You are on page 1of 79

HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI 

[1]
 
 
Chính phủ Khối thịnh vượng chung Úc, Vương quốc Bỉ, Hợp chủng Quốc Brasil, Miến điện, Canada,
Ceylon, Cộng hoà Chi lê, Cộng hoà Trung Hoa, Cộng hoà Cu ba, Cộng hoà Tiệp khắc, Cộng hoà Pháp, ấn độ, Li
băng, Đại công quốc Lục Xâm bảo, Vương quốc Hà lan, Tân Tây Lan, Vương quốc Na uy, Pa-kix-tan, Nam-
Rhodessia, Syri, Liên hiệp Nam phi, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len, và Hợp chủng quốc Hoa kỳ:
 
            Thừa nhận rằng mối quan hệ của họ với nỗ lực trên trường kinh tế thương mại cần được tiến hành nhằm
nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ việc làm và thu nhập thực tế  và  thu nhập thực cao và tăng trưởng vững chắc,
sử dụng đầy đủ và tốt hơn nguồn lực của thế giới và mở mang sản xuất và trao đổi hàng hoá,
 
            Mong muốn đóng góp vào các mục tiêu nêu trên thông qua các thoả thuận tương hỗ và cùng có lợi theo
hướng tới giảm mạnh thuế quan và các trở ngại  thương mại khác và hướng tới triệt tiêu sự phân biệt đối xử trong
thương mại quốc tế,
 
Thông qua các Đại diện của mình đã thoả thuận như sau:
 
Phần I
 
Điều I
 
Quy định chung về Đối xử tối huệ quốc
 
1.         Với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất
khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng xuất  nhập khẩu, hay phương thức đánh thuế hoặc
áp dụng phụ thu  nêu trên, hay với mọi luật lệ hay thủ tục trong xuất nhập khẩu và liên quan tới mọi nội dung đã
được nêu tại khoản 2 và khoản 4 của Điều III,* mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên
ký kết nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp
dụng cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều
kiện.
 
2.         Các quy định của của Khoản 1 thuộc Điều này không đòi hỏi phải loại bỏ bất cứ một ưu đãi nào liên quan tới
thuế nhập khẩu hay các khoản thu không vượt quá mức đã được quy định tại Khoản 4 của Điều này và nằm trong
diện được quy định dưới đây:
 
(a)          Ưu đãi có hiệu lực giữa hai hay nhiều lãnh thổ nêu trong danh mục tại phụ lục A, theo các điều kiện
nêu trong phụ lục đó;
(b)          Ưu đãi có hiệu lực riêng giữa hai hay nhiều lãnh thổ có mối liên hệ về chủ quyền chung hay có quan
hệ bảo hộ chủ quyền được nêu tại danh mục B, C, D, theo điều kiện đã nêu ra trong các phụ lục
đó;
(c)          Ưu đãi chỉ có hiệu lực riêng giữa các nước có chung biên giới nêu trong phụ lục E, F.
 
3.         Các điều khoản của khoản I sẽ không áp dụng với các ưu đãi giữa các nước trước đây là bộ phận của Lãnh
thổ Ottoman và được tách từ lãnh thổ Ottoman ra từ ngày 24 tháng 7 năm 1923, miễn là các ưu đãi đó được phép áp
dụng theo khoản 5 của điều XXV và do vậy sẽ đươc áp dụng phù hợp với khoản 1 của Điều XXIX.
 
4.         Biên độ ưu đãi* áp dụng với bất cứ sản phẩm nào được khoản 2 của Điều này cho phép dành ưu đãi nhưng
các Biểu cam kết đính kèm theo Hiệp định này lại không có quy định rõ cụ thể mức biên độ tối đa, sẽ không vượt
quá:
 
(a)     Khoản chênh lệch giữa mức đối xử  tối huệ quốc và thuế suất ưu đãi nêu trong Biểu, với thuế quan hay
khoản thu áp dụng với bất cứ sản phẩm nào đã được ghi trong Biểu tương ứng; nếu trong Biểu không
ghi rõ thuế suất ưu đãi, việc vận dụng thuế suất ưu đãi theo tinh thần của điều khoản này sẽ căn cứ vào
mức thuế ưu đãi có hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 và nếu trong Biểu cũng không có mức
thuế đối xử tối huệ quốc thì áp dụng mức chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi và thuế theo đối xử tối huệ
quốc đã có vào ngày 10 tháng 4 năm 1947;
 
(b)     Với mọi khoản thuế quan và khoản thu không ghi cụ thể trong Biểu tương ứng, mức chênh lệch có
được vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 sẽ được áp dụng.
 
Trong trường hợp một bên ký kết có tên trong phụ lục G, ngày 10 tháng 4 năm 1947 tham chiếu đến tại tiểu khoản
(a) và (b) trên nêu trên sẽ được thay thế bằng ngày cụ thể ghi trong phụ lục đó.
 
Điều II
Biểu nhân nhượng
 
1.      (a)        Mỗi bên ký kết sẽ dành cho thương mại của các bên ký kết khác sự đối xử không kém phần thuận lợi
hơn những đối xử đã nêu trong phần tương ứng thuộc Biểu nhân nhượng tương ứng là phụ lục của
Hiệp định này.
 
(b)       Các sản phẩm như mô tả tại Phần I của Biểu liên quan tới bất kỳ bên ký kết nào, là sản phẩm xuất xứ
từ lãnh thổ một bên ký kết khác khi nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết mà Biểu được áp dụng và
tuỳ vào các điều khoản và điều kiện hay yêu cầu đã nêu tại Biểu này, sẽ được miễn mọi khoản thuế
quan thông thường vượt quá mức đã nêu trong Biểu đó. Các sản phẩm đó sẽ được miễn mọi khoản
thuế hay khoản thu dưới bất cứ dạng nào áp dụng vào thời điểm nhập khẩu hay liên quan tới nhập
khẩu vượt quá mức đã áp dụng vào ngày ký Hiệp định này cũng như vượt quá mức các loại thuế hay
các khoản thu luật định trực tiếp hay áp đặt theo thẩm quyền luật định trên lãnh thổ nhập khẩu vào
ngày đó hay sau đó.
 
(c)        Các sản phẩm của các lãnh thổ quan thuế mô tả ở phần II của Biểu liên quan tới bất cứ bên ký kết nào
có đủ điều kiện theo Điều I để được hưởng đối xử ưu đãi khi nhập khẩu vào lãnh thổ mà Biểu đó có
hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện điều khoản hay yêu cầu nêu trong Biểu đó sẽ được miễn phần
thuế quan thông thường vượt trên thuế xuất đã quy định tại phần II của Biểu. Các sản phẩm đó cũng
sẽ được miễn mọi khoản thuế hay khoản thu thuộc bất kỳ loại nào vượt quá mức thuế hay mức thu
quy định áp dụng với quan hệ thuộc dạng nhập khẩu vào ngày ký Hiệp định này hay sẽ áp dụng theo
quy định trực tiếp của pháp luật  hay được luật pháp của lãnh thổ nhập khẩu có hiệu lực vào ngày đó
hay quy định sẽ thu sau ngày nêu trên. Không một nội dung nào thuộc điều khoản này ngăn cản một
bên ký kết duy trì các quy định về điều kiện được hưởng đãi ngộ thuế quan ưu đãi đã có vào ngày ký
kết Hiệp định này.
 
2.         Không có nội dung nào thuộc điều khoản này ngăn cản một bên ký kết áp dụng vào bất kỳ thời kỳ nào với
nhập khẩu bất cứ sản phẩm nào:
 
(a)   một khoản thu tương đương với một khoản thuế nội địa áp dụng phù hợp với các quy định của khoản 2
của Điều III* với sản phẩm nội địa tương tự hoặc  với một mặt hàng được sử dụng toàn bộ hay một
phần để chế tạo ra sản phẩm nhập khẩu.
 
(b)   bất cứ một khoản thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng nào áp dụng phù hợp với các quy định
của Điều VI.*
 
(c)   các khoản lệ phí hay khoản thu khác phù hợp với giá thành của dịch vụ đã cung cấp.          
 
3.         Không một bên ký kết nào sẽ điều chỉnh phương pháp xác định trị giá tính thuế hay chuyển đổi đồng tiền dẫn
tới kết quả là làm suy giảm các nhân nhượng đã đạt được tại Biểu tương ứng là phụ lục của Hiệp định này.
 
4.         Nếu một bên ký kết nào định ra hay duy trì hay cho phép, chính thức hay áp dụng trong thực tế một sự độc
quyền trong nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào đã ghi trong Biểu nhân nhượng là phụ lục của Hiệp định này hay
đã được các bên tham gia đàm phán ban đầu thỏa thuận ở văn bản khác sự độc quyền đó sẽ không được vận dụng
tạo thành sự bảo hộ có mức trung bình cao hơn mức đã quy định tại Biểu nhân nhượng đó. Quy định của khoản này
không hạn chế một bên ký kết áp dụng bất cứ hinh thức trợ giúp nào với các nhà sản xuất trong nước được các quy
định của Hiệp định này cho phép.*
 
5.         Nếu bất kỳ bên ký kết nào thấy rằng một sản phẩm không nhận được ở một bên ký kết khác sự đãi ngộ mà
mình cho rằng đấng lẽ phải được hưởng theo nhân nhượng tại Biểu tương ứng, bên ký kết đó sẽ nêu vấn đề lên với
các bên ký kết khác. Nếu bên ký kết đang áp dụng mức đãi ngộ nêu trên thấy rằng yêu cầu của bên ký kết đó là đúng
nhưng không thể cho hưởng sự đãi ngộ đó vì không thể làm trái ý chí của một toà án hay một cơ quan quyền lực
thích ứng nào đó vì có phán quyết rằng hàng hoá đó không được phân loại theo luật thuế của bên ký kết để có thể áp
dụng sự đãi ngộ nêu trong Hiệp định này, hai bên ký kết cùng với bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền lợi đáng kể
sẽ khẩn trương tiến hành đàm phán nhằm điều chỉnh bù đắp cho quyền lợi đó.
 
6.      (a)        Các thuế và khoản thu cụ thể thuộc Biểu của các bên ký kết là Thành viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế
(IMF) và biên độ ưu đãi trong mức thuế và khoản thu cụ thể được các bên ký kết đó áp dụng được
thể hiện bằng đồng tiền tương ứng tính theo trị giá quy đổi được Quỹ chấp nhận và tạm thời thừa
nhận vào thời điểm ký kết Hiệp định này. Theo đó, nếu trị giá quy đổi bị giảm đến hai chục phần
trăm đáp ứng các quy định của Điều lệ IMF, các thuế và khoản thu và biên độ ưu đãi cụ thể đó có
thể được điều chỉnh có tính đến mức giảm nói trên; miễn rằng các bên ký kết đó (ví dụ Các Bên Ký
kết cùng hành động theo quy định của Điều XXV) cùng cho rằng sự điều chỉnh như vậy sẽ không
làm mất đi gía trị của các nhân nhượng đã xác định tại Biểu tương ứng hay xác định ở nơi nào khác
trong Hiệp định này, đồng thời cũng ghi nhận đầy đủ đến mọi nhân tố có thể ảnh hưởng đến nhu cầu
và tính khẩn thiết của sự điều chỉnh đó.
 
 (b)      Các quy định tương tự cũng áp dụng với các bên ký kết hiện không phải là thành viên của Quỹ tiền tệ
Quốc tế-IMF, kể từ ngày bên ký kết đó gia nhâp Quỹ và tham gia thoả thuận đặc biệt về ngoại hối
theo Điều XV.
 
7.         Các Biểu nhân nhượng kèm theo Hiệp định này là một bộ phận không thể tách rời của Phần I Hiệp định này.
 
Phần II
 
Điều III*
 
Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước
 
1          Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa, cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu
tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định
lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác định, không
được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.*
 
2.         Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu, dù trực tiếp hay gián tiếp, các
khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián
tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Hơn nữa, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các loại thuế hay khoản thu khác
trong nội địa trái với các nguyên tắc đã nêu tại khoản 1.*
 
3.         Với mọi khoản thuế nội địa hiện đã tồn tại trái với các quy định tại khoản 2, nhưng có thoả thuận cụ thể cho
phép duy trì căn cứ vào một hiệp định thương mại có giá trị hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, theo đó thuế
nhập khẩu đánh vào sản phẩm chịu thuế nội địa đã được cam kết trần, không tăng lên, bên ký kết đang áp dụng thuế
đó được hoãn thời hạn thực hiện các quy định tại khoản 2 áp dụng với các loại thuế nội đó cho tới khi nghĩa vụ
thuộc hiệp định đó được giải phóng và cho phép bên ký kết đó điều chỉnh thuế quan trong chừng mực cần thiết để
bù đắp cho nhân tố bảo hộ trong khoản thuế nội địa.
 
4.         Sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết khác
sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt
luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng
trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này sẽ không ngăn cản việc áp dụng các khoản thu phí vận tải khác
biệt chỉ hoàn toàn dựa vào yếu tố kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận tải và không dưạ vào quốc
tịch của hàng hoá.
 
5.         Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội địa nào với pha trộn, chế biến
hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay
tỷ lệ nhất định của bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ nguồn nội địa.
Thêm vào đó, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các quy tắc định lượng trong nước theo cách nào khác trái với
các nguyên tắc đã quy định tại khoản 1.*
 
6.         Các quy định của khoản 5 sẽ không áp dụng với những quy tắc có hiệu lực trên lãnh thổ của bất cứ bên ký
kết nào vào ngày 1 tháng 7 năm 1939, ngày 10 tháng 4 năm 1947 hay ngày 24 tháng 3 năm 1948 tuỳ bên ký kết liên
quan chọn; miễn là các quy tắc trái với quy định của khoản 5 đó sẽ không bị điều chỉnh bất lợi hơn cho hàng nhập
khẩu và chúng sẽ được xem như là một khoản thuế quan để tiếp tục đàm phán.
 
7.         Không một quy tắc định lượng nội địa nào điều chỉnh việc pha trộn, chế biến hay sử dụng tính theo khối
lượng hay tỷ lệ sẽ được áp dụng để phân bổ các khối lượng hay tỷ lệ nêu trên theo xuất xứ của nguồn cung cấp.
 
8.      (a)        Các quy định của Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quan chính phủ mua sắm nhằm
mục đích cho tiêu dùng của chính phủ chứ không phải để bán lại nhằm mục đích thương mại hay
đưa vào sản xuất nhằm mục đích thương mại.
 
  (b)     Các quy định của điều khoản này sẽ không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành cho các
nhà sản xuất nội địa, kể cả các khoản khoản trợ cấp dành cho các nhà sản xuất nội địa có xuất xứ từ
các khoản thu  thuế nội địa áp dụng phù hợp với các quy định của điều khoản này và các khoản trợ
cấp thực hiện thông qua việc chính phủ mua các sản phẩm nội địa.
 
9.         Các bên ký kết thừa nhận rằng các biện pháp kiểm soát giá tối đa, dù rằng tuân theo đúng các quy định khác
của điều khoản này, có thể có làm tổn hại tới quyền lợi của bên ký kết cung cấp hàng nhập. Do vậy, các bên ký kết
áp dụng các biện pháp kiểm soát giá tối đa sẽ cân nhắc đến quyền lợi của bên ký kết là bên xuất khẩu nhằm hạn chế
tối đa trong khuôn khổ các biện pháp có thể tực hiện được các tác động bất lợi đó.
 
10.       Các quy định của Điều này không ngăn cản các bên ký kết định ra hay duy trì các quy tắc hạn chế số lượng
nội địa liên quan tới số lượng phim trình chiếu áp dụng theo đúng các quy định của Điều IV.
 
Điều IV
 
Các quy định đặc biệt về phim - điện ảnh
 
Nếu một bên ký kết đưa ra hay duy trì các quy định về số lượng phim ảnh trình chiếu, các quy tắc này sẽ có
hình thức hạn ngạch về thời gian trình chiếu và đáp ứng các quy định dưới đây:
 
   (a)     Hạn ngạch về thời gian trình chiếu sẽ quy định thời gian chiếu phim có xuất xứ nội địa quy định tỷ trọng tối
thiểu trong tổng số thời gian thực trình chiếu phim với mục đích thương mại từ mọi xuất xứ trong một thời
kỳ không dưới một năm, và sẽ tính trên cơ sở thời gian thực chiếu mỗi năm hoặc tương ứng tính theo từng
rạp;
 
   (b)    Ngoại trừ thời gian được hạn ngạch quy định dành cho phim có xuất xứ quốc gia, thờì gian trình chiếu kể cả
thời gian chính quyền không sử dụng trong số hạn ngạch dành cho phim trong nước sẽ không bị phân bổ
một cách chính thức hay thực tế theo nguồn cung cấp phim;
 
   (c)     Không ảnh hưởng tới các quy định nêu trong tiểu khoản (b) của Điều này, bất cứ bên ký kết nào cũng có thể
duy trì hạn ngạch trình chiếu phù hợp với các yêu cầu nêu tại tiểu khoản (a) của Điều khoản này, dành một
phần tối thiểu trong thời gian trình chiếu để chiếu phim từ một xuất xứ nhất định không phải là xuất xứ của
bên ký kết áp dụng hạn ngạch; miễn là phần thời gian đó không vượt quá phần thực chiếu phim đó vào
ngày 10 tháng 4 năm 1947;
 
   (d)    Hạn ngạch trình chiếu sẽ là đối tượng đàm phán nhằm hạn chế phạm vi áp dụng, mở rộng hạn ngạch hay triệt
tiêu hoàn toàn.
 
Điều V
 
Quyền tự do quá cảnh
 
1.         Hàng hoá (kể cả hành lý), cũng như tàu biển và các phương tiện vận tải khác sẽ được coi là quá cảnh qua
lãnh thổ một bên ký kết khi việc chuyển qua lãnh thổ, dù có chuyển tải, lưu kho, tách lô hàng rời hay thay đổi
phương thức vận tải hay không nhưng vẫn chỉ là một phần của toàn chặng vận tải được bắt đầu và kết thúc bên
ngoài biên giới của bên ký kết có hàng đi qua lãnh thổ. Chuyên chở thuộc loại này gọi là vận tải quá cảnh.
 
2.         Các bên tự do chuyên chở hàng quá cảnh qua lãnh thổ của mỗi bên ký kết, qua tuyến đường tiện lợi nhất cho
quá cảnh quốc tế, cho vận tải quá cảnh đi, đến hay xuất phát từ lãnh thổ của một bên ký kết khác. Không có sự phân
biệt nào được thực thi căn cứ vào phương tiện treo cờ nào hay xuất xứ từ đâu, nơi đi, nơi đến hay ra vào cảng nào
hay trong bất kỳ trường hợp nào liên quan tới quyền sở hữu với hàng hoá, với tàu hay phương tiện vận chuyển.
 
3.         Bất cứ một bên ký kết nào có thể yêu cầu hàng vận chuyển quá cảnh qua lãnh thổ của mình vào một trạm hải
quan thích hợp. Tuy nhiên, trừ trường hợp không tuân thủ các luật hay quy tắc hải quan thông thường, vận chuyển
quá cảnh đi đến hay xuất phát từ lãnh thổ của các bên ký kết khác sẽ không bị làm chậm chễ hay bị hạn chế không
cần thiết và sẽ được miễn mọi khoản thuế quan áp đặt với quá cảnh, trừ các chi phí vận tải hay các chi phí phát sinh
tương ứng về hành chính, về chuyển tải hay chi phí dịch vụ đã được cung cấp.
 
4.         Mọi chi phí và quy tắc được các bên ký kết áp dụng với vận tải quá cảnh đi từ hay đi đến lãnh thổ của các
bên ký kết khác sẽ ở mức hợp lý, có xem xét đến điều kiện vận chuyển.
 
5.         Với mọi chi phí, quy tắc hay các thủ tục liên quan tới quá cảnh, mỗi bên ký kết sẽ dành cho vận tải quá cảnh
đi từ hay có xuất xứ từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào khác sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối
xử dành cho vận tải quá cảnh đi tới hay xuất phát từ lãnh thổ của bất cứ bên thứ ba nào khác.
 
6.         Mỗi bên ký kết sẽ dành cho hàng hoá đã qua vận tải quá cảnh trên lãnh thổ của một bên ký kết nào khác sự
đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối xử lẽ ra sẽ dành cho hàng hoá đó như hàng được vận tải từ nơi xuất
phát tới nơi đến cuối cùng không quá cảnh lãnh thổ một bên ký kết nói trên. Tuy nhiên bất cứ một bên ký kết nào
cũng có thể duy trì các yêu cầu về việc gửi hàng trực tiếp đã tồn tại vào ngày ký Hiệp định này, áp dụng với bất cứ
hàng hoá nào được quy định phải là gửi hàng trực tiếp mới đủ điều kiện nhập hàng qua cửa khẩu được hưởng thuế
quan ưu đãi hay liên quan tới phương pháp định giá được một bên ký kết quy định nhằm mục đích áp dụng thuế
quan.
 
7.         Các quy định của điều khoản này sẽ không áp dụng với máy bay quá cảnh nhưng lại áp dụng với hàng hoá
quá cảnh kể cả với hành lý.
 
Điều VI
 
Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng
 
1.         Các bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, tức là việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh
thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt
nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay
thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Nhằm vận dụng điều khoản này, một sản phẩm
được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của
hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác
 
(a)     thấp hơn giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự
nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc
 
(b)     trường hợp không có một giá nội địa như vậy, thấp hơn một trong hai mức
 
(i)    giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào
trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc
 
(ii)   giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng
và lợi nhuận.
 
Trong mỗi trường hợp trên, sẽ có xem xét điều chỉnh một cách thoả đáng đối với các khác biệt về điều kiện và điều
khoản bán hàng, khác biệt về chế độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.*
 
2.         Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, một bên ký kết có thể đánh vào bất cứ
một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán phá giá
của sản phẩm đó. Trong khuôn khổ Điều  này, biên độ bán phá giá được coi là sự chênh lệch về giá được xác định
phù hợp với các quy định tại khoản 1.*
 
3.         Thuế đối kháng không được phép đánh vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được
nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác ở mức vượt quá mức tương ứng với khoản hỗ trợ hay trợ cấp đã xác
định là đã được cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chế biến, sản xuất hay xuất khẩu của sản phẩm đó tại nước xuất xứ
hay nước xuất khẩu, trong đó bao gồm cả các khoản trợ cấp đặc biệt cho việc chuyên chở sản phẩm đó. Thuật ngữ
thuế đối kháng được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp
dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào.
 
4          Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết
khác sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với lý do đã được miễn thuế mà một sản phẩm tương tự
phải trả khi tiêu thụ tại nước xuất xứ hoặc xuất khẩu, hay vì lí do đã được hoàn lại các thuế đó.
 
5.         Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết
khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp
xuất khẩu.
 
6.      (a)        Không một bên ký kết nào sẽ đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với hàng nhập khẩu xuất
xứ lãnh thổ của một bên ký kết khác trừ khi đã xác định, tuỳ theo trường hợp cụ thể, thực sự đã gây
ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước đã được thiết lập hay làm
chậm đáng kể việc lập nên một ngành sản xuất trong nước.
 
(b)       Các Bên Ký Kết có thể cho phép miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) đoạn này, cho phép một
bên ký kết áp dụng thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với việc nhập khẩu bất cứ sản phẩm
nào nhằm mục đích triệt tiêu việc bán phá giá hay trợ cấp đã gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng
kể với một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác là bên xuất khẩu sản phẩm tương
ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm đã nói trên. Các Bên Ký Kết sẽ miễn thực hiện
các yêu cầu của điểm (a) thuộc khoản này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế đối kháng trong
trường hợp nhận thấy rằng việc trợ cấp đang gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một
ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác cũng xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh
thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm.
 
(c)        Tuy nhiên trong các tình huống đặc biệt, nếu việc trì hoãn có thể gây ra tổn hại khó có thể khắc phục
được, một bên ký kết có thể đánh thuế đối kháng với mục đích như đã nêu tại điểm (b) của khoản
này mà không cần được Các Bên Ký Kết thông qua trước; miễn rằng phải thông báo lại ngay cho
Các Bên Ký Kết biết và khi Các Bên Ký Kết không tán thành thì sẽ rút bỏ ngay việc áp dụng thuế
này.
 
7.         Một hệ thống ổn định giá trong nước hay ổn định sự hoàn vốn cho các nhà sản xuất sản phẩm sơ cấp trong
nước, không phụ thuộc vào biến động giá cả trong xuất khẩu có khi dẫn tới bán hàng cho xuất khẩu với giá thấp hơn
giá so sánh dành cho người mua trên thị trường trong nước, sẽ không được suy diễn là dẫn tới tổn hại đáng kể hiểu
theo ý của khoản 6 nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm này sau khi tham vấn thấy rằng:
 
(a)   hệ thống đó cũng dẫn đến kết quả là sản phẩm được bán cho xuất khẩu với giá cao hơn giá so sánh bán
sản phẩm tương tự cho người mua trong nước, và
 
(b)   hệ thống cũng vận hành như vậy, hoặc trong điều chỉnh thực tế sản xuất, hoặc một lý do nào khác,
không dẫn tới hệ quả là thúc đẩy không chính đáng xuất khẩu hay làm tổn hại nghiêm trọng quyền lợi
của các bên ký kết khác.
 
 
Điều VII
 
Xác định trị giá tính thuế quan
 
1.         Các bên ký kết thừa nhận hiệu lực của các nguyên tắc chung về xác định trị giá tính thuế quan nêu tại các
khoản tiếp theo của Điều này và cam kết thực thi các nguyên tắc đó với mọi sản phẩm phải chịu thuế quan và phụ
thu* hoặc chịu các hạn chế về nhập khẩu và xuất khẩu căn cứ vào hoặc điều chỉnh theo trị giá bằng bất cứ cách nào.
Ngoài ra, ngay khi một bên ký kết khác có yêu cầu, các bên sẽ xem xét lại việc vận dụng bất cứ luật hay quy chế nào
liên quan tới trị giá tính thuế quan căn cứ vào các nguyên tắc nêu ở đây. Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu (những) bên
ký kết có báo cáo về các bước đi đã được áp dụng theo quy định của điều khoản này.
 
2.      (a)      Trị giá tính thuế quan với hàng nhập phải dựa vào giá trị thực của hàng nhập khẩu làm cơ sở tính thuế
quan, hoặc trị giá thực của hàng tương tự,  không được phép căn cứ vào trị giá của hàng có xuất xứ
nội hay trị giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ.
 
(b)     "Giá trị thực" sẽ là giá cả hàng hoá đó hay hàng hoá tương tự được bán hay chào bán vào một thời điểm
và tại một địa điểm được xác định theo luật pháp nước nhập khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ. Trong chừng mực hàng hoá đó hay hàng tương tự bị chi
phối bởi số lượng gắn liền với một dịch vụ nhất định, giá cả đưa ra xem xét sẽ được căn cứ vào những
điều kiện như vậy với (i) số lượng so sánh được hoặc các số lượng xác định không kém phần thuận lợi
cho nhà nhập khẩu tính theo giá lô hàng nhập khẩu lớn nhất trong quan hệ  thương mại giữa nước xuất
khẩu và nước nhập khẩu.
 
(c)     Khi trị giá thực không xác định được theo quy định tại điểm (b) của khoản này, trị giá dùng để tính thuế
quan sẽ là trị giá gần nhất tương đương với trị giá nói trên.*
 
3.         Trị giá để tính thuế quan của bất cứ sản phẩm nhập khẩu nào sẽ không bao gồm bất cứ khoản thuế nội địa
nào, đã được nước xuất xứ hoặc xuất khẩu đã cho hoặc sẽ cho hàng đó được miễn thuế hay hoàn thuế.
 
4.      (a)      Trừ khi có quy định khác trong khoản này, để một bên ký kết vận dụng các quy định của khoản 2 của
Điều này vào việc quy đổi giá hàng tính bằng đồng tiền của một nước khác sang nội tệ, tỷ giá quy đổi
sẽ dựa trên trị giá tương ứng tuân thủ quy định tại Các Điều khoản Thoả thuận của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế hoặc theo tỷ giá quy đổi được Quỹ công nhận, hoặc theo trị giá tương ứng xác định phù hợp với
một  thoả thuận ngoại hối đặc biệt tuân thủ theo Điều XV của Hiệp định này.
 
(b)     Khi không có chuẩn mực về trị giá tương ứng, hay tỷ giá được thừa nhận đó, tỷ giá quy đổi sẽ phản ảnh
đúng giá trị giao dịch  thương mại của đồng tiền hiện thời.
 
(c)     Các Bên Ký Kết, cùng thoả thuận với Quỹ tiền tệ Quốc tế, sẽ xây dựng quy tắc điều chỉnh việc các bên
ký kết áp dụng cơ chế nhiều tỷ giá quy đổi tiền tệ cho phù hợp với nội dung Điều khoản Thoả thuận
của Quỹ tiền tệ Quốc tế. Bất cứ bên ký kết nào cũng có quyền áp dụng các quy tắc này trong quy đổi
ngoại tệ nhằm các mục đích đã nêu tại khoản 2 của điều khoản này thay cho trị giá tương ứng. Trong
khi chờ đợi Các Bên Ký Kết thông qua các quy tắc đó, bất cứ một bên ký kết nào cũng có thể sử dụng
các quy tắc chuyển đổi nhằm mục đích như nêu tại Điều 2 của điều khoản này đã được xây dựng để
phản ảnh đúng giá trị  thương mại của các ngoại tệ đó.
 
(d)     Không một quy định nào trong điều khoản này được lập ra để đòi hỏi  bất kỳ một bên ký kết nào thay
đổi các nguyên tắc có hiệu lực trên lãnh thổ của mình vào ngày ký Hiệp định này, nếu sự thay đổi đó
có tác dụng nâng mức thuế trung bình đánh vào hàng nhập khẩu.
 
5.         Cơ sở và phương pháp xác định trị giá sản phẩm chịu thuế quan hay các khoản thu khác hoặc chịu các hạn
chế dựa vào hay chịu sự điều chỉnh về trị giá theo bất cứ cách nào sẽ phải ổn định, công bố rộng rãi đủ để thương
nhân có thể ước tính được trị giá để tính thuế với mức độ hợp lý về tính chắc chắn.
 
Điều VIII
Phí và các thủ tục liên quan đến Xuất Nhập Khẩu*
 
1.      (a)      Mọi khoản phí và khoản thu khác với bất cứ tính chất nào (không phải là thuế xuất khẩu và nhập khẩu
cũng như các khoản thuế quy định tại điều III) được các bên ký kết áp dụng nhằm vào hay liên quan
tới hàng nhập khẩu hay hàng xuất khẩu sẽ chỉ giới hạn trong chừng mực đủ bù các chi phí cung cấp
dịch vụ và không mang tính chất bảo hộ gián tiếp cho sản phẩm nội địa hay là thuế đánh vào xuất
nhập khẩu với mục đích thu ngân sách.
 
(b)     Các bên ký kết thừa nhận nhu cầu giảm số lượng và chủng loại các khoản phí và khoản thu nêu tại tiểu
mục (a).
 
(c)     Các bên ký kết cũng thừa nhận nhu cầu hạn chế xuống tối thiểu các tác động cũng như tính phức tạp
của các thủ tục về xuất nhập khẩu và nhu cầu giảm bớt và đơn giản hoá yêu cầu về chứng từ làm thủ
tục xuất nhập khẩu.*
 
2.         Khi có yêu cầu của một bên ký kết khác hay của Các Bên Ký Kết, một bên ký kết sẽ xem xét lại thực tế áp
dụng luật pháp và quy tắc của mình theo tinh thần của điều khoản này.
 
3.         Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng những khoản phạt đáng kể với những vi phạm nhỏ về quy tắc hải quan
hay các yêu cầu về thủ tục. Đặc biệt, với các lỗi sơ suất hay lỗi về chứng từ hải quan có thể đính chính dễ dàng và vi
phạm không cố ý gian trá hay không do các sơ suất lớn sẽ không bị phạt quá mức cần thiết để cảnh cáo.
 
4.         Các quy định của điều khoản này sẽ được áp dụng cả với các khoản phí, thủ tục và các yêu cầu của cơ quan
chính phủ về xuất nhập khẩu, kể cả các yêu cầu  liên quan tới:
            (a) dịch vụ của cơ quan lãnh sự như là cấp hoá đơn hay giấy chứng nhận lãnh sự;
            (b) hạn chế định lượng;
            (c) cấp phép;
            (d) kiểm soát ngoại hối;
            (e) dịch vụ thống kê;
            (f) lập chứng từ, cung cấp chứng từ và chứng nhận / công chứng;
            (g) phân tích và giám định; và
            (h) vệ sinh dịch tễ và hun trùng.
 
Điều IX
 
Nhãn xuất xứ
 
1.         Mỗi bên ký kết sẽ dành cho hàng hoá xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết khác sự đãi ngộ về quy định đối
với nhãn hàng hoá không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự của một nước thứ 3 khác.
 
2.         Các bên ký kết thừa nhận rằng, khi vận dụng và thực thi luật và các quy tắc về nhãn xuất xứ, các biện pháp
áp dụng có thể gây khó khăn và bất tiện cho  thương mại và công nghiệp của nước xuất khẩu cần được giảm thiểu
hết mức, đồng thời quan tâm đúng mức tới quyền lợi của người tiêu dùng chống lại các ký hiệu man trá và gây hiểu
lầm.
 
3.         Khi có điều kiện hành chính để thực hiện, các bên ký kết cần cho phép các nhãn xuất xứ dán sẵn tại thời
điểm nhập khẩu.
 
4.         Luật lệ và quy tắc của các bên ký kết về nhãn hàng hoá nhập khẩu cần cho phép tuân thủ mà không gây tổn
hại lớn tới sản phẩm, hoặc thực sự làm giảm giá trị hay làm tăng chi phí không cần thiết.
 
5.         Như một quy tắc chung, các bên ký kết sẽ không áp đặt thuế riêng hay phạt với việc không đáp ứng các yêu
cầu về nhãn hàng trước khi nhập khẩu trừ khi không có những biện pháp sửa chữa kịp thời hợp lý, hay đã cố ý
không dán nhãn hàng.
 
6.         Các bên ký kết sẽ cùng nhau hợp tác nhằm ngăn ngừa việc sử dụng thương danh theo cách làm hiểu lầm xuất
xứ của sản phẩm, làm tổn hại đến các tên sản phẩm theo địa danh hay theo khu vực của một bên ký kết đã được luật
pháp bảo hộ. Mỗi bên ký kết sẽ nhìn nhận đầy đủ, thuận lợi, khi xem xét các yêu cầu của một bên ký kết về việc
thực thi các cam kết nêu tại câu ngay trước đây thuộc khoản này áp dụng với tên sản phẩm đã được các bên ký kết
khác thông báo.
 
Điều X
Công bố và quản lý các quy tắc  thương mại
 
1.         Các luật, quy tắc, quyết định pháp luật và quy tắc hành chính có hiệu lực chung, được bất cứ bên ký kết nào
áp dụng liên quan tới việc phân loại hay định trị giá sản phẩm nhằm mục đích thuế quan, hay liên quan tới suất thuế
quan, thuế hay phí, hay tới các yêu cầu, các hạn chế hay cấm nhập khẩu hay xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng xuất
nhập khẩu, hay có tác động tới việc bán, phân phối, vận tải, bảo hiểm, lưu kho, giám định, trưng bày, chế biến, pha
trộn hay sử dụng hàng hoá theo cách nào khác sẽ được công bố khẩn trương bằng cách nào đó để các chính phủ hay
các doanh nhân biết. Các hiệp định có tác động tới  thương mại quốc tế đang có hiệu lực giữa chính phủ hay cơ quan
chính phủ với chính phủ hay cơ quan chính phủ của bất cứ bên ký kết nào cũng sẽ được công bố. Các quy định của
Điều này sẽ không yêu cầu bất cứ một bên ký kết nào phải điểm lộ thông tin mật có thể gây trở ngại cho việc thực
thi pháp luật, hoặc trái với quyền lợi chung hoặc gây tổn hại quyền lợi thương mại chính đáng của một doanh nghiệp
nào đó dù là quốc doanh hay tư nhân.
 
2.         Các Bên ký kết sẽ không thực thi trước khi công bố chính thức bất cứ biện pháp nào có phạm vi áp dụng
chung mang tính chất nâng suất thuế quan hay nâng các khoản thu khác đánh vào hàng nhập thuộc diện đang thực
hiện thống nhất và đã mặc định, hoặc áp đặt ở mức cao hơn một yêu cầu, một hạn chế nhập khẩu hay hạn chế về
chuyển tiền thanh toán hàng nhập khẩu.
 
