Professional Documents
Culture Documents
Bào Tàng
Bào Tàng
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
✦✦✦✦✦
KHOA NGOẠI NGỮ
Rìu
Dao găm
Trống
2.3.PHÒNG 3: THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Sau thất bại của An dương Vương trong kháng chiến chống Triệu Đà (179
TCN) đất nướcViệt Nam bị các thế lực phong kiến phương Bắc kế tiếp nhau
cai trị và thực hiện âm mưu đồnghóa dân Việt. Thời kỳ này còn gọi là thời
kỳ Hán hoá hay là thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc.
Chậu trống bằng đồng: Vừa là chậu, vừa là trống (vì Trung Quốc lúc bấy giờ
cấm chúng ta đúc trồng). Mặt trong đáy chậu khắc hình đôi cá, một đề tài
trang trí điển hình của người Hán.
Mặt ngoài đáy chậu khi úp xuống thành mặt trống lại thể hiện rõ những chi
tiết, hoa văn của một chiếc trống đồng Đông Sơn với hình chim lạc và ngôi
sao ởtrung tâm. Điều đó đã nói lên sức sống của nền văn hoá Đông Sơn từ
thời Hùng Vương dựng nước.
Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu:
Mở đầu là cuộc khởi nghĩa
năm 40: Hai Bà Trưng đánh
đuổi quân Đông Hán.
Năm 248: Triệu Thị Trinh
khởi nghĩa chống quân Đông
Ngô.
Chiến thắng Bạch Đằng (năm
938): chiến thắng này đã
chấm dứt thời kỳ mất nước
hơn 1000 năm và đã mở ra
khỉ nguyên mới, thời kì quốc gia phong kiến trên đất nước Việt Nam
Chúng ta khởi đầu kỷ nguyên độc lập với 3 triều đại: Ngô - Đinh - Tiền Lê.
Tuy nhiên, nhân dân tiếp tục cuộc đấu tranh chống xu hướng các cứ dẹp loạn
12 xứ quân.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng đế cùng người con trai trưởng bị ám hại. Lúc
bấy giờ quân Tống tràn sang xâm lược nước ta.
Đứng trước tình cảnh đó buộc Thái hậu Dương Văn Nga đã trao quyền lãnh
đạo cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Ông đã có công lãnh đạo người dân tiến hành cuộc khách chiến chống Tống
lần thứ nhất thắng lợi năm 981, lập nên triều Tiền Lê.
Sau đó, do tuổi cao sức yếu, ông đã nhường ngôi cho con mình là Lê Long
Việt. Thế nhưng, vị vua này ở ngôi được 3 ngày thì bị chính người em ruột
mình giết chết để tranh ngôi là Lê Long Đĩnh - Lê Ngoạ Triều.
Một lần nữa, dưới sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân, đặc biệt là
Sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã được suy tôn lên ngôi báu, mở đầu cho triều
đại nhà Lý tồn tại 216 năm.
2.4.PHÒNG 4: THỜI LÝ
Năm 1010, sau khi lên ngôi, thì Lý Thái Tổ đã cho dời kinh đô từ thành Hoa
Lư về kinh thànhĐại La. Sau đó, theo giấc mơ có rồng bay lên, ông đã cho
đổi tên thành Thăng Long. Trong chiếudời đô, Lý Thái Tổ đã viết rằng
“Trên thuận ý trời, dưới vừa lòng dân. Nơi đây có thế rồng cuộnhổ ngồi, là
nơi hội tụ các bậc đế vương muôn đời.”
quyết định sáng suốt khi dời đô vềvị trí này để phát triển đất nước về các
mặt kinh tế văn hoá.
Cung điện các vị vua được xây dựng bằng đất nung và đá, ngói: hình con
chim uyên ương: hạnh phúc lứa đôi, sự chung thủy.
Tảng đá kê cột hình hoa sen: hoa tiêu biểu trong Phật Giáo lúc bấy giờ.
Song Long mĩ thuật Phật Giáo phát triển.
Một số thông tin về Phật Giáo: từ Ấn Độ, 2 phái, ….
Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Trung
Quốc.
Tượng A Di Đà: tượng ở bảo tàng làm
bằng thạch cao, tượng nguyên bản đặt ở
chùa Phật Tích.
