You are on page 1of 2

Đời thơ Hàn Mặc Tử có đến mấy đoạn.

Khi mới vào làng thơ, Hàn Mặc Tử làm thơ Đường
luật có nội dung u sầu, yếm thế. Sau đó, nhà thơ chuyến sang làm thơ mới. Khi biết mình
mắc bệnh hiếm nghèo, tác giả lại làm những vần thơ thật đau thương, bê tắc, có khi đến điên
loạn...

BÀI LÀM
... Bài thơ Dây thôn Vĩ Dạ có mặt trong tập Thơ Diên, tức tập thơ viết về giai đoạn sau cùng, nhưng
là bài thơ gần gũi với nhiều bài thơ hay trong tập thơ Gái quê trước đó như Mùa xuân chín, Tình
quê...
Dây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hay, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn là bài thơ gợi ra nhiều cách suy
cảm. Sở dĩ thế, vì cái hay của nó gắn bó với toàn bộ cấu trúc của bài thơ từ âm điệu, câu chữ, hình
ảnh, khó tách bạch với một nỗi buồn vừa rõ vừa không rõ.
Mở đầu là câu hỏi rất nhẹ nhàng, nhưng không cần sự trả lời, mà chính là để giới thiệu phong cảnh
của thôn Vĩ Dạ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Cảnh không đầy ắp, mà thưa, nhưng rất chọn lọc. Nhờ thế, tính “thần
hổn” của cảnh luôn có sức gợi cảm. Cái sắc nắng chiếu tỏa trên hàng
cau trong câu thơ là cái sắc nắng có khoảnh khắc thời gian: nắng mới lên và chính trong khoảnh
khắc này, mà tính chất “sáng trong” và cái “lực rọi” của ánh nắng đã làm sáng ra, ánh lên màu sắc
của khu vườn: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tả màu xanh của vườn như thê thật không kém
gì Đường thi! Trong cái đẹp đẽ, sáng trong, tươi mát của không gian gần gũi ấy, xuất hiện một
khuôn mặt chữ điền. Khuôn mặt không rõ đường nét, nhưng nó ứng với chữ đầu của khố thơ: Sao
anh.. Vậy là có một bóng hình nào đó như đang ẩn hiện trong khung cảnh tưởng tượng của tác giả,
mà hình ảnh lá trúc che ngang khuôn mặt... góp phần nói thêm điều này.
Trong khổ thơ thứ hai, cảnh được nói đến nhiều hơn, không gian được mở rộng hơn, nhưng thực ra
cũng không hẳn là đặc trưng của thôn Vĩ Dạ. Nhưng chính cảnh tượng này lại gắn bó với cảm giác
man mác, xa vắng, khó xác định đã chớm hiện từ khố thơ đầu. Hình ảnh thuyền ai đậu bến sông
trăng đã đẩy thêm cảm giác man mác, xa vắng vào thế giới bát ngát, mênh mông, làm ta thấy thêm
cái chơ vơ của thuyền ai trong niềm mong đợi. Câu thơ cuối thì tình cảm đã hoàn toàn đưa về một
miền tâm trạng nào đó: “Có chở trăng về kịp tối nay? ” Niềm tâm trạng nào cũng khó hiểu hết. Chỉ
biết rằng đến đây, bài thơ tự nhiên mờ dần một không gian thôn Vĩ Dạ, để hiện dần một tâm trạng
chờ mong - chờ mong một “lời hẹn”.
Nếu lời lẽ ở khổ thơ đầu dễ hiếu là của một người con gái thì lời lẽ ở khô thơ cuối không phải của
người con gái nữa, mà là của người con trai, của nhân vật trữ tình. Thoạt như vô lí. Mà bài thơ cũng
còn nhiều chi tiết khác như vừa vô lí, vừa rời rạc, nhưng đọc kĩ, nó rất có lí và vô cùng gắn bó lẫn
nhau.
Cái niềm tâm trạng nói ở trên chính là sự hướng nội của tác giả. Từ đây mà tâm trạng mới có nỗi
niềm ám ảnh:
Mơ khách dường xa, khách dường xa Áo em tráng quá nhìn không ra.
Đến đây, không còn là sự “hiện dần” nỗi niềm tâm trạng nữa, mà lồ lộ một tình yêu đầy khao khát.
Cái khao khát này lại cũng không rõ về nhân hình, nhân ảnh. Nó vừa như thực, lại vừa như mơ, khi
ấn khi hiện. Cái màu áo trắng của người con gái ở đây thật nghiệt ngã! Nó rõ ràng là thê, mà nhìn
vẫn không ra!
Chính nó đã choán toàn bộ tâm tưởng, cảm xúc của người nhìn. Tác giả như muôn cắt nghĩa
thêm: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhưng như thế là đã thấm thìa không ít cái “bất lực” đơn
phương của mình. Cái thú vị là chính từ sương khói đã nói thay được tính chất của tình yêu này.
Thật vậy! Tha thiết va khát khao đến thế, nhưng tình yêu ấy vẫn cứ xa xôi, làm sao có thể nói hết
lòng mình? Nó còn đó, không bao giờ mất đi. Nhưng nó đã ở trong vòng tay mình chưa thì chưa đạt
được bao giờ. Nó như sương khói mà thôi, cái sương khói thật buồn và thâm thìa, nói không bao
giờ hết được.
Hai khổ thơ trên đều có từ ai không xác định. Khổ cuối có hai từ ai trong câu cuối cùng lại là hai từ
xác định. Đó là quan hộ của mối tình “chưa cụ thể” trong bài thơ. Cái “chưa cụ thể” chưa đạt nỗi
khao khát này cũng chí làm cho tình yêu xa vắng thêm, vời vợi thêm và xót xa thêm. Nhưng cũng
chính điều này đã tạo ra cái đặc sắc của cảm xúc trong bài thơ.
Như vậy, từ bài thơ cảnh què đã dần dần chuyển thành bài thơ tình yêu - một loại tình yêu chỉ biết
tự lắng nghe, cảm nhận đơn phương, nhưng luôn có thực.

You might also like