3.        (a)    Mỗi bên ký kết sẽ quản lý luật pháp, quy tắc, các quyết định hay quy chế đã nêu tại khoản 1 của điều
khoản này một cách thống nhất, vô tư và hợp lý.
 
(b)   Mỗi bên ký kết sẽ duy trì hay thiết lập, sớm nhất có thể, các toà án và thủ tục về chấp pháp, trọng tài
hay hành chính cũng như các nội dung khác, có mục đích xem xét và điều chỉnh khẩn trương các hành
vi hành chính trong lĩnh vực hải quan. Các cơ quan xét xử và các thủ tục đó sẽ độc lập với các cơ quan
hành chính được giao nhiệm vụ thực thi và các quyết định xét xử sẽ được các cơ quan hành chính đó
thi hành và có hiệu lực điều chỉnh hành vi chính quyền, trừ khi có kháng án trong cùng thời hạn kháng
án áp dụng với các nhà nhập khẩu; miễn là cấp thẩm quyền trung ương của cơ quan đó có thể có
phương thức để xem xét lại vấn đề theo một quy trình khác nếu có lý do chính đáng để tin rằng quyết
định đó không đáp ứng các nguyên tắc pháp luật đã hình thành và thực tế vụ việc.
 
(c)  Các quy định của điểm (b) thuộc khoản này sẽ không yêu cầu phải triệt tiêu hay thay thế các thủ tục có
hiệu lực trên lãnh thổ của một bên ký kết vào ngày Hiệp định này được ký kết mà trong thực tế đã
xem xét khách quan và vô tư các hành vi của chính quyền dẫu rằng các thủ tục đó không hoàn toàn
hoặc về hình thức không độc lập với các cơ quan được giao nhiệm vụ thực thi hành chính. Khi được
yêu cầu bất kỳ bên ký kết nào áp dụng chính sách biện pháp nêu trên sẽ cung cấp cho Các Bên Ký Kết
thông tin đầy đủ về các biện pháp đó, để Các Bên Ký Kết có thể định đoạt rằng các thủ tục đó có đáp
ứng các yêu cầu của tiểu doạn này hay không.
 
Điều XI
Triệt tiêu chung các hạn chế định lượng
 
1.         Không một sự cấm hay hạn chế nào khác ngoại trừ thuế quan và các khoản thu khác, dù mang hình thức hạn
ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác sẽ được bất cứ một bên ký kết nào định ra hay
duy trì nhằm vào việc nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào hay nhằm vào việc xuất khẩu hay bán hàng
để xuất khẩu đến lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào.
 
2.         Các quy định của khoản 1 trong điều khoản này sẽ không được áp dụng với các trường hợp dưới đây:
 
(a)     Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc phục sự khan hiếm trầm
trọng về lương thực hay các sản phẩm khác mang tính trọng yếu đối với với Bên ký kết đang xuất
khẩu;
 
(b)     Cấm  hay hạn chế xuất khẩu cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, xếp hạng
hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế;
 
(c)     Hạn chế nhập khẩu nông sản hay thuỷ sản dù nhập khẩu dưới bất cứ hình thức nào nhằm triển khai
các biện pháp của chính phủ được áp dụng:
 
(i)      để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị trường hay sản
xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì để hạn chế số lượng một
sản phẩm nội địa có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế; hoặc
 
(ii)      để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nội địa tương tự, hoặc nếu không có nền sản xuất
một sản phẩm nội địa tương tự, để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nhập khẩu trực
tiếp thay thế, bằng cách đem số lượng dư thừa để phục vụ một nhóm người tiêu dùng miễn
phí hay giảm giá dưới giá thị trường; hoặc
 
(iii)     để hạn chế số lượng cho phép sản xuất với một súc sản mà việc sản xuất lại phụ thuộc trực
tiếp một phần hay toàn bộ vào một mặt hàng nhập khẩu, nếu sản xuất mặt hàng đó trong nước
tương đối nhỏ.
           
Bất cứ một bên ký kết nào khi áp dụng hạn chế nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào theo nội dung điểm (c) của
khoản này sẽ công bố tổng khối lượng hay tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất
định trong tương lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên. Hơn thế nữa, bất cứ sự hạn chế nào được áp
dụng theo nội dung mục (i) nói trên cũng không nhằm hạn chế tổng khối lượng nhập khẩu trong tương quan với tổng
khối lượng được sản xuất trong nước, so với tỷ trọng hợp lý có thể có trong điều kiện không có hạn chế. Khi xác
định tỷ trọng này bên ký kết đó cần quan tâm đúng mức tới tỷ trọng đã có trong một thời gian đại diện trước đó hay
quan tâm tới một nhân tố riêng biệt nào đó có thể đã hay đang ảnh hưởng tới sản phẩm liên quan.
 
Điều XII*
Hạn chế để bảo vệ cán cân thanh toán
 
1.         Không trái với quy định tại khoản 1 của Điều XI, bất cứ bên ký kết nào, để bảo vệ tình hình tài chính đối
ngoại và cán cân thanh toán, có thể hạn chế số lượng hay trị giá hàng hoá cho phép nhập khẩu, theo quy định tại các
khoản dưới đây của điều khoản này.
 
2.        (a)      Các hạn chế nhập khẩu được định ra, duy trì hay mở rộng theo quy định của điều khoản này sẽ không
vượt quá mức cần thiết:
 
(i)    để ngăn ngừa mối đe doạ hay để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối.
(ii) trong trường hợp một bên ký kết có dự trữ ngoại hối rất thấp, để nâng dự trữ ngoại hối lên một
mức hợp lý.
 
     Trong cả hai trường hợp cần có sự quan tâm đúng mức đến bất cứ nhân tố đặc biệt nào có thể tác động đến
dự trữ hay nhu cầu về dự trữ của một bên ký kết, trong đó có tín dụng đặc biệt vay nước ngoài hay những nguồn
khác có thể tiếp cận, nhu cầu sử dụng thích hợp tín dụng hay các nguồn đó.
     
(b)     Các bên ký kết khi áp dụng các hạn chế nêu tại đoạn (a) của khoản này sẽ nới lỏng các hạn chế đó khi
các điều kiện dẫn tới hạn chế được cải thiện, chỉ duy trì các hạn chế đó ở mức độ các điều kiện đã
nêu tại đoạn đó còn chứng minh được sự cần thiết phải áp dụng. Họ sẽ loại bỏ các hạn chế khi các
điều kiện không còn chứng minh được việc định ra hay duy trì các biện pháp đó theo như quy định
tại điểm (a) đó.
 
3.      (a)        Các bên ký kết chấp nhận, trong khi thực hành chính sách trong nước, sẽ quan tâm đúng mức đến nhu
cầu duy trì hoặc lập lại sự thăng bằng cán cân thanh toán trên một cơ sở lành mạnh và lâu dài và tới
mong muốn tránh việc sử dụng phi kinh tế các nguồn lực sản xuất. Các bên thừa nhận rằng nhằm đạt
tới các mục đích này, trong chừng mực cao nhất có thể cần vận dụng các biện pháp có tính chất mở
rộng thương mại hơn là các biện pháp ngăn cản thương mại.
 
(b)       Các bên ký kết áp dụng các hạn chế theo điều khoản này có thể xác định tác động của các hạn chế lên
việc nhập khẩu các sản phẩm hay nhóm sản phẩm khác nhau để ưu tiên cho việc nhập khẩu các sản
phẩm trọng yếu hơn.
 
(c)        Các bên ký kết áp dụng các hạn chế theo điều khoản này cam kết:
 
(i)    tránh gây tổn hại không cần thiết cho quyền lợi thương mại và kinh tế của bất kỳ bên ký kết
nào.
(ii)  không áp dụng các hạn chế nhằm ngăn ngừa bất hợp lý việc nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào có
số lượng  thương mại tối thiểu, nếu loại trừ số lượng đó có thể làm đảo lộn các kênh thương
mại bình thường.
 
(d)       Các bên ký kết thừa nhận rằng việc một bên ký kết áp dụng chính sách nội địa hướng tới đạt được và
tạo đủ công ăn việc làm và phát triển nguồn lực kinh tế có thể dẫn tới việc bên ký kết đó có nhu cầu
cao về nhập khẩu bao gồm cả mối đe doạ với dự trữ ngoại hối như đã nêu tại khoản 2 (a) của điều
khoản này. Do vậy, một bên ký kết khi đã tuân thủ đầy đủ các quy định khác của điều khoản này sẽ
không phải huỷ bỏ hay điều chỉnh các hạn chế, bởi vì nếu có sự điều chỉnh chính sách thì các các
hạn chế áp dụng theo điều khoản này sẽ trở thành không cần thiết.
 
4.      (a)        Bất kỳ bên ký kết nào khi áp dụng các hạn chế mới hay nâng mức hạn chế của các biện pháp đang áp
dụng sẽ tham vấn ngay (hoặc nếu có thể thì tham vấn trước) Các Bên Ký Kết về tính chất của các
khó khăn về cán cân thanh toán, các biện pháp có thể được vận dụng thay thế và các tác động có thể
của các hạn chế với nền kinh tế của các bên ký kết khác.
 
(b)       Các Bên Ký Kết sẽ xem xét lại, vào một ngày sẽ được các bên ký kết xác định sau này, mọi hạn chế
cho tới khi đó vẫn còn được áp dụng theo quy định của điều khoản này. Trong thời hạn 1 năm kể từ
ngày nêu trên, các bên ký kết còn áp dụng các hạn chế với hàng nhập khẩu theo tinh thần của điều
khoản này, theo sẽ tiến hành tham vấn hàng năm với Các Bên Ký Kết vơi hình thức đã nêu tại điểm
(a) của khoản này.
 
(c)       (i)    Nếu khi tham vấn căn cứ theo quy định tại điểm (a) hoặc điểm (b) nêu trên, Các Bên Ký Kết thấy
rằng các hạn chế không tương thích với các quy định tại điều khoản này hay các quy định của
Điều VIII (với bảo lưu phù hợp các quy định của điều XIV), họ sẽ chỉ ra tính chất bất cập và có
thể kiến nghị việc điều chỉnh các hạn chế cho phù hợp.
            (ii) Nếu mặc dù đã tham vấn, Các Bên Ký Kết xác định rằng các hạn chế đã được áp dụng dẫn tới trái
nghiêm trọng với các quy định của Điều này hoậc các quy định của Điều XIII (với các bảo lưu
tại Điều XIV) và các biện pháp đó dẫn tới làm thiệt hại hay đe doạ làm thiệt hại cho thương
mại của một bên ký kết, Các Bên Ký Kết sẽ thông báo ý kiến cho bên ký kết đang áp dụng hạn
chế biết đồng thời có khuyến nghị thích hợp để trong một thời gian nhất định bên ký kết đó
tuân thủ các quy định liên quan đã nêu. Nếu bên ký kết đó vẫn không tuân thủ các khuyến nghị
đó, Các Bên Ký Kết có thể cho phép bất kỳ một bên ký kết nào bị ảnh hưởng của các hạn chế
đó được miễn bất kỳ nghĩa vụ nào đối với bên ký kết áp dụng hạn chế đó, thuộc phạm vi của
Hiệp định này được Các Bên Ký Kết coi là thích hợp, tuỳ theo tình huống cụ thể.
 
(d)       Các bên ký kết sẽ mời bất kỳ bên ký kết nào hiện đang áp dụng các hạn chế theo tinh thần của điều
khoản này, tham vấn khi một bên ký kết có yêu cầu và thấy có biểu hiện áp dụng các hạn chế không
phù hợp với các quy định của điều khoản này hay của Điều XIII (với bảo lưu phù hợp các quy định
của điều XIV) và làm thiệt hại cho  thương mại của một bên ký kết. Tuy nhiên, Các Bên Ký Kết chỉ
đưa ra đề nghị tham vấn chung khi thấy rằng tham vấn trực tiếp giữa các bên ký kết có liên quan đã
không thành. Nếu không đạt được một thoả thuận tại các cuộc tham vấn với Các Bên Ký Kết và Các
Bên Ký Kết xác định rằng các hạn chế đã được áp dụng một cách không phù hợp với các quy định
nêu trên và dẫn tới thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại cho thương mại của bên ký kết nào đặt vấn đề
tham vấn, Các Bên Ký Kết sẽ khuyến nghị rút bỏ hay điều chỉnh các hạn chế đó. Nếu các hạn chế
không được rút bỏ hay điều chỉnh trong thời hạn đã được Các Bên Ký Kết quy định đó, Các Bên Ký
Kết có thể miễn cho bên ký kết đã khởi đầu các thủ tục tham vấn các nghĩa vụ thuộc phạm vi Hiệp
định này được coi là thích đáng, tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể được Các Bên Ký Kết xác định, đối với
bên ký kết đang áp dụng các hạn chế.
 
(e)        Khi tiến hành các thủ tục theo quy định của khoản này, Các Bên Ký Kết sẽ tính đến mọi nhân tố bên
ngoài có tính chất đặc biệt làm thiệt hại cho xuất khẩu của bên ký kết đang áp dụng các hạn chế.*
 
(f)        Những đánh giá nêu trên cần được tiến hành nhanh chóng và nếu có thể được cần tiến hành trong
vòng 60 ngày kể từ ngày bắt đầu tham vấn.
 
5.         Trong trường hợp các hạn chế số lượng được áp dụng với hàng nhập khẩu theo tinh thần của điều khoản này
có tính chất kéo dài và có thể dẫn tới sự mất thăng bằng chung làm giảm khối lượng thương mại quốc tế, Các Bên
Ký Kết sẽ tiến hành thảo luận để xem xét việc các biện pháp khác có thể được các bên ký kết đang có cán cân thanh
toán chịu tác động bất lợi hay các bên ký kết đang có cán cân thanh toán đặc biệt thuận lợi hoặc mọi tổ chức liên
chính phủ có khả năng thi hành nhằm xoá bỏ nguyên nhân căn bản của sự mất thăng bằng cán cân đó. Khi được Các
Bên Ký Kết mời, mỗi bên ký kết sẽ tham dự đàm phán như đã nêu trên.
 
 
Điều XIII*
áp dụng các hạn chế số lượng một cách không phân biệt đối xử
 
1.         Không một sự cấm hay hạn chế nào sẽ được bất kỳ một bên ký kết nào áp dụng với việc nhập khẩu bất kỳ
một sản phẩm nào có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết khác hay với một sản phẩm xuất khẩu đến lãnh thổ của
bất kỳ một bên ký kết khác, trừ khi những sự cấm đoán hạn chế tương tự cũng được áp dụng với sản phẩm tương tự
có xuất xứ từ một nước thứ ba hay với một sản phẩm tương tự xuất khẩu đi một nước thứ ba.
 
2.         Khi áp dụng các hạn chế với nhập khẩu một sản phẩm nào đó, các bên ký kết sẽ cố gắng đạt đến sự phân bổ
về thương mại sản phẩm đó gần nhất với thực trạng thương mại của sản phẩm đó mà các bên ký kết khác nhau có
thể có được trong hoàn cảnh không có các hạn chế đó, và các bên ký kết sẽ tuân thủ các quy định sau:
 
(a)     Khi có thể tiến hành được, tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu (dù có phân bổ giữa cho các nhà cung
cấp hay không) sẽ được xác định và công bố theo quy định của điểm b) khoản 3 của Điều này.
 
(b)     Khi không thể xác định được tổng hạn ngạch, các hạn chế có thể được áp dụng bằng cách cấp giấy
phép nhập khẩu không có tổng khối lượng.
 
(c)     Trừ khi vận dụng hạn ngạch phân bổ phù hợp với điểm d) thuộc khoản này, các bên ký kết sẽ không
đưa ra quy định rằng giấy phép nhập khẩu được sử dụng để nhập khẩu một sản phẩm xác định có
xuất xứ từ một nước hay một nguồn cụ thể nào.
 
(d)     Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước cung cấp, bên ký kết đang áp dụng hạn
ngạch có thể thoả thuận với các bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm đó về
mức được phân bổ. Trong những trường hợp phương thức nêu trên không hợp lý, bên ký kết nói trên
sẽ phân chia hạn ngạch thành các phần tương ứng cho các bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong
việc cung cấp sản phẩm đó theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên ký kết trong nhập khẩu một hàng đó
trong một thời kỳ trước đó có tính đại diện, có tính đến mọi nhân tố đặc biệt có thể tác động đến
thương mại của sản phẩm đó. Không một điều kiện hay thủ tục riêng nào mang tính chất ngăn cản
một bên ký kết sử dụng hết phần hạn ngạch đã được phân bổ, được đặt ra với điều kiện hàng được
nhập khẩu trong thời hạn đã quy định trong giấy phép sử dụng hạn ngạch. 
 
3.        (a)      Trong trường hợp áp dụng việc cấp phép nhập khẩu khi  hạn chế nhập khẩu, khi các bên ký kết quan
tâm tới việc nhập khẩu sản phẩm nói trên có yêu cầu, bên ký kết đang áp dụng hạn chế sẽ cung cấp
các thông tin hữu ích liên quan tới việc áp dụng các hạn chế, các giấy phép đã cấp trong thời gian
gần đó và việc phân bổ giấy phép giữa các nước cung cấp, tuy nhiên không phải cung cấp tên các
nhà nhập khẩu hay nhà cung cấp.
 
(b)     Trong trường hợp hạn chế nhập khẩu thông qua hạn ngạch, bên ký kết đang áp dụng hạn chế sẽ công
bố tổng khối lượng và tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong thời kỳ sắp tới cũng như
công bố mọi thay đổi liên quan. Nếu một sản phẩm nào đó đang trên đường vận chuyển khi việc hạn
chế được công bố, hàng hoá sẽ không bị từ chối nhập khẩu khi tới cảng. Tuy nhiên được phép khấu
trừ, trong chừng mực có thể, trong số lượng cho phép nhập khẩu trong thời kỳ có hạn chế số lượng
nêu trên và nếu cần, khấu trừ trong số lượng cho phép nhập khẩu vào thời kỳ tiếp theo. Ngoài ra nếu
một bên ký kết, theo thông lệ, miễn áp dụng hạn chế sản phẩm với các sản phẩm được hoàn thành
thủ tục hải quan trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố Danh mục hạn chế được coi là thoả mãn
hoàn toàn các quy định của điểm này.
 
(c)     Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước cung cấp, bên ký kết áp dụng hạn chế sẽ
thông báo trong thời hạn ngắn nhất tất cả các bên ký kết quan tâm đến việc cung cấp sản phẩm liên
quan về phần hạn ngạch được phân bổ cho các nước cung cấp khác nhau, tính theo khối lượng và
trọng lượng, thời hạn có hiệu lực và công bố mọi thông tin hữu ích liên quan.
 
4.         Với các hạn chế áp dụng phù hợp với khoản 2 d) của Điều này hay khoản 2 c) của Điều XI, trước tiên Bên
ký kết áp dụng các hạn chế tự mình chọn thời kỳ đại diện cho mỗi sản phẩm cũng như bất kỳ nhân tố đặc biệt nào
tác động đến thương mại của sản phẩm đó. Tuy nhiên, khi một Bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong việc cung cấp 
sản phẩm đó yêu cầu hay Các Bên Ký Kết có yêu cầu, bên ký kết nói trên sẽ tham vấn không chậm trễ với bên ký
kết kia hoặc Các Bên Ký Kết về việc cần xem xét lại tỷ lệ phần trăm đã phân bổ hay thời kỳ đại diện đã được chọn
hay đánh giá về các nhân tố đặc biệt mới đã được đưa vào tính toán, hay loại bỏ các điều kiện, thủ tục, hay các quy
định khác được đưa ra một cách đơn phương và có liên quan tới việc phân bổ hạn ngạch cho thích hợp hay việc sử
dụng hạn ngạch không bị hạn chế.
 
5.         Các quy định của Điều này cũng được áp dụng với hạn ngạch thuế quan được một bên ký kết đặt ra hay duy
trì; hơn nữa, trong chừng mực có thể, các nguyên tắc này cũng được áp dụng với các biện pháp hạn chế xuất khẩu.
 
Điều XIV*
Ngoại lệ của quy tắc không phân biệt đối xử
 
1.         Một bên ký kết đang áp dụng các hạn chế theo điều XII hoặc theo điểm B của điều XVIII, khi vận dụng các
hạn chế này có thể làm trái các quy định tại điều XIII trong chừng mực làm trái có tác động tương ứng với các hạn
chế về thanh toán và chuyển tiền liên quan tới các giao dịch quốc tế vãng lai mà bên ký kết đó được phép vận dụng
cùng với hay theo quy định của điều XIV Điều lệ Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF), hoặc theo các quy định tương ứng
của một Hiệp định đặc biệt được ký kết chiểu theo khoản 6 của điều XV*.
 
2.         Một bên ký kết đang áp dụng các hạn chế nhập khẩu theo điều XII hoặc theo điểm B của điều XVIII khi
được sự thoả thuận của Các Bên Ký Kết có thể tạm thời làm trái với các quy định của điều XIII với một phần nhỏ
trong tổng lượng ngoại thương của mình nếu mặt lợi đem lại cho bên ký kết đó hay các bên ký kết liên quan vượt
một cách đáng kể trên mức độ thiệt hại do việc làm trái có thể gây ra cho các bên ký kết khác*.
 
3.         Các quy định của điều XIII không ngăn cản một nhóm lãnh thổ trong khuôn khổ của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế
(IMF), sử dụng chung một hạn ngạch tại IMF, áp dụng các hạn chế nhập khẩu với các nước ngoài nhóm mà không
hạn chế các trao đổi giữa họ với nhau, phù hợp với các quy định của điều XII hoặc của điểm B) điều XII, với điều
kiện và xét về các mặt khác phải phù hợp với các quy đinh của điều XIII.
 
4.         Các quy định của điều XI và XV hoặc của điểm B) điều XIII của Hiệp định này không ngăn cản một một bên
ký kết đang áp dụng các hạn chế nhập khẩu phù hợp với các quy định của điều XII hoặc của mục B điều XIII, áp
dụng các biện pháp nhằm định hướng xuất khẩu nhằm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cần có mà không trái với quy
định của điều XIII.
 
5.         Các quy định của điều XI và XV hoặc của điểm B điều XIII của Hiệp định này không ngăn cản một một bên
ký kết áp dụng:
 
a)       các hạn chế số lượng có tác dụng tương ứng với các hạn chế ngoại hối đươc phép áp dụng theo tinh
thần của điểm 3b) điều VII của Điều lệ Quỹ Tiền Tệ Quốc tế ( (IMF);
 
b)      hoặc các hạn chế số lượng phù hợp với các thoả thuận ưu đãi đã dự kiến tại Phụ lục A của Hiệp định
này, trong khi chờ đợi kết quả của chính sách cuộc thương lượng nêu tại phụ lục đó.
 
Điều XV
Các thoả thuận về ngoại hối
 
1.         Các Bên Ký Kết sẽ cố gắng phối hợp với Quỹ Tiền Tệ Quốc tế nhằm duy trì chính sách có sự điều phối
chung về những vấn đề ngoại hối thuộc thẩm quyền của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) và các hạn chế số lượng hay
các biện pháp thương mại khác thuộc thẩm quyền của Các Bên Ký Kết.
 
2.         Trong mọi trường hợp khi Các Bên Ký Kết cần xem xét hay giải quyết những vấn đề có liên quan tới dự trữ
tiền tệ, tới cán cân thanh toán hay các quy định có liên quan tới ngoại hối, Các Bên sẽ tham vấn chặt chẽ với Quỹ.
Trong quá trình tham vấn, Các Bên Ký Kết sẽ chấp nhận kết luận của Quỹ về thực tế hay số liệu về dự trữ ngoại hối
hay cán cân thanh toán; Các Bên cũng sẽ chấp nhận kết luận của quỹ về tính phù hợp của các biện pháp về ngoại hối
đã được một bên ký kết vận dụng, so với Điều lệ của Quỹ hay các quy định của hiệp định đặc biệt được ký kết giữa
bên ký kết đó và Các Bên Ký Kết. Khi phải có quyết định cuối cùng trong trường hợp cần xem xét đến các tiêu thức
nêu tại điểm a) khoản 2 điều XII hoặc khoản 9 điều XVIII, Các Bên Ký Kết sẽ chấp nhận các kết luận của Quỹ riêng
về các yếu tố để xác định liệu dự trữ ngoại hối của một bên ký kết đã có sự suy giảm nghiêm trọng hay không, liệu
hiện dự trữ đó có đang ở mức rất thấp hay không hay dự trữ đang tăng dần với mức hợp lý, cũng như những mặt tài
chính của các vấn đề mà Các Bên sẽ xem xét trong các trường hợp tương tự.
 
3.         Các Bên Ký Kết sẽ cùng Quỹ thoả thuận về thủ tục tham vấn như đã nêu tại khoản 2 điều khoản này.
 
4.         Các bên ký kết sẽ không áp dụng các biện pháp ngoại hối trái với mục tiêu được quy định tại Hiệp định này
và mọi biện pháp thương mại trái với mục tiêu được quy định tại Điều lệ của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế).
 
5.         Nếu vào một thời điểm nào đó Các Bên Ký Kết cho rằng một bên ký kết đang áp dụng các hạn chế về thanh
toán và về chuyển tiền liên quan tới nhập khẩu, không phù hợp với những ngoại lệ về hạn chế số lượng đã dự kiến
tại Hiệp định này, Các Bên sẽ gửi báo cáo tới Quỹ.
 
6.         Mọi bên ký kết không phải thành viên của Quỹ sẽ phải tham vấn và trở thành thành viên của Quỹ trong thời
hạn do Các Bên Ký Kết xác định hoặc nếu không sẽ phải thoả thuận với Các Bên Ký Kết một hiệp định đặc biệt về
ngoại hối. Một bên ký kết khi không còn là thành viên của Quỹ sẽ phải ký ngay với chính Các Bên Ký Kết một hiệp
định đặc biệt về ngoại hối. Mọi hiệp định đặc biệt về ngoại hối được một bên ký kết ký theo nội dung của khoản này
sẽ có hiệu lực là một bộ phận của các cam kết ràng buộc bên ký kết đó theo các điều khoản của Hiệp định này.
 
7.        a)       Mọi Hiệp dịnh đặc biệt về ngoại hối ký kết giữa một bên ký kết và Các Bên Ký Kết theo tinh thần
khoản 6 của điều khoản này sẽ có các điều khoản mà Các Bên Ký Kết thấy cần thiết để các biện
pháp về ngoại hối được bên ký kết đó áp dụng sẽ không trái với nội dung Hiệp định này.
 
b)      Các điều khoản của một hiệp định như vậy nhìn chung sẽ không áp đặt với một bên ký kết những
nghĩa vụ hạn chế hơn các nghĩa vụ của các thành viên Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) theo điều lệ của
Quỹ.
 
8.         Mỗi bên ký kết không phải là thành viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) sẽ cung cấp cho Các Bên Ký Kết
mọi thông tin mà Các Bên có thể yêu cầu trong khuôn khổ chung của mục 5 điều VIII điều lệ Quỹ, nhằm thực hiện
các chức năng của mình nêu tại Hiệp định này.
 
9.         Không một quy định nào của Hiệp định này nhằm ngăn cấm:
 
a)       một bên ký kết áp dụng các biện pháp kiểm soát hay hạn chế về ngoại hối phù hợp với Điều lệ của
Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) hoặc hiệp định đặc biệt ký kết giữa bên ký kết đó với Các Bên Ký Kết;
 
b)      cũng như việc một bên ký kết áp dụng các hạn chế hay kiểm soát với xuất khẩu hay nhập khẩu, ngoài
các tác động được phép nêu tại điều XI, XII, XIII và XV, chỉ có tác dụng đảm bảo thực thi việc kiểm
soát hay hạn chế có tính chất như vậy.
 
Điều XVI
Trợ cấp
 
Điểm A - Trợ cấp nói chung
 
1.         Nếu bất kỳ bên ký kết nào hiện dành hay duy trì trợ cấp, bao gồm mọi hình thức hỗ trợ thu nhập hay trợ giá,
trực tiếp hoặc gián tiếp có tác động làm tăng xuất khẩu một sản phẩm từ lãnh thổ của bên ký kết đó hay làm giảm
nhập khẩu vào lãnh thổ của mình, bên ký kết đó sẽ thông báo bằng văn bản cho Các Bên Ký Kết về mức độ, tính
chất của việc trợ cấp đó, các tác động để có cơ sở đánh giá số lượng của sản phẩm hay các sản phẩm xuất khẩu hay
nhập khẩu chịu tác động của trợ cấp đó và đánh giá hoàn cảnh dẫn đến nhu cầu cần phải trợ cấp. Trong mọi trường
hợp, khi xác định được việc trợ cấp đó gây ra hay đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của một bên ký kết
khác, khi được yêu cầu, bên ký kết đang áp dụng trợ cấp sẽ cùng bên ký kết kia hoặc các bên ký kết có liên quan
hoặc Các Bên Ký Kết thảo luận khả năng hạn chế trợ cấp.
 
Mục B - Các quy định bổ sung về trợ cấp xuất khẩu.
 
2.         Các Bên Ký Kết thừa nhận rằng việc một bên ký kết có trợ cấp cho xuất khẩu một sản phẩm có thể dẫn tới
hậu quả gây thiệt hại cho các bên ký kết khác, dù là với nước nhập khẩu hay xuất khẩu; và rằng việc đó có thể gây
rối loạn không thuận tới quyền lợi thương mại thông thường và gây trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu được đề
ra trong Hiệp định này.
 
3.         Do vậy, các bên ký kết phải cố gắng tránh sử dụng trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm sơ cấp. Tuy
nhiên, nếu một bên ký kết cho hưởng trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp dưới một hình thức nào đó, có tác dụng tăng
xuất khẩu một sản phẩm sơ cấp từ lãnh thổ của mình, trợ cấp đó cũng không được áp dụng để dẫn tới việc tăng thị
phần của bên áp dụng trợ cấp lên trên mức hợp lý của tổng xuất khẩu sản phẩm đó trong thương mại quốc tế, có tính
đến thị phần đã có của bên ký kết đó trong một thời kỳ có tính đại diện trước đó cũng như mọi nhân tố đặc biệt có
thể tác động đến thương mại sản phẩm đó.*
 
4.         Ngoài ra, kể từ năm ngày 1 tháng 1 năm 1958 hay vào thời hạn sớm nhất sau ngày đó, các bên ký kết sẽ
ngừng việc trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp cho xuất khẩu dưới bất kỳ hình thức nào cho bất kỳmột sản phẩm nào có
tác dụng giảm giá bán xuất khẩu sản phẩm này xuống dưới mức giá bán sản phẩm tương tự cho người mua trên thị
trường  trong nước. Từ nay tới ngày 31 tháng 12 năm 1957, không một bên ký kết nào mở rộng diện thực thi trợ cấp
như trên quá mức đã áp dụng vào ngày 1 tháng 1 năm 1955, bằng cách áp dụng trợ cấp mới hay mở rộng diện trợ
cấp hiện hành.
 
5.         Các Bên Ký Kết sẽ định kỳ tiến hành xem xét tổng thể việc thực thi các quy định của điều khoản này nhằm
xác định, rút kinh nghiệm, xem các quy định đó có thực sự đóng góp hữu hiệu cho việc thực hiện mục tiêu của Hiệp
định này và có cho phép thực sự tránh được việc trợ cấp gây tổn hại nghiêm trọng tới thương mại hay tới quyền lợi
của các bên ký kết.
 
Điều XVII
Doanh nghiệp thương mại nhà nước
 
1.*      a)       Mỗi bên ký kết cam kết rằng khi lập ra một doanh nghiệp thương mại nhà nước, khi phân bổ hoặc dành
cho một doanh nghiệp độc quyền hay đặc quyền thương mại* theo luật pháp hay trong thực tế,
doanh nghiệp đó khi tiến hành mua bán thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu sẽ tuân thủ các nguyên
tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này đối với các biện pháp của chính
phủ tác động tới hoạt động nhập khẩu hay xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân.
 
b)      Các quy định của điểm a) thuộc khoản này phải được hiểu là đòi hỏi các doanh nghiệp nói trên nhìn
nhận đúng mức các quy định khác của Hiệp định này và khi tiến hành mua bán như vậy chỉ xem xét
quyết định chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại* như giá cả, chất lượng, khả năng sẵn có, khả
năng cung cấp, vận tải và các điều kiện mua bán khác, cũng như được hiểu là phải dành cho các
doanh nghiệp của các bên ký kết khác khả năng thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này
trong các điều kiện tự do cạnh tranh và phù hợp với tập quán thương mại thông thường.
 
c)       Không một bên ký kết nào ngăn cản các doanh nghiệp (dù là doanh nghiệp được đề cập ở điểm a)
khoản này hay không chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước mình) hành động phù hợp với các
nguyên tắc đã nêu tại điểm a) và điểm b) của khoản này.
 
2.         Các quy định của khoản 1 điều khoản này không áp dụng với việc nhập khẩu sản phẩm dành cho tiêu dùng
ngay hay cuối cùng được tiêu dùng bởi các cơ quan chính quyền hay do chính quyền thanh toán mà không được bán
lại hoặc được dùng để sản xuất hàng hoá* nhằm mục đích bán lại. Với các hoạt động thương mại này mỗi bên ký kết
sẽ dành sự đãi ngộ công bằng với các bên ký kết khác.
 
3.         Các bên ký kết thừa nhận rằng các doanh nghiệp thuộc loại được định nghĩa tại điểm a) của khoản 1 điều
khoản này có thể được sử dụng theo cách có thể dẫn tới gây trở ngại nghiêm trọng cho thương mại, do vậy để đảm
bảo cho sự phát triển của thương mại quốc tế, vấn đề quan trọng là tiến hành đàm phán trên cơ sở có đi có lại và các
bên cùng có lợi, nhằm giới hạn hay giảm bớt các trở ngại đó.*
 
4.        a)       Các bên ký kết sẽ thông báo cho Các Bên Ký Kết các sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ lãnh
thổ của mình do các doanh nghiệp thuộc loại đã định nghĩa tại tiểu mục 1 của điều khoản này tiến
hành.
 
b)      Bên ký kết đặt ra hay cho phép một sự độc quyền nhập khẩu một sản phẩm không thuộc diện nhân
nhượng (thuế quan) theo nội dung điều khoản II, khi có yêu cẩu của một bên ký kết đang mua/bán ở
mức  đáng kể sản phẩm này, sẽ thông báo cho Các Bên Ký Kết biết chênh lệch giá nhập khẩu của
sản phẩm đó trong một thời kỳ đại diện gần nhất và hoặc, khi có thể, cho biết giá bán ra của sản
phẩm đó.
 
c)       Khi một bên ký kết có yêu cầu và có lý do để tin rằng quyền lợi của mình trong khuôn khổ Hiệp định
này đang bị tổn hại do hoạt động của các doanh nghiệp thuộc loại đã định nghĩa tại điểm a) của
khoản 1, Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu bên ký kết đang lập ra, duy trì hay cho phép một doanh
nghiệp như vậy cung cấp các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp đó liên quan tới việc tuân thủ
các nguyên tắc của Hiệp định này.
 
d)      Các quy định của khoản này không buộc các bên ký kết phải điểm lộ các thông tin không phổ biến mà
nếu được điểm lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay làm tổn hại đến quyền lợi thương
mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất định.
 
Điều XVIII*
 
Trợ giúp của Nhà nước cho phát triển kinh tế
 
1.         Các bên ký kết thừa nhận rằng các mục tiêu của Hiệp định này sẽ được thực hiện thuận lợi hơn nhờ vào sự
phát triển dần nền kinh tế của mỗi nước, nhất là trong trường hợp các bên ký kết đang có một nền kinh tế chỉ đủ khả
năng đảm bảo một mức sống thấp và đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.*
 
2.         Ngoài ra, các bên ký kết cũng thừa nhận rằng với các bên ký kết đã đề cập đến ở khoản 1 có thể cần thực
hiện các chương trình và chính sách phát triển kinh tế hướng tới việc nâng cao mức sống chung của nhân dân, cần
có các biện pháp bảo hộ hay các biện pháp tác động đến nhập khẩu và chừng nào việc thực hiện các mục tiêu được
nêu trong Hiệp định này nhờ đó có thêm thuận lợi thì việc áp dụng các biện pháp như vậy còn là đúng đắn. Các Bên
cho rằng cần dự kiến trước những điều kiện thuận lợi cho các bên ký kết nói trên để họ (1) có thể duy trì cơ cấu thuế
quan có sự mềm dẻo đủ để có một sự bảo hộ thông qua thuế quan cần thiết cho việc tạo dựng một ngành sản xuất
nhất định* và kiến lập các hạn chế số lượng nhằm bảo hộ cho cán cân thanh toán theo cách để có tính toán đầy đủ
đến mức nhu cầu nhập khẩu cao và ngày càng tăng có thể phát sinh  do việc thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế.
 