Phật giáo giữ vai trò chủ đạo trong cuộc sống Việt Nam lúc bấy giờ.
Không từ bỏ âm mưu sang xâm lược nước ta lần thứ 2, năm 1076, quân
Tông đã đưa 10vạn quân sang nước ta. Lần này triều đình đã cử Thái uý Lý
Thường Kiệt chỉ huy trận đánh này.
Bài thơ:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư”
cổ vũ, khích lệ tinh thần của nghĩa quân, làm nên chiến thằng vang dội.
Tháng 3 năm 1077 quân Tống rút chạy về nước trong cảnh hoản loạn.
Nữ vương “Lý Chiêu Hoàng”
sự chuyển giao quyền lực êm ái.
2.17. PHÒNG 17: VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC PHÍA NAM
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em.
Trong đó, dân tộc Việt (Kinh) chiếm tỷ lệ đông nhất với hơn 85% dân
số, dân tộc ít người nhất là Rơ Măm, Brâu và Ơ Đu (dưới 500 người)
[Theo Tổng điều tra dân số năm 2009].
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển cùng
với tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước tạo nên
một dân tộc Việt Nam thống nhất.
Mỗi dân tộc mang sắc thái văn hóa riêng tạo nên sự đa dạng, phong
phú, độc đáo và góp phần hình thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam.
Với lí do diện tích của Bảo tàng Lịch sử còn bị giới hạn nên chỉ trưng
bày được khu vực phía Nam, từ Quảng Bình đến Cà Mau là địa bàn cư
trú chủ yếu của các dân tộc thuộc các ngữ hệ Nam Á, Nam Đảo.
Từ thế kỷ XVI, cư dân Việt và Hoa đã đến đây góp phần khai phá và
xây dựng vùng đất này.
Sau năm 1975, do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nên tình hình phân
bố dân cư cũng có sự thay đổi lớn, nhiều nhóm cư dân thuộc các thành
phần dân tộc ở Bắc Việt Nam đã chuyển vào phía Nam định cư.
Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường: văn hóa nước ta đã có từ nền văn hóa
Đông Sơn ở các khu vực phía Bắc hơn 2500 năm và khu vực Gia Định
- Sài Gòn chỉ hơn 300 năm do Nguyễn Hữu Cảnh khai phá vùng đất
này.
Không chỉ Nhật Bản, Việt Nam nước ta cũng có trà đạo tuy nhiên
không được phát triển thành đạo.
Người Việt cũng có tục uống trà dành cho quý tộc, dành cho lớp bình
dân.
Ngoài ra, người Việt còn có thói quen “khấn quan lập ấp” tức là thờ
những người tiền hiền hậu hiền, những người đã có công khai mở vùng
đất mới.
Nhóm người Hoa: Mạc Cửu là một người làm kinh doanh rất giỏi,
được các chúa Nguyễn cấp một phần đất ở Hà Tiên (Kiên Giang) để
phát triền vùng đất đó.
Những người tướng lĩnh đem gia đình, những người cùng chung chí
hướng muốn diệt phò Minh, diệt Thanh đi trên 3 con tàu để định cư khu
vực Cừu Lao Phố (Đồng Nai, Mỹ Tho).
Họ còn đem theo tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu - người có công phù hộ
cho những người làm ăn trên sông, biển nhưng theo tín ngưỡng bản địa
hóa, nguời dân đã phối hợp hình ảnh bà theo người Việt sẽ phù hộ cho
những người làm ăn buôn bán, những người có mong cầu.
Nhóm khu vực Đông Nam Bộ: những chiếc trống cái được làm từ da
voi đặt trong những ngôi nhà rông, được xem là trung tâm văn hóa của
buôn làng.
Đặc biệt là bức tượng nhà nhà mồ của dân tộc Gia Rai, khi mới chôn
cất người chết xong, người dân đẻo những khúc gỗ thành hình những
bức tượng để ở xung quanh nhà mồ vì quan niệm rằng đây là những
người bạn, người thân, người hầu của người chết; sau lễ bỏ ma thì sẽ
đốt đi, tuy nhiên vẫn có vài dân tộc giữ lại để trang trí vì họ cho rằng
con cháu vẫn sẽ luôn nhớ thương về tổ tiên, ông bà.