĐ theo sản lượng của TCTĐL CPC, yếu tố có
ảnh hưởng nhiều nhất là tỷ lệ điện cấp cho quản lý tiêu dùng. Tỷ lệ này tăng lên 1% sẽ làm
NSLĐ trung bình giảm đến 21.090 kWh/người. Bên cạnh đó, tỷ lệ điện cấp cho công
nghiệp cũng ảnh hưởng khá lớn đến mục tiêu tăng năng suất. NSLĐ trung bình sẽ giảm đi
18.910 kWh/người nếu tăng tỷ lệ điện cấp cho tiêu dùng lên 1%. Có thể thấy, để hướng tới
nâng cao NSLĐ tại EVNCPC thì cơ cấu cấp điện cho cách ngành cũng cần được điều
chỉnh một cách hợp lý.
Đối với khu vực này, một lao động tăng thêm sẽ làm giảm NSLĐ trung bình đi 1.183
kWh/người. Cùng với đó, sự tăng lên 1đ/kWh của chi phí phân phối cũng làm giảm NSLĐ
trung bình đi 777,5 kWh/người và sự tăng lên của 1 khách hàng làm giảm NSLĐ trung
bình đi 1,262 kWh/người. Có thể thấy. lao động vẫn là yếu tố có mức độ ảnh hưởng tương
đối lớn tới việc hạn chế sự tăng NSLĐ và số lượng khách hàng vẫn là yếu tố có ảnh hưởng
ít tới NSLĐ theo sản lượng.
Cũng giống như TCTĐL TP. Hồ Chí Minh, việc tăng giá bình quân của EVNCPC sẽ
làm giảm NSLĐ của TCTĐLnày. Mỗi đơn vị giá tăng lên sẽ làm NSLĐ trung bình theo
sản lượng giảm 2.351 kWh/người. Tuy nhiên, khi chỉ xét riêng ảnh hưởng của giá bình
quân đến NSLĐ theo sản lượng, yếu tố giá này lại không có tác động đến năng suất và mô
hình hồi quy là không có ý nghĩa (Phụ lục H5). Điều này cho thấy, giải pháp giảm giá bình
quân để cải thiện năng suất của EVNCPC chỉ thực sự có hiệu quả khi kết hợp với các giải
pháp khác.
Hệ số hồi quy mức độ ảnh hưởng của số lượng khách hàng đến NSLĐ cho biết, sự tăng
lên về số lượng khách hàng sẽ góp phần làm tăng NSLĐ theo sản lượng. Tuy nhiên, con số
1,262 kWh/người tăng lên của NSLĐ khi số lượng lao động tăng lên 1 người cho thấy sự
ảnh hưởng không đáng kể của số lượng khách hàng đến năng suất của EVNCPC. Khi mức
độ ảnh hưởng của lượng khách hàng là không đáng kể, thì chi phí phân phối lại thể hiện rõ
hơn mức ảnh hưởng của mình bằng việc làm giảm năng suất trung bình đi 777,5
kWh/người trên 1 đồng chi phí tăng thêm cho 1 đơn vị sản lượng. Tuy nhiên, mức độ ảnh
hưởng này vẫn được cho là ít so với các yếu tố khác tác động đến NSLĐ theo sản lượng
của TCTĐL EVNCPC.
2.4 Tổng kết
Tập đoàn EVN TCTĐL EVNCPC

- Số lượng lao động - Ngược chiều, mức tác động - Ngược chiều, mức độ không
lớn nhất đáng kể.
- Số lượng khách - Tác động thuận chiều tới - Mối quan hệ thuận chiều,
hàng NSLĐ theo sản lượng, nhưng nhưng không có tác động đáng
mức độ không quá lớn. kể.
- Với CPPP điện - Ngược chiều tới NSLĐ theo - Ngược chiều, không đáng kể
sản lượng, có mức tác động
lớn.
- Với giá điện bình - Thuận chiều - Ngược chiều, tuy nhiên khi
dân chỉ xét riêng thì yếu tố này
không có tác động đến năng
suất.
- Sản lượng điện - Ngược chiều, tuy nhiên mức - Chưa thể khẳng định được
độ tác động không lớn
- Doanh thu - Thuận chiều, mức độ tác - Thuận chiều, nhưng mức độ
động của doanh thu đến không lớn.
NSLĐ sẽ là không lớn.

Tỷ trọng điện cấp - Tác động thuận chiều và - Chưa thể khẳng định được.
cho công nghiệp mức độ tác động nhiều nhất - Tuy nhiên, tỷ trọng điện cấp
đến việc tăng NSLĐ. cho quản lý tiêu dùng lại có tác
động ngược chiều với mức độ
lớn nhất
Tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ theo sản lượng sau khi hồi quy phương
trình

You might also like