3.         Các bên ký kết thừa nhận sau cùng rằng, với các thuận lợi bổ sung có được như nêu taị mục A và B của điều
khoản này, thông thường các quy định của Hiệp định này sẽ đủ điều kiện để các bên ký kết đáp ứng các nhu cầu
phát triển kinh tế của mình. Tuy nhiên Các Bên cũng thừa nhận rằng trong thực tế cũng có những trường hợp không
thể đặt ra các biện pháp tương thích với các quy định này, là biện pháp cho một bên ký kết đang phát triển kinh tế
dành sự giúp đỡ của Nhà nước cần có để tạo thuận lợi để tạo lập những ngành sản xuất xác định có tác dụng nâng
cao mức sống chung của nhân dân. Tại điểm C và D có quy định thủ tục dành cho các trường hợp như vậy.
 
4.        a)       Do vậy tất cả các bên ký kết có nền kinh tế chỉ đảm bảo được một mức sống thấp cho nhân dân* và
đang ở chặng đầu của sự phát triển * có thể tạm thời làm trái với các quy định của các điêù khoản
khác thuộc Hiệp định này, nội dung đã dự kiến tại các mục A, B, C của điều khoản này nhằm mục
đích đó.
 
b)      Mỗi bên ký kết có nền kinh tế đang phát triển nhưng không thuộc tiểu khoản a) nêu trên có thể đề
nghị Các Bên Ký Kết cho phép áp dụng theo quy định của điểm D tại điều khoản này.
 
5.         Các bên ký kết thừa nhận rằng thu nhập từ xuất khẩu của các bên ký kết có nền kinh tế thuộc diện đã được
mô tả ở điểm a) và b) của khoản 4 và thu nhập đó phụ thuộc vào một số ít các sản phẩm sơ cấp có thể bị giảm nguồn
thu nghiêm trọng do suy giảm xuất khẩu các sản phẩm đó. Do vậy, khi xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp của bên ký
kết đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các biện pháp được một bên ký kết khác áp dụng, bên ký kết đó có thể vận
dụng các quy định của điều XXII thuộc Hiệp định này để tham vấn.
 
6.         Các Bên Ký Kết hàng năm sẽ xem xét lại tất cả các biện pháp được áp dụng theo tinh thần các quy định của
mục C và D của điều khoản này.
 
Mục  A
 
7          a)         Nếu một bên ký kết thuộc diện nêu tại điểm a của khoản 4 điều khoản này thấy cần điều chỉnh hay rút
bỏ các nhân nhượng thuế quan trong Biểu các nhân nhượng thuế quan thuộc phụ lục của Hiệp định này để tạo thuận
lợi cho việc tạo dựng một ngành sản xuất xác định và nâng cao mức sống chung của nhân dân, bên ký kết đó sẽ
thông báo cho Các Bên Ký Kết biết và tiến hành đàm phán với bất kỳ bên ký kết nào ban đầu đã đàm phán với mình
về nhân nhượng thuế quan đó và với tất cả các bên ký kết được Các Bên Ký Kết thừa nhận là có quyền lợi đáng kể
liên quan. Nếu đạt được một thoả thuận giữa các bên ký kết liên quan, việc điều chỉnh và rút bỏ nhân nhượng thuế
quan trong Biểu các nhân nhượng thuế quan (tương ứng trong phụ lục của Hiệp định này) không có trở ngại gì,
nhằm thực hiện thoả thuận nói trên, kể cả những điều chỉnh để bù đắp có phát sinh.
 
            b)         Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong vòng sáu mươi ngày tính từ ngày gửi thông báo như
nêu tại điểm a) trên đây, bên ký kết đưa ra đề nghị có thể đưa vấn đề ra trước Các Bên Ký Kết và Các Bên sẽ xem
xét nhanh chóng. Nếu Các Bên Ký Kết thấy rằng bên ký kết có đề nghị điều chỉnh hay rút bỏ nhân nhượng đã làm
hết khả năng để đạt tới một thoả thuận và sự đền bù đã  đưa ra là thoả đáng, bên ký kết đó được quyền điều chỉnh
hay rút bỏ nhân nhượng, với điều kiện phải đồng thời thực thi sự đền bù. Nếu Các Bên Ký Kết thấy rằng sự đền bù
được bên ký kết có đề nghị điều chỉnh hay rút bỏ nhân nhượng đưa là không thoả đáng, nhưng bên ký kết đó đã làm
hết những gì hợp lý thuộc khả năng của mình để có được một sự đền bù thoả đáng, bên ký kết đó có thể thực thi sự
điều chỉnh hay rút bỏ đó. Khi một biện pháp như vậy đã được áp dụng, mọi bên ký kết khác nói ở điểm a) trên đây
có thể điều chỉnh hay rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương ứng đã đàm phán ban đầu với bên ký kết đã áp dụng
các biện pháp nói trên*.
 
Mục  B
 
8.         Các bên ký kết thừa nhận rằng những bên ký kết thuộc diện nêu tại tiểu khoản a) khoản 4 điều khoản này khi
đang trong giai khoản phát triển nhanh để thăng bằng cán cân thanh toán có thể gặp khó khăn chủ yếu bắt nguồn từ
các cố gắng mở rộng thị trường trong nước cũng như có sự không ổn định về ngoại hối.
 
9.         Đề bảo vệ vị thế tài chính đối ngoại và bảo đảm đủ mức dự trữ ngoại hối nhằm thực hiện các chương trình
phát triển kinh tế, một bên ký kết thuộc diện nêu tại điểm a) của khoản 4. điều khoản này có thể, với điều kiện đáp
ứng các quy định của khoản 10 và 12, điều chỉnh tổng mức nhập khẩu bằng cách giới hạn khối lượng và trị giá của
hàng hoá được phép nhập khẩu, với điều kiện là các hạn chế nhập khẩu đặt ra hay duy trì không quá mức cần thiết.
 
a)    để đối phó với sự suy giảm đáng kể dự trữ tiền tệ hay chấm dứt tình trạng này; hoặc
b)    để nâng mức dự trữ tiền tệ với tốc độ hợp lý, trong trường hợp dự trữ đó đang ở mức thiếu hụt.
 
Trong cả hai trường hợp, cần phải tính đến mọi nhân tố đặc biệt có thể tác động đến dự trữ tiền tệ của bên
ký kết đó hay nhu câù của bên ký kết đó về dự trữ tiền tệ và nhất là khi đang được sử dụng các khoản tín dụng đặc
biệt hay nguồn khác, cần tính đến khả năng sử dụng thích hợp các khoản tín dụng và các nguồn như vậy.
 
10.       Khi áp dụng các hạn chế đó, bên ký kết nói trên có thể xác định tác động của các biện pháp đó lên các sản
phẩm khác nhau hay các chủng loại sản phẩm khác nhau sao cho có sự ưu tiên với nhập khẩu các sản phẩm cần thiết
để thực thi chính sách phát triển kinh tế của mình; tuy nhiên các hạn chế phải được áp dụng sao cho tránh không làm
tổn hại quyền lợi kinh tế thương mại của bất kỳ bên ký kết nào khác một cách không cần thiết và không gây trở ngại
cho việc nhập khẩu những khối lượng hàng hoá có tính chất thương mại tối thiểu thuộc bất cứ loại nào mà nếu
ngừng nhập khẩu hoàn toàn sẽ dẫn đến trở ngại cho tiến trình thương mại thông thường; ngoài ra, các hạn chế nói
trên sẽ không được áp dụng dẫn đến gây trở ngại cho việc nhập khẩu mẫu hàng trong thương mại hay hay với việc
tuân thủ các thủ tục liên quan tới bản quyền sáng chế, nhãn hàng, quyền tác giả hay các thủ tục tương tự.
 
11.       Khi thực hiện chính sách trong nước của mình, bên ký kết liên quan cũng phải tính toán đúng mức đến sự
cần thiết phải lập lại thăng bằng cán cân thanh toán dựa trên một cơ sở lành mạnh bền vững và chú trọng sử dụng
một cách kinh tế các nguồn lực sản xuất. Khi tình trạng trên dần dần được cải thiện, bên ký kết đó sẽ giảm nhẹ dần
các hạn chế được áp dụng theo tinh thần của mục này và chỉ duy trì chúng ở mức cần thiết, có tính toán đến các quy
định của khoản 9 điều khoản này; bên ký kết đó sẽ loại bỏ các hạn chế khi tình huống đó không chứng tỏ sự cần
thiết phải duy trì các biện pháp đó nữa; Tuy nhiên không một bên ký kết nào phải huỷ bỏ hay điều chỉnh các hạn chế
với lý do là sự thay đổi trong chính sách phát triển của mình đã làm mất tính cần thiết của các hạn chế đang áp dụng
theo tinh thần của điểm  này*.
 
12.       a)         Bất kỳ bên ký kết nào đang áp dụng các hạn chế mới hay nâng mức chung hạn chế so với trươc đó
thông qua tăng cường đáng kể các biện pháp đã áp dụng theo tinh thần của điểm này, ngay sau khi đã đưa ra các hạn
chế mới hay tăng cường biện pháp hạn chế, hoặc trong trường hợp có thể tham vấn trước khi tiến hành  sẽ phải bắt
đầu tham vấn với Các Bên Ký Kết về tính chất các khó khăn đang tác động lên cán cân thanh toán và các biện pháp
điều chỉnh khác nhau dẫn đến lựa chọn các biện pháp đang áp dụng cũng như các tác động có thể của các biện pháp
đó với nền kinh tế của các bên ký kết khác.
 
            b)         Vào một ngày do Các Bên xác định sau, Các Bên Ký Kết sẽ xem xét lại mọi hạn chế còn đang được
áp dụng vào ngày đó. Khi hết thời hạn hai năm kể từ ngày nói trên, các bên ký kết vẫn đang áp dụng các hạn chế
theo tinh thần của điểm  này sẽ tiến hành tham vấn với Các Bên Ký Kết định kỳ khoảng nhưng không ngắn hơn hai
năm theo phương thức đã nêu tại điểm c) trên đây, theo chương trình sẽ do Các Bên Ký Kết xác định hàng năm; Tuy
nhiên trong thời hạn hai năm kể từ khi kết thúc tham vấn mang tính tổng thể theo bất kỳ một quy định nào khác
thuộc khoản này, không tiến hành một cuộc tham vấn nào sớm hơn.
 
 
            c)         (i)         Nếu trong khi tiến hành tham vấn với một bên ký kết đúng theo quy định của điểm a) và
điểm b) thuộc khoản này, Các Bên Ký Kết thấy rằng các hạn chế không tương thích với các quy định tại điểm này
hay không phù hợp với các quy định của điều XIII (với các điều kiện quy định tại điều XIV), Các Bên sẽ chỉ ra
những điểm còn khác biệt và có thể đề xuất những điều chỉnh thích hợp với những hạn chế đang được áp dụng.
 
                        (ii)        Tuy nhiên, nếu sau khi đã tham vấn, Các Bên Ký Kết xác định rằng các hạn chế đang được
áp dụng theo cách không phù hợp với các quy định của điểm này và các quy định tại Điều khoản XIII (với các điều
kiện quy định tại điều XIV) ở mức nghiêm trọng và do vậy dẫn tới tổn hại hay đe doạ tổn hại tới thương mại của
một bên ký kết, Các Bên sẽ thông báo cho bên ký kết đang áp dụng hạn chế và có khuyến nghị thích hợp nhằm đảm
bảo việc tuân thủ các quy định liên quan trong một thời hạn hợp lý. Nếu bên ký kết đó không tuân thủ các khuyến
nghị nói trên trong thời hạn đã định, Các Bên Ký Kết có thể cho phép bên ký kết có nền thương mại bị tác động bởi
các hạn chế đó khỏi bị ràng buộc với mọi nghĩa vụ được tự xác định là thích hợp, đối với bên ký kết đang áp dụng
hạn chế có tính đến tình huống cụ thể.
 
            d)         Các Bên Ký Kết sẽ mời mọi bên ký kết hiện đang áp dụng hạn chế theo tinh thần của mục này tiến
hành tham vấn với Các Bên khi bất kỳ một bên ký kết nào đã xác định rằng các hạn chế không tương thích với các
quy định của mục này và các quy định tại Điều XIII (với các điều kiện quy định tại Điều XIV) và nền thương mại
của mình có bị tổn hại. Tuy nhiên việc mời tham vấn chỉ tiến hành sau khi Các Bên Ký Kết nhận thấy rằng các cuộc
đàm phán trực tiếp giữa các bên ký kết liên quan đã không đạt kết quả. Nếu sau khi đã tham vấn với Các Bên Ký
Kết nhưng vẫn không đạt được thoả thuận, và một khi Các Bên Ký Kết xác định được rằng việc áp dụng hạn chế
không phù hợp các quy định nêu trên và dẫn đến tổn hại hay đe doạ tổn hại cho thương mại của bên ký kết đã tiến
hành thủ tục tham vấn, Các Bên sẽ khuyến nghị huỷ bỏ hay điều chỉnh các hạn chế. Nếu các hạn chế không được
huỷ bỏ hay điều chỉnh trong thời hạn được Các Bên Ký Kết có thể xác định xác định, Các Bên có thể cho phép bên
ký kết đã tiền hành thủ tục tham vấn khỏi bị ràng buộc với mọi nghĩa vụ được tự xác định là thích hợp, đối với bên
ký kết đang áp dụng các hạn chế có tính đến tình huống cụ thể.
 
            e)         Nếu một bên ký kết thấy một biện pháp đã được áp dụng với mình phù hợp với câu cuối cùng của
điểm c) ii và điểm d) của khoản này, thắy rằng việc Các Bên Ký Kết miễn trách nghĩa vụ cho một bên ký kết như
vậy làm hại đến việc thực hiện chương trình và chính sách phát triển kinh tế của mình, trong vong 60 ngày từ ngày
biện pháp nói trên được áp dụng, bên ký kết đó có quyền thông báo bằng văn bản cho Thư ký điều hành* của Các
Bên Ký Kết biết ý định từ bỏ tham gia Hiệp định này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực trong vòng 60 ngày kể từ ngày Thư ký
điều hành nhận được thông báo nói trên.
 
            f)          Trong mọi tiến trình thực hiện đúng theo điều khoản này, Các Bên Ký Kết sẽ tính một cách hợp thức
đến các nhân tố đã nêu tại khoản 2 của điều khoản này. Những xác định đã đề cập tại khoản này cần được tiến hành
nhanh chóng và nếu có thể, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu tham vấn.
 
 
Mục C
 
13.       Nếu một bên ký kết thuộc diện nêu tại  điểm 4 a) của điều khoản này thấy rằng Nhà nước cần có sự giúp đỡ
tạo thuận lợi cho việc tạo dựng một ngành sản xuất nhất định* có tác dụng nâng cao mức sống chung của nhân dân,
nhưng lại không thể vận dụng được các biện pháp thich hợp với các quy định của Hiệp định này, bên ký kết đó có
quyền vận dụng các quy định và thủ tục của điểm này*.
 
14.       Bên ký kết đó thông báo cho Các Bên Ký Kết biết những khó khăn đặc biệt gặp phải khi thực hiện mục tiêu
nêu tại khoản 13 của điều khoản này và nêu rõ biện pháp tác động tới nhập khẩu mà mình định áp dụng để khắc
phục được các khó khăn nêu trên. Bên ký kết đó sẽ không đưa vào áp dụng biện pháp đó trước khi hết thời hạn như
nêu tại khoản 15 hoặc khoản 17, tuỳ theo từng trường hợp, hoặc nếu biện pháp đó ánh hưởng đến nhập khẩu một sản
phẩm đã đưa vào Biểu nhân nhượng thuế quan tương ứng thuộc phụ lục của Hiệp định này, trừ khi được Các Bên
Ký Kết chấp thuận phù hợp với các quy định của khoản 18; tuy nhiên, nếu ngành sản xuất nhận sự giúp dỡ của Nhà
nước đã đi vào hoạt động, sau khi đã thông báo cho Các Bên Ký Kết biết, bên ký kết đó có thể có các biện pháp cần
thiết để tránh nhập khẩu (các) sản phẩm liên quan không vượt quá mức bình thường*, trong thời gian đó.
 
15.       Nếu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo về biện pháp nói trên, Các Bên Ký Kết không mời bên ký
kết đó tham vấn với Các Bên*, bên ký kết đó có thể làm trái với các quy định của Hiệp định này, áp dụng với vấn đề
cụ thể này, và áp dụng biện pháp đã dự kiến trong chừng mực cần thiết.
 
16.       Nếu Các Bên Ký Kết*có yêu cầu tham vấn, bên ký kết đó sẽ tham vấn với Các Bên về đối tượng của biện
pháp đã dự kiến, về các biện pháp khác nhau có thể lựa chọn trong khuôn khổ của Hiệp định này, cũng như các tác
động có thể có của biện pháp đã dự kiến với quyền lợi thương mại hay quyền lợi kinh tế của các bên ký kết khác.
Nếu sau khi đã tham vấn, Các Bên Ký Kết nhận thấy rằng trong thực tế không thể đưa ra biện pháp tương thich với
các quy định khác của Hiệp định này để thực hiện mục tiêu đã xác định tại khoản 13 điều khoản này và nếu được
Các Bên chấp nhận* biện pháp đã dự kiến, bên ký kết đó được miễn các nghĩa vụ thuộc các Điều khoản khác của
Hiệp định này áp dụng với vấn đề cụ thể này trong chừng mực cần thiết để thực thi biện pháp đó.
 
17.       Nếu trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày gửi thông báo về biện pháp đã đự kiến, phù hợp với các quy định của
khoản 14 điều khoản này, Các Bên Ký Kết không bày tỏ ý kiến với biện pháp đã dự kiến, bên ký kết liên quan có thể
áp dụng biện pháp đó sau khi đã thông báo cho Các Bên Ký Kết biết.
 
18.       Nếu biện pháp dự kiến đó ảnh hưởng đến một sản phẩm thuộc Biểu cam kết tương ứng trong phụ lục của
Hiệp định này, bên ký kết liên quan sẽ tiến hành tham vấn với bất kỳ bên ký kết nào khác đã tham gia đàm phán về
nhân nhượng đó và bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền lợi đáng kể liên quan tới nhân nhượng thuế quan đó được
Các Bên Ký Kết thừa nhận. Các Bên sẽ thể hiện sự đồng ý* với biện pháp dự kiến nếu họ thừa nhận rằng trong thực
tế không thể áp dụng những biện pháp tương thích với các quy định của Hiệp định này để thực hiện các mục tiêu đã
xác định tại khoản 13 của điều khoản này và nếu Các Bên có sự đảm bảo rằng:
           
(a)   đã đạt được một thoả thuận với các bên ký kết liên quan sau khi tham vấn như đã nêu trên,
 
(b)   hoặc nếu không đạt được thoả thuận nào trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Các Bên Ký Kết nhận được
thông báo như quy định tại khoản 14, bên ký kết vận dụng các quy định của điều khoản này đã làm tất
cả những gì hợp lý, có thể làm được để đạt tới một thoả thuận như vậy và quyền lợi của các bên ký kết
khác đã được bảo vệ đúng mức*.
 
Bên ký kết vận dụng các quy định của mục này đến lúc đó được miễn các nghĩa vụ theo các quy định của các điều
khoản khác của Hiệp định này áp dụng với nội dung của vấn đề cụ thể nói đến ở đây, trong chừng mực cần thiết để
tiến hành biện pháp đã nêu.
 
19        Nếu một biện pháp đã dự kiến thuộc loại đã định nghĩa ở khoản 13 của điều khoản này liên quan tới một
ngành sản xuất trong thời kỳ đầu đã được tạo điều kiện thuận lợi nhờ vào sự bảo hộ phụ trợ có được do các hạn chế
được bên ký kết đó áp dụng nhằm bảo hộ sự thăng bằng cán cân thanh toán theo quy định của Hiệp định này áp
dụng vào vấn đề cụ thể liên quan, bên ký kết đó có thể vận dụng các quy định và thủ tục của mục này, với điều kiện
bên đó không áp dụng các biện pháp dự kiến khi chưa được các bên ký kết* tán thành*.
 
20.       Không một quy định nào của các khoản trước thuộc mục này cho phép làm trái các quy định của các Điều
thứ nhất, II, XIII của Hiệp định này. Các bảo lưu của khoản 10 của điều khoản này có hiệu lực với mọi hạn chế là
đối tượng điều chỉnh của điểm này.
 
21.       Trong thời kỳ một biện pháp được áp dụng theo quy định của khoản 17 điều khoản này, vào bất kỳ lúc nào,
bất kỳ bên ký kết nào chịu  tác động đáng kể của biện pháp đó cũng có thể tạm ngừng việc cho bên ký kết đã vận
dụng các quy định của mục này hưởng những nhân nhượng hay được miễn những nghĩa vụ đáng kể tương đương
trong phạm vi Hiệp định này và không bị Các Bên Ký Kết  có ý kiến ngược lại, với điều kiện có sự báo trước dành
cho Các Bên Ký Kết một thời hạn 60 ngày, không chậm hơn sáu tháng kể từ ngày biện pháp được áp dụng hay điều
chỉnh nhằm vào bên ký kết chịu tổn hại đó. Bên ký kết này sẽ tạo điều kiện để tham vấn phù hợp với các quy định
của điều XXII của Hiệp định này.
 
Mục D
 
22.       Bất kỳ bên ký kết nào thuộc diện nêu tại điểm 4 b) điều khản này và để tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế
của mình mong muốn kiến lập một biện pháp thuộc loại nêu tại khoản 13 điều khoản này về việc tạo lập một ngành
sản xuất nhất định, có quyền đề nghị Các Bên Ký Kết thông qua một biện pháp như vậy. Các Bên Ký Kết sẽ nhanh
chóng tham vấn với bên ký kết đó và trong quá trình ra quyết định họ sẽ căn cứ vào nội dung đã quy định tại khoản
16. Nếu được Các Bên Ký Kết* đồng tình với biện pháp nêu trên, bên ký kết đó sẽ được miễn các nghĩa vụ nêu tại
các Điều khoản khác của Hiệp định này, trong chừng mực cần thiết để tiến hành biện pháp đã nêu. Nếu biện pháp dự
kiến tác động đến một sản phẩm là đói tượng của nhân nhượng thuế quan trong Biểu tương ứng kèm theo phụ lục
của Hiệp định này, các quy định của khoản 18 sẽ có hiệu lực.*
 
23.       Mọi biện pháp áp dụng theo tinh thần của mục này phải phù hợp với các quy  định của khoản 20 điều khoản
này.
 
Điều XIX
 
Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định
 
1.         a)         Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và do kết quả của những nghĩa vụ,
trong đó có những nhân nhượng thuế quan của một bên ký kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu
vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước,
bên ký kết đó có quyền ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng
thuế quan, đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục tổn hại đó.
 
            b)         Nếu một bên ký kết đã chấp nhận một sự nhân nhượng liên quan tới một sự ưu đãi và sản phẩm là đối
tượng ưu đãi được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết có tình huống như nêu tại điểm a) của khoản này tới mức
mà nhập khẩu đó đã gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương
tự hay trực tiếp cạnh tranh là các nhà sản xuất trên lãnh thổ của bên ký kết đang được hưởng hay đã được hưởng sự
ưu dãi đó, bên ký kết này có thể đề nghị bên ký kết đang nhập khẩu và bên ký kết đang nhập khẩu có quyền tạm
ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan đối với sản
phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn ngừa và khắc phục tổn hại đó.
 
2.         Trước khi một bên ký kết áp dụng những biện pháp phù hợp với các quy định của khoản đầu điều khoản này,
bên đó sẽ thông báo trước bằng văn bản sớm nhất có thể cho Các Bên Ký Kết biết. Bên ký kết đó sẽ dành cho Các
Bên Ký Kết cũng như các bên ký kết khác với tư cách là nước xuất khẩu các sản phẩm nói trên cơ hội cùng xem xét
các biện pháp được dự kiến áp dụng. Nếu thông báo về một nhân nhượng liên quan tới một ưu đãi, trong thông báo
sẽ nêu rõ tên bên ký kết đã đề nghị áp dụng biện pháp đó. Trong các hoàn cảnh khó khăn mà mọi sự chậm trễ sẽ dẫn
đến những hậu quả khó có thể khắc phục được, các biện pháp đã dự kiến tại khoản đầu tiên của điều khoản này có
thể được tạm thời áp dụng mà không cần tham vấn trước, với điều kiện là tham vấn được tiến hành ngay sau khi các
biện pháp được áp dụng.
 
3.         a)         Nếu các bên ký kết liên quan không đi đến nhất trí, bên ký kết đề nghị áp dụng và duy trì biện pháp
đó có quyền tiếp tục hành động. Nếu hành động đó được áp dụng hay tiếp tục được áp dụng, trong thời hạn 90 ngày
kể từ ngày các biện pháp được áp dụng và sau 30 ngày kể từ khi Các Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng
văn bản,  các bên ký kết chịu tác động của các biện pháp đó có quyền ngừng không cho thương mại của bên ký kết
đang áp dụng các biện pháp đó hoặc trong trường hợp đã dự liệu tại điểm b) của khoản đầu tiên điều khoản này
không cho thương mại của bên ký kết đã yêu cầu áp dụng các biện pháp đó hưởng các nhân nhượng hay ngừng các
nghĩa vụ tương ứng đáng kể khác thuộc Hiệp định này và việc ngừng đó sẽ không bị Các Bên Ký Kết phản đối.
 
            b)         Không làm tổn hại đến các quy định của điểm a) thuộc khoản này, nếu các biện pháp đã áp dụng theo
tinh thần khoản 2 điều khoản này, không có tham vấn trước, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho
các nhà sản xuất trong nước, trên lãnh thổ của một bên ký kết khác chịu tác động của các biện pháp đó, khi mỗi sự
chậm trễ có thể gây ra những thiệt hại khó có thể khắc phục được, bên ký kết này có quyền ngừng cho hưởng các
nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ khác trong thời hạn cần thiết để ngăn ngừa hay khắc phục thiệt hại đó, có hiệu
lực ngay từ khi các biện pháp nói trên được áp dụng hay trong suốt thời kỳ tham vấn.
 
Điều XX
Các ngoại lệ chung
 
Với bảo lưu rằng các biện pháp đề cập ở đây không được theo cách tạo ra công cụ phân biệt đối xử độc
đoán hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau, hay tạo ra một sự hạn chế trá hình với thương mại quốc
tế, không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là ngăn cản bất kỳ bên ký kết nào thi hành hay áp dụng các
biện pháp:
a)       cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng;
b)      cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật hay thực vật;
c)       liên quan đến xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc;
d)      cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với các quy định của Hiệp định
này, ví dụ như các quy định liên quan tới việc áp dụng các biện pháp hải quan, duy trì hiệu lực của
chính sách độc quyền tuân thủ đúng theo khoản 4 Điều II và Điều XVII, liên quan tới bảo hộ bản
quyền, nhãn hiệu thương mại và quyền tác giả và các biện pháp thích hợp để ngăn ngừa các hành vi
thương mại gian lận;
e)       liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân;
f)       áp đặt để bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ;
g)       liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt, nếu các biện pháp đó cũng được áp
dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong nước;
h)       được thi hành theo nghĩa vụ của một hiệp định liên chính phủ về một hàng hoá cơ sở ký kết phù hợp
với các tiêu thức đã trình ra Các Bên Ký Kết và không bị Các Bên phản đối hay chính hiệp định đó
đã trình ra Các Bên Ký Kết và không bị các bên bác bỏ.*
i)        bao hàm các hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước sản xuất và cần thiết có đủ số lượng
thiết yếu nguyên liệu đó để đảm bảo hoạt động chế tác trong thời kỳ giá nội được duy trì dưới giá
ngoại nhằm thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế của chính phủ, với bảo lưu rằng các hạn chế đó
không dẫn tới tăng xuất khẩu hay tăng cường mức bảo hộ với ngành công nghiệp trong nước và
không vi phạm các quy định của Hiệp định này về không phân biệt đối xử;
j)       thiết yếu để có được hay phân phối một sản phẩm thuộc diện khan hiếm trong cả nước hay tại một địa
phương; tuy nhiên các biện pháp đó phải tương thích với các nguyên tắc theo đó mỗi bên ký kết phải
có một phần công bằng trong việc quốc tế cung cấp các sản phẩm đó và các biện pháp không tương
thích với các quy định khác của Hiệp định này sẽ được xoá bỏ ngay khi hoàn cảnh dẫn tới lý do áp
dụng đã không còn tồn tại nữa. Ngày 30 tháng 6 năm 1960 là muộn nhất Các Bên Ký Kết sẽ xem xét
lại tính cần thiết của quy định thuộc tiểu khoản này.
 
Điều XXI
Ngoại lệ về an ninh
 
            Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là
 
            a)         áp đặt với một bên ký kết nghĩa vụ phải cung cấp những thông tin mà bên đó cho rằng nếu bị điểm lộ
sẽ đi ngược lại quyền lợi thiết yếu của về an ninh của mình; hoặc
 
            b)         để ngăn cản một bên ký kết có các biện pháp được cho là cần thiết để bảo vệ các quyền lợi thiết yếu
tơí an ninh của mình:
 
(i)      liên quan tới chất phóng xạ hay các chất dùng vào việc chế tạo chúng;
 
(ii)     liên quan tới mua bán vũ khí, đạn dược và vật dụng chiến tranh và mọi hoạt động thương
mại các hàng hoá khác và vật dụng trực tiếp hay gián tiếp được dùng để cung ứng cho quân
đội;
 
(iii)     được áp dụng trong thời kỳ chiến tranh hoặc các tình huống khẩn cấp trong quan hệ quốc tế
khác; hoặc
 
            c)         để ngăn cản một bên ký kết có những biện pháp thực thi các cam kết nhân danh Hiến Chương Liên
hợp Quốc, nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
 
Điều XXII
Tham vấn
 
1.         Mỗi bên ký kết sẽ quan tâm xem xét những vấn đề có thể được một bên ký kết khác đề cập về tác động đến
sự thực thi Hiệp định này và sẽ dành các khả năng thích ứng để tham vấn giải quyết các vấn đề đó.
 
2.         Theo yêu cầu của một bên ký kết, Các Bên Ký Kết sẽ có thể tiến hành tham vấn với một hay nhiều bên ký
kết về một vấn đề, tham vấn sẽ được tiến hành theo phương thức đã nêu tại khoản 1.
 
Điều XXIII
Sự vô hiệu hoá hay vi phạm cam kết
 
1.         Trong trường hợp một bên ký kết nhận thấy một lợi ích thu được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ Hiệp
định này bị vô hiệu hay vi phạm và việc thực hiện một trong các mục tiêu của Hiệp định vì thế bị trở ngại là kết quả
của:
 
a)       một bên ký kết không hoàn thành các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ Hiệp định này; hoặc
b)     một bên ký kết khác áp dụng một biện pháp nào đó, dù biện pháp này có trái với quy định của Hiệp định này
hay không;
c)       sự tồn tại một tình huống bất kỳ nào khác.
 
để có thể giải quyết thoả đáng vấn đề, Bên ký kết đó có thể nêu vấn đề hay đề nghị bằng văn bản với bên kia hay với
(các) bên ký kết khác, được coi là liên quan. Khi được yêu cầu như vậy mọi bên ký kết sẽ quan tâm xem xét những
vấn đề đã được nêu lên.
 
2.         Nếu trong thời hạn hợp lý các bên liên quan vẫn không  giải quyết được thoả đáng hoặc trong trường hợp
khó khăn thuộc diện đã nêu tại điểm c) khoản đầu của điều khoản này, có thể nêu vấn đề ra trước Các Bên Ký Kết.
Các Bên sẽ tiến hành ngay việc điều tra về mọi vấn đề đặt ra cho Các Bên và tuỳ trường hợp sẽ  đề xuất quy tắc giải
quyết với các bên ký kết được Các Bên coi là bên gây ra hay sẽ nghị sự về vấn đề đó. Khi thấy cần thiết, Các Bên
Ký Kết có thể tham vấn một số bên ký kết, Uỷ ban Kinh tế và xã hội của Liên hợp Quốc và bất kỳ tổ chức liên chính
phủ thích hợp nào khác. Nếu Các Bên thấy rằng tình huống đã đủ nghiêm trọng để có biện pháp cần thiết, Các Bên
có thể cho phép một hay nhiều bên ký kết ngừng việc cho bất kỳ một bên ký kết nào được hưởng các nhân nhượng
hay việc ngừng việc thực hiện nghĩa vụ thuộc Hiệp định Chung với các bên đó mà Các Bên coi là có lý, phù hợp với
hoàn cảnh. Khi thực sự có sự ngừng áp dụng nhân nhượng hay thực hiện nghĩa vụ với một bên ký kết, trong thời hạn
60 ngày kể từ khi việc ngừng có hiệu lực, bên ký kết có quyền thông báo bằng văn bản cho Thư ký điều hành* của
Các Bên Ký Kết ý định từ bỏ Hiệp định chung; Sự từ bỏ đó có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày Thư ký điều hành
của Các Bên Ký Kết nhận được thông báo nói trên.
 
 
 
Phần thứ III
 
Điều XXIV
 
Áp dụng theo lãnh thổ - Hàng hoá biên mậu
Liên Minh quan thuế và Khu vực mậu dịch tự do
 
1.         Các quy định của Hiệp định này áp dụng với lãnh thổ quan thuế chính quốc của các bên ký kết cũng như với
mọi lãnh thổ quan thuế mà theo điều khoản XXVI của Hiệp định này và theo tinh thần của điều XXXIII hoặc chiểu
theo Nghị định thư về việc Tạm thời thi hành (Hiệp định GATT). Mỗi lãnh thổ quan thuế sẽ được coi là một bên ký
kết, chỉ thuần tuý nhằm mục đích thực thi Hiệp định này theo lãnh thổ, với bảo lưu rằng các quy định của Hiệp định
này không được hiểu là tạo ra với một bên ký kết đơn lẻ nào quyền hay nghĩa vụ như giữa hai hay nhiều lãnh thổ
quan thuế đã chấp nhận hiệu lực của Hiệp định này theo tinh thần của điều khoản XXVI hoặc áp dụng theo tinh thần
điều khoản XXXIII hay phù hợp với Nghị định thư về việc Tạm thời áp dụng.
 
2.         Nhằm mục đích áp dụng Hiệp định này, thuật ngữ lãnh thổ quan thuế được hiểu là bất cứ lãnh thổ nào có áp
dụng một biểu thuế quan riêng biệt, hoặc có những quy chế thương mại riêng biệt được áp dụng với một phần đáng
kể trong thương mại với các lãnh thổ khác.
 
3.         Các quy định của Hiệp định này không thể được hiểu là ngăn cản
 
(a)     một bên ký kết dành lợi thế cho các nước có chung đường biên giới nhằm tạo thuận lợi cho trao đổi
vùng biên giới;
 
(b)     các nước lân cận với Lãnh thổ Tự do vùng Triesta dành cho vùng này những lợi thế thương mại, với
điều kiện là không trái với các quy định tại các hiệp ước hoà bình được ký sau Thế Chiến II.
 
4.         Các bên ký kết thừa nhận lòng mong muốn thương mại được tự do hơn, thông qua các hiệp định được ký kết
tự nguyện, nhờ đó phát triển sự hội nhập hơn nữa kinh tế các nước tham gia các hiệp định đó. Các Bên cũng thừa
nhận rằng việc lập ra một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do phải nhằm mục tiêu là tạo thuận lợi
cho thương mại giữa các lãnh thổ thành viên và không tạo thêm trở ngại cho thương mại của các thành viên khác với
các lãnh thổ này.
 
5.         Do vậy, các quy định của Hiệp định này không gây trở ngại cho việc thành lập một liên minh quan thuế hay
khu vực mậu dịch tự do hay chấp nhận một hiệp định tạm thời cần thiết để lập ra một liên minh quan thuế hay khu
vực mậu dịch tự do giữa các lãnh thổ thành viên, với bảo lưu rằng
 
(a)     trong trường hợp một liên minh quan thuế hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một liên minh
quan thuế, thuế quan áp dụng khi lập ra liên minh quan thuế hay khi ký kết hiệp định tạm thời xét về
tổng thể không dẫn tới mức thuế cao hơn cũng không tạo ra những quy tắc chặt chẽ hơn so với mức
thuế hay quy tắc có hiệu lực vào thời điểm trước khi lập ra liên minh hay hiệp định được ký kết, tại
các lãnh thổ tạo thành liên minh dành cho thương mại với các bên ký kết không phải là thành viên
của liên minh hay không tham gia hiệp định.
 
(b)     trong trường hợp lập ra một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một khu
vực mậu dịch tự do, thuế quan duy trì tại mỗi lãnh thổ thành viên và được áp dụng với thương mại
của các bên ký kết không tham gia khu vực mậu dịch hay hiệp định đó, vào thời điểm khu vực mậu
dịch hay ký kết hiệp định sẽ không cao hơn, cũng như các quy tắc điều chỉnh thương mại cũng
không chặt chẽ hơn mức thuế quan hay quy tắc tương ứng hiện hành tại mỗi lãnh thổ thành viên
trước khi lập ra khu vực mậu dịch hay ký hiệp định tạm thời, tuỳ theo từng trường hợp; và
 
(c)     mọi hiệp định tạm thời nói đến tại các điểm a) và b) phải bao gồm một kế hoạch và một chương trình
thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do trong một thời hạn hợp lý.
 
6.                   Nếu khi đáp ứng các điều kiện nêu tại điểm 5a), một bên ký kết đề nghị nâng mức thuế một cách
không phù hợp với các quy định của điều II, thủ tục đã được dự kiến tại điều XVIII sẽ được áp dụng. Việc điều
chỉnh cân đối tính đúng mức đến sự bù đắp có được do mức giảm thuế tương ứng với thuế quan của các lãnh thổ
khác tham gia liên minh.
 
7.         a)         Khi quyết định tham gia một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định
tạm thời được ký nhằm lập ra một liên minh hay một khu vực mậu dịch như vậy, bất kỳ bên ký kết nào cũng sẽ
thông báo không chậm trễ cho Các Bên Ký Kết biết và cung cấp mọi thông tin cần thiết về liên minh hoặc khu vực
mậu dịch để Các Bên có thể có báo cáo hay khuyến nghị cần thiết tới các bên ký kết nêú Các Bên thấy cần thiết.
 
            b)         Nếu sau khi nghiên cứu kế hoạch và chương trình thuộc hiệp định tạm thời đã nêu tại khoản 5, có
tham vấn với các bên tham gia hiệp định này và sau khi cân nhắc đúng mức đến các thông tin đã được cung cấp theo
quy định tại điểm a), Các Bên Ký Kết đi đến kết luận là hiệp định không thuộc loại dẫn đến thành lập một liên minh
quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do trong thời hạn đã được các bên dự liệu hay thời hạn được các bên ký kết
hiệp định dự tính là không hợp lý, Các Bên sẽ có khuyến nghị với các bên tham gia hiệp định. Nếu không sắn sàng
điều chỉnh cho phù hợp với các khuyến nghị đó, các bên tham gia hiệp định sẽ không duy trì hiệp định hoặc không
triển khai hiệp định nữa.
 
            c)         Bất kỳ sự điều chỉnh đáng kể nào trong kế hoạch hay chương trình đã nêu tại điểm c) của khoản 5
phải được thông báo cho Các Bên Ký Kết, Các Bên có thể yêu cầu các bên ký kết liên quan tham vấn, khi sự điều
chỉnh thể hiện khả năng thoả hiệp hay làm chậm trễ không chính đáng sự hình thành liên minh quan thuế hay khu
vực mậu dịch tự do.
 
8.         Trong Hiệp định này, các thuật ngữ được hiểu:
 
            a)         liên minh quan thuế là sự thay thế hai hay nhiêu lãnh thổ quan thuế bằng một lãnh thổ quan thuế khi
sự thay thế đó có hệ quả là
 
(i)    thuế quan và các quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế (ngoại trừ, trong chừng
mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các điều XI, XII, XIII, XIV, XV và
XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ hợp  thành liên
minh, hoặc ít nhất cũng  được loại trừ về cơ bản với trao đổi hàng hoá có xuất xứ từ các lãnh
thổ này;
(ii)   với bảo lưu như các quy định tại khoản 9, thuế quan và các quy tắc được từng thành viên của
liên minh áp dụng trong thương mại với các lãnh thổ bên ngoài là thống nhất về nội dung;
 
            b)         khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ quan thuế mà thuế quan
và các quy tắc hạn chế thương mại (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy
định của các Điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại các
sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do.
 
9.         Các ưu đãi đã nêu tại khoản 2 của điều khoản đầu tiên sẽ không chịu tác động của việc thành lập liên minh
quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do; các ưu đãi đó có thể bị triệt tiêu hay điều chỉnh bằng cách thoả thuận với các
bên ký kết liên quan.* Thủ tục đàm phán với các bên ký kết liên quan đó sẽ áp dụng trước hết với việc triệt tiêu các
ưu đãi cần thiết để cho các quy định của các khoản (a)(i) và 8  (b) được tuân thủ.
 
10.       Bằng một quyết định trên cơ sở đa số hai phần ba, Các Bên Ký Kết có thể chấp nhận những đề nghị có thể
không hoàn toàn phù hợp với các quy định tại các khoản 5 đến 9 với điều kiện quyết định như vậy đi đến việc thành
lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do đúng ý nghĩa của điều khoản này.
 
11.       Căn cứ vào những hoàn cảnh ngoại lệ dẫn tới kết quả là sự thành lập hai nhà nước độc lập và thừa nhận rằng
hai Nhà nước này từ lâu đã tạo thành một thể thống nhất về kinh tế, các bên ký kết đồng ý rằng các quy định của
Hiệp định này không ngăn cản hai nước ký những hiệp định đặc biệt về thương mại song biên, trong khi chờ đợi
quan hệ thương mại của hai nước được thiết lập chính thức.*
 
12.       Mỗi bên ký kết sẽ có những biện pháp hợp lý và trong phạm vi quyền hạn của mình để các chính phủ hay
chính quyền địa phương trên lãnh thổ của mình tuân thủ các quy định của Hiệp định này.
 
Điều XXV      
                       
Hành động tập thể của các bên ký kết
 
1.         Các đại diện của các bên ký kết sẽ họp định kỳ nhằm đảm bảo thực hiện các quy định của Hiệp định này bao
gồm sự hành động tập thể và nói chung đề tạo thuận lợi cho Hiệp định này được  thực thi cũng như cho phép đạt
được các mục tiêu của Hiệp định. Khi tất cả các bên ký kết của Hiệp định này hành động tập thể được ghi nhận với
danh nghĩa Các Bên Ký Kết.
 
2.         Tổng Thư ký của Liên hợp Quốc được mời triệu tập phiên hop đầu tiên của Các Bên Ký Kết, được tiến hành
chậm chất vào ngày 1 tháng3 năm 1948.
 
3.         Mỗi bên ký kết chỉ có quyền có một phiếu trong mọi phiên họp của Các Bên Ký Kết.
 
4.         Trừ khi có quy định khác của Hiệp định này, các quyết định của Các Bên Ký Kết có hiệu lực với đa số phiếu
bầu.
 
 5.        Trong các trường hợp ngoại lệ ngoài những trường hợp quy định trong Hiệp định này, Các Bên Ký Kết có
thể giải phóng một bên ký kết khỏi một nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định này với điều kiện quyết định đó được
đa số hai phần ba phiếu bầu tán thành và đa số đó chiếm quá bán tổng số bên ký kết. Với quy định về phiếu bầu như
trên, Các Bên Ký Kết cũng có thể
 
(i)      xác định loại tình huống ngoại lệ theo đó các điều kiện bỏ phiếu khác có thể vận dụng để miễn cho
một bên ký kết một hoặc nhiều nghiã vụ,
 
(ii)      xác định các tiêu thức cần thiết để áp dụng khoản này.
 
Điều XXVI
 
Chấp nhận, hiệu lực và đăng ký
 
1.         Hiệp định này ký ngày 30 tháng 10 năm 1947.
 
2.         Hiệp định này này được để ngỏ để mọi bên ký kết chấp nhận cho tới ngày 1 tháng 5 năm 1955, là một bên ký
kết hay đàm phán gia nhập Hiệp định.
 
3.         Hiệp định này được lập thành một một bản tiếng Pháp, một bản tiếng Anh, cả hai văn bản đều có hiệu lực và
sẽ được đăng ký với Tổng Thư ký Liên hợp Quốc, Tổng Thư ký sẽ luân chuyển tới các chính phủ liên quan một bản 
sao có xác nhận.
 
4.         Mỗi chính phủ chấp nhận Hiệp định này phải trình văn bản chấp nhận tới Thư ký điều hành của Các Bên Ký
Kết, Thư ký điều hành sẽ thông tin tới các chính phủ liên quan ngày nhận được văn bản chấp nhận và ngày Hiệp
định này có hiệu lực đúng theo quy định của khoản 6 điều khoản này.
 
5          a)         Mỗi chính phủ khi chấp nhận Hiệp định này, là chấp nhận cho cả lãnh thổ chính quốc và các lãnh thổ
mà chính phủ đó đại diện trên trường quốc tế, ngoại trừ các lãnh thổ quan thuế được chính phủ đó có văn bản thông
báo rõ cho Thư ký điều hành của Các Bên Ký Kết vào thời điểm nộp văn bản chấp nhận.
 
            b)         Mọi chính phủ sau khi đã chuyển tới Thư ký điều hành một thông báo, phù hợp với các ngoại lệ nêu
tại điểm a) khoản này, có thể thông báo bất kỳ lúc nào rằng kể từ khi đó sự chấp nhận bao hàm cả một lãnh thổ quan
thuế riêng biệt đã được chấp nhận trước đây; thông báo đó sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp theo ngày Thư
ký điều hành nhận được. (5)
 
            c)         Nếu một lãnh thổ quan thuế trước đó đã được một bên ký kết chấp nhận hiệu lực áp dụng Hiệp định
này được quyền tự chủ đầy đủ để tự duy trì các quan hệ thương mại đối ngoại cũng như giải quyết các vấn đề khác
thuộc nội dung của Hiệp định này, hoặc lãnh thổ đó dành được quyền tự chủ, lãnh thổ đó sẽ được coi như một bên
ký kết nếu bên ký kết chịu trách nhiệm ban đầu tuyên bố quyền tự chủ đó kèm theo các bằng chứng nêu trên.
 
6.         Hiệp định này có hiệu lực giữa các chính phủ nào đã tuyên bố chấp nhận kể từ ngày rhức 30 tiếp theo ngày
Thư ký điều hành của Các Bên Ký Kết nhạn được công cụ chấp nhận của các chính phủ nêu tại phụ lục H có tổng
khối lượng thương mại chiếm 85% tổng thương mại của các chính phủ ghi trong danh mục nói trên. Công cụ chấp
nhận của các chính phủ sẽ có hiệu lực kể từ  ngày thứ 30 tiếp theo ngày nộp.
 
7.         Liên hợp Quốc được phép đăng ký Hiệp định này kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
 
Điều XXVII 
 
Ngừng áp dụng hay rút bỏ các nhân nhượng
 
            Mọi bên ký kết có quyền ngừng áp dụng hay rút bỏ toàn bộ hay một phần một nhân nhượng thuộc Biểu
tương ứng ở phần phụ lục vào bất cứ khi nào với lý do nhân nhượng đó ban đầu đã được đàm phán với một chính
phủ đã không trở thành hoặc không còn là bên ký kết. Bên ký kết áp dụng một biện pháp như vậy sẽ thông báo ngay
cho các bên ký kết và khi được yêu cầu sẽ tham vấn cùng các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm đó.
 
Điều XXVIII*
 
Điều chỉnh Biểu nhân nhượng
 
1.         Ngày đầu tiên của mỗi thời kỳ 3 năm, thời kỳ đầu tiên bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 1958 (hoặc ngày đầu tiên
của bất kỳ thời kỳ nào có thể được Các Bên Ký Kết xác định thông qua bỏ phiếu với hai phân ba số phiếu có chính
kiến) bất kỳ bên ký kết nào (dưới đây gọi là 'bên yêu cầu') có thể điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng thuộc Biểu
tương ứng ở phần phụ lục của Hiệp định này, sau khi đã đàm phán và đạt được thoả thuận với mỗi bên ký kết đã
tham gia đàm phán ban đầu cũng như với bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền lợi như là đối tác cung cấp chủ yếu*
được Các Bên Ký Kết công nhận (cả hai loại bên ký kết cũng như bên yêu cầu trong  điều khoản này sẽ được gọi là
'bên ký kết có quan tâm trước hết') và với bảo lưu là bên ký kết đó đã tham vấn bất kỳ bên ký kết nào khác có quyền
lợi đáng kể* với nhân nhượng đó* được điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng thuộc Biểu là phụ lục của Hiệp định
này.
 
2.         Tiến trình đàm phán và thoả thuận có thể bao gồm những nhân nhượng nhằm điều chỉnh bù đắp bằng nhân
nhượng về những sản phẩm  khác, các bên ký kết liên quan sẽ cố gắng duy trì một mức nhân nhượng chung đối đẳng
và cùng có lợi không kém phần thuận lợi hơn cho thương mại so với mức đã có được theo Hiệp định này trước các
cuộc đàm phán đó.
 
3.         (a)        Nếu các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu không đạt được một thoả thuận trước ngày 1 tháng 5 năm
1958 hoặc trước khi kết thúc một thời kỳ nêu trong khoản đầu của điều khoản này, bên ký kết có đề nghị điều chỉnh
hoặc rút bỏ các nhân nhượng có thể thực hiện như đã đề nghị và nếu bên ký kết đó thực thi một biện pháp như vậy,
bất kỳ bên ký kết nào đã tham gia đàm phán ban đầu về nhân nhượng cụ thể đó, bất kỳ bên ký kết nào có quyền lợi
là nước cung cấp chủ yếu được thừa nhận theo quy định tại khoản đầu tiên cũng như bất kỳ bên ký kết nào có quyền
lợi đáng kể được thừa nhận theo quy định tại khoản nói trên trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày biện pháp đó được áp
dụng và sau 30 ngày kể từ ngày Các Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng văn bản có thể rút bỏ những nhân
nhượng đáng kể tương đương đã được đàm phán ban đầu với bên yêu cầu.
 
            (b)        Nếu các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu đạt được một thoả thuận nhưng không thoả đáng với một
bên ký kết khác có quyền lợi đáng kể đã được thừa nhận như đã quy định tại khoản đầu tiên, bên ký kết này, trong
thời hạn 6 tháng kể từ ngày biện pháp đạt được trong thoả thuận đó được áp dụng và sau 30 ngày kể từ ngày Các
Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng văn bản có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã
được đàm phán ban đầu với bên yêu cầu.
 
4.         Bất kỳ lúc nào và trong những hoàn cảnh đặc biệt, Các Bên Ký Kết có thể cho phép* một bên ký kết tiên
hành đàm phán nhằm điều chỉnh hay rút bỏ một nhân nhượng trong Biểu tương ứng thuộc phụ lục của Hiệp định
này, theo những thủ tục và điều kiện dưới đây:
 
(a)     Các cuộc đàm phán đó* cũng như mọi tham vấn liên quan sẽ được tiến hành phù hợp với các quy
định tại khoản 1 và 2 của điều khoản này.
 
(b)     Nếu đàm phán đạt đến được một thoả thuận giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể chủ yếu, sẽ áp
dụng các quy định của khoản 3b) của điều khoản này.
 
(c)     Nếu không đạt được một thoả thuận giữa các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu trong thời hạn 60 ngày
kể từ ngày được phép tiến hành đàm phán hoặc trong thời hạn nào đó dài hơn thế đã được Các Bên
Ký Kết xác định, bên yêu cầu có thể đưa vấn đề ra Các Bên Ký Kết giải quyết.
 
(d)     Nếu được yêu cầu như vậy, Các Bên Ký Kết sẽ phải nhanh chóng xem xét và thông báo ý kiến của
mình cho các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu biết để giải quyết vấn đề. Nếu không giải quyết được,
các quy định của khoản 3b) sẽ được áp dụng như là trường hợp các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu
đã đạt được thoả thuận. Nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi chủ yếu không đạt được thoả thuận,
bên yêu cầu có thể điều chỉnh hay rút bỏ các nhân nhượng, trừ khi Các Bên Ký Kết xác định rằng
bên ký yêu cầu chưa làm hết những gì hợp lý và có thể để đưa ra một sự bù đắp đúng mức*, Nếu
một biện pháp như vậy được áp dụng, mọi bên ký kết đã tham gia đàm phán ban đầu, mọi bên ký kết
có quyền lợi như là nước cung cấp chủ yếu được thừa nhận như quy định tại khoản 4a) và tất cả các
bên ký kết có quyền lợi đáng kể được thừa nhận như quy định tại khoản 4a) trong thời hạn 6 tháng
kể từ ngày biện pháp đó được áp dụng và sau 30 ngày kể từ ngày Các Bên Ký Kết nhận được thông
báo trước bằng văn bản có thể rút bỏ những nhân nhượng đáng kể tương đương đã được đàm phán
ban đầu với bên yêu cầu.
 
5.         Trước ngày 1 tháng 1 năm 1958 và trước mỗi thời kỳ đã đề cập tại khoản đầu tiên, mọi bên ký kết đều có thể,
bằng cách gửi thông báo trước bằng văn bản, dành quyền điều chỉnh Biểu tương ứng trong thời kỳ sắp đến, với điều
kiện đáp ứng các thủ tục đã nêu tại khoản từ 1 đến 3. Nếu một bên ký kết sử dụng đến quyền này, bất cứ bên ký kết
nào khác cũng có quyền điều chỉnh hay rút bỏ bất kỳ nhân nhượng nào đã đàm phán ban đầu với bên ký kết đó, với
điều kiện đáp ứng cùng các thủ tục nêu trên.
 
Điều XXVIII (B)
 
Đàm phán thuế quan
 
1.         Các bên ký kết thừa nhận rằng thuế quan thường vẫn là trở ngại lớn với thương mại; do vậy các cuộc đàm
phán nhằm giảm đáng kể mức chung của thuế quan và thuế hay khoản thu khác đánh vào hàng nhập khẩu hay xuất
khẩu, đặc biệt nhằm giảm các khoản thuế quan có suất thuế cao đến triệt tiêu nhập khẩu dù số lượng nhỏ, và tiến
hành có tính toán đúng mức đến mục tiêu của Hiệp định này cũng như các nhu cầu khác nhau của mỗi bên ký kết,
chúng sẽ có tầm quan trọng lớn với việc mở rộng thương mại quốc tế. Do vậy, Các Bên Ký Kết có thể tổ chức
những đợt đàm phán như vậy theo từng thời kỳ.
 
2.         a)         Các cuộc đàm phán thực hiện phù hợp với các quy định của Điều khoản này có thể tiến hành
theo từng sản phẩm hay dựa trên những thủ tục được chấp nhận bởi nhiều bên liên quan. Các cuộc đàm
phán đó có thể nhằm vào giảm thuế quan hay đạt được cam kết thuế trần ở mức hiện có khi đàm phán hay
cam kết không nâng những loại thuế quan cụ thể nào đó sẽ không vượt quá một mức nhất định, hay mức
thuế quan trung bình đánh vào một chủng loại sản phẩm nhất định sẽ không vượt quá một mức nhất định.
Các cam kết thuế quan trần ở mức thấp hoặc bằng 0% được thừa nhận về nguyên tắc là các nhân nhượng
ngang bằng như giảm thuế áp dụng với những mặt hàng có thuế suất cao.
 
            b)         Các bên ký kết thừa nhận rằng nhìn chung thành công của các cuộc đàm phán đa biên tuỳ thuộc vào
sự tham gia của tất cả các bên ký kết có khối lượng trao đổi thương mại lớn với các bên ký kết khác trong
nền ngoại thương của mình.
 
3.         Các cuộc đàm phán sẽ được tiến hành trên một cơ sở cho phép tạo cơ hội thích hợp để tính đến
 
a)       các nhu cầu của mỗi bên ký kết và của mỗi ngành sản xuất;
 
b)      nhu cầu của các nước chậm phát triển cần vận dụng thuế quan linh hoạt để bảo hộ nhằm tạo thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế và các nhu cầu  đặc biệt của các nước này duy trì thuế quan nhằm đảm bảo
nguồn thu.
 
c)       mọi tình huống khác có thể cần được xem xét, kể cả nhu cầu của các bên ký kết về nguồn thu* và các
nhu cầu phát triển, chiến lược và các nhu cầu khác.
 
 
Điều XXIX
 
Mối quan hệ của Hiệp định này với Hiến chương Havana   
                       
1          Các bên ký kết cam kết, đến hết mức quyền hành pháp của mình cho phép,  tuân thủ các nguyên tắc chung
nêu tại các chương từ I đến VI và chương IX của Hiến Chương Havana, cho tới khi họ chấp nhận Hiến Chương theo
những thủ tục hợp hiến.*
 
2.         Phần hai của Hiệp định này tạm thời chưa áp dụng cho tới khi Hiến CHương Havana có hiệu lực.
 
3.         Nếu đến ngày 30 tháng 9 năm 1949 Hiến Chương Havana chưa có hiệu lực, các bên ký kết sẽ họp vào ngày
31 tháng 12 năm 1949 để thoả thuận xem Hiệp định này có được điều chỉnh, cần thay thế hay vẫn tiếp tục duy trì.
 
4.         Nếu vào một thời điểm nào đấy, Hiệp định Havana không còn hiệu lực, Các Bên Ký Kết sẽ họp sớm nhất có
thể sau khi thoả thuận xem Hiệp định này có cần được điều chỉnh hay tiếp tục duy trì. Cho tới ngày một hiệp định về
chủ đề này được ký kết, Phần II chủa Hiệp định này này lại sẽ có hiệu lực, mặc nhiên hiểu là các quy định của Phần
II, ngoại trừ điều XIII, sẽ được thay thế nguyên văn, bằng nội dung có trong Hiến Chương Havana; và mặc nhiên
hiểu rằng không một bên ký kết nào sẽ bị ràng buộc bởi các quy định không có tính ràng buộc bên ký kết đó vào
thời điểm Hiến Chương hết hiệu lực.
 
5.         Nếu một bên ký kết đã không chấp nhận Hiến Chương Havana khi Hiến Chương có hiệu lực, Các Bên Ký
Kết sẽ trao đổi để thống nhất xem Hiệp định này sẽ được hoàn chỉnh hay điều chỉnh theo cách nào trong chừng mực
việc đó tác động đến quan hệ giữa bên ký kết không chấp nhận Hiến Chương và các bên ký kết khác. Cho tới ngày
có một thoả thuận khác về vấn đề này, các quy định của Phần II Hiệp định này vẫn được áp dụng giữa bên ký kết đó
và các bên ký kết khác, không phụ thuộc vào các quy định của khoản 2 Hiệp định này.
 
6.         Các bên ký kết, thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế sẽ không viện các quy định của Hiệp định này
để ngăn cản thi hành một quy định nào đó của Hiến Chương Havana. Việc áp dụng nguyên tắc nêu tại khoản này với
một bên ký kết không phải là thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế sẽ được thoả thuận đúng theo các quy
định của khoản 5 điều khoản này.
                                   
 
Điều XXX
 
Điều chỉnh
 
1.         Trừ những trương hợp có những quy định cụ thể khác về sửa đổi Hiệp định này, những điều chỉnh với phần I
của Hiệp định này cũng như với những quy định của điều khoản XXIX hoặc điều khoản này sẽ có hiệu lực kể từ khi
được sư đồng ý của tất cả các bên ký kết và những điều chỉnh với các quy định khác của Hiệp định này sẽ có hiệu
lực với những bên ký kết đã chấp nhận chúng, sau khi được hai phần ba các bên ký kết chấp nhận và tiếp sau đó là
sau khi được sự chấp nhận của mỗi bên ký kết còn lại kể từ khi họ chấp nhận.
 
2.         Mỗi bên ký kết khi chấp nhận một sự sửa đổi Hiệp định này sẽ nộp công cụ chấp nhận cho Tổng Thư ký
Liên hợp Quốc trong thời hạn do Các Bên Ký Kết quy định. Các Bên có thể quyết định việc một sự điều chỉnh có
hiệu lực theo điều kiện của điều khoản này mang nội dung sao cho bất kỳ bên ký kết nào có thể rút lui thôi không
tham gia Hiệp định khi không chấp nhận sự điều chỉnh đó trong thời hạn quy định hay được tiếp tục tham gia khi
được Các Bên Ký Kết ưng thuận.
 
Điều XXXI
 
Rút bỏ
 
            Không làm tổn hại đến các quy định của khoản 12 điều XVIII, của điều XXIII, hoặc của khoản 2 điều XXX,
bất kỳ bên ký kết nào cũng có thể rút bỏ việc tham gia Hiệp định này hay rút bỏ nhân danh một hay nhiều lãnh thổ
quan thuế được bên ký kết đó đại diện trên trường quốc tế và vào thời điểm rút bỏ đang có quyền tự chủ hoàn toàn
trong quan hệ ngoại thương và trong các vấn đề khác được Hiệp định này điều chỉnh. việc rút bỏ sẽ có hiệu lực khi
kết thúc thời hạn 6 tháng kể từ ngày Tổng Thư ký Liên hợp Quốc nhận được thông báo rút bỏ bằng văn bản.
 
Điều XXXII
 
Các bên ký kết
 
1.         Những chính phủ thi hành đúng các quy định nêu tại điều XXVI, tại điều XXXIII hoặc theo tinh thần Nghị
định Thư về việc tạm thời áp dụng sẽ được coi là bên ký kết của Hiệp định này.
 
2.         Vào bất kỳ thời điểm nào sau khi Hiệp định này có hiệu lực căn cứ vào khoản 6, điều XXVI, các bên ký kết
đã chấp nhận Hiệp định này phù hợp với khoản 4 điều XXVI, bất kỳ lúc nào kể từ sau khi Hiệp định này đã có hiệu
lực, có thể quyết định việc một bên ký kết đã không chấp nhận Hiệp định này theo đúng tiến trình đó không còn là
bên ký kết Hiệp định.
 
Điều XXXIII
 
Gia nhập
 
            Bất cứ chính phủ nào không phải là một bên của Hiệp định này hay bất cứ chính phủ nào hành động  nhân
danh một lãnh thổ quan thuế riêng biệt có quyền tiến hành quan hệ ngoại thương và các vấn đề khác được Hiệp định
này điều chỉnh, có thể tự mình hay nhân danh lãnh thổ đó tham gia Hiệp định này, theo những điều kiện được chính
phủ đó và Các Bên Ký Kết xác định. Các Bên Ký Kết sẽ có Quyết định kết nạp theo khoản này được tiến hành trên
cơ sở đồng thuận đa số hai phần ba.
 
Điều XXXIV
 
Phụ lục
 
Các phụ lục của Hiệp định này này làm thành bộ phận gắn liền của Hiệp định này.
 
                                   
Điều XXXV
 
Không áp dụng Hiệp định giữa các bên ký kết nhất định
 
1.         Hiệp định này hay điều II của Hiệp định này sẽ không áp dụng giữa một bên ký kết và một bên ký kết khác
 
a)       nếu cả hai bên ký kết không tiến hành đàm phán thuế quan với nhau,
 
b)      nếu một trong hai bên không tán thành việc áp dụng nêu trên khi một trong hai bên gia nhập
 
phần IV*
 
Thương mại và phát triển
 
Điều XXXVI
 
Nguyên tắc và mục tiêu
 
1*.       Các bên ký kết,
 
a)       ý thức rằng các mục tiêu cơ bản của Hiệp định này bao gồm việc nâng cao mức sống và dần dần phát
triển nền kinh tế của tất cả các bên ký kết, và xét thấy rằng việc thực hiện mục tiêu này đặc biệt khẩn
thiết với các bên ký kết kém phát triển hơn;
 
b)      Xét thấy rằng thu nhập qua xuất khẩu của các bên ký kết có nền kinh tế kém phát triển hơn có thể
đóng vai trò quyết định trong việc phát triển kinh tế của mình, và rằng sự đóng góp đó có tầm quan
trọng thế nào còn tuỳ thuộc vào giá cả mà các bên ký kết đã phải trả cho việc nhập khẩu các sản
phẩm thiết yểu, vào khối lượng xuất khẩu và giá cả có được nhờ xuất khẩu;
 
c)       ghi nhận có sự chênh lệch lớn giữa mức sống của các nước chậm phát triển và mức sống ở các nước
khác;
 
d)      thừa nhận rằng hành động riêng và tập thể là không thể thiếu để tạo thuận lợi cho sự phát triển nền
kinh tế của các bên ký kết kém phát triển hơn và bảo đảm nâng cao nhanh chóng mức sống của các
nước này.
 
e)       thừa nhận tăng thương mại quốc tế được coi là công cụ phục vụ tiến bộ xã hội phải được điều chỉnh
theo quy tắc và thủ tục và các biện pháp phù hợp với các quy tăc và thủ tục  như vậy thích ứng với
các mục tiêu đã nêu trên;
 
f)       ghi nhận rằng Các Bên Ký Kết có thể cho phép các bên ký kết chậm phát triển được sử dụng những
biện pháp đặc biệt để tạo thuận lợi cho thương mại và phát triển của mình;
 
thoả thuận như dưới đây.
 
2.         Cần thiết đảm bảo sự tăng trưởng nhanh và liên tục thu nhập từ xuất khẩu của các bên ký kết chậm phát triển
hơn.
 
3.         Cần thiết phải có những cố gắng tích cực được đảm bảo cho các bên ký kết chậm phát triển hơn có được một
phần trong sự tăng trưởng của thương mại quốc tế tương xứng với sự cần thiết phát triển kinh tế của họ.
 
4.         Do vì nhiều bên ký kết chậm phát triển vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu những sản phẩm sơ cấp*, cần đảm bảo
cho các sản phẩm này những điều kiện thuận lợi và có thể chấp nhận được để thâm nhập thị trườg thế giới trong
chừng mực có thể và nếu có thể, nghiên cứu các biện pháp nhằm ổn định và cải thiện tình hình thị trường thế giới
các sản phẩm này, đặc biệt là các biện pháp nhằm ổn định giá cả ở mức bù đắp thích đáng, cho phép mở rộng
thương mại thế giới, và mở rộng nhu cầu, và tạo sự tăng trưởng năng động và liên tục  cho thu nhập xuất khẩu thực
tế của các nước này, cho phép các nước đó ngày càng có nhiều nguồn phục vụ cho phát triển kinh tế.
 
5.         Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của các bên ký kết chậm phát triển sẽ được thuận lợi hơn nhờ các biện
pháp đa dạng hoá* cơ cấu kinh tế và tránh sự phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp. Do vậy cần
bảo đảm đến mức cao nhất có thể, và trong những điều kiện thuận lợi, cơ hội xâm thị tốt hơn cho các sản phẩm chế
biến và chế tác mà các nước kém phát triển hơn có quyền lợi hoặc có thể quan tâm xuất khẩu.
 
6.         Vì các bên ký kết kém phát triển hơn thiếu nghiêm trọng thu nhập ngoại tệ cũng như các nguồn thu khác, có
sự liên quan chặt chẽ giữa thương mại và viện trợ phát triển. Do vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ và thường xuyên
giữa Các Bên Ký Kết và các tổ chức quốc tế cho vay nhằm đóng góp có hiệu quả nhất làm giảm nhẹ gánh nặng của
các bên ký kết kém phát triển hơn để phát triển kinh tế của các nước này.
 
7.         Cần có sự phối hợp giữa Các Bên Ký Kết, các tổ chức liên chính phủ khác và các cơ quan và các thể chế
thuộc Liên hợp Quốc hoạt động trong những lĩnh vực liên quan tới phát triển thương mại và kinh tế của các nước
kém phát triển hơn.
 
8.         Các bên ký kết phát triển không chờ đợi sự đãi ngộ đối đẳng khi cam kết trong đàm phán thương mại, qua
giảm bớt hay triệt tiêu thuế quan và các trở ngại khác với thương mại của các bên ký kết kém phát triển hơn.
 
9.         Các bên ký kết sẽ cố gắng có ý thức và kiên quyết tự mình hành động cũng như hành động tập thể nhằm thực
thi những nguyên tắc và mục tiêu nêu trên.
 
Điều XXXVII
 
Cam kết
 
1.         Các bên ký kết phát triển trong chừng mực có thể - có nghĩa là trừ khi có lý do bắt buộc ngăn cản, có thể bao
gồm cả những lý do pháp lý- sẽ làm hết sức mình đẻ thực hiện các quy định sau:
 
a)       dành ưu tiên cao cho việc giảm và triệt tiêu các trở ngại với thương mại các sản phẩm hiện nay hay
có thể sau này đặc biệt được các bên ký kết kém phát triển hơn quan tâm, kể cả thuế quan hay các
hạn chế khác tạo nên sự khác biệt phi lý giữa sản phẩm sơ cấp và cũng các sản phẩm đó đã chế
biến;*
         
b)      Tự kiếm chế việc đặt ra thêm hay tăng thêm thuế quan hoặc các trở ngại phi thuế với nhập khẩu các
sản phẩm mà hiện nay hay có thể sau này đặc biệt được các bên ký kết kém phát triển hơn quan tâm
xuất khẩu;
 
            c)      (i)            Tự kiềm chế việc đặt ra các biện pháp thuế khác,
 
(ii)          trong khi điều hành cơ chế thuế dành sự ưu tiên cao cho việc giảm hay triệt tiêu các biện
pháp thu hiện hành,
 
                        có thể dẫn tới giảm bớt hay kìm hãm đáng kể sự phát triển nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm sơ cấp
hay đã chế biến xuất xứ toàn bộ hay một phần từ lãnh thổ các bên ký kết kém phát triển hơn, khi các biện
pháp đó được áp dụng riêng với các sản phẩm này.
 
2.         a)          Khi thấy một trong những quy định của điểm a), b) hay c) của khoản đầu tiên không đem kết quả,
hoặc bên ký kết không thực thi các quy định tương ứng với khả năng hoặc bất kỳ một bên ký kết nào khác
sẽ báo cho Các Bên Ký Kết biết.
 
b)         i)          Theo yêu cầu của bất kỳ bên ký kết nào quan tâm và không phụ thuộc vào các tham vấn
song biên có thể đang được tiến hành, Các Bên Ký Kết sẽ tiến hành tham vấn về chủ đề nói trên
với bên ký kết hữu quan và với bất kỳ bên ký kết nào quan tâm nhằm đạt tới một giải pháp thoả
đáng cho tất cả các bên ký kết hữu quan, để thực hiện các mục tiêu nêu tại điều XXXVI. Trong khi
tiến hành tham vấn, Các Bên sẽ xem xét những lý do được đưa ra cho trường hợp các quy định nêu
tại điểm a), b) hay c) của khoản đầu tiên không đem lại kết quả,
 
            ii)          Do vì việc các bên ký kết hành động riêng lẻ để thực thi những quy định của điểm a), b)
hay c) của khoản đầu tiên, trong một số trường hợp có thể  sẽ dễ dàng hơn khi có một hành động
tập thể tiến hành chung với các bên ký kết khác đã phát triển, khi thấy thích hợp có thể tổ chức
tham vấn để đạt tới mục tiêu nói trên.
 
            iii)         Khi thấy thích hợp, tham vấn giữa Các Bên Ký Kết cũng có thể nhằm thực hiện một thoả
thuận về hành động tập thể để đạt được những mục tiêu của Hiệp định này, như đã dự kiến tại
khoản đầu tiên của điều XXV.
 
3.         Các bên ký kết đã phát triển sẽ:
 
(a)        làm hết sức mình nhằm duy trì chênh lệch thương mại ở mức thoả đáng trong những trường hợp giá
bán những hàng hoá được sản xuất toàn bộ hay một phần tại lãnh thổ cuả các bên ký kết kém phát triển hơn do chính
phủ trực tiếp hoặc gián tiếp định đoạt;
 
(b)        tích cực nghiên cứu áp dụng các biện pháp* có tác dụng mở rộng khả năng tăng nhập khẩu từ các bên ký kết
kém phát triển hơn và phối hợp hành động quốc tế thích hợp nhằm mục đích này.
 
(c)        nhìn nhận một cách đặc biệt quyền lợi thương mại của các bên ký kết kém phát triển hơn khi chuẩn
bị áp dụng những biện pháp khác để giải quyết những vấn đề riêng biệt được Hiệp định này này cho phép, đồng thời
khai thác mọi khả năng khắc phục có tính chất xây dựng trước khi thực thi các biện pháp nói trên, nếu đấy là những
biện pháp có thể làm tổn hại tới quyền lợi cơ bản của các bên ký kết kém phát triển hơn.
 
4.         Mỗi bên ký kết kém phát triển hơn chấp nhận tiến hành các biện pháp thích hợp để thực hiện các quy định
của Phần IV vì quyền lợi của các bên ký kết khác cũng kém phát triển hơn, trong chừng mực những biện pháp đó
tương thích với nhu cầu hiện nay cũng như trong tương lai vì sự phát triển, khả năng tài chính và nền thương mại
của mình, có tính đến diễn tiến của trao đổi thương mại trong quá khứ cũng như quyền lợi thương mại tổng thể của
các bên ký kết kém phát triển hơn.
 
5.         Khi thực thi những cam kết đã nêu tại các khoản từ 1 đến 4, mỗi bên ký kết sẽ nhanh chóng dành cho bất kỳ
một hay nhiều bên ký kết nào khác có quan tâm mọi thuận lợi trong  tham vấn theo các thủ tục thông thường của
Hiệp định này về bất kỳ vấn đề nào hay bất kỳ khó khăn nào có thể phát sinh.
 
Điều XXXVIII
 
Hành động tập thể
 
1.         Các bên ký kết khi hành động tập thể sẽ phối hợp trong khuôn khố cũng như bên ngoài Hiệp định này, tuỳ
hoàn cảnh thích hợp, nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu đã nêu tại Điều XXXIV.
 
2.         Đặc biệt, Các Bên Ký Kết sẽ phải:
 
a)    trong những trường hợp thích hợp, hành động thông qua thoả thuận quốc tế nhằm đảm bảo những điều
kiện xâm thị tốt nhất có thể chấp nhận được dành cho các sản phẩm sơ cấp mang ý nghĩa đặc biệt với
các bên ký kết kém phát triển hơn và nhằm xem xét những biện pháp nhằm ổn định và và cải thiện
tình hình thị trường những sản phẩm này trên thế giới, kể cả các biện pháp nhằm vào ổn định giá cả
xuất khẩu các sản phẩm đó ở mức công bằng và bù đắp thoả đáng.
 
b)    cố gắng phối hợp thích đáng với Liên hợp Quốc cũng như các cơ quan và tổ chức thuộc Liên hợp
Quốc, kể cả các thể chế có thể sẽ được lập ra theo khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp Quốc về
Thương mại và Phát triển trong hoạch định chính sách thương mại và chính sách phát triển;
 
c)    phối hợp trong phân tích cả kế hoạch và chính sách phát triển của từng nước trong các bên ký kết kém
phát triển hơn và xem xét mối quan hệ giữa thương mại và viện trợ, nhằm đưa ra những biện pháp cụ
thể tạo thuận lợi cho việc phát triển các tiềm năng xuất khẩu và tạo thuận lợi cho các sản phẩm thuộc
các ngành mới được mở rộng có cơ hội xâm thị và phối hợp thích đáng với các chính phủ và các tổ
chức quốc tế có thẩm quyền về tài trợ cho phát triển kinh tế về mặt này để tiến hành ngiên cứu có hệ
thống mối quan hệ giữa thương mại và viện trợ cho từng bên ký kết kém phát triển hơn riêng biệt
nhằm xác định rõ tiềm năng xuất khẩu, triển vọng thị trường và bất kỳ hành động nào có thể được yêu
cầu;
 
d)    thường xuyên theo dõi diễn biến của thương mại quốc tế, đồng thời nắm chắc tỷ lệ tăng trưởng thương
mại của các bên ký kết kém phát triển hơn và có những khuyến nghị thích hợp với hoàn cảnh với các
bên ký kết;
 
e)    phối hợp tìm kiếm những phương pháp thực tế để mở rộng thương mại nhằm phát triển kinh tế qua hài
hoà và quy hoạch trên quy mô quốc tế về chính sách và quy tắc quốc gia bằng cách áp dụng các chỉ
tiêu kỹ thuật và thương mại trong sản xuất, vận tải, và thương mại hoá cũng như xúc tiến xuất khẩu
nhờ việc tạo nên một cơ chế cho phép đẩy mạnh phổ biến thông tin thương mại và nghiên cứu thị
trường; và
 
f)     đưa ra những thoả thuận về thể chế có thể cần thiết để đạt được những mục tiêu đã nêu tại điều
XXXVI và thực thi các quy định của Hiệp định này.

Phụ lục A
 
Danh mục những lãnh thổ đã nêu tại
điểm (A) khoản 2 Điều khoản đầu tiên
 
Vương quốc Anh và Bắc Ai-len
Các lãnh thổ phụ thuộc vào Vương quốc Anh và Bắc Ai-len
Ca-na-đa
Liên Bang úc và các lãnh thổ phụ thuộc vào Liên Bang úc
Tân Tây lan và các lãnh thổ phụ thuộc vào Tân Tây lan
Liên Hiệp Nam Phi kể cả Tây Nam Phi
Ai- len
ấn độ (kể từ ngày 10 tháng 4 năm 1947)
Đất mới
Nam Rhodesia
Miến điện
Xây- lan
 
            Trong một số lãnh thổ nêu trên, có tồn tại hai hay nhiều thuế xuất ưu đãi áp dụng với một vài sản phẩm.
Thông qua thoả thuận với các bên ký kết là bên cung cấp chủ yếu các sản phẩm nói trên trong số các bên được
hưởng suất thuế đãi ngộ tối huệ quốc, các lãnh thổ này có thể thay thế các ưu đãi đó bằng một thuế suất ưu đãi duy
nhất mà về tổng thể không kém thuận lợi hơn cho các bên cung cấp được hưởng sự đãi ngộ này so với trước khi có
sự thay thế đó.
 
            Việc chuyển một biên độ ưu đãi thuế quan tương ứng sang một khoản thuế hay khoản thu khác thay cho biên
độ ưu đãi đã có trong chế độ thuế trong nước, có hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 chỉ áp dụng riêng giữa các
hai hay nhiều lãnh thổ đã nêu trong  phụ lục này sẽ không được coi là một sự tăng mức độ ưu đãi thuế quan.
 
            Những thoả thuận ưu đãi nêu tại khoản 5 b) điều XIV là những thoả thuận có hiệu lực tại Vương Quốc Anh
vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 theo tinh thần các hiệp định đã ký với Ca-Na-đa, úc và Niu-di-lân về thịt bò siêu
đông và cấp đông, thịt cừu và dê siêu đông, thịt lợn siêu đông và cấp đông, và mỡ. Đã có dự kiến, không làm tổn hại
đến bất kỳ một biện pháp nào thi hành điểm h) điều XX, là những thoả thuận này sẽ được triệt tiêu hay thay thế bằng
ưu đãi thuế quan và việc đàm phán sẽ được các nước liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến những sản phẩm này tiến
hành sớm nhất có thể.
 
            Thuế (nội địa) áp dụng với việc thuê phim có hiệu lực tại Niu di lân vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, đề thực
hiện Hiệp định này sẽ được coi là một khoản thuế quan theo nội dung điều thứ nhất. Hạn chế số lượng áp dụng với
những người cho thuê phim ở Niu-di-lân vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, để áp dụng Hiệp định này, sẽ được coi hạn
mức trình chiếu tại điều khoản IV.
 
            Vùng Dominion của ấn Độ và Pa-kit-xtan không được nêu riêng biệt trong danh mục nêu trên, vì các vùng
đó chưa tồn tại độc lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1947.
 
 
Phụ lục B
 
Danh mục những lãnh thổ thuộc liên hiệp PHáp nêu tại điểm b) khoản 2 điều khoản đầu tiên
 Pháp
Phi xích đạo thuộc Pháp (lòng chảo thoả thuận của Congo và lãnh thổ khác)
Đông phi thuộc Pháp
Ca-mê-run dưới sự bảo trợ của Pháp
Bờ biển Sô-ma-li thuộc Pháp và những lãnh thổ phụ thuộc
Những  lãnh thổ thuộc Pháp tại Châu Đại Dương
Những  lãnh thổ thuộc Pháp tại Công- đô-ni vùng Hebride
Đông Dương
Ma-đa-gat-ca và những lãnh thổ phụ thuộc
Ma-rốc
Ca-le-đô-ni mới và lãnh thổ phụ thuộc
Vùng Thánh Pi-e và Mi-cơ-lông
Tô-gô dưới sự bảo trợ của Pháp
Tuy-ni-di
 
 

 
Phụ lục C
 
Danh mục những lãnh thổ nêu tại điểm 2b) điều khoản đầu tiên về liên minh quan thuế giữa Bỉ, Lục-xâm-bảo và hà-
lan
 
Liên minh kinh tế Bỉ-Lúc xăm bua
Côn-gô thuộc Bỉ
Ru-an-đa-U-run-đi
Hà lan
Tân Gui-nê
Su-ri-nam
Quần đảo An-ti thuộc Hà lan
Cộng hoà In-đô-nê-xi-a
Chỉ áp dụng với nhập khẩu vào những lãnh thổ hợp thành Liên minh Quan thuế.
 
 
Phụ lục D
 
Danh mục những lãnh thổ nêu tại khoản  2b)  điều khoản đầu tiên liên quan tới Hoa Kỳ
 
Hoa kỳ (lãnh thổ quan thuế)
Những lãnh thổ phụ thuộc vào Hoa kỳ
Cộng hoà Phi-lip-pin
 
            Việc chuyển một biên độ ưu đãi thuế quan tương ứng sang một khoản thuế hay khoản thu khác thay cho biên
độ ưu đãi đã có trong chế độ thuế trong nước, có hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 chỉ áp dụng riêng giữa các
hai hay nhiều lãnh thổ đã nêu trong  phụ lục này sẽ không được coi là một sự tăng mức độ ưu đãi thuế quan.
 
 
 
 
 
 
 
 
Phụ lục E
 
Danh mục những lãnh thổ có hiệp định ưu đãi giữa Chi-lê và các nước láng giềng nêu tại khoản  2d)  điều khoản đầu
tiên
 
Ưu đãi chỉ có hiệu lực riêng giữa một bên là Chi-lê và một bên là
 
1.         Ac-hen-ti-na
2.         Bô-li-vi-a
3.         Pê-ru
 
 
Phụ lục F
 
Danh mục những lãnh thổ có hiệp định ưu đãi giữa Li-bi và liban với các nước láng giềng nêu tại khoản  2d)  điều
khoản đầu tiên
 
 
            Ưu đãi chỉ có hiệu lực riêng giữa một bên là liên minh quan thuế Li-ban-Sy-ri và một bên là
 
1.         Pa-let-xtin
 
2.         Jóc-da-ni         
 
 
Phụ lục G
 
Ngày cụ thể để xác định biên độ ưu đãi tối đa nêu tại khoản 4 điều khoản đầu tiên
 
 

Úc ...................................................................................... 15 tháng 10 năm 1946

Ca-na-đa ............................................................................ 1 tháng 7 năm 1939

Pháp ............................................................. ..................... 1 tháng 1 năm 1939

Nam Ro-đê-di .................................................................... 1 tháng 5 năm 1941

Liên minh quan thuế Li-băng-Sy-ri.............. ..................... 30 tháng 10 năm 1939

Liên hiệp Nam phi ............................................................. 1 tháng 7 năm 1938

Nam Rho-de-si-a 1 tháng 5 năm 1941

 
 
 
Phụ lục H
 
Tỷ lệ phần trăm tổng lượng thương mại dùng để tính phần trăm như đã quy định tại điều XXVI
(trung bình của thời kỳ năm 1949-1953)
 
 
            Nếu, trước khi Chính phủ Nhật bản gia nhập Hiệp định Chung, Hiệp định này đã được các bên ký kết có
khối lượng thương mại như nêu tại cột 1 thể hiện mức phần trăm thương mại xác định tại khoản 6 điều XXVI, cột 1
sẽ có giá trị để thi hành quy định của khoản đã nêu. Nếu Hiệp định này không được chấp nhận như nêu trên trước
khi Chính phủ Nhật bản gia nhập, cột II sẽ có giá trị để thi hành quy định của khoản đã nêu.
 

  Cột I Cột II
(bên ký kết  1/3/ (1/3/1955 và Nhật
1955) bản)

Úc 3,1 3,0

Áo 0,9 0,8

Bỉ-Lúc xăm bua 4,3 4.2

Miến-điện 0,3 0,3

Bra-sil 2,5 2,4


Canada 6,7 6,5

Xây-lan 0,5 0,5

Chi-lê 0,6 0,6

Cuba 1,1 1,1

Đan-mạch 1,4 1,4

Hoa kỳ 20,6 20,1

Phần-lan 1,0 1,0

Đức (Liên bang) 5,3 5,2

Pháp 8,7 8,5

Hy lạp 0,4 0,4

Ha-i-ti 0,1 0,1

ấn độ 2,4 2,4

In-đô-nê-si-a 1,3 1,3

I-ta li-a 2,9 2,8

Nicaragua 0,l  0,l

Na-uy 1,1 1,1

Niu-di-lân 1,0 1,0

Pakistan 0,9 0,8

Hà lan 4,7 4,6

Pê-ru 0,4 0,4

Cộng hoà Đô-mi-níc 0,l 0,l

Rô-đê-di và Ny-a-sa-lan 0,6 0,6

Anh (Vương Quốc) 20,3 19,8

Thuỵ điển 2,5 2,4

Tiệp khắc 1,4 1,4

Thổ nhĩ kỳ 0,6 0,6

Liên hiệp Nam phi 1,8 1,8


Uruguay 0,4 0,4

Nhật bản - 2,3

  _____ _____

                                        100,0 100,0

 
Ghi chú: các tỷ lệ trên được tính toán có tính đến thương mại của mọi lãnh thổ mà Hiệp định chung có hiệu lực thi
hành.

Phụ lục I
 
Ghi chú và các quy định bổ sung
 
Bổ sung điều khoản đầu tiên
 Khoản đầu tiên
 
            Nghĩa vụ nêu tại khoản đầu tiên điều khoản đầu tiên có tham chiếu khoản 2 và khoản 4 của điều III cũng như
các nghĩa vụ nêu tại điểm 2 b)  điều II có tham chiếu điều VI sẽ được coi là bộ phận của Phần II nhằm thực hiện Nghị
định thư về việc tạm thời áp dụng Hiệp định chung.
 
            Những tham chiếu tới các khoản 2 và 4 điều III, nêu trong khoản trên cũng như khoản đầu tiên của điều khoản
đầu tiên, sẽ chỉ được áp dụng khi điều III đã được điều chỉnh bằng việc điều chỉnh đã dự kiến tại Nghị định thư có nội
dung sửa đổi phần II và sửa đổi điều XXVI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại ký ngày 14 tháng 9 năm
1948 (10) có hiệu lực.
 
Bổ sung điều khoản đầu tiên Khoản 4
 
            Thuật ngữ "biên độ ưu đãi" được hiểu là sự khác biệt tuyệt đối giữa suất thuế quan áp dụng theo đãi ngộ tối huệ
quốc - MFN và thuế suất ưu đãi áp dụng với cùng một sản phẩm, mà không phải tương quan giữa hai thuế suất. Lấy ví
dụ:
 
1)    Nếu thuế suất thuộc đãi ngộ tối huệ quốc - MFN là 36% trị giá gia tăng và thuế suất theo đãi ngộ ưu đãi là
24% trị giá gia tăng, biên độ ưu đãi ở trường hợp này sẽ là 12% trị giá gia tăng chứ không phải là một
phần ba của đãi ngộ tối huệ quốc.
 
2)    Nếu thuế suất thuế quan theo đãi ngộ tối huệ quốc - MFN là 36% và thuế suất ưu đãi được ghi là hai phần
ba của đãi ngộ tối huệ quốc, biên độ ưu đãi ở đây được hiểu là 12% trị giá gia tăng.
 
3)    Nếu thuế quan theo đãi ngộ tối huệ quốc - MFN ở mức 2,00FF trên một kg và thuế ưu đãi là 1,5FF trên
một kg, biên độ ưu đãi sẽ là 0.5FF trên một kg.
 
            Các biện pháp hải quan sau đây, áp dụng đúng theo thủ tục thống nhất đã định, sẽ không được coi là trái với
cam kết mức biên độ ưu đãi tối đa:
 
i)     tái áp dụng với một sản phẩm nhập khẩu một hạng mục phân loại thuế hay một thuế suất thông thường áp
dụng với sản phẩm đó, trong những trường hợp việc áp dụng  mức phân loại hay thuế suất đó đã được
tạm ngừng vào ngày 10 tháng 4 năm 1947;
 
ii)     Phân loại một sản phẩm theo một dòng thuế khác với dòng thuế áp dụng cho sản phẩm đó vào ngày 10
tháng 4 năm 1947 trong trường hợp hệ thống lập pháp có quy định rõ ràng rằng sản phẩm đó có thể được
phân loại theo nhiều dòng thuế.
 
 
Bổ sung Điều II
 Khoản 2 a)
 
            Việc tham chiếu tới khoản 2 điều III nêu tại khoản 2 a)  điều II chỉ được áp dụng khi điều III đã được sửa đổi
với sự điều chỉnh đã dự kiến trong Nghị định thư có nội dung sửa đổi Phần II và sửa đổi điều XXVI của Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại GATT ký ngày 14 tháng 9 năm 1948 (11) đã có hiệu lực.
 
Khoản 2 b) 
 
            Xem phần ghi chú về khoản đầu tiên của điều khoản đầu tiên.
 
Khoản 4
 
            Trừ khi có thoả thuận khác rõ ràng của các bên ký kết đã đàm phán các nhân nhượng thuế quan ban đầu, các
quy định của khoản 4 sẽ được áp dụng có tính đến các quy định của điều 31 Hiến chương Havana.
 
 
Bổ sung Điều III
 
            Mọi khoản thuế hay khoản thu nội địa hoặc mọi luật lệ, quy tắc hoặc quy định nêu tại khoản đầu tiên, áp dụng
với sản phẩm nhập khẩu cũng như với sản phẩm nội tương tự và được đánh -với sản phẩm nhập khẩu- vào lúc và tại
nơi nhập khẩu không vì thế mà không được coi là một khoản thuế hay khoản thu nội địa hoặc mọi luật lệ, quy tắc hoặc
quy định nêu tại khoản đầu tiên và do vậy sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định của điều III.
 
Khoản 1
 
            Việc áp dụng khoản đầu tiên vào thuế nội địa được các chính phủ hay chính quyền địa phương của các lãnh thổ
một bên ký kết áp dụng được điều chỉnh bởi các quy định của khoản cuối cùng điều XXIV. Thuật ngữ "các biện pháp
hợp lý trong quyền hạn của mình" không được hiểu, ví dụ, là buộc các bên ký kết lẩn tránh nền lập pháp quốc gia đang
cho phép các chính quyền địa phương quyền được đánh những khoản thuế nội địa xét về hình thức thì trái với lời văn
điều khoản đó mà về nội dung trong thực tế lại không trái với tinh thần điều khoản đó, nếu sự lẩn tránh đó sẽ dẫn đến
những khó khăn tài chính nặng nề cho chính phủ và chính quyền địa phương liên quan. Với những khoản thuế do các
chính phủ và chính quyền địa phương thu trái với điều III cả về câu chữ và tinh thần, thuật ngữ "các biện pháp hợp lý
trong quyền hạn của mình" cho phép một bên ký kết triệt tiêu từng bước các khoản thuế này trong thời kỳ chuyển đổi,
nếu triệt tiêu ngay có thể gây ra những khó khăn về hành chính và tài chính.
 
Khoản 2
 
            Một khoản thuế thoả mãn các quy định tại câu đầu tiên khoản 2 chỉ coi là không tương thích với câu thứ hai
trong trường hợp có sự cạnh tranh giữa một bên là sản phẩm và bên kia là một sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hay một
sản phẩm có thể trực tiếp thay thế nhưng lại không  phải chịu một khoản thuế tương tự.
 
Khoản 5
 
            Một quy tắc tương thích với các quy định của câu đầu tiên của khoản 5 sẽ không được coi là trái với các quy
định tại câu thứ hai nếu  nước áp dụng quy tắc đó có sản xuất với số lượng đáng kể mọi sản phẩm và các sản phẩm đó
đều phải chịu khoản thuế đó. Không thể viện dẫn rằng trong khi phân định những phần tỷ lệ hay số lượng xác định cho
mỗi sản phẩm chịu sự điều chỉnh của quy tắc, người ta đã duy trì một tương quan thoả đáng giữa sản phẩm nhập khẩu
và các sản phẩm nội địa, để bảo vệ rằng một quy tắc đã đáp ứng các quy định tại câu thứ hai.
 
Bổ sung điều V
 
Khoản 5
 
            Liên quan tới chi phí vận tải, nguyên tắc nêu tại  khoản 5 áp dụng với những sản phẩm tương tự được vận
chuyển cùng một lịch trình và trong những điều kiện như nhau.
 
Bổ sung điều VI
 
Khoản 1
 
1.         Việc các doanh nghiệp thông đồng bán phá giá (có nghĩa là nhà nhập khẩu bán hàng với giá hàng tương ứng
với giá ghi trên hoá đơn xuất khẩu của nhà xuất khẩu có liên kết với nhà nhập khẩu, và giá xuất khẩu đó vẫn thấp hơn
giá thực tế tại nước xuất khẩu) là một hình thức bán phá giá; với loại hình này, biên độ phá giá có thể được tính toán
dựa trên giá bán lại sản phẩm tại nước nhập khẩu.
 
2.         Thừa nhận rằng trong trường hợp nhập khẩu từ một nước mà thương mại hoàn toàn mang tính chất độc quyền
hay hầu như độc quyền hoặc toàn bộ giá trong nước do Nhà nước định đoạt, việc xác định tính so sánh của giá cả nhằm
mục đích nêu tại khoản đầu tiên có thể có những khó khăn đặc biệt và trong những trường hợp đó, các bên ký kết là
bên nhập khẩu có thể thấy cần tính đến khả năng rằng việc so sánh chúnh xác với giá cả trong nước của nước đó không
phải lúc nào cũng thích đáng.
 
Khoản 2 và 3
 
1.         Lý do là trong thực tế hải quan thường xảy ra việc một bên ký kết có thể đòi hỏi có sự đảm bảo hợp lý (bảo lãnh
hay đặt cọc bằng tiền để thanh toán thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng trong khi chờ kết quả điều tra cuối cùng
theo thực tế, khi nghi ngờ có bán phá giá hay trợ cấp.
 
2.         Việc thực hành đa tệ trong một số trường hợp có thể dẫn đến trợ cấp cho xuất khẩu và có thể là đối tượng đánh
thuế đối kháng theo các điều khoản tại khoản 3, hay tạo nên một hình thức bán phá giá thông qua chỉ phá giá  một phần
đồng tiền của một nước, và có thể là đối tượng đều chỉnh của các biện pháp nêu tại khoản 2. Thuật ngữ "thực hàmh đa
tệ" nhằm vào những thực hành được chính phủ áp dụng hay chấp nhận cho áp dụng.
 
Khoản 6 b)
 
            Mọi sự khiển trách các quy định tại khoản 6 b)  sẽ chỉ được xem xét theo của bên ký kết có đề nghị đánh thuế
chống bán phá giá hay thuế đối kháng.
 
Bổ sung điều VII
 
Khoản 1
 
            Thuật ngữ "những khoản thuế khác" sẽ không được coi là bao gồm cả những khoản thuế nội địa hay thuế tương
ứng thu vào thời điểm nhập khẩu hay liên quan tới nhập khẩu.
 
Khoản 2
 
1.         Sẽ được coi là đáp ứng yêu cầu của điều VII khi kết luận rằng "giá trị thực" có thể thể hiện bằng giá ghi trên
hoá đơn, có bổ sung mọi yếu tố tương ứng chính đáng không tính trên giá ghi hoá đơn và thực sự tạo nên những kết cấu
của "giá trị thực", cũng như mọi khoản chiết khấu không bình thường tính theo giá thông thường cạnh tranh.
 
2.         Một bên ký kết tuân thủ đúng điểm 2 b)  điều VII khi hiểu thuật ngữ "theo tiến trình  thương mại thông thường
trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ" như là ngoại trừ mọi giao dịch trong đó người mua và người bán không độc lập với
nhau và giá cả không phải là điều kiện duy nhất.
 
3.         Quy tắc "những điều kiện cạnh tranh đầy đủ" cho phép một bên ký kết không xem xét giá bán trong đó gồm có
những chiết khấu đặc biệt chỉ dành cho các đại diện toàn quyền.
 
4.         Nội dung cáđiểm a) và b) cho phép các bên ký kết xác định trị giá thuế quan một cách thống nhất hoặc 1) trên
cơ sở giá của một nhà xuất khẩu riêng biệt của hàng nhập khẩu, hoặc 2) trên cơ sở mức giá chung của các sản phẩm
tương tự.
 
 
Bổ sung Điều VIII
 
1.         Trong khi điều VIII không bao trùm việc sử dụng đa tỷ giá hối đoái theo đúng nghĩa của nó, khoản 1 và khoản
4 lên án việc sử dụng phí và thu đánh vào tỷ giá như là một công cụ để sử dụng đa tỷ giá. Tuy nhiên nếu một bên ký kết
sử dụng phí đa tỷ giá để thăng bằng cán cân thanh toán và đã được Quỹ tiền tệ quốc tế chấp nhận, các quy định tại
khoản  9(a) của Điều XV vẫn bảo vệ trọn vẹn cho sự vận dụng của bên ký kết đó.
 
2.         Sẽ được coi là phù hợp các quy định của khoản 1 nếu khi hàng được nhập khẩu từ lãnh thổ của một bên ký kết
vào lãnh thổ của một bên ký kết khác, việc yêu cầu xuất trình cấp chứng nhận xuất xứ chỉ được  đặt ra ở mức thật sự
cần thiết.
 
 
Bổ sung điều XI, XII, XIII, XIV và XVIII
 
            Trong các Điều XI, XII, XIII, XIV và XVIII, các thuật ngữ "hạn chế nhập khẩu" hay "hạn chế xuất khẩu" cũng
nhằm vào các hạn chế được thi hành thông qua các hoạt động của thương mại nhà nước.
 
 
Bổ sung điều XI
 
Khoản 2 c)
 
            Thuật ngữ " nhập khẩu dưới bất cứ hình thức nào "phải được hiểu là áp dụng với những sản phẩm như nhau,
còn đang ở giai đoạn chế biến ít, dễ hư hỏng, trực tiếp cạnh tranh với những sản phẩm tươi sống và nếu các sản phẩm
đó được tự do nhập khẩu, có xu hướng làm cho các hạn chế được áp dụng với sản phẩm tươi sống mất hiệu lực trong
thực tế.
 
Khoản 2 điểm cuối cùng
 
            Thuật ngữ "nhân tố đặc biệt" bao gồm sự biến động năng xuất liên quan tới sản phẩm nội và ngoại, nhưng
không phải sự biến động nhân tạo liên quan tới những phương tiện khác mà hiệp định không chi phối.
 
Bổ sung điều XII
 
            Các Bên Ký Kết sẽ áp dụng mọi biện pháp hữu ích để đảm bảo rằng các cuộc tham vấn tiến hành theo quy định
của điều khoản này được đảm bảo bí mật.
 
Khoản 3 c) i)
 
            Các bên ký kết đang áp dụng những hạn chế có nghĩa vụ cố gắng tránh gây ra tổn hại nặng cho xuất khẩu một
sản phẩm sơ cấp mà nền kinh tế cuả một bên ký kết phụ thuộc nhiều.
 
Khoản 4 b)
 
            Thoả thuận rằng ngày đó sẽ nằm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày những điều chỉnh của điều khoản này nêu
trong Nghị định thư có nội dung điều chỉnh khoản mở đầu và các Phần II và  III của Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực.
Tuy nhiên, nếu Các Bên Ký Kết cho rằng trong những điều kiện vào thời điểm dự kiến không thích hợp với áp dụng 
các quy định của điều khoản này, Các Bên có thể định ra một ngày trong tương lai sau đó; tuy nhiên ngày mới xác
định này phải nằm trong vòng 30 ngày kể từ cuối thời hạn mà nghiã vụ nêu tại mục 2, 3, 4 điều VIII Điều lệ Quỹ Tiền
Tệ Quốc tế (IMF) quy định được áp dụng cho các bên ký kết là Thành viên của Quỹ có tổng khối lượng thương mại
của họ chiếm ít nhất là một nửa tổng khối lượng thương mại của các bên ký kết.
 
Khoản 4 c)
 
            Được thoả thuận là đọan 4 a) không đặt ra thêm chỉ thức nào cho việc định ra hay duy trì các hạn chế số lượng
nhằm bảo hộ thăng bằng cán cân thanh toán. ở đây chỉ đảm bảo rằng khi mọi nhân tố bên ngoài như là những thay đổi
trong điều kiện, điều khoản trao đổi thương mại hạn chế số lượng, thuế quan quá cao và trợ cấp là những nhân tố có thể
góp phần làm mất thăng bằng cán cân thanh toán của bên ký kết đang áp dụng hạn chế được tính toán đến một cách đầy
đủ.
 
Bổ sung điều XIII
 
Khoản 2 d)
 
            Các bên đã không chấo nhận sự xem xét mang tính chất thương mại như là một chỉ tiêu phân bổ hạn nghạch,
bởi vì không phải lúc nào các chính phủ cũng có thể dựa vào những đánh giá này. Mặc khác, trong những trường hợp
có thể vận dụng cách làm này, một bên ký kết có thể vận dụng tiêu thức này khi cần đạt đến một thỏa thuận, phù hợp
với quy tắc chung nêu tại câu đầu tiên khoản 2.
 
Khoản 4
 
            Xem bị chú về các "nhân tố đặc biệt", liên quan tới tiểu khoản cuối cùng khoản 2 điều I.
 
Bổ sung Điều khoản XIV
 
Khoản đầu tiên
 
            Các quy định của khoản này sẽ không được hiểu như là ngăn cản Các Bên Ký Kết, trong quá trình tham vấn dự
kiến tại khoản 4 của điều XII và tại khoản 2 điều XVIII, tính toán đầy đủ đến tính chất, các tác động và lý do của mọi
sự phân biệt trong hạn chế nhập khẩu.
 
Khoản 2
 
            Một trong các trường hợp đã tính đến tại điều 2 là trường hợp một bên ký kết có nguồn tín dụng, sau một hoạt
động thương mại thông thường, nhưng sẽ không thể sử dụng được nếu không vận dụng biện pháp phân biệt đối xử.
 
 
Bổ sung điều khoản XV
 
Khoản 4
 
            Các thuật ngữ "(có thể) trái với" trước hết có ý nghĩa rằng các biện pháp kiểm soát ngoại hối sẽ có thể trái với
lời văn của một điều khoản trong Hiệp định này nếu không đi chệch quá  nhiều với tinh thần của Hiệp định sẽ không bị
coi là vi phạm Hiệp định này. Như vậy, một bên ký kết chiểu theo nội dung một trong những biện pháp kiếm soát ngoại
hối được áp dụng đúng theo Điều lệ của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) quy định hàng xuất khẩu được thanh toán bằng
nội tệ hoặc bằng đồng tiền của một trong những đồng tiền của một Nhà nước thành viên của Quỹ sẽ không vì thế bị coi
gây trở ngại với việc thực hiện các quy định của điều XI và điều XIII. Ta có thể lấy ví dụ trường hợp một bên ký kết
ghi trong giấy phép nhập khẩu hàng hoá được phép nhập từ nước nào, không hề nhằm vào phân biệt đối xử trong việc
cấp phép nhập khẩu mà  nhằm thực hiện các biện pháp được phép tiến hành trong quản lý ngoại hối.
 
Bổ sung Điều khoản XVI
 
            Việc miễn cho một sản phẩm xuất khẩu những khoản thuế đánh vào sản phẩm tương tự được tiêu dùng nội địa
hay việc hoàn trả các khoản thuế nhưng không vượt quá mức thuế phải hay đã nộp sẽ không bị coi là một khoản trơ cấp
 
điểm B
 
1.         Không một quy định nào của điểm B ngăn cản một bên ký kết áp dụng đa tỷ giá phù hợp với Điều lệ của Quỹ
Tiền Tệ Quốc tế.
 
2.         Để áp dụng điểm B, thuật ngữ "sản phẩm sơ cấp" được hiểu là bao gồm nông sản, lâm sản, sản phẩm nghề cá
và mọi khoáng sản, dù đó là một sản phẩm dưới dạng tự nhiên hay đã qua chế biến mà thương mại quốc tế đòi hỏi phải
giao dịch với số lượng lớn.
 
Khoản 3
 
1.         Việc một bên ký kết trước đây không xuất khẩu một sản phẩm được đề cập đến ở khoản này không làm mất
quyền của bên ký kết đó có được một phần trong thương mại sản phẩm này.
 
2.         Một hệ thống nhằm vào hoặc ổn định giá cả một sản phẩm sơ cấp trong nước, hoặc ổn định thu nhập của các
nhà sản xuất trong nước sản phẩm đó, độc lập với giá cả xuất khẩu- việc đó có lúc dẫn đến việc một sản phẩm được
xuất khẩu với giá thấp hơn so với giá có thể so sánh thực hành với người mua trên thị trường nội địa, sản phẩm tương
tự sẽ không được coi là một hình thức trợ cấp xuất khẩu theo nghĩa của khoản 3, nếu Các Bên Ký Kết xác định được:
 
           Không phụ thuộc vào sự xác định của Các Bên Ký Kết về vấn đề này, các biện pháp phát sinh trong thực hiện
một hệ thống như vậy sẽ được xét theo quy định của khoản 3 khi nguồn tài trợ được nhà sản xuất sản phẩm đó đóng
góp một phần hay toàn bộ, ngoài sự đóng góp của các nhà sản xuất các sản phẩm đó.
 
a)         rằng hệ thống đó cũng dẫn đến hay được lập ra theo cách để đạt tới sản phẩm này được bán xuất khẩu với giá
cao hơn giá thực hành với người mua trên thị trường nội địa, sản phẩm tương tự;
 
b)         và rằng hệ thống đó khi được vận dụng thực tế với sản xuất, hay vì bất kỳ một lý do nào khác, được áp dụng
hay lập ra theo cách không phải là để khuyến khích xuất khẩu một cách không chính đáng hay không dẫn đến sự tổn
hại nghiêm trọng nào với quyền lợi của các bên ký kết khác.
 
           
Khoản 4
 
            Đối tượng của khoản 4 là làm cho các bên ký kết cố gắng đạt được một thoả thuận chậm nhất là cuối năm 1957
để đến ngày 1 tháng 1 năm 1958 loại bỏ mọi khoản trợ cấp vẫn còn tồn tại hoặc nếu không đạt được một thoả thuận
như vậy cũng đạt được một thoả thuận về việc tiếp tục duy trì hiện trạng cho tới một ngày gần nhất trong tương lai, với
hy vọng đạt được một thoả thuận như vậy.
 
Bổ sung Điều khoản XVII
 
Khoản đầu tiên
 
            Hoạt động của các văn phòng giao dịch thương mại, hoạt động mua bán được các bên ký kết thành lập chịu sự
điều chỉnh của các quy định nêu tại các tiểu khoản a) và b).
 
            Hoạt động của các văn phòng giao dịch thương mại được các bên ký kết thành lập, không hoạt động mua bán,
nhưng có định ra những quy tắc áp dụng với thương mại tư nhân, chịu sự điều chỉnh của các quy  định thích hợp của
Điều khoản này.
 
            Các quy định của Điều khoản này không ngăn cản một doanh nghiệp Nhà nước bán một sản phẩm với gíá khác
nhau trên những thị trường khác nhau, với điều kiện thực hành như vậy chỉ dựa vào những lý do thương mại, để đáp
ững tương quan cung-cầu trên thị trường xuất khẩu.
 
Khoản 1a)
                       
            Những biện pháp được chính phủ áp dụng nhằm đảm bảo tôn trọng những chỉ tiêu chất lượng và năng xuất nhất
định trong hoạt động thương mại, hoặc còn vì những đặc quyền trong khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia,
nhưng không cho phép chính phủ kiểm soát các hoạt động thương mại của doanh nghiệp đó sẽ không được coi là "độc
quyền hay đặc quyền thương mại".
 
Khoản 1b)
 
            Một bên ký kết được hưởng một "khoản vay đặc biệt?" có quyền được sử dụng khoản tiền vay này theo "đánh
giá thương mại" khi mua sắm sản phẩm từ nước ngoài.
 
Khoản 2)
 
            Các thuật ngữ "sản phẩm" và "hàng hoá" chỉ áp dụng với sản phẩm theo nghĩa của các thuật ngữ này trong thực
hành thương mại và không được hiểu là áp dụng với việc mua hay đặt cung cấp dịch vụ.
 
Khoản 3)
 
            Các cuộc đàm phán được các bên ký kết chấp nhận tiến hành, phù hợp với nội dung khoản này, có thể là đàm
phán về giảm thuế và các khoản thu khác với nhập khẩu và xuất khẩu hay về việc ký kết một thoả thuận nào khác thoả
đáng với các bên và phù hợp với các quy định của Hiệp định này. (xem khoản 4 của điều II và phần ghi chú liên quan
tới khoản này).
 
Khoản 4 b)
 
            Thuật ngữ "nâng giá nhập khẩu" tại khoản này chỉ phần kết cấu trong giá tại cảng xếp hàng được cơ quan độc
quyền nhập khẩu nâng lên trong xác lập giá căn cứ cho nhu cầu về sản phẩm liên quan (ngoại trừ các khoản thuế trong
nước thuộc nội dung điều III, giá thành vận tải và phân phối cũng như các chi phí khác gắn với việc bán, mua hay chế
biến thêm và một biên độ lãi hợp lý).
 
Bổ sung điều khoản XVIII
 
            Các Bên Ký Kết và các bên ký kết liên quan sẽ tuân thủ việc đảm bảo bí mật cao nhất với mọi vấn đề đặt ra
theo tại Điều khoản này.
 
1.         Khi Các Bên Ký Kết xem xét việc nền kinh tế của một bên ký kết "chỉ có thể đảm bảo một mức sống thấp", Các
Bên sẽ xem xét đến vị trí thông thường của nền kinh tế đó chứ không ra xác định trên cơ sở những hoàn cảnh ngoại lệ
chẳng hạn như những hoàn cảnh là kết quả của những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho việc xuất khẩu một sản phẩm
hay nhiều sản phẩm chính xuất khẩu của nền kinh tế này.
 
2.         Câu "trong thời kỳ đầu phát triển" không chỉ hàm ý áp dụng với các bên ký kết mới chỉ vừa bắt đầu thời kỳ phát
triển kinh tế mà cũng áp dụng với các bên ký kết có nền kinh tế đang trên một tiến trình công nghiệp hoá để khắc phục
sự phụ thuộc thái quá vào sản xuất sản phẩm sơ chế.
 
Khoản 2, 3, 7, 13 và 22)
 
            Khái niệm tạo lập một ngành sản xuất xác định nói đến ở đây không chỉ nhằm vào việc lập nên một ngành sản
xuất mới mà cả tạo lập một  ngành sản xuất trong khuôn khổ một ngành sản xuất đang tồn tại, và phát triển thêm một
bước đáng kể một ngành đang tồn tại nhưng hiện chỉ thoả mãn được nhu cầu trong nước ở mức thấp. Khái niệm cũng
nhằm vào việc xây dựng lại một ngành sản xuất đã bị huỷ hoại hay tổn thất đáng kể do những hành động thù địch hay
thiên tai.
 
Khoản 7 b)
 
            Mọi sự sửa đổi hay rút bỏ, theo khoản 7b), được một bên ký kết không phải là bên ký kết đòi hỏi áp dụng, như
nêu tại khoản 7a)  phải bắt đầu trong vòng 6 tháng kể từ ngày bên ký kết đòi hỏi thực thi biện pháp của mình, sự điều
chỉnh hay rút bỏ đó sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày Các Bên Ký Kết nhận được thông báo về việc đó.
 
Khoản 11
 
            Câu thứ hai của khoản 11 sẽ không được hiểu là buộc một bên ký kết phải giảm bớt hay loại bỏ các hạn chế nếu
việc giảm bớt hay loại bỏ lại minh chứng cho một tình huống cần tăng cường hay lập ra, tuỳ từng trường hợp, các hạn
chế theo khoản 9 của điều XVIII.
 
Khoản 12 b)
 
            Ngày nêu tại khoản 12 b) sẽ là ngày được Các Bên Ký Kết định ra phù hợp với các quy định của khoản 4 b)
điều XII của Hiệp định này.
 
Khoản 13 và 14
 
            Thừa nhận rằng trước khi đưa ra một biện pháp và thông báo biện pháp đó cho Các Bên Ký Kết, theo đúng quy
định của khoản 14, một bên ký kết có thể cần có thời gian nhất định để xác định hiện trạng của ngành sản xuất liên
quan, dưới cách nhìn cạnh tranh.
 
Đạon 15 và 16
 
            Thoả thuận rằng Các Bên Ký Kết sẽ mời một bên ký kết có đề nghị áp dụng biện pháp theo mục C cùng tham
vấn phù hợp với các quy định tại khoản 16, khi bên ký kết có nền thương mại chịu ảnh hưởng đáng kể của biện pháp
nói đến ở đây có yêu cầu.
 
Khoản 16,18, 19 và 22
 
1.         Thoả thuận rằng Các Bên Ký Kết có thể chấp nhận một biện pháp đã dự kiến với bảo lưu theo các điều kiện hay
các giới hạn đã được Các Bên chỉ ra, Nếu biện pháp được áp dụng không tuân thủ những dự kiến  được chấp nhận, sẽ
được coi là biện pháp không được Các Bên Ký Kết cho phép trong khuôn khổ hoàn cảnh dẫn tới  chấp nhận biện pháp
đó. Nếu Các Bên Ký Kết đã chấp nhận một biện pháp trong một thời gian xác định, nhưng bên ký kết liên quan thấy
rằng cần duy trì biện pháp đó thêm một thời gian để thực hiện mục tiêu đã đề ra ban đầu, bên ký kết đó có thể đề nghị
Các Bên Ký Kết kéo dài thời gian, phù hợp với các quy định và thủ tục tại khoản C và D, tuỳ từng trường hợp.
 
2.         Thông thường Các Bên Ký Kết sẽ tự kiềm chế khi góp ý trước yêu cầu cho phép áp dụng một biện pháp có khả
năng dẫn tới tổn hại nghiêm trọng đến xuất khẩu một sản phẩm mà nền kinh tế của một bên ký kết đang phụ thuộc
nhiều.
 
Khoản 18 và 22
 
            Sử dụng khoản "và quyền lợi của các bên ký kết khác đã được bảo vệ đúng mức " nhằm tạo ra một quyền
hành động đủ để xem xét xem trong mỗi trường hợp phương pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ các quyền lợi này. Ví
dụ phương pháp thích hợp nhất đó có thể mang hình thức bên ký kết đã vận dụng các quy định của mục C hay mục D
dành cho một nhân nhượng bổ sung trong thời kỳ các biện pháp trái với các quy định của Hiệp định này có hiệu lực,
hoặc bất kỳ bên ký kết nào khác nêu tại khoản 18 sẽ tạm ngừng một nhân nhượng đáng kể tương ứng với tổn hại do
việc áp dụng biện pháp đã nêu trên gây ra. Bên ký kết đó sẽ có quyền bảo hộ những quyền lợi của mình bằng cách tạm
thời ngừng áp dụng một nhân nhượng; tuy nhiên, chỉ thực thi quyền này khi, trong trường hợp một biện pháp được một
bên ký kết áp dụng trong khuồn khổ điểm a) khoản 4 được Các Bên Ký Kết xác định có mức bù đắp không thoả đáng.
 
Khoản 19
 
            Các quy định của khoản 19 được áp dụng trong trường hợp một ngành sản xuất vẫn tiếp tục tồn tại quá một
"thời hạn hợp lý" đã nêu trong bị chú liên quan tới khoản 13 và 14; các quy định này không được hiểu là tước bỏ quyền
của một bên ký kết đang trong diện nêu tại điểm a) khoản 4 điều XVIII quyên  được vận dụng các quy định khác của
mục C, kể cả các quy định của khoản 17, nói về một ngành sản xuất mới được thành lập, cho dù ngành này đã được
hưởng sự bảo hộ phụ trợ nhờ sự hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ cán cân thanh toán.
 
Khoản 21
 
            Mọi biện pháp được áp dụng theo tinh thần của khoản 21 sẽ được rút bỏ ngay lập tức nếu các biện pháp đã
được áp dụng theo các quy định của khoản 17 cũng đã được rút bỏ hoặc Các Bên Ký Kết đã đồng tình với biện pháp đã
dự kiến sau thời hạn 90 ngày đã nêu tại khoản 17.
 
Điều XX
 
điểm h)
 
            Ngoại lệ nêu tại điểm này được mở rộng ra mọi sản phẩm cơ sở phù hợp với các nguyên tắc đã được Hội đồng
kinh tế và xã hội thông qua trong nghị quyết số 30 (IV) ngày 28 tháng 3 năm 1947.
 
 
Bổ sung điều XXIV
 
Khoản 9
 
            Thoả thuận rằng, căn cứ vào các quy định của điều khoản đẩu tiên, khi một sản phẩm đã được nhập khẩu vào
lãnh thổ của một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do với thuế suất ưu đãi được tái xuất khẩu vào lãnh thổ
một thành viên khác của liên minh hay khu vực đó, thành viên này phải thu thêm một khoản thuế bằng mức chênh lệch
giữa thuế đã thu và thuế suất cao nhất lẽ ra phải đánh vào sản phẩm khi sản phẩm được nhập khẩu trực tiếp vào lãnh
thổ của mình.
 
Khoản 11
 
            Khi các hiệp định thương mại chính thức được ký kết giữa ấn độ và Pa-ki-xơ-tan, các biện pháp có thể được các
nước này áp dụng nhằm thực hiện các hiệp định này có thể trái với một số điều khoản thuộc Hiệp định này nhưng
không được trái với mục tiêu của Hiệp định.
 
Bổ sung Điều khoản XXVIII
 
            Các Bên Ký Kết và bất kỳ bên ký kết nào liên quan phải có những quy định cần thiết để đảm bảo bí mật cao
nhất trong quá trình đàm phán và tham vấn, nhằm tránh để những thông tin liên quan tới điều chỉnh thuế quan dự kiến
cho thời kỳ sắp tới bị tiết lộ khi chưa chín muồi. Các Bên Ký Kết sẽ phải được thông tin ngay về mọi sửa đổi có thể
được một bên ký kết thực hiện với biểu thuế của mình, là kết quả của việc thực hiện theo các quy định của Điều khoản
này.
 
Khoản 1
 
1.         Nếu Các Bên Ký Kết định một thời kỳ khác không phải là thời kỳ 3 năm, bất kỳ bên ký kết nào có thể vận dụng
các quy định của khoản đầu của hay khoản 3 điêù khoản XXVIII kể từ ngày tiếp theo ngày cuối cùng cuả thời kỳ khác
nói trên, và trừ khi Các Bên Ký Kết lại không định một thời kỳ khác, mọi thời kỳ tiếp theo của một thời kỳ khác được
định ra như nêu ở đây sẽ là thời kỳ 3 năm.
 
2.         Quy định nói rằng ngày 1 tháng 1 năm 1958 và kể từ những ngày khác được xác định phù hợp với khoản đầu
tiên một bên ký kết "có thể sửa đổi hay rút bỏ một nhân nhượng" phải được hiểu là vào ngày này và kể từ ngày đầu
tiên  tiếp theo ngày cuối cùng của mỗi thời kỳ nghĩa vụ pháp lý được điều II áp đặt với bên ký kết đó sẽ được sửa đổi;
quy định này không có nghĩa là các sửa đổi với biểu thuế suất nhất thiết phải có hiệu lực kể từ ngày này. Nếu việc áp
dụng các điều chỉnh thuế suất, kết quả của các cuộc đàm phán tiến hành theo điều XXVIII, được lùi lại, sự đền bù cũng
có thể được chậm thực thi.
 
3.         Dài  nhất là sáu tháng và ngắn nhất là ba tháng trước ngày 1 tháng 1 năm 1958 hoặc trước ngày kết thúc một
thời kỳ tiếp theo kể từ ngày đó, bên ký kết có đề nghị điều chỉnh hoặc rút bỏ một nhân nhượng thuộc Biểu tương ứng sẽ
phải thông báo ý định cho Các Bên Ký Kết biết. Khi đó Các Bên Ký Kết sẽ xác định bên ký kết hay các bên ký kết nào
sẽ tham gia đàm phán hay tham vấn như nêu tại khoản đầu tiên. bất kỳ bên ký kết nào đã được xác định như trên sẽ
tham gia vào các cuộc đàm phán đó hoặc tham vấn với bên ký kết có yêu cầu để đạt tới một thoả thuận trước khi kết
thúc thời kỳ đó. Mọi sự gia hạn sau này của thời kỳ củng cố các Biểu nhằm vào các Biểu đã được các cuộc đàm phán
điều chỉnh, phù hợp với khoản đầu tiên, khoản 2 và 3 của điều XXVIII. Nếu Các Bên Ký Kết có quy định các cuôc
đàm phán được tiến hành trong sáu tháng trước ngày 1 tháng 1 năm 1958 hoặc trước bất cứ ngày nào được định ra theo
Điều đầu tiên, tại quy định đó Các Bên sẽ phải dự kiến giải quyết thoả đáng các cuộc đàm phán nêu tại khoản này.
 
4.         Các quy định dự kiến việc không chỉ các bên ký kết đã đàm phán ban đầu về một nhân nhượng mà cả bất kỳ
bên ký kết nào liên quan như là nhà cung cấp chính là nhằm đảm bảo cho một bên ký kết sau này có thể nắm giữ được
một thị phần trong thương mại  một sản phẩm đã là đối tượng đàm phán nhân nhượng lớn hơn thị phần của bên ký kết
đã tham gia đàm phán ban đầu, có thể thực sự bảo vệ quyền lợi của mình theo Hiệp định chung. Ngược lại, vấn đề
không phải là mở rộng đàm phán theo cách để tạo ra những khó khăn không cần thiết cho đàm phán và đạt tới những
thoả thuận như nêu tại điều XXVIII. cũng không phải để làm phức tạp thêm trong tương lai khi áp dụng điêù khoản này
với những nhân nhượng đạt được tại các cuộc đàm phán được tổ chức phù hợp với điều khoản đó. Do vậy, Các Bên Ký
Kết chỉ thừa nhận quyền lợi của một bên ký kết như là bên ký kết chính nếu bên đó nắm giữ một thị phần, trên thị
trường của bên ký kết có yêu cầu- trong một thời kỳ hợp lý trước khi diễn ra đàm phán, lớn hơn thị phần của một bên
ký kết đã tham gia đàm phán ban đầu, hoặc lẽ ra đã có thị phần lớn hơn nếu không bị bên ký kết có yêu cầu áp dụng
những hạn chế số lượng một cách phân biệt đối sử. Do vậy, sẽ không thích đáng nếu Các Bên Ký Kết thừa nhận quá
một bên ký kết, hoặc giả khi có hai bên ký kết có vị trí hầu như ngang bằng nhau, thì không quá hai bên ký kết là nhà
cung cấp chính.
 
5.         Không phụ thuộc vào định nghĩa quyền lợi nhà cung cấp chính nêu tại bị chú 4 liên quan tới khoản đầu tiên,
Các Bên Ký Kết có thể xác định như là một ngoại lệ rằng một bên ký kết có quyền lợi như là nhà cung cấp chính nếu
nhân nhượng đó tác động đến hoạt động thương mại chiếm một phần quan trọng trong xuất khẩu của bên ký kết đó.
 
6.         Các quy định về việc bất kỳ bên ký kết nào có quyền lợi như là nhà cung cấp chính tham gia đàm phán và việc
bất kỳ bên ký kết nào có quyền lợi đáng kể với nhân nhượng mà bên ký kết đòi hỏi đề nghị điều chỉnh hay rút bỏ tham
gia tham vấn sẽ không được dẫn đến bắt buộc bên ký kết đòi hỏi phải chấp nhận một sự đền bù lớn hơn và phải chịu sự
trả đũa nghiêm khắc hơn là việc rút bỏ hay điều chỉnh đã đưa ra, căn cứ vào điều kiện thương mại vào thời điểm sự rút
bỏ hay sửa đổi đó được đưa ra và có tính đến các hạn chế số lượng mang tính phân biệt đối sử được bên ký kết có yêu
cầu áp dụng.
 
7.         Thuật ngữ "quyền lợi đáng kể" không có định nghĩa chính xác; do vậy, thuật nghữ có thể gây khó khăn cho Các
Bên Ký Kết. Tuy nhiên cần hiểu thuật ngữ này như là chỉ nói đến các bên ký kết đang nắm giữ hoặc lẽ ra sẽ có thể nắm
giữ, nếu không có các hạn chế số lượng mang tính chất phân biệt đối xử làm tổn hại đến xuất khẩu của các bên ký kết
đó, một thị phần đáng kể trên thị trường của bên ký kết đưa ra đề nghị sửa đổi hay rút bỏ nhân nhượng.
 
Khoản 4
 
1.         Mọi đề nghị được tham dự đàm phán phải kèm theo mọi số liệu và thông số cần thiết. Trong vòng 30 ngày kể
từ ngày nộp  đề nghị, Các Bên Ký Kết sẽ có quyết định về việc này.
 
2.         Thừa nhận rằng, nếu ta cho phép một số bên ký kết có mức phụ thuộc cao vào một số lượng tương đối ít các sản
phẩm cơ sở và trông đợi rất nhiều vào vai trò của thuế quan để đa dạng hoá nền kinh tế và tạo nguồn thu tài chính,chỉ
đàm phán bình thường nhằm sửa đổi hay rút bỏ nhân nhượng theo quy định của khoản đầu tiên, điều XXVIII, ta có thể
qua đó kích thích họ tiến hành sửa đổi hay rút bỏ, xét về lâu dài lại vô tác dụng. Để tránh tình trạng đó và căn cứ vào
khoản 4 điều XXVIII, Các Bên Ký Kết sẽ cho phép các bên ký kết nói trên tham gia đàm phán, trừ khi họ cho rằng
đàm phán như vậy sẽ dẫn tới tăng mức thuế quan hoặc góp phần là tăng mức thuế quan một cách đáng kể và sẽ dẫn tới
đảo lộn sự ổn định của các danh mục thuộc phụ lục của Hiệp định này và làm đảo lộn thương mại quốc tế một cách
không cần thiết.
 
3.         Dự kiến rằng các cuộc đàm phán được phép tiến hành phù hợp với khoản 4 nhằm sửa đổi hay rút bỏ một dòng
thuế hay một nhóm rất hạn chế những dòng thuế có thể tiến hành thành công trong vòng 60 ngày. Tuy nhiên, thừa nhận
rằng thời hạn 60 ngày sẽ không đủ cho đàm phán về sửa đổi hay rút bỏ một số lượng nhiều dòng thuế hơn; trong trường
hợp này, Các Bên Ký Kết sẽ có nghĩa vụ xác định một thời hạn dài hơn.
 
4.         Sự xác định thuộc trách nhiệm của Các Bên Ký Kết đã dự kiến tại khoản 4 d)  điều XXVIII sẽ phải được kết
luận trong vòng 30 ngày tiếp theo ngày vấn đề được đặt ra, trừ khi bên ký kết đòi hỏi chấp nhận một thời hạn dài hơn.
 
5.         Thoả thuận rằng khi đi đến xác định như đã nêu, phù hợp với khoản 4 d)  điều XXVIII, nếu bên ký kết có yêu
cầu vẫn chưa làm hết những gì hợp lý và có thể làm được để đưa ra một sự bù đắp thoả đáng, Các Bên Ký Kết sẽ tính
đúng mức đến tình huống đặc biệt của một bên ký kết đã cam kết mức thuế trần rất thấp với chiếm một tỷ trọng lớn
trong thuế quan của mình và do vậy bên ký kết đó không có điều kiện rộng rãi như các bên ký kết khác để đưa ra một
đề nghị về đền bù.
 
Bổ sung Điều khoản XXVIII (b)
 
Khoản 3
 
            Thoả thuận rằng việc đề cập đến nhu cầu về tài chính trước hết nhằm nói tới khía cạnh tài chính của thuế quan
và riêng về thuế quan có tác dụng đảm bảo nguồn thu thuế, đánh vào nhập khẩu các sản phẩm có thể được những sản
phẩm khác có mức thuế quan rất thấp hay không phải chịu thuế quan thay thế.
 
 
Bổ sung Điều khoản XXIV
 
Khoản đầu tiên
 
            Lời văn của khoản đầu tiên không chiểu đến các chương VII và VIII của Hiến chương Havana, do vì các
chương này chỉ quy định những nét chung liên quan tới tổ chức, vai trò và thủ tục của Tổ chức Thương mại Quốc tế.
 
Bổ sung Phần IV
 
            Các thuật ngữ "bên ký kết phát triển" và "bên ký kết kém phát triển hơn" được sử dụng trong Phần IV nhằm chỉ
các nước phát triển và các nước kém /chậm phát triển là thành viên của hiệp định Chung về Thuế quan va Thương mại-
GATT.
 
Bổ sung Điều XXXVI
 
Khoản 1
 
            Điều khoản này dựa trên các mục tiêu đã được nêu lên tại Điêu khoản đầu tiên với những sửa đổi tại điểm A)
của khoản đầu tiên Nghị định thư sửa đổi Phần 1 và các Điều XXIX và XXX kể từ khi Nghị định Thư này có hiệu
lực.12
 
Khoản 4
 
            Thuật ngữ "sản phẩm sơ cấp" bao trùm nông sản; xem khoản 2 của bị chú giải thích về điểm B điều khoản XVI.
 
Khoản 5
 
            Một chương trình đa dạng hoá thông thường bao gồm sự đẩy mạnh các hoạt đông chế biến các sản phẩm sơ cấp
và phát triển các ngành thuộc khu vực chế tác, có cân nhắc đến vị trí của bên ký kết đó và viễn cảnh sản xuất và tiêu
thụ các sản phẩm khác nhau trên thế giới.
 
Khoản 8
 
            Thoả thuận rằng thuật ngữ "không chờ đợi sự tương hỗ" có nghĩa rằng, phù hợp với các mục tiêu nêu tại điêù
khoản này, không trông đợi ở một bên ký kết kém phát triển hơn có sự đóng góp không tương thích với các nhu cầu
của sự phát triển, của nền tài chính và thương mại của mình trong tiến trình đàm phán thương mại, có tính đến sự tiến
triển của thương mại của bên ký kết đó trong thời gian qua.
 
            Khoản này được áp dụng trong trường hợp các biện pháp được áp dụng căn cứ vào điểm A điều XVIII, điều
XXVIII, điều XVIII B (sau này trở thành điều XXIX khi sự điều chỉnh thuộc điểm A khoản đầu tiên của Nghị định thư
sửa đôỉ phần I và các điều khoản XXIX và XXX 13), điều XXXIII, hoặc theo bất kỳ thủ tục nào được lập ra phù hợp
với Điều khoản này.
 
Bổ sung Điều khoản XXXII
 
Khoản đầu tiên, điểm a)
 
            Khoản này sẽ áp dụng trong đàm phán nhằm giảm hay triệt tiêu thuế quan hoặc các quy tắc hạn chế thương mại
khác theo tinh thần, Điều XXVIII, Điều XVIII B (sau này trở thành Điều XXIX khi sự điều chỉnh thuộc điểm A khoản
đầu tiên của Nghị định thư sửa đôỉ Phần I và các Điều XXIX và XXX 13), Điều XXXIII, và trong mối liên hệ với mọi
hành động khác có thể được một bên ký kết áp dụng nhằm thực thi việc giảm hay triệt tiêu nhKhoản 3 b)
 
            Các biện pháp khác nói đến tại khoản này có thể bao gồm các quy định cụ thể nhằm thúc đẩy sự sửa đổi cơ cấu
nội bộ, khích lệ tiêu thụ những sản phẩm riêng biệt, hoặc kiến lập những biện pháp xúc tiến thương mại.
 
 

[1]  - Bên ký kết chỉ một bên ký kết Hiệp định GATT có liên quan.
    - Các bên ký kết chỉ (1)một số bên ký kết có liên quan; (2) tất cả các bên ký kết.
    - Các Bên Ký Kết: (theo quy định của Điều XXV) chỉ tất cả các bên ký kết Hiệp định, mang tính chất hành động
tập thể
   - Dấu (*) dẫn chiếu tới chú giải, hoặc có bổ sung ở phần cuối Hiệp định
THỎA THUẬN
GHI NHẬN VỀ CÁC QUY TẮC VÀ THỦ TỤC ĐIỀU CHỈNH VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
PHỤ LỤC 2
Các Thành viên nhất trí như sau:
Điều 1:Phạm vi điều chỉnh và áp dụng
1. Các quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này phải được áp dụng cho những tranh chấp được đưa ra theo các quy
định về tham vấn và giải quyết tranh chấp của những hiệp định được liệt kê trong Phụ lục 1 của Thỏa thuận này
(trong Thoả thuận này được gọi là những “hiệp định có liên quan”). Những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này
cũng được áp dụng cho việc tham vấn và giải quyết tranh chấp giữa các Thành viên về quyền và nghĩa vụ của họ
theo các quy định của Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (trong Thỏa thuận này được gọi là “Hiệp
định WTO”) và của Thỏa thuận này được xem xét riêng hoặc cùng với bất cứ hiệp định có liên quan nào khác.
2. Các quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này phải được áp dụng với điều kiện phải tuân theo những quy tắc và thủ
tục đặc biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp được ghi trong các hiệp định có liên quan được nêu trong Phụ lục
2 của Thỏa thuận này. Trong chừng mực có sự khác nhau giữa những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này và
những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung trong Phụ lục 2, thì những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung
trong Phụ lục 2 phải được ưu tiên áp dụng. Đối với những tranh chấp liên quan đến những quy tắc và thủ tục của hai
hay nhiều hiệp định có liên quan, nếu có mâu thuẫn giữa những quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung trong
những hiệp định có liên quan đang được xem xét đó, và khi các bên tranh chấp không thỏa thuận được với nhau về
các quy tắc và thủ tục trong vòng 20 ngày kể từ khi thành lập ban hội thẩm, thì trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận
được yêu cầu của 1 trong 2 bên, Chủ tịch của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 2 (trong
Thỏa thuận này được gọi là “DSB”), sau khi tham vấn với các bên tranh chấp phải quyết định những quy tắc và thủ
tục nào phải tuân theo. Chủ tịch phải quyết định theo hướng dẫn của nguyên tắc là những quy tắc và thủ tục đặc biệt
hoặc bổ sung cần phải được sử dụng khi có thể, và những quy tắc và thủ tục được nêu trong Thỏa thuận này cần
được sử dụng ở mức cần thiết để tránh xảy ra mâu thuẫn.
Điều 2:Quản lý
1. Cơ quan Giải quyết tranh chấp được thành lập theo Thoả thuận này để quản lý những quy tắc và thủ tục của Thoả
thuận này và các điều khoản về tham vấn và giải quyết tranh chấp của các hiệp định có liên quan, trừ khi trong hiệp
định có liên quan có quy định khác. Theo đó, DSB phải có thẩm quyền thành lập ban hội thẩm, thông qua các Báo
cáo của ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, duy trì sự giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị, cho
phép tạm hoãn việc thi hành những nhượng bộ và nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan. Đối với những
tranh chấp chấp phát sinh từ một hiệp định có liên quan, mà đó là Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành
viên, thuật ngữ “Thành viên” ở đây chỉ dùng để chỉ các bên của Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành
viên này. Khi DSB áp dụng những điều khoản giải quyết tranh chấp của một Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của
một số Thành viên thì chỉ những Thành viên là các bên của Hiệp định này mới có thể tham gia vào việc quyết định
hoặc những hoạt động của DSB liên quan tới tranh chấp đó.
2. DSB phải thông báo với các Hội đồng và ủy ban có liên quan của WTO về bất kỳ những diễn biến nào của tranh
chấp liên quan tới các quy định của những hiệp định có liên quan tương ứng.
3. DSB phải họp khi cần thiết nhằm thực hiện các chức năng của mình trong thời hạn được nêu ra trong Thỏa thuận
này.
4. Khi những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này quy định DSB phải ra quyết định, thì DSB phải ra quyết định
này trên cơ sở đồng thuận.[1]
Điều 3:Các quy định chung
1. Các Thành viên khẳng định việc tuân theo những nguyên tắc giải quyết tranh chấp từ trước đến nay được áp dụng
theo Điều XXII và XXIII của GATT 1947, và những quy tắc và thủ tục được tiếp tục sửa đổi trong Thoả thuận này.
2. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là một nhân tố trung tâm trong việc tạo ra sự an toàn và khả năng dự
đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương. Các Thành viên thừa nhận rằng hệ thống này ra đời nhằm bảo toàn
các quyền và nghĩa vụ của các Thành viên theo các hiệp định có liên quan và nhằm làm rõ những điều khoản hiện
hành của những hiệp định đó trên cơ sở phù hợp với các quy tắc tập quán giải thích công pháp quốc tế. Các khuyến
nghị và phán quyết của DSB không được làm tăng hoặc giảm các quyền và nghĩa vụ được quy định trong các hiệp
định có liên quan.
3. Việc giải quyết nhanh chóng tình huống, khi có một Thành viên cho rằng các lợi ích trực tiếp hay gián tiếp của
mình có được theo những hiệp định có liên quan đang bị xâm hại do những biện pháp của một Thành viên khác thực
hiện, là vấn đề có ý nghĩa thiết yếu đối với việc thực hiện có hiệu quả chức năng của WTO và duy trì sự cân bằng
thích hợp giữa các quyền và nghĩa vụ của các Thành viên.
4. Các khuyến nghị hay phán quyết của DSB đưa ra phải nhằm đạt được việc giải quyết thỏa đáng vấn đề đặt ra phù
hợp với các quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Thỏa thuận này và của các hiệp định có liên quan.
5. Tất cả các giải pháp cho các vấn đề chính thức được nêu ra theo các quy định về tham vấn và giải quyết tranh
chấp của các hiệp định có liên quan, bao gồm cả những quyết định của trọng tài, phải phải phù hợp với những hiệp
định này và phải không được triệt tiêu hay làm giảm những lợi ích mà bất cứ Thành viên nào có được theo những
hiệp định đó, hoặc không được ngăn cản việc đạt được bất cứ mục tiêu nào của những hiệp định này.
6. Những giải pháp được các bên chấp thuận để giải quyết những vấn đề chính thức được nêu ra theo những điều
khoản về tham vấn và giải quyết tranh chấp của những hiệp định có liên quan phải được thông báo cho DSB và
những ủy ban, Hội đồng liên quan - nơi mà bất cứ Thành viên nào cũng có thể nêu ra quan điểm liên quan đến vấn
đề đó.
7. Trước khi khởi kiện, Thành viên phải tự xem xét, đánh giá là liệu việc khiếu kiện theo những thủ tục này có kết
quả không. Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là để đảm bảo có một giải pháp tích cực đối với vụ tranh
chấp. Một giải pháp mà các bên tranh chấp có thể chấp nhận được và phù hợp với các hiệp định có liên quan thì rõ
ràng cần được ưu tiên. Nếu không đạt được một giải pháp các bên tranh chấp cùng nhất trí, thì mục tiêu số một của
cơ chế giải quyết tranh chấp thường là bảo đảm việc rút lại những biện pháp có liên quan nếu những biện pháp này
bị quyết định là không phù hợp với những quy định trong bất kỳ hiệp định có liên quan nào. Các quy định về bồi
thường chỉ nên được sử dụng khi việc rút lại ngay lập tức các biện pháp trên là không thực tế và chỉ được sử dụng
như là một biện pháp tạm thời trong khi chưa có việc rút lại biện pháp không phù hợp với hiệp định có liên quan.
Biện pháp cuối cùng mà Thỏa thuận này quy định cho Thành viên đã khởi kiện theo các thủ tục giải quyết tranh
chấp là khả năng đình chỉ việc áp dụng các nhượng bộ hay các nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan trên cơ
sở có sự phân biệt đối xử đối với Thành viên khác với điều kiện được DSB cho phép thực hiện những biện pháp như
vậy.
8. Trong trường hợp có sự vi phạm các nghĩa vụ được đảm nhận theo quy định của một hiệp định có liên quan, thì
vụ kiện phải được coi là có chứng cứ ban đầu rõ ràng vè việc triệt tiêu hoặc xâm hại. Điều này có nghĩa là ở đây có
nguyên tắc suy đoán là vi phạm các quy định đều có tác động tiêu cực tới các Thành viên khác là các bên của hiệp
định có liên quan, và trong trường hợp này thì vấn đề sẽ phải tuỳ thuộc vào việc biện luận, phản ứng lại của Thành
viên bị kiện.
9. Những quy định của Thỏa thuận này không làm phượng hại đến các quyền của các Thành viên muốn có việc giải
thích theo thẩm quyền các điều khoản của hiệp định có liên quan thông qua việc ra quyết định theo Hiệp định WTO
hoặc một hiệp định có liên quan là một Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên.
10. Được hiểu rằng yêu cầu hòa giải và việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp không được nhằm mục đích
hoặc được xem là những hành vi gây bấ đồng và nếu có tranh chấp phát sinh, tất cả Thành viên phải tham gia một
cách thiện chí vào những thủ tục này để nỗ lực giải quyết tranh chấp. Cũng được hiểu là các đơn điện và đơn kiện lại
về những vấn đề khác nhau thì không nên gắn với nhau.
11. Thỏa thuận này chỉ được áp dụng với những yêu cầu tham vấn mới theo các điều khoản tham vấn của các hiệp
định có liên quan được đưa ra vào ngày hoặc sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Đối với các tranh chấp mà yêu
cầu tham vấn theo GATT 1947 hoặc theo các hiệp định trước đây của các hiệp định có liên quan được đưa ra trước
ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, thì các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp tương ứng có hiệu lực ngay trước
ngày Hiệp định WTO có hiệu lực phải tiếp tục được áp dụng.[2]
12. Mặc dù đã có quy định của khoản 11, nhưng nếu một đơn kiện dựa trên bất kỳ một hiệp định có liên quan nào
được một Thành viên đang phát triển khởi kiện chống lại một Thành viên phát triển, thì bên nguyên đơn có quyền
viện dẫn, như một biện pháp thay thế cho các quy định của Điều 4, 5, 6 và 12 của Thỏa thuận này, các điều khoản
tương ứng của Quyết định ngày 5 tháng tư năm 1966 (BISD 14S/18), trừ khi ban hội thẩm cho rằng thời hạn quy
định trong khoản 7 của Quyết định đó không đủ để đưa ra báo cáo của mình và khi có sự đồng ý của bên nguyên
đơn thì thời hạn đó có thể được kéo dài. Trong trường hợp có sự khác biệt giữa các quy tắc và thủ tục của điều 4, 5,
6 và 12 của Thoả thuận này và các quy tắc và thủ tục tương ứng của Quyết định đó, thì các quy tắc và thủ tục của
Quyết định phải được ưu tiên áp dụng.
Điều 4:Tham vấn
1. Các Thành viên khẳng định quyết tâm của mình nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả của các thủ tục tham vấn
được các Thành viên sử dụng.
2. Mỗi Thành viên cam kết dành những cân nhắc thiện chí và tạo cơ hội thoả đáng cho việc tham vấn về bất kỳ ý
kiến nào do một Thành viên khác đưa ra có liên quan đến những biện pháp ảnh hưởng tới sự vận hành của bất cứ
hiệp định có liên quan nào được thực hiện trên lãnh thổ của Thành viên này.[3]
3. Nếu có yêu cầu tham vấn được đưa ra theo quy định của hiệp định có liên quan, Thành viên được yêu cầu, trừ khi
có thỏa thuận khác, phải trả lời yêu cầu này trong vòng 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu và phải tham gia vào
tham vấn một cách thiện chí trong thời hạn không quá 30 ngày sau ngày nhận được yêu cầu để cố gắng đạt được giải
pháp thỏa đáng cho các bên. Nếu Thành viên này không trả lời trong thời hạn 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu,
hoặc không tham gia tham vấn trong thời hạn không quá 30 ngày, hoặc sau một thời hạn khác được các bên thỏa
thuận kể từ ngày nhận được yêu cầu, thì Thành viên đã yêu cầu tham vấn có thể trực tiếp yêu cầu thành lập ban hội
thẩm.
4. Tất cả những yêu cầu tham vấn như vậy phải được Thành viên yêu cầu tham vấn thông báo cho DSB và các Hội
đồng và ủy ban liên quan. Bất cứ yêu cầu tham vấn nào cũng phải được đệ trình lên bằng văn bản và đưa ra lý do có
yêu cầu, kể cả việc chỉ ra biện pháp có vấn đề và cơ sở pháp lý cho việc khiếu kiện.
5. Trong quá trình tham vấn theo quy định của một hiệp định có liên quan, trước khi phải sử dụng đến biện pháp tiếp
theo của Thỏa thuận này, các Thành viên cần phải phải cố gắng điều chỉnh vấn đề một cách thoả đáng.
6. Quá trình tham vấn phải được giữ bí mật, và không được gây phương hại đến các quyền của bất kỳ Thành viên
nào trong bất kỳ một quy trình tố tụng tiếp theo nào.
7. Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên
nguyên đơn có thể yêu cầu lập ban hội thẩm. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm trong thời hạn
60 ngày nói trên nếu các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp.
8. Trong trường hợp khẩn cấp, kể cả những trường hợp có liên quan đến hàng dễ hỏng, các Thành viên phải tiến
hành tham vấn trong khoảng thời gian không quá 10 ngày sau khi nhận được yêu cầu. Nếu việc tham vấn đã không
giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau ngày nhận được yêu cầu, bên nguyên đơn có thể yêu cầu
thành lập ban hội thẩm.
9. Trong trường hợp khẩn cấp, kể cả trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hỏng, các bên có tranh chấp, ban hội
thẩm và Cơ quan Phúc thẩm phải có mọi nỗ lực để đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp đến mức độ tối đa có
thể.
10. Trong khi tham vấn, các Thành viên phải đặc biệt chú ý đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của các Thành
viên là các nước đang phát triển.
11. Khi một Thành viên ngoài các Thành viên tham vấn cho rằng họ có lợi ích thương mại đáng kể trong quá trình
tham vấn đang được tiến hành phù hợp với khoản 1 Điều XXII của GATT 1994, khoản 1 Điều XXII của GATS,
hoặc các điều khoản tương ứng trong các hiệp định có liên quan khác[4] thì Thành viên này có thể thông báo cho
các Thành viên tham vấn và DSB về nguyện vọng muốn được tham gia vào thủ tục tham vấn trong vòng 10 ngày
sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn theo Điều vừa nêu. Thành viên đó phải được tham gia vào việc tham vấn với
điều kiện là Thành viên nhận được yêu cầu tham vấn đồng ý rằng yêu cầu về lợi ích đáng kể đó là có căn cứ. Trong
trường hợp đó, các Thành viên phải phải thông báo cho DSB. Nếu yêu cầu tham gia vào việc tham vấn không được
chấp nhận, thì Thành viên muốn tham gia này phải được tự do yêu cầu tham vấn theo khoản 1 Điều XXII hoặc
khoản 1 Điều XXIII của GATT 1994, khoản 1 Điều XXII hoặc khoản 1 Điều XXIII của GATS, hoặc những điều
khoản tương ứng trong các hiệp định có liên quan khác.
Điều 5:Môi giới, hòa giải và trung gian
1. Môi giới, hòa giải và trung gian là những thủ tục được tiến hành tự nguyện, nếu các bên tranh chấp đồng ý như
vậy.
2. Việc môi giới, hòa giải và trung gian, và đặc biệt là quan điểm của các bên tranh chấp trong việc này phải được
giữ bí mật và không làm phương hại đến quyền của bất cứ bên nào trong những bước tố tụng tiếp theo những thủ tục
này.
3. Bất cứ bên tranh chấp nào đều có thể yêu cầu môi giới, hòa giải hoặc trung gian vào bất cứ lúc nào. Những thủ tục
này có thể được bắt đầu và chấm dứt vào bất kỳ thời điểm nào. Một khi những thủ tục này đã chấm dứt, bên nguyên
đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm.
4. Khi thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian được tiến hành trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu tham vấn, bên nguyên đơn phải cho phép một thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn trước
khi yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm trong thời hạn 60 ngày
này, nếu các bên có tranh chấp cùng cho rằng môi giới, hoà giải hoặc trung gian đã không thể giải quyết được tranh
chấp.
5. Nếu các bên tranh chấp đồng ý, thì thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian có thể được tiếp tục ngay cả khi ban
hội thẩm tiến hành tố tụng.
6. Tổng Giám đốc có thể, trên cương vị công tác chính thức của mình, đưa ra sáng kiến về việc mình phải làm người
môi giới, người hòa giải hoặc trung gian nhằm giúp các Thành viên giải quyết tranh chấp.
Điều 6:Thành lập ban hội thẩm
1. Nếu bên nguyên đơn có yêu cầu, một ban hội thẩm phải được thành lập chậm nhất là tại cuộc họp của DSB tiếp
theo cuộc họp mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên được đưa ra như một mục của chương trình nghị sự DSB, trừ khi
tại cuộc họp đó DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập ban hội thẩm.[5]
2. Yêu cầu thành lập ban hội thẩm phải được làm bằng văn bản. Văn bản yêu cầu này phải chỉ ra là việc tham vấn đã
được tiến hành không, xác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và cung cấp tóm tắt ngắn gọn về cơ sở
pháp lý của đơn kiện đủ để trình bày các vấn đề một cách rõ ràng. Trong trường hợp bên nộp đơn yêu cầu thành lập
ban hội thẩm với các điều kiện khác với các điều khoản tham chiếu chuẩn, thì văn bản yêu cầu này phải kèm theo
bản đề xuất về các điểu khoản tham chiếu đặc biệt.
Điều 7:Các điều khoản tham chiếu của ban hội thẩm
1. Ban hội thẩm có các điều khoản tham chiếu sau đây, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác trong vòng 20
ngày kể từ ngày thành lập ban hội thẩm.“Xem xét, dưới ánh sáng của các điều khoản có liên quan (tên của (các) hiệp
định có liên quan do các bên tranh chấp trích dẫn), vấn đề được đưa ra DSB bởi (tên của một bên) trong văn bản...
và đưa ra những ý kiến nhận xét, kết luận giúp DSB đưa ra các khuyến nghị hoặc các phán quyết được quy định
trong (các) hiệp định có liên quan đó.”
2. Ban hội thẩm phải xử lý các điều khoản liên quan trong bất kỳ hiệp định có liên quan nào hoặc các hiệp định được
các bên tranh chấp dẫn chiếu tới.
3. Khi thành lập ban hội thẩm, DSB có thể ủy quyền cho Chủ tịch DSB soạn thảo các điều khoản tham chiếu của
ban hội thẩm với sự tham vấn với các bên tranh chấp nhưng phải bảo đảm tuân theo khoản 1. Các điều khoản tham
chiếu được soạn thảo như vậy phải được gửi tới tất cả các Thành viên. Nếu các điều khoản tham chiếu được thoả
thuận không phải là các điều khoản tham chiếu chuẩn, thì bất kỳ Thành viên nào cũng có thể nêu vấn đề liên quan
đến các điều khoản đó với DSB.
Điều 8:Thành phần ban hội thẩm
1. Ban hội thẩm phải được cấu thành bởi những cá nhân thuộc tổ chức chính phủ và/hoặc phi chính phủ năng lực tốt,
kể cả những người đã làm việc hoặc trình vụ kiện ra ban hội thẩm, làm đại diện của một Thành viên hoặc của một
bên ký kết GATT 1947 hoặc đại diện tại Hội đồng hay ủy ban của bất cứ hiệp định có liên quan nào hoặc hiệp định
nào trước đó, hoặc đã từng làm việc trong Ban Thư ký, đã từng giảng dạy hoặc viết sách báo được đăng về luật
thương mại quốc tế hoặc chính sách thương mại quốc tế, hoặc đã từng là quan chức cao cấp về chính sách thương
mại của một Thành viên.
2. Các thành viên ban hội thẩm cần phải được chọn lựa với mục đích bảo đảm sự độc lập của các hội thẩm viên, có
kiến thức đa dạng ở mức đủ và có phạm vi kinh nghiệm công tác rộng.
3. Công dân của Thành viên[6] là các bên tranh chấp hoặc là bên thứ 3 được quy định ở khoản 2 của Điều 10 phải
không được tham gia vào ban hội thẩm có liên quan đến tranh chấp đó, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận
khác.
4. Để hỗ trợ cho việc lựa chọn các hội thẩm viên, Ban Thư ký phải duy trì một danh sách các cá nhân thuộc tổ chức
chính phủ và phi chính phủ có những tiêu chuẩn đã được nêu tại khoản 1, và từ danh sách này các thành viên ban
hội thẩm có thể được chỉ định một cách thích hợp. Danh sách đó phải bao gồm cả bảng phân công các hội thẩm phi
chính phủ được lập ngày 30 tháng 11 năm 1984 (BISD 31S/9), và những bảng phân công và danh sách đề cử khác
được lập theo bất cứ hiệp định có liên quan nào và phải giữ lại tên của những người trong các bảng phân công và
danh sách đề cử này vào thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực. Các Thành viên có thể định kỳ đề xuất tên của các
cá nhân thuộc các tổ chức chính phủ và phi chính phủ để đưa vào danh sách đề cử, cung cấp các thông tin liên quan
đến kiến thức của họ về thương mại quốc tế, về những lĩnh vực hoặc nội dung của các hiệp định có liên quan, tên
của những người này phải được đưa bổ sung vào danh sách sau khi có sự chấp thuận của DSB. Đối với mỗi cá nhân
trong danh sách, danh sách phải chỉ rõ phạm vi kinh nghiệm hay chuyên môn cụ thể của mỗi cá nhân trong những
lĩnh vực hoặc nội dung của các hiệp định có liên quan.
5. Ban hội thẩm phải gồm ba hội thẩm viên, trừ khi các bên tranh chấp đồng ý một ban hội thẩm gồm 5 hội thẩm
viên trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập ban hội thẩm. Các Thành viên phải nhanh chóng được thông báo về
thành phần của ban hội thẩm.
6. Ban Thư ký phải đề xuất việc bổ nhiệm ban hội thẩm với các bên có tranh chấp. Các bên tranh chấp phải không
được phản đối việc bổ nhiệm trừ khi có những lý do bắt buộc.
7. Nếu trong vòng 20 ngày sau ngày thành lập ban hội thẩm mà không có sự nhất trí về Thành viên ban hội thẩm,
theo yêu cầu của bất cứ bên nào, Tổng Giám đốc sau khi tham vấn với Chủ tịch DSB và Chủ tịch của Hội đồng hay
ủy ban liên quan phải quyết định thành phần ban hội thẩm bằng việc bổ nhiệm các hội thẩm từ những người mà
Tổng Giám đốc coi là thích hợp nhất theo đúng bất kỳ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung có liên quan nào
của những hiệp định có liên quan đang được áp dụng cho tranh chấp đó, sau khi tham vấn với các bên tranh chấp.
Chủ tịch của DSB phải thông báo cho các Thành viên về thành phần ban hội thẩm đã được thành lập như vậy không
quá 10 ngày kể từ ngày Chủ tịch nhận được yêu cầu.
8. Các Thành viên phải cam kết, như một quy tắc chung, cho phép nhân viên của mình làm hội thẩm viên.
9. Các hội thẩm viên phải làm việc với tư cá nhân của mình và không phải là đại diện của chính phủ và cũng không
phải là đại điện của một tổ chức nào. Vì thế các Thành viên phải không được đưa ra chỉ thị hay tìm cách gây ảnh
hưởng đến họ với tư cách cá nhân về những vấn đề được đưa ra trước ban hội thẩm.
10. Khi một tranh chấp xảy ra giữa một Thành viên phát triển và một Thành viên đang phát triển, nếu có yêu cầu của
Thành viên đang phát triển, thì ban hội thẩm phải có ít nhất một hội thẩm từ một Thành viên đang phát triển.
11. Các chi phí cho hội thẩm viên kể cả chi phí đi lại và ăn ở, phải thanh toán từ ngân sách của WTO theo mức được
Đại Hội đồng thông qua trên cơ sở các khuyến nghị của ủy ban về các vấn đề Ngân sách, Tài chính và Quản trị.
Điều 9:Thủ tục đối với đơn kiện có nhiều nguyên đơn
1. Khi có hai hoặc nhiều Thành viên yêu cầu thành lập ban hội thẩm để giải quyết cùng một vấn đề thì một ban hội
thẩm duy nhất có thể được thành lập để xem xét những đơn kiện này có tính đến quyền của tất cả các Thành viên có
liên quan. Một ban hội thẩm duy nhất cần phải được thành lập để xem xét những đơn kiện như vậy bất kỳ khi nào
khả thi.
2. Ban hội thẩm duy nhất này phải tiến hành việc xem xét và đệ trình ý kiến lên DSB theo cách các quyền mà đáng
ra các bên tranh chấp đã được hưởng nếu thành lập các ban hội thẩm riêng lẻ để xem xét các đơn kiện không bị suy
giảm. Nếu một trong các bên tranh chấp yêu cầu thì ban hội thẩm phải đệ trình các bản báo cáo riêng lẻ về tranh
chấp có liên quan. Các văn bản đệ trình của mỗi nguyên đơn phải được sẵn có cho các nguyên đơn khác và mỗi
nguyên đơn phải có quyền có mặt khi bất cứ một nguyên đơn nào khác trình bày quan điểm với ban hội thẩm.
3. Nếu có hai hoặc nhiều ban hội thẩm được thành lập để xem xét các đơn kiện liên quan đến cùng một vấn đề thì
phải cố gắng tới mức cao nhất có thể để chọn cùng các hội thẩm viên chung cho các ban hội thẩm riêng lẻ và phải
sắp xếp thời gian biểu cho thủ tục tố tụng của ban hội thẩm trong những tranh chấp này phải được hài hoà.
Điều 10:Các bên thứ ba
1.Quyền lợi của các bên tranh chấp và của các Thành viên khác theo một hiệp định có liên quan về nội dung tranh
chấp phải được cân nhắc đầy đủ trong quá trình tố tụng tại ban hội thẩm.
2. Bất cứ Thành viên nào có quyền lợi đáng kể đối với một vấn đề được ban hội thẩm xem xét và đã thông báo
quyền lợi của mình cho DSB (trong Thỏa thuận này gọi là “bên thứ ba”) đều phải có cơ hội được trình bày vấn đề
cho ban hội thẩm và được trình văn bản cho ban hội thẩm. Những văn bản đệ trình này cũng phải được gửi cho các
bên tranh chấp và phải được phản ánh trong bản báo cáo của ban hội thẩm.
3. Các bên thứ ba phải được nhận văn bản đệ trình của các bên tranh chấp cho phiên họp đầu tiên của ban hội thẩm.
4. Nếu một bên thứ ba cho rằng một biện pháp là đối tượng của việc giải quyết tại ban hội thẩm đã triệt tiêu hoặc
làm phương hại đến quyền lợi của bên đó theo bất cứ hiệp định có liên quan nào, thì Thành viên đó có thể sử dụng
thủ tục giải quyết tranh chấp thông thường theo bản Thỏa thuận này. Tranh chấp như vậy phải được chuyển cho ban
hội thẩm ban đầu mỗi khi có thể.
Điều 11:Chức năng của ban hội thẩm
Chức năng của ban hội thẩm là giúp DSB làm tròn trách nhiệm theo Thỏa thuận này và các hiệp định có liên quan.
Do đó, ban hội thẩm cần phải phải đánh giá một cách khách quan về các vấn đề đặt ra cho mình, gồm cả việc đánh
giá khách quan các tình tiết của vụ việc và khả năng áp dụng và sự phù hợp với các hiệp định có liên quan, và đưa ra
những nhận xét, kết luận khác có thể giúp DSB trong việc đưa ra các khuyến nghị hoặc các phán quyết được quy
định trong các hiệp định có liên quan. Ban hội thẩm cần phải đều đặn tham vấn với các bên tranh chấp và tạo cho họ
những cơ hội thích hợp để đưa ra một giải pháp thỏa đáng đối với cả hai bên.
Điều 12:Thủ tục của ban hội thẩm
1. Ban hội thẩm tuân theo Các thủ tục làm việc ở Phụ lục 3 trừ khi ban hội thẩm quyết định khác sau khi tham vấn
các bên tranh chấp.
2. Thủ tục làm việc của ban hội thẩm phải có sự linh hoạt đầy đủ để đảm bảo cho các báo cáo của ban hội thẩm có
chất lượng cao mà lại không làm chậm quá trình tố tụng tại ban hội thẩm một cách không cần thiết.
3. Sau khi tham vấn với các bên tranh chấp, các hội thẩm viên, trong thời hạn càng sớm càng tốt và bất kỳ khi nào
có thể trong vòng một tuần sau khi thành phần và các điều khoản tham chiếu của ban hội thẩm đã được thông qua,
phải ấn định thời gian biểu cho quá trình tố tụng tại ban hội thẩm, có tính đến các quy định của khoản 9 Điều 4 nếu
có liên quan.
4. Trong khi xác định thời gian biểu cho quá trình tố tụng tại ban hội thẩm, ban hội thẩm phải tạo đủ thời gian cho
các bên tranh chấp chuẩn bị các văn bản đệ trình của họ.
5. Ban hội thẩm phải định ra các thời hạn chính xác cho các bên đệ trình văn bản và các bên phải tôn trọng các thời
hạn này.
6. Mỗi bên tranh chấp nộp lưu chiểu các văn bản đệ trình của mình cho Ban Thư ký để Ban Thư ký chuyển ngay cho
ban hội thẩm, các bên khác và các bên tranh chấp. Bên nguyên đơn phải đệ trình văn bản đầu tiên trước văn bản đệ
trình đầu tiên của bên bị đơn trừ khi ban hội thẩm quyết định, khi xác định thời gian biểu như được nêu tại khoản 3
sau khi tham vấn với các bên tranh chấp, rằng các bên phải đệ trình văn bản đầu tiên cùng một lúc. Khi đưa ra lịch
theo thứ tự trước sau cho việc nộp các bản đệ trình đầu tiên, ban hội thẩm phải xây dựng một khoảng thời gian chắc
chắn cho việc tiếp nhận bản đệ trình của bên bị đơn. Bất cứ bản đệ trình nào bằng văn bản sau đó đều phải được đệ
trình đồng thời.
7. Khi các bên tranh chấp không tìm ra được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên, thì ban hội thẩm phải đệ trình
bản ý kiến của mình dưới dạng báo cáo bằng văn bản lên DSB. Trong trường hợp như vậy, bản báo cáo của ban hội
thẩm phải đưa ra các ý kiến về các tình tiết, về khả năng áp dụng các điều khoản liên quan và lý lẽ đằng sau bất cứ
kết luận và khuyến nghị nào được đưa ra. Nếu có sự hoà giải giải quyết vấn đề giữa các bên tranh chấp, thì bản báo
cáo của ban hội thẩm phải được hạn chế ở mức mô tả ngắn gọn về vụ việc này và báo cáo rằng đã đạt được một giải
pháp.
8. Để những thủ tục này có hiệu quả hơn, khoảng thời gian mà ban hội thẩm phải tiến hành xem xét, từ ngày thành
phần và các điều khoản tham chiếu của ban hội thẩm được thống nhất cho tới ngày bản báo cáo cuối cùng được
chuyển tới các bên tranh chấp, theo quy định chung, phải không quá 6 tháng. Trong trường hợp khẩn cấp, kể cả
những trường hợp liên quan đến hàng dễ hỏng, ban hội thẩm phải cố gắng đưa ra bản báo cáo của mình cho các bên
tranh chấp trong vòng 3 tháng.
9. Khi ban hội thẩm cho rằng không thể đưa ra bản báo cáo trong vòng 6 tháng hoặc trong vòng 3 tháng trong các
trường hợp khẩn cấp, ban hội thẩm phải thông báo cho DSB bằng văn bản về lý do trì hoãn cùng với khoảng thời
gian dự kiến ban hội thẩm phải đưa ra báo cáo. Không trường hợp nào mà thời hạn kể từ khi thành lập ban hội thẩm
tới khi gửi các báo cáo cho các Thành viên vượt quá 9 tháng.
10. Trong khuôn khổ tham vấn liên quan đến biện pháp do một Thành viên đang phát triển tiến hành, các bên có thể
đồng ý kéo dài thời gian được quy định trong khoản 7 và 8 của Điều 4. Sau khi hết thời hạn liên quan, nếu các bên
tham vấn không thể đồng ý rằng việc tham vấn đã kết thúc, Chủ tịch DSB phải quyết định, sau khi tham vấn với các
bên, liệu xem có kéo dài thời hạn liên quan hay không, và nếu có, thì kéo dài bao lâu. Thêm vào đó, trong khi xem
xét một đơn kiện đối với một Thành viên đang phát triển, ban hội thẩm phải tạo đủ thời gian cho Thành viên đang
phát triển để chuẩn bị và trình bày lập luận của mình. Các quy định ở khoản 1 Điều 20 và khoản 4 Điều 21 phải
không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ vụ kiện nào theo khoản này.
11. Khi một hoặc nhiều bên là nước đang phát triển Thành viên, báo cáo của ban hội thẩm phải chỉ ra một cách rõ
ràng hình thức trong đó có tính đến các điều khoản có liên quan đến chế độ đãi ngộ khác biệt và ưu đãi hơn đối với
Thành viên là các nước đang phát triển khi các điều khoản này là một phần của những hiệp định có liên quan mà
những hiệp định này đã được các nước đang phát triển nêu lên trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết tranh
chấp.
12. Ban hội thẩm có thể tạm ngừng công việc bất cứ lúc nào theo yêu cầu của bên nguyên đơn trong một thời hạn
không quá 12 tháng. Trong trường hợp tạm ngừng như vậy, các thời hạn được nêu tại khoản 8 và 9 của Điều này,
khoản1 của Điều 20, và khoản 4 của Điều 21 phải được kéo dài một khoảng thời gian bằng thời gian công việc đó bị
tạm ngừng. Nếu công việc của ban hội thẩm bị tạm ngừng hơn 12 tháng, thì thẩm quyền thành lập ban hội thẩm phải
hết thời hiệu.
Điều 13:Quyền tìm kiếm thông tin
1. Mỗi ban hội thẩm đều phải có quyền tìm kiếm thông tin và tư vấn kỹ thuật từ bất cứ cá nhân hoặc cơ quan nào mà
ban hội thẩm coi là phù hợp. Tuy nhiên, trước khi một ban hội thẩm tìm kiếm thông tin hoặc tư vấn từ bất kỳ cá
nhân hoặc cơ quan nào trong phạm vi quyền hạn của một Thành viên, ban hội thẩm phải thông báo cho các cơ quan
có thẩm quyền của Thành viên đó. Thành viên cần trả lời nhanh và đầy đủ bất cứ yêu cầu nào của ban hội thẩm đối
với những thông tin được ban hội thẩm thấy là cần thiết và thích hợp. Các thông tin mật được cung cấp phải không
được tiết lộ trừ khi có sự cho phép chính thức của tổ chức, cá nhân và nhà chức trách của Thành viên cung cấp thông
tin đó.
2. Ban hội thẩm có thể tìm kiếm thông tin từ bất kỳ nguồn nào có liên quan và có thể tham vấn chuyên gia để nhận
được những ý kiến về những khía cạnh nhất định của vấn đề. Đối với các vấn đề tình tiết có liên quan đến các vấn
đề khoa học, hoặc kỹ thuật do một bên tranh chấp nêu ra, thì ban hội thẩm có thể yêu cầu báo cáo tư vấn bằng văn
bản của nhóm chuyên gia thẩm định. Quy tắc thành lập nhóm này và các thủ tục làm việc của nhóm đó được nêu
trong Phụ lục 4.
Điều 14:Tính bảo mật
1. Việc nghị án của ban hội thẩm phải được giữ bí mật.
2. Các bản báo cáo của ban hội thẩm được soạn thảo không có sự hiện diện của cac bên tranh chấp theo tinh thần
của các thông tin đã được cung cấp và các ý kiến đã được đưa ra.
3. Các ý kiến của cá nhân hội thẩm viên được trình bày trong bản báo cáo của ban hội thẩm phải không được ghi tên
người phát biểu ý kiến đó.
Điều 15:Giai đoạn rà soát giữa kỳ
1. Tiếp theo việc xem xét các văn bản đệ trình ý kiến và các lập luận miệng, ban hội thẩm phải chuyển các phần mô
tả (các tình tiết và lập luận) của bản dự thảo báo cáo của mình cho các bên tranh chấp. Trong phạm vi thời hạn do
ban hội thẩm định ra, các bên phải đệ trình các ý kiến của mình bằng văn bản.
2. Sau khi hết thời hạn được định ra để tiếp nhận các ý kiến của các bên tranh chấp, ban hội thẩm phải đưa ra một
bản báo cáo giữa kỳ cho các bên, bao gồm cả các phần mô tả và các ý kiến và các kết luận của ban hội thẩm. Trong
phạm vi thời hạn được ban hội thẩm đặt ra, một bên có thể đệ trình một văn bản yêu cầu cho ban hội thẩm để xem
xét lại những khía cạnh chính xác của bản báo cáo giữa kỳ trước khi chuyển bản báo cáo cuối cùng tới các Thành
viên. Theo yêu cầu của một bên, ban hội thẩm phải tổ chức thêm cuộc họp với các bên về những vấn đề đã được nêu
trong các bản ý kiến. Nếu không nhận được bản ý kiến nào của các bên trong thời hạn đã định cho việc có ý kiến đó
thì bản báo cáo giữa kỳ phải được coi là bản báo cáo cuối cùng của ban hội thẩm và phải nhanh chóng được chuyển
tới các Thành viên.
3. Các ý kiến , nhận xét của bản báo cáo cuối cùng của ban hội thẩm phải có cả việc thảo luận về những lý lẽ được
đưa ra tại giai khoản rà soát giữa kỳ. Giai khoản rà soát giữa kỳ phải được thực hiện trong khoảng thời gian được
đưa ra trong khoản 8 Điều 12.
Điều 16:Thông qua báo cáo của ban hội thẩm
1. Nhằm có đủ thời gian để các Thành viên xem xét các báo cáo của ban hội thẩm, các báo cáo phải không được
DSB xem xét để thông qua trong vòng 20 ngày sau ngày báo cáo đã được chuyển tới các Thành viên.
2. Các Thành viên có phản đối về bản báo cáo của ban hội thẩm phải đưa văn bản giải thích lý do phản đối của mình
tới DSB ít nhất 10 ngày trước ngày phiên họp của DSB xem xét báo cáo của ban hội thẩm .
3. Các bên tranh chấp có quyền tham gia đầy đủ vào việc DSB xem xét báo cáo của ban hội thẩm, và các quan điểm
của họ được ghi lại đầy đủ.
4. Trong vòng 60 ngày sau ngày chuyển báo cáo của ban hội thẩm tới các Thành viên, báo cáo này phải được thông
qua tại phiên họp DSB[7], trừ khi một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo của
mình hoặc DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua bản báo cáo này. Nếu một bên đã thông báo
quyết định kháng cáo của mình, thì DSB phải không xem xét thông qua bản báo cáo của ban hội thẩm lập cho tới
khi hoàn thành việc phúc thẩm. Thủ tục thông qua này không làm phương hại tới quyền của các Thành viên được
thể hiện quan điểm của mình về bản báo cáo của ban hội thẩm.
Điều 17:Xét xử phúc thẩm
Cơ quan Phúc thẩm thường trực
1. Một Cơ quan Phúc thẩm thường trực phải được DSB thành lập. Cơ quan Phúc thẩm này xem xét kháng cáo về các
vụ việc của ban hội thẩm. Cơ quan này phải bao gồm 7 người, mỗi một vụ việc phải do 3 người trong số đó xét xử.
Những người làm việc ở Cơ quan Phúc thẩm phải làm việc luân phiên. Việc luân phiên như vậy phải được xác định
trong văn bản về thủ tục làm việc của Cơ quan Phúc thẩm.
2. DSB phải chỉ định người làm việc ở Cơ quan Phúc thẩm cho nhiệm kỳ 4 năm, và mỗi người có thể được tái bổ
nhiệm một lần. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của 3 trong số 7 người được bổ nhiệm ngay sau khi Hiệp định WTO có hiệu
lực phải hết hạn sau 2 năm, được xác định bằng việc bắt thăm. Chỗ khuyết phải được bổ sung nếu có. Người được
bổ nhiệm thay thế một người mà nhiệm kỳ chưa hết sẽ giữ vị trí đó trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của người tiền
nhiệm.
3. Cơ quan Phúc thẩm phải bao gồm những người có uy tín đã được công nhận, với kinh nghiệm chuyên môn đã
được chứng minh về pháp luật, thương mại quốc tế và những nội dung của các hiệp định có liên quan nói chung. Họ
phải không được gắn kết với chính phủ nào. Cơ cấu thành viên của Cơ quan Phúc thẩm phải phản ánh rộng rãi cơ
cấu thành viên trong WTO. Tất cả những người làm việc tại Cơ quan Phúc thẩm phải sẵn sàng làm việc bất cứ lúc
nào và chỉ được thông báo ngắn, phải cập nhật thoe kịp các hoạt động giải quyết tranh chấp và các hoạt động có liên
quan khác của WTO. Họ phải không được tham gia vào việc xem xét các tranh chấp khi có thể tạo ra xung đột
quyền lợi trực tiếp hay gián tiếp.
4. Chỉ các bên có tranh chấp, chứ không phải các bên thứ ba, mới có quyền kháng cáo báo cáo của ban hội thẩm.
Các bên thứ ba đã thông báo cho DSB về quyền lợi đáng kể đối với vấn đề theo khoản 2 Điều 10 có thể đệ trình văn
bản cho Cơ quan Phúc thẩm và phải được tạo cơ hội để Cơ quan Phúc thẩm nghe vấn đề.
5. Như một quy tắc chung, việc giải quyết phải không được quá 60 ngày kể từ ngày một bên tranh chấp chính thức
thông báo quyết định kháng cáo của mình tới ngày Cơ quan Phúc thẩm chuyển báo cáo của mình. Khi xác định thời
gian biểu của mình, Cơ quan Phúc thẩm phải cân nhắc các quy định của khoản 9 Điều 4, nếu có liên quan. Khi Cơ
quan Phúc thẩm thấy mình không thể đưa ra báo cáo trong vòng 60 ngày, Cơ quan này phải thông báo cho DSB
bằng văn bản lý do trì hoãn cùng với khoảng thời gian dự kiến phải đệ trình báo cáo. Trong bất cứ trường hợp việc
giải quyết cũng không được vượt quá 90 ngày.
6. Kháng cáo chỉ được giới hạn về những vấn đề về pháp lý được đề cập đến trong báo cáo của ban hội thẩm và
những giải thích pháp luật của ban hội thẩm.
7. Cơ quan Phúc thẩm phải được cung cấp những hỗ trợ pháp lý và hành chính thích hợp theo yêu cầu.
8. Chi phí cho những người làm việc ở Cơ quan Phúc thẩm, bao gồm cả chi phí đi lại và ăn ở, phải được thanh toán
từ ngân sách của WTO theo mức được Đại Hội đồng thông qua trên cơ sở các khuyến nghị của ủy ban về các vấn đề
Ngân sách, Tài chính và Quản trị.
Thủ tục Xét xử Phúc thẩm
9. Thủ tục làm việc phải được Cơ quan Phúc thẩm xây dựng có sự tham vấn với Chủ tịch DSB và Tổng Giám đốc và
được thông báo cho các Thành viên để có thông tin .
10. Quá trình tố tụng của Cơ quan Phúc thẩm phải được giữ kín. Các báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm phải được
soạn thảo không có sự tham gia của các bên tranh chấp và theo tinh thần của các thông tin được cung cấp và các ý
kiến được đưa ra.
11. Các ý kiến của các cá nhân làm việc tại Cơ quan Phúc được nêu tại báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm phải không
được ghi tên người phát biểu ý kiến đó.
12. Cơ quan Phúc thẩm phải đề cập giải quyết từng vấn đề được nêu ra theo khoản 6 trong suốt quá trình tố tụng
phúc thẩm.
13. Cơ quan Phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc quyết định ngược lại các ý kiến và kết luận của ban hội
thẩm.
Thông qua các báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm
14. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm phải được DSB thông qua và được các bên tranh chấp chấp nhận vô điều kiện
trừ khi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong vòng 30 ngày
sau khi báo cáo đó được chuyển tới các Thành viên.[8] Thủ tục thông qua này không làm phương hại đến quyền của
các Thành viên thể hiện quan điểm của mình về bản báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm.
Điều 18:Liên lạc với ban hội thẩm hoặc cơ quan phúc thẩm
1. Phải không có sự liên hệ riêng lẻ của một bên nào với ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm về các vấn đề đang
được ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm xem xét.
2. Các văn bản trình lên ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm phải được giữ bí mật, nhưng phải được có cho các
bên tranh chấp. Không có điều nào trong Thỏa thuận này ngăn cản bên tranh chấp công bố quan điểm của mình cho
công chúng. Các Thành viên phải giữ bí mật thông tin được Thành viên khác đệ trình cho ban hội thẩm hoặc Cơ
quan Phúc thẩm khi Thành viên khác đó chỉ ra đấy là thông tin bảo mật. Một bên tranh chấp, theo yêu cầu của một
Thành viên, phải cung cấp bản tóm tắc thông tin không bảo mật có trong các văn bản trình mà có thể được công bố
cho công chúng.
Điều 19:Các khuyến nghị của ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm
1. Khi một ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm kết luận rằng một biện pháp nào đó là không phù hợp với hiệp
định có liên quan thì ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm phải khuyến nghị rằng Thành viên có liên quan[9] đưa
các biện pháp đó cho phù hợp với Hiệp định này[10]. Cùng với các khuyến nghị đó, ban hội thẩm hoặc Cơ quan
Phúc thẩm có thể đề xuất các cách mà theo đó Thành viên có liên quan có thể thực hiện các khuyến nghị.
2. Theo khoản 2 của Điều 3, trong các kết luận và khuyến nghị của mình, ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm
không thể thêm vào hay làm giảm bớt đi các quyền và nghĩa vụ được quy định trong các hiệp định có liên quan.
Điều 20:Thời hạn ra quyết định của cơ quangiải quyết tranh chấp
Trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác, thời hạn tính từ ngày DSB thành lập ban hội thẩm tới ngày DSB xem
xét báo cáo của ban hội thẩm hoặc của Cơ quan Phúc thẩm để thông qua, như là quy tắc chung, phải không quá 9
tháng nếu báo cáo của ban hội thẩm không bị kháng cáo hoặc 12 tháng nếu báo cáo bị kháng cáo. Nếu ban hội thẩm
hoặc Cơ quan Phúc thẩm kéo dài thời hạn để đưa ra báo cáo của mình, theo khoản 9 của Điều 12 hay khoản 5 của
Điều 17, thì thời gian kéo dài phải được tính thêm vào thời hạn trên.
Điều 21:Giám sát thực hiện các khuyến nghị và phán quyết
1. Việc tuân thủ ngay lập tức những khuyến nghị hoặc phán quyết của DSB là điều thiết yếu nhằm bảo đảm việc giải
quyết hữu hiệu tranh chấp vì lợi ích của tất cả các Thành viên.
2. Cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề lợi ích của các Thành viên là các nước đang phát triển liên quan đến các biện
pháp là đối tượng của việc giải quyết tranh chấp.
3. Tại cuộc họp của DSB được tổ chức trong vòng 30 ngày[11] sau ngày thông qua báo cáo của ban hội thẩm hoặc
Cơ quan Phúc thẩm, Thành viên liên quan phải thông báo cho DSB về các dự định của mình đối với việc thực hiện
các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Nếu không thể thực hiện được việc tuân theo ngay lập tức các khuyến nghị
và phán quyết thì Thành viên liên quan phải có một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện. Khoảng thời gian hợp lý
phải là:
(a) khoảng thời gian do Thành viên có liên quan đề xuất, với điều kiện là thời hạn đó được DSB thông qua; hoặc,
nếu không được thông qua như vậy, thì là
(b) khoảng thời gian được các bên tranh chấp thỏa thuận trong vòng 45 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị và
phán quyết; hoặc, nếu không đạt được thỏa thuận như vậy giữa các bên, thì là
(c) khoảng thời gian được xác định thông qua quyết định trọng tài có giá trị ràng buộc trong vòng 90 ngày sau ngày
thông qua các khuyến nghị và phán quyết[12]. Trong tố tụng trọng tài như vậy thì một hướng dẫn đói với trọng tài
viên[13] là khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của ban hội thẩm hay Cơ quan Phúc
thẩm, không được vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo của ban hội thẩm hoặc của Cơ quan Phúc thẩm.
Tuy nhiên, thời gian đó có thể dài hoặc ngắn hơn, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
4. Trừ khi ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm kéo dài thời hạn đưa ra báo cáo của mình theo khoản 9 của Điều
12, hay khoản 5 của Điều 17, thì thời hạn kể từ ngày DSB thành lập ban hội thẩm cho tới ngày quyết định thời hạn
hợp lý phải không vượt quá 15 tháng trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác. Khi ban hội thẩm hoặc Cơ quan
Phúc thẩm kéo dài thời hạn đưa ra báo cáo của mình, thì thời gian kéo dài phải được cộng vào thời hạn 15 tháng; với
điều kiện là tổng số thời gian không vượt quá 18 tháng trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận là có các tình huống
ngoại lệ.
5. Khi có bất đồng về sự tồn tại hay sự phù hợp với một hiệp định có liên quan của các biện pháp được thực hiện để
thi hành các khuyến nghị và phán quyết thì tranh chấp như vậy phải được quyết định thông qua các thủ tục giải
quyết tranh chấp ở đây, gồm cả việc sử dụng ban hội thẩm ban đầu nếu có thể. Ban hội thẩm phải chuyển báo cáo
của mình trong vòng 90 ngày sau ngày vấn đề này được đưa cho ban hội thẩm. Khi ban hội thẩm cho rằng không thể
hoàn thành báo cáo trong thời hạn đó, ban hội thẩm phải thông báo cho DSB bằng văn bản về lý do trì hoãn này với
khoảng thời gian dự kiến phải đệ trình báo cáo.
6. DSB phải duy trì giám sát việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết đã được thông qua. Vấn đề thực hiện
các khuyến nghị hoặc phán quyết có thể được bất cứ Thành viên nào đặt ra tại DSB vào bất cứ thời điểm nào sau khi
được thông qua. Trừ khi DSB quyết định khác, vấn đề thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết phải được đưa
vào chương trình nghị sự của DSB sau 6 tháng kể từ ngày thời hạn hợp lý theo khoản 3 được ấn định và phải vẫn
nằm trong chương trình nghị sự của DSB cho tới khi vấn đề được giải quyết. ít nhất là 10 ngày trước mỗi cuộc họp
như vậy của DSB, Thành viên liên quan phải cung cấp cho DSB bản báo cáo bằng văn bản về tiến triển của việc
thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết này.
7. Nếu vấn đề được Thành viên đang phát triển đưa ra, thì DSB phải xem xét để có hành động tiếp theo thích hợp
với các tình tiết.
8. Nếu tranh chấp do Thành viên đang phát triển đưa ra, thì khi cân nhắc biện pháp thích hợp có thể được áp dụng,
DSB phải cân nhắc không chỉ phạm vi áp dụng về thương mại của các biện pháp bị khiếu nại, mà còn cả những ảnh
hưởng của chúng tới nền kinh tế của các Thành viên đang phát triển có liên quan.
Điều 22:Bồi thường và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ
1. Việc bồi thường và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác là những biện pháp tạm thời
được đưa ra trong trường hợp các khuyến nghị và phán quyết không được thực hiện trong khoảng thời gian hợp lý.
Tuy nhiên, việc bồi thường hay tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ nào khác không được là các
biện pháp ưu tiên hơn việc thực hiện đầy đủ khuyến nghị để làm cho một biện pháp phù hợp với các hiệp định có
liên quan. Việc bồi thường là tự nguyện, nếu được đưa ra thì phải phù hợp với các hiệp định có liên quan.
2. Nếu Thành viên liên quan không làm cho biện pháp bị quyết định là không phù hợp trở thành phù hợp với hiệp
định có liên quan hoặc bằng cách khác tuân thủ theo những khuyến nghị và phán quyết trong khoảng thời gian hợp
lý được xác định phù hợp với khoản 3 của Điều 21, thì Thành viên đó phải, nếu được yêu cầu như vậy và không
được chậm hơn ngày hết hạn của khoảng thời gian hợp lý, tiến hành đàm phán với bất cứ bên nào đang viện dẫn tới
những thủ tục giải quyết tranh chấp, nhằm đưa ra việc bồi thường thỏa đáng đối với cả hai bên. Nếu không thỏa
thuận được biện pháp bồi thường thỏa đáng nào trong vòng 20 ngày sau ngày hết hạn thời hạn hợp lý, thì bất cứ bên
nào đã viện dẫn tới các thủ tục giải quyết tranh chấp cũng có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn thi hành việc áp
dụng đối với Thành viên liên quan những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan.
3. Khi xem xét để tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác, thì bên nguyên đơn phải áp dụng
những nguyên tắc và thủ tục sau:
(a) nguyên tắc chung là bên nguyên đơn cần trước tiên tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ
khác đối với cùng (những) lĩnh vực mà ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã xác định là có vi phạm hoặc làm
triệt tiêu hoặc gây phương hại;
(b) nếu bên đó cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không thực tế hoặc không
hiệu quả đối với cùng (những) lĩnh vực đó, thì bên đó có thể tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa
vụ khác trong những lĩnh vực của cùng một hiệp định;
(c) nếu bên đó cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không thực tế hoặc không
hiệu quả đối với những lĩnh vực khác trong cùng hiệp định và những tình huống đủ nghiêm trọng, thì bên đó có thể
tìm kiếm việc tạm hoãn thi hành nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo một hiệp định có liên quan khác;
 (d) khi áp dụng những nguyên tắc trên, bên đó phải cân nhắc:
(i) thương mại trong lĩnh vực hay theo hiệp định mà ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã quyết định là có vi
phạm hoặc làm triệt tiêu hoặc gây phương hại, và tầm quan trọng của lĩnh vực thương mại này đối với bên đó;
(ii) những nhân tố kinh tế lớn hơn liên quan đến việc triệt tiêu hoặc gây phương hại và những hậu quả kinh tế lớn
hơn của việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác;
(e) nếu bên đó quyết định yêu cầu cho phép tạm hoãn những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các tiết (b)
hoặc (c), thì bên đó phải nêu lý do cho yêu cầu của mình. Cùng thời gian khi yêu cầu được chuyển tới DSB, thì yêu
cầu cũng phải được chuyển tới các Hội đồng có liên quan và cả tới các cơ quan chuyên ngành có liên quan trong
trường hợp yêu cầu này phù hợp với tiết (b);
 (f) trong khoản này, thuật ngữ "lĩnh vực" có nghĩa là:
 (i) đối với hàng hóa, tất cả hàng hóa
(ii) đối với dịch vụ, một lĩnh vực chính được xác định trong "Danh mục Phân loại Lĩnh vực Dịch vụ" hiện hành có
xác định những lĩnh vực đó;[14]
(iii) đối với quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại, mỗi loại quyền sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi Mục 1,
hoặc Mục 2, hoặc Mục 3, hoặc Mục 4, hoặc Mục 5, hoặc Mục 6, hoặc Mục 7 của Phần II, hoặc những nghĩa vụ
thuộc Phần III, hoặc Phần IV của Hiệp định TRIPS;
 (g) trong khoản này, thuật ngữ "hiệp định" có nghĩa là:
(i) đối với hàng hóa, tất cả những hiệp định được liệt kê trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO được tính chung,
cũng như các Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên mà Thành viên của những hiệp định này cũng
là các bên có liên quan đến tranh chấp;
 (ii) đối với dịch vụ, là Hiệp định GATS;
 (iii) đối với quyền sở hữu trí tuệ, là Hiệp định TRIPS.
4. Mức độ tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác được DSB cho phép phải tương ứng với
mức độ triệt tiêu hoặc gây phương hại.
5. DSB không được cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác nếu hiệp định có liên
quan cấm việc tạm hoãn thi hành như vậy.
6. Khi tình huống mô tả tại khoản 2 xảy ra, theo yêu cầu, DSB phải cho phép tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc
những nghĩa vụ khác trong vòng 30 ngày kể từ ngày thời hạn hợp lý kết thúc, trừ khi DSB có quyết định trên cơ sở
đồng thuận từ chối yêu cầu đó. Tuy nhiên, nếu Thành viên có liên quan phản đối mức độ tạm hoãn được đề xuất,
hoặc khiếu nại rằng những nguyên tắc và thủ tục nêu tại khoản 3 chưa được tuân thủ khi bên nguyên đơn yêu cầu
cho phép tạm hoãn nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo khoản 3(b) hoặc (c), thì vấn đề này phải được đưa ra
trọng tài. Việc phân xử bằng trọng tài như vậy phải do ban hội thẩm ban đầu tiến hành, nếu các thành viên chấp
nhận, hoặc do một trọng tài viên[15] được Tổng Giám đốc chỉ định và việc xét xử của trọng tài phải được hoàn tất
trong vòng 60 ngày sau ngày thời hạn hợp lý kết thúc. Nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác phải không bị tạm
hoãn trong quá trình phân xử của trọng tài.
7. Trọng tài viên[16] hoạt động theo khoản 6 không xem xét bản chất của những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ
khác bị tạm hoãn nhưng phải quyết định liệu mức tạm hoãn có tương ứng với mức triệt tiêu hay gây phương hại hay
không. Trọng tài viên cũng có thể quyết định liệu đề xuất tạm hoãn những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác có
được phép hay không theo hiệp định có liên quan. Tuy nhiên, nếu vấn đề được đưa ra trọng tài bao gồm cả khiếu nại
rằng những nguyên tắc và thủ tục được nêu ra tại khoản 3 chưa được tuân thủ, thì trọng tài viên phải xem xét khiếu
nại đó. Trong trường hợp trọng tài viên xác định rằng những nguyên tắc và thủ tục đó chưa được tuân thủ thì bên
nguyên đơn phải áp dụng chúng phù hợp với khoản 3. Các bên phải chấp nhận quyết định của trọng tài là quyết định
chung thẩm và các bên liên quan phải không được yêu cầu giải quyết bằng trọng tài lần thứ hai. DSB phải được
thông báo nhanh chóng về quyết định của trọng tài và cho phép theo yêu cầu tạm hoãn nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ
khác, khi có yêu cầu, phù hợp quyết định của trọng tài, trừ khi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận bác bỏ yêu cầu
này.
8. Việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ và các nghĩa vụ khác chỉ là tạm thời và chỉ được áp dụng cho tới khi biện
pháp được coi là không phù hợp với hiệp định có liên quan được loại bỏ, hoặc Thành viên phải thực hiện những
khuyến nghị hoặc phán quyết đưa ra giải pháp đối với việc triệt tiêu hoặc làm phương hại đến lợi ích, hoặc đã đạt
được một giải pháp thoả đáng cho cả hai bên. Theo khoản 6 Điều 21, DSB phải tiếp tục duy trì giám sát việc thực
hiện những khuyến nghị hoặc phán quyết đã được thông qua, kể cả những trường hợp trong đó đã thực hiện bồi
thường hoặc các trường hợp trong đó các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác đã bị tạm hoãn nhưng những khuyến
nghị yêu cầu điều chỉnh một biện pháp cho phù hợp với những hiệp định có liên quan vẫn chưa được thực hiện.
9. Các điều khoản về giải quyết tranh chấp tại các hiệp định có liên quan có thể được viện dẫn đối với những biện
pháp có ảnh hưởng đến việc tuân thủ những hiệp định này của các chính quyền hoặc các cơ quan có thẩm quyền địa
phương hay khu vực trên lãnh thổ của một Thành viên. Khi DSB phán quyết rằng một điều khoản của một hiệp định
có liên quan chưa được tuân thủ, Thành viên có trách nhiệm đó phải thực hiện các biện pháp hợp lý có thể để đảm
bảo việc tuân thủ của mình. Những quy định của các hiệp định có liên quan và Thoả thuận này liên quan tới việc bồi
thường và toạm hoãn thi hành những nhượng bộ hay những nghĩa vụ khác phải được áp dụng trong trường hợp
không thể đảm bảo việc tuân thủ này[17].
Điều 23:Tăng cường hệ thống đa biên
1. Khi các Thành viên muốn xử lý một việc vi phạm các nghĩa vụ hoặc việc làm triệt tiêu hay phương hại những lợi
ích theo các hiệp định có liên quan hoặc gây trở ngại tới việc đạt được bất cứ mục tiêu nào của các hiệp định có liên
quan, thì những Thành viên này phải dựa vào và tuân thủ theo những quy tắc và thủ tục của Thoả thuận này.
2. Trong những trường hợp như vậy, các Thành viên phải:
(a) không được đưa ra quyết định đemlại hệ quả là sự vi phạm đã xảy ra, lợi ích đã triệt tiêu hay bị giảm đi hoặc việc
đạt được bất kỳ mục đích nào của các hiệp định có liên quan đã bị cản trở, trừ khi thông qua việc sử dụng cơ chế
giải quyết tranh chấp theo những quy tắc và thủ tục của Thoả thuận này, và phải đưa ra bất cứ quyết định nào phù
hợp với những kết quả điều tra có trong báo cáo của ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua
hoặc một quyết định của trọng tài được tuyên theo Thoả thuận này;
(b) tuân theo những thủ tục được quy định tại Điều 21 để xác định khoảng thời gian hợp lý cho Thành viên có liên
quan thực thi những khuyến nghị và phán quyết; và
(c) tuân theo những thủ tục được quy định tại Điều 22 để xác định mức độ tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc
những nghĩa vụ khác và xin phép của DSB phù hợp với những thủ tục đó trước khi tạm hoãn thi hành những nhượng
bộ hoặc những nghĩa vụ theo các hiệp định có liên quan nhằm đáp lại việc Thành viên có liên quan không thực hiện
những khuyến nghị và phán quyết trong thời hạn hợp lý.
Điều 24:Thủ tục đặc biệt liên quan đến những thành viên kém phát triển nhất
1. Trong tất cả các giai khoản xác định nguyên nhân của một vụ tranh chấp và xác định thủ tục giải quyết tranh chấp
có liên quan đến Thành viên kém phát triển nhất, cần có lưu ý đặc biệt đến tình hình đặc biệt của các Thành viên
kém phát triển nhất. Theo tinh thần đó, các Thành viên cần kiềm chế một cách thích hợp việc khởi kiện theo những
thủ tục này về các vấn đề có liên quan đến các Thành viên kém phát triển nhất. Nếu phát hiện thấy có sự triệt tiêu
hay làm phương hại đến lợi ích bắt nguồn từ biện pháp do Thành viên kém phát triển nhất thực hiện, các bên nguyên
đơn cần phải kiềm chế một cách thích hợp trong việc yêu cầu bồi thường hoặc xin phép tạm hoãn thi hành các
nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo những thủ tục này.
2.Trong những trường hợp giải quyết tranh chấp có liên quan đến Thành viên kém phát triển nhất, nếu không đạt
được một giải pháp thỏa đáng trong quá trình tham vấn, Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch DSB phải, theo yêu cầu của
Thành viên kém phát triển nhất, đưa ra sáng kiến làm môi giới, trung gian và hòa giải để giúp các bên giải quyết
tranh chấp trước khi có yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch DSB, khi thực hiện việc hỗ
trợ nói trên, có thể tham khảo từ bất cứ nguồn nào được cho là thích hợp.
Điều 25:Trọng tài
1. Việc giải quyết nhanh chóng bằng trọng tài trong khuôn khổ WTO với tư cách là những biện pháp thay thế của
việc giải quyết tranh chấp có thể tạo thuận lợi cho việc giải quyết những tranh chấp nhất định có liên quan đến
những vấn đề đã được cả hai bên cùng xác định rõ.
2. Trừ trường hợp có quy định khác trong Thoả thuận này, việc sử dụng trọng tài phải theo thỏa thuận hai bên và hai
bên phải đồng ý với nhau về thủ tục tố tụng trọng tài phải tuân thủ. Những thỏa thuận về sử dụng trọng tài phải được
thông báo sớm cho tất cả các Thành viên trước khi thực tế bắt đầu tiến trình tố tụng của trọng tài.
3. Các Thành viên khác có thể trở thành một bên tham gia tố tụng của trọng tài chỉ khi có sự đồng ý của các bên là
những bên đã đồng ý sử dụng trọng tài. Các bên tham gia tiến trình tố tụng này phải thoả thuận với nhau là tuân thủ
phán quyết của trọng tài. Các phán quyết của trọng tài phải được thông báo cho DSB và Hội đồng hoặc ủy ban của
bất cứ hiệp định nào có liên quan trong đó bất kỳ Thành viên nào cũng có thể đưa thêm ý kiến có liên quan.
4. Điều 21 và 22 của Thoả thuận này phải được áp dụng tương ứng đối với những phán quyết của trọng tài.
Điều 26:
1. Khiếu kiện không có vi phạm thuộc dạng được nêu trong khoản 1(b) Điều XXIII của GATT 1994
Trong các trường hợp khi các quy định tại khoản 1(b) Điều XXIII của GATT 1994 có thể được áp dụng cho một
hiệp định có liên quan, ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm chỉ có thể đưa ra các phán quyết và khuyến nghị khi
một bên tranh chấp cho rằng lợi ích của họ trực tiếp hay gián tiếp có được theo hiệp định có liên quan đó đang bị
triệt tiêu hoặc xâm hại hoặc việc đạt được mục đích của hiệp định đó đang bị ngăn cản do việc một Thành viên áp
dụng bất kỳ biện pháp nào, bất kể biện pháp đó có mâu thuẫn với những quy định của Hiệp định đó hay không. Khi
và trong chừng mực bên đó và ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm xác định rằng vụ kiện có liên quan đến một
biện pháp mà không mâu thuẫn với các quy định của một hiệp định có liên quan nào mà khoản 1(b) Điều XXIII của
GATT 1994 có thể được áp dụng, các thủ tục của Thoả thuận này phải được áp dụng với điều kiện tuân theo các quy
định như sau:
(a) bên nguyên đơn phải đưa ra bản giải trình chi tiết hỗ trợ cho bất cứ đơn kiện nào có liên quan đến một biện pháp
không mâu thuẫn với hiệp định có liên quan;
(b) khi một biện pháp bị phát hiện là làm triệt tiêu hoặc làm phương hại lợi ích, hoặc cản trở việc đạt mục đích của
hiệp định có liên quan nhưng không vi phạm hiệp định đó thì khi đó không có nghĩa vụ phải loại bỏ biện pháp đó.
Tuy nhiên, trong những trường hợp này, ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm phải khuyến nghị Thành viên có liên
quan tìm kiếm sự điều chỉnh thỏa đáng cho cả đôi bên;
(c) Mặc dù có những quy định tại Điều 21, việc xét xử của trọng tài được quy định tại khoản 3 Điều 21, theo yêu cầu
của bất cứ bên nào, có thể bao gồm cả việc xác định mức độ lợi ích bị triệt tiêu hoặc phương hại, và cũng có thể đề
xuất những cách thức và biện pháp nhằm đạt được sự điều chỉnh thỏa đáng cho cả đôi bên: những đề xuất như vậy
phải không ràng buộc các bên tranh chấp;
(d) Mặc dù có những quy định tại khoản 1 Điều 22, việc bồi thường có thể là một phần của sự đièu chỉnh thỏa đáng
cho cả đôi bên như là giải pháp cuối cùng giải quyết tranh chấp.
2. Khiếu kiện thuộc dạng được nêu tại khoản 1(c) Điều XXIII của GATT 1994
Trong trường hợp các quy định tại khoản 1(c) Điều XXIII của GATT 1994 có thể được áp dụng cho một hiệp định
có liên quan, ban hội thẩm chỉ có thể đưa ra các phán quyết và khuyến nghị khi một bên cho rằng lợi ích mà bên đó
trực tiếp hay gián tiếp được hưởng theo hiệp định có liên quan đang bị triệt tiêu hay phương hại hay việc đạt được
mục đích của hiệp định đang bị cản trở do có sự tồn tại của bất cứ tình huống nào khác với các tình huống mà những
quy định tại khoản 1(a) và (b) Điều XXIII của GATT 1994 có thể được áp dụng. Khi trong chừng mực bên đó và
ban hội thẩm xác định rằng vấn đề này thuộc phạm vi của khoản này, thì các thủ tục của Thoả thuận này chỉ áp dụng
cho tới thời điểm tố tụng khi báo cáo của ban hội thẩm được chuyển đến các Thành viên. Các quy tắc và thủ tục giải
quyết tranh chấp trong Quyết định ngày 12/4/1989 (BISD 36S/61-67) phải áp dụng cho việc xem xét thông qua, việc
giám sát và thực hiện những khuyến nghị và phán quyết. Những quy định dưới đây cũng phải được áp dụng:
(a) bên nguyên đơn phải đưa ra bản giải trình chi tiết để hỗ trợ cho bất cứ lập luận nào được đưa ra đối với các vấn
đề thuộc phạm vi của khoản này;
(b) trong các vụ kiện có liên quan đến những vấn đề thuộc phạm vi của khoản này, nếu ban hội thẩm thấy vụ việc
cũng có liên quan đến các vấn đề giải quyết tranh chấp khác với các vấn đề thuộc phạm vi khoản này, ban hội thẩm
phải chuyển lên DSB một bản báo cáo đề cập đến tất cả các vấn đề như vậy và một bản báo cáo riêng về những vấn
đề thuộc phạm vi khoản này.
Điều 27:Trách nhiệm của ban thư ký
1. Ban Thư ký có trách nhiệm giúp ban hội thẩm, đặc biệt về các khía cạnh pháp lý, lịch sử và thủ tục của các vấn đề
đang được xử lý, và hỗ trợ kỹ thuật cũng như công việc thư ký.
2. Khi Ban Thư ký giúp các Thành viên về giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của họ, thì cũng cần cung cấp thêm tư
vấn pháp lý và hỗ trợ về việc giải quyết tranh chấp cho các Thành viên là các nước đang phát triển. Để đạt được điều
này, Ban Thư ký phải cung cấp chuyên gia pháp lý có năng lực từ các cơ quan dịch vụ hợp tác kỹ thuật của WTO
cho bất cứ Thành viên nào là các nước đang phát triển nếu có yêu cầu. Chuyên gia này phải giúp Thành viên là các
nước đang phát triển theo cách nhằm đảm bảo tính khách quan của Ban Thư ký.
3. Ban Thư ký phải tổ chức những khóa đào tạo đặc biệt cho các Thành viên có quan tâm về những thủ tục và thực
tế giải quyết tranh chấp nhằm tạo điều kiện cho các chuyên gia của các Thành viên được cung cấp thông tin tốt hơn
về lĩnh vực này.
PHỤ LỤC 1
CÁC HIỆP ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CỦA THOẢ THUẬN
(A) Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới
(B) Các Hiệp định Thương mại Đa phương
Phụ lục 1A: Các Hiệp định Đa biên về Thương mại Hàng hóa
Phụ lục 1B: Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ
Phụ lục 1C: Hiệp định về các Khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại
Phụ lục 2: Thoả thuận ghi nhận về Các quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc Giải quyết Tranh chấp.
(C) Các Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên
 Phụ lục 4: Hiệp định về Thương mại Máy ban Dân dụng
Hiệp định về Mua sắm Chính phủ
Hiệp định Quốc tế về Sữa
Hiệp định Quốc tế về Thịt bò
 Khả năng áp dụng của Thoả thuận này cho các Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên phải tùy
thuộc vào sự quyết định của các bên tham gia từng hiệp định quy định các điều kiện về việc áp dụng Thoả thuận này
cho từng hiệp định riêng lẻ, gồm cả bất cứ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung nào được đưa vào Phụ lục 2,
như được thông báo cho DSB.
PHỤ LỤC 2
CÁC QUY TẮC VÀ THỦ TỤC ĐẶC BIỆT HOẶC BỔ SUNG ĐƯỢC NÊU TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH CÓ LIÊN
QUAN
 

Hiệp định Quy tắc và Thủ tục

Hiệp định về việc áp dụng Các Biện pháp vệ sinh 11.2


và vệ sinh dịch tễ
 

Hiệp định về Hàng dệt may  

2.14, 2.21, 4.4, 5.2, 5.4, 5.6, 6.9, 6.10, 6.11, 8.1 đến
 
8.12

Hiệp định về Các Hàng rào Kỹ thuật đối với 14.2 đến 14.4, Phụ lục 2
Thương mại

Hiệp định về Thực hiện Điều VI của GATT 1994 17.4 đến 17.7

Hiệp định về Thực hiện Điều VII của GATT 1994  

19.3 đến 19.5, Phụ lục II.2(f), 3, 9, 21  

Hiệp định về Trợ cấp và Các Biện pháp Đối kháng 4.2 đến 4.12, 6.6, 7.2 đến 7.10, 8.5, chú thích cuối
trang 35, 24.4, 27.7, Phụ lục V

Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ XXII:3, XXII:3


Phụ lục về Dịch vụ Tài chính 4
Phụ lục về Dịch vụ Vận tải Hàng không 4
Quyết định về một số thủ tục Giải quyết Tranh chấp 1 đến 5
nhất định đối với GATS

Danh mục các quy tắc và thủ tục trong Phụ lục này bao gồm cả những điều khoản trong đó chỉ có một phần có thể
có liên quan đến bối cảnh này.
Bất cứ quy tắc hoặc thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung nào trong các Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành
viên được các cơ quan có thẩm quyền của mỗi hiệp định quyết định và được thông báo cho DSB.
PHỤ LỤC 3
THỦ TỤC LÀM VIỆC
1. Trong quá trình tố tụng, ban hội thẩm phải tuân thủ những quy định có liên quan của Thoả thuận này. Ngoài ra,
những thủ tục làm việc sau đây phải được áp dụng.
2. Ban hội thẩm phải họp kín. Các bên có tranh chấp, và những bên có quan tâm, phải có mặt tại các buổi họp chỉ
khi được ban hội thẩm mời có mặt.
3. Việc nghị án của ban hội thẩm và những tài liệu được đệ trình lên phải được giữ bí mật. Không có phần nào trong
Thoả thuận này ngăn cản một bên tranh chấp công bố cho công chúng quan điểm của mình. Các Thành viên phải coi
các thông tin do một Thành viên cung cấp cho ban hội thẩm là thông tin bí mật nếu Thành viên này chỉ ra rằng thông
tin đó là bí mật. Khi một bên tranh chấp đệ trình lên ban hội thẩm một phiên bản mật của văn bản đệ trình, bên đó,
theo yêu cầu của một Thành viên, cung cấp một bản tóm tắt thông tin không mật có thể công bố công khai về những
thông tin chứa đựng trong bản đệ trình đó mà có thể đưa ra công chúng.
4. Trước cuộc họp đi vào nội dung đầu tiên của ban hội thẩm với các bên, các bên tranh chấp chuyển cho ban hội
thẩm văn bản đệ trình trong đó trình bày tình tiết của vụ kiện và những lập luận của mình.
5. Tại cuộc họp đi vào nội dung đầu tiên với các bên, ban hội thẩm phải yêu cầu bên nguyên đơn trình bày vụ kiện
của mình. Sau đó, tại cùng cuộc họp, bên bị khiếu kiện phải được yêu cầu trình bày quan điểm của mình.
6. Tất cả các bên thứ ba đã thông báo có quan tâm đến vụ tranh chấp cho DSB phải được mời bằng văn bản để trình
bày quan điểm của mình trong một phiên làm việc của cuộc họp đi vào nội dung đầu tiên của ban hội thẩm được tổ
chức riêng cho mục đích này. Tất cả các bên thứ ba này đều có thể có mặt trong suốt phiên làm việc đó.
7. Những ý kiến phản bác lại chính thức phải được đưa ra tại cuộc họp đi vào nội dung lần thứ hai của ban hội thẩm.
Bên bị đơn phải có quyền phát biểu trước, sau đó tới bên nguyên đơn. Các bên phải đệ trình, trước khi cuộc họp đó
diễn ra, ý kiến phản bác bằng văn bản tới ban hội thẩm.
8.Trong bất cứ thời điểm nào ban hội thẩm cũng có thể đưa ra câu hỏi với các bên và yêu cầu họ phải giải thích ngay
trong cuộc họp với các bên hoặc bằng văn bản.
9. Các bên tranh chấp và bên thứ ba được mời tới trình bày quan điểm theo quy định của Điều 10 phải cung cấp cho
ban hội thẩm bản viết của những tuyên bố miệng của mình.
10. Để đảm bảo tính minh bạch đầy đủ, các bài trình bày, phản bác và tuyên bố như được đề cập đến từ khoản 5 đến
9 phải được đưa ra khi có mặt của các bên. Hơn nữa, những văn bản đệ trình của mỗi bên, bao gồm bất kỳ những ý
kiến nào về phần mô tả của bản báo cáo và những câu trả lời cho những câu hỏi do ban hội thẩm đưa ra, phải được
cung cấp cho (các) bên khác.
11.Bất cứ thủ tục bổ sung nào cụ thể cho ban hội thẩm.
12. Thời gian biểu dự kiến cho công việc của ban hội thẩm:
(a) Nhận văn bản đệ trình lần đầu tiên của các bên:
(1) Bên nguyên đơn: ______ 3-6 tuần
(2) Bên bị đơn: ______ 2-3 tuần
 (b) Ngày, giờ và địa điểm của cuộc họp đi vào nội dung đầu tiên với các bên: phiên làm việc với bên thứ ba:
______ 1-2 tuần
 (c) Nhận văn bản phản bác của các bên: ______ 2-3 tuần
 (d) Ngày, giờ và địa điểm của cuộc họp đi vào nội dung lần thứ hai với các bên: ______ 1-2 tuần
 (e) Đưa ra phần miêu tả của báo cáo cho các bên: ______ 2-4 tuần
 (f) Nhận ý kiến của các bên về phần miêu tả của báo cáo này: _____ 2 tuần
 (g) Đưa ra báo cáo giữa kỳ, bao gồm những nhận xét và kết luận cho các bên:____ 2-4 tuần
 (h) Thời hạn cuối cùng cho các bên đưa ra yêu cầu rà soát lại (các) phần của báo cáo: ______ 1 tuần
 (i) Thời gian rà soát của ban hội thẩm,kể cả những cuộc họp bổ sung có thể
với các bên:______ 2 tuần
 (j) Đưa ra báo cáo cuối cùng cho các bên tranh chấp: ______ 2 tuần
 (k) Lưu chuyển bản báo cáo cuối cùng này cho các Thành viên:______ 3 tuần
Lịch trên có thể thay đổi theo những diễn biến không thể lường trước được. Các cuộc họp bổ sung với các bên có
thể được thu xếp nếu có yêu cầu.
PHỤ LỤC 4
CÁC NHÓM CHUYÊN GIA RÀ SOÁT
Những quy tắc và thủ tục sau đây phải được áp dụng cho các nhóm chuyên gia rà soát được thành lập phù hợp với
những điều khoản thuộc khoản 2 của Điều 13.
1. Các nhóm chuyên gia rà soát được đặt dưới quyền của ban hội thẩm. Điều khoản tham chiếu và thủ tục làm việc
cụ thể của các nhóm này do ban hội thẩm quyết định, và các nhóm này phải báo cáo lên ban hội thẩm.
2. Chỉ những người có vị trí chuyên môn và có kinh nghiệm trong lĩnh vực đang có tranh chấp mới được tham gia
vào các nhóm chuyên gia rà soát.
3. Công dân của các bên tranh chấp không được làm việc trong bất cứ nhóm chuyên gia rà soát nào nếu không có
thỏa thuận chung của các bên tranh chấp, trừ trong những trường hợp ngoại lệ khi ban hội thẩm cho rằng vì yêu cầu
về trình độ chuyên môn khoa học chuyên sâu không thể làm khác được. Quan chức chính phủ của các bên tranh
chấp không được làm việc trong các nhóm chuyên gia rà soát. Các thành viên của các nhóm chuyên gia rà soát làm
việc trên tư cách cá nhân của họ và không phải là người đại diện cho chính phủ, cũng không phải là đại diện của tổ
chức nào. Vì thế, Chính phủ hay những tổ chức không được có những chỉ thị cho họ về những vấn đề đang được
nhóm chuyên gia rà soát xem xét.
4. Các nhóm chuyên gia rà soát có thể tham vấn và tìm kiếm thông tin và tư vấn kỹ thuật từ bất cứ nguồn nào họ cho
là thích họp. Trước khi một nhóm chuyên gia rà soát tìm kiếm những thông tin hoặc tư vấn như vậy từ một nguồn
trong phạm vi thẩm quyền của một Thành viên, nhóm phải thông báo cho Chính phủ của Thành viên đó. Bất cứ
Thành viên nào cũng phải trả lời nhanh chóng và đầy đủ bất kỳ yêu cầu nào của nhóm chuyên gia rà soát về những
thông tin mà nhóm chuyên gia rà soát cho là cần thiết và thích hợp.
5. Các bên tranh chấp được tiếp cận tất cả những thông tin có liên quan được cung cấp cho nhóm chuyên gia rà soát,
trừ khi thông tin có tính bảo mật. Những thông tin bảo mật được cung cấp cho nhóm chuyên gia rà soát đó phải
không được công bố nếu không có sự cho phép chính thức của chính phủ, tổ chức hay người cung cấp thông tin.
Nếu nhóm chuyên gia rà soát yêu cầu cung cấp những thông tin như vậy, nhưng nhóm chuyên gia rà soát chưa được
phép công bố những thông tin này, thì một bản tóm tắt không bí mật những thông tin này phải được chính phủ, tổ
chức hay cá nhân cung cấp những thông tin đó đưa ra.
6. Nhóm chuyên gia rà soát phải đệ trình dự thảo báo cáo cho các bên tranh chấp để lấy ý kiến, và có tính đến các ý
kiến đó, nếu thấy chúng thích hợp, trong bản báo cáo cuối cùng - bản báo cáo này phải được gửi cho các bên tranh
chấp khi nó được trình lên ban hội thẩm. Bản báo cáo cuối cùng này của nhóm chuyên gia rà soát chỉ có giá trị tư
vấn.
[1] DSB phải được coi là đã quyết định đồng thuận về vấn đề được đệ trình lên DSB để xem xét, nếu không có
Thành viên nào tại cuộc họp của DSB quyết định về vấn đề này chính thức phản đối quyết định đã được đề xuất.
[2] Khoản này cũng sẽ được áp dụng cho các tranh chấp mà các báo cáo của ban hội thẩm chưa được thông qua
hoặc chưa được thực hiện đầy đủ.
[3] Nếu các quy định của bất kỳ hiệp định có liên quan nào về những biện pháp được thực hiện bởi chính quyền địa
phương hay khu vực hoặc các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi lãnh thổ của một Thành viên có quy định khác
với những quy định nêu trong khoản này thì những quy định của hiệp định có liên quan đó phải được ưu tiên áp
dụng.
[4] Các điều khoản tham vấn tương ứng trong các hiệp định có liên quan được liệt kê dưới đây:
Hiệp định về Nông nghiệp, Điều 19: Hiệp định về việc áp dụng các Biện pháp Vệ sinh Động Thực vật, khoản 1 của
Điều 11: Hiệp định về Hàng dệt và May mặc, khoản 4 của Điều 8: Hiệp định về các Hàng rào Kỹ thuật đối với
Thương mại, khoản 1 của điều 14: Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại, Điều 8: Hiệp
định về việc Thực thi Điều VI của GATT 1947, khoản 2 của Điêu 19: Hiệp định về Giám định hàng hoá trước khi
xếp hàng, Điều 7: Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ, Điều 7: Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu, Điều 6: Hiệp
định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng, Điều 30: Hiệp định về Tự vệ, Điều 14: Hiệp định về những Khía cạnh
liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ, Điều 64.1; và bất cứ điều khoản tham vấn nào tương ứng
trong các Hiệp định Thương mại tuỳ nghi của một số Thành viên như được các cơ quan có thẩm quyền của mỗi hiệp
định quyết định và như được thông báo cho DSB.
[5] Nếu bên nguyên đơn có yêu cầu, một cuộc họp DSB phải được tổ chức với mục đích này trong vòng 15 ngày kể
từ khi nhận được yêu cầu, với điều kiện là phải thông báo cuộc họp trước 10 ngày.
[6] Trong trường hợp liên minh thuế quan hoặc các thị trường chung là các bên trong tranh chấp thì quy định này
phải áp dụng cho công dân của tất cả các nước thuộc liên minh thuế quan hoặc các thị trường chung đó.
[7] Nếu cuộc họp của DSB không được đự định tổ chức trong giai khoản này tại thời điểm mà cho phép có thể đáp
ứng được những yêu cầu của khoản 1 và 4 của Điều 16, thì một cuộc họp DSB phải được tổ chức với mục đích này.
[8] Nếu cuộc họp của DSB không được đự định tổ chức trong giai khoản này, một cuộc họp DSB như vậy phải
được tổ chức với mục đích này.
[9] “Thành viên liên quan” là bên tranh chấp mà các khuyến nghị của ban hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm được
nhằm vào.
[10] Đối với các khuyến nghị trong các trường hợp không liên quan đến việc vi phạm GATT 1994 hay bất cứ hiệp
định có liên quan nào khác, xem Điều 26.
[11] Nếu cuộc họp của DSB không được đự định tổ chức trong giai khoản này, một cuộc họp DSB như vậy phải
được tổ chức với mục đích này.
[12] Nếu các bên không thể đồng ý về trọng tài viên trong vòng 10 ngày kể từ khi đưa vấn đề này ra trọng tài, thì
một trọng tài viên được Tổng Giám đốc chỉ định trong vòng 10 ngày, sau khi tham vấn các bên.
[13] Thuật ngữ “trọng tài viên” phải được hiểu là nói tới một cá nhân hoặc một nhóm người.
[14] Danh mục trong tài liệu MTN.GNS/W/120 xác định 11 lĩnh vực.
[15] Thuật ngữ "trọng tài viên" phải được hiểu là nói tới một cá nhân hoặc một nhóm.
[16] Thuật ngữ "trọng tài viên" phải được hiểu là nói tới một cá nhân hoặc một nhóm hoặc các Thành viên của ban
hội thẩm ban đầu khi làm việc với tư cách trọng tài viên.
[17] Nếu các điều khoản của bất cứ hiệp định có liên quan nào về những biện pháp do chính quyền hoặc các cơ
quan có thẩm quyền của địa phương hay vùng lãnh thổ của một Thành viên có những điều khoản khác với những
điều khoản trong khoản này, thì những điều khoản của những hiệp định có liên quan đó phải quyết định.
(Các văn bản này chỉ có giá trị tham khảo. Ngày ban hành trong văn bản này chỉ mang tính tương đối).

You might also like