You are on page 1of 26

CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

I - KHÁI NIỆM TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI


1. Khái niệm
Tổ chức chính trị-xã hội là các tổ chức được thành lập bởi những thành
viên đại diện cho lực lượng xã hội nhất định, thực hiện các hoạt động xã hội
rộng rãi và có ý nghĩa chính trị nhưng các hoạt động này không nhằm tới mục
đích giành chính quyền. Căn cứ vào quy mô và tính chất hoạt động của các tổ
chức chính trị-xã hội mà các tổ chức này thường tồn tại và hoạt động bên cạnh
các tổ chức chính trị với tính chất hỗ trợ hoạt động của các tổ chức chính trị. Các
tổ chức chính trị-xã hội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả nước.
Các tổ chức này có điềụ lệ hoạt động do đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu
các thành viên thông qua. Các tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Trong đời sống nói chung, tổ chức được hiểu là sự sắp xếp, bố trí những
nhân tố vốn khác nhau lại thành một chỉnh thể các bộ phận để cùng thực hiện
những chức năng chung. Từ cách hiểu trên, GS.TS. Dương Xuân Ngọc đã đưa
ra định nghĩa hoàn chỉnh về một tổ chức chính trị - xã hội, đó là: “Các tổ chức
chính trị là tổ chức của những cộng đồng người trong cơ cấu xã hội dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, thống nhất hoạt động. Các tổ chức ấy lấy hoạt
động chính trị - xã hội làm phương thức chủ yếu để tập hợp, tổ chức hành động
của các thành viên nhằm gây ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) với mức độ
khác nhau đối với quyền lực chính trị và lợi ích của các thành viên trong tổ
chức mình.”
Trong tổ chức, các thành viên tham gia đều đại diện cho một lực lượng xã
hội nhất định nhằm thực hiện các hoạt động xã hội rộng rãi và có ý nghĩa chính
trị. Tuy nhiên, các hoạt động này không nhằm tới mục đích giành chính quyền.
Thay vào đó, các tổ chức này thường tồn tại và hoạt động bên cạnh các hoạt
động chính trị nhằm hỗ trợ các hoạt động của các tổ chức chính trị của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Đây chính là mối liên hệ đầu tiên giữa các tổ chức
chính trị - xã hội tới nhà nước, trong đó sự tham gia của các tổ chức xã hội trong
quản lý nhà nước là một thành tố tạo nên nền dân chủ, vai trò tăng cường sức
mạnh chính trị cho người dân. Nếu như trước kia người dân là những cá thể đơn
lẻ thiếu tự tin, năng động và tránh tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt
động chính trị thì khi được tập hợp và liên kết thành một nhóm tổ chức xã hội,
họ sẽ có sức mạnh và vị thế hơn, từ đó nâng cao ý thức xây dựng xã hội và đất
nước.
Mối liên hệ tiếp theo giữa nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được
thể hiện ở vai trò mà nhà nước sẽ quyết định hoạt động của tổ chức. Cụ thể hơn,
thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo cơ sở và khuôn khổ pháp lý cho sự ra
đời và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Với những tổ chức ra đời sau
nhà nước thì phải được nhà nước cho phép thành lập mới có thể thành lập, tồn
tại và hoạt động một cách hợp pháp. Với các tổ chức ra đời trước nhà nước thì
sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức đó chỉ hợp pháp khi được nhà nước công

1
nhận. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội khác tham gia
vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước; tham gia
thảo luận, phản biện xã hội đối với các chính sách, các kế hoạch, các dự án
luật… của nhà nước. Thêm vào đó, nhà nước còn quản lý các tổ chức chính trị -
xã hội khác và hội viên của các tổ chức đó theo pháp luật; bảo vệ lợi ích hợp
pháp của các tổ chức và hội viên tham gia; đồng thời cũng xử lý các tổ chức và
hội viên khi họ vi phạm pháp luật.

2. Điều kiện ra đời của các tổ chức chính trị xã hội


Sự phát triển của kinh tế thị trường và các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ
XVII với việc áp dụng các lý thuyết tự do kinh tế là căn nguyên để hình thành
các tổ chức xã hội như nghiệp đoàn, nhóm trang trại và phong trào hợp tác xã
những người tiêu thụ.. Nền dân chủ tư sản ở một mức độ nhất định là điều kiện
để hình thành, duy trì sự tồn tại của các tổ chức này.
Nhà nước có hai chức năng: chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Tuy
nhiên trên thực tế, lợi ích của giai cấp nhiều khi lại đặt cao hơn lợi ích của toàn
xã hội. Để đảm bảo lợi ích khác nhau của các nhóm xã hội trong điều kiện mà
Hiến pháp các nước đã nêu ra là quyền tự do cho mỗi công dân, thì việc hình
thành các tổ chức xã hội khác nhau của người dân là điều được nhận thấy rất rõ.
Trong xã hội hiện đại, nhà nước là do người dân “ủy quyền” qua bầu cử
mà ra. Do vậy họ được quyền kiểm soát hoạt động của nhà nước đáp ứng lợi ích
cho họ. Đây là nguyên nhân để các tổ chức xã hội xuất hiện, trở thành đại diện
cho các nhóm lợi ích nhất định. Hơn nữa, người dân chỉ có thể được mở rộng
tiếng nói, bảo vệ lợi ích khi tham gia vào các tổ chức nào đó.
a. Phân loại các tổ chức chính trị - xã hội
Tuy có nhiều cách phân loại các tổ chức chính trị-xã hội từ những cách
tiếp cận khác nhau nhưng các học giả đã phân loại thành các nhóm chủ yếu sau:
Nhóm kinh tế: bao gồm công đoàn, các hiệp hội sản xuất và thương mại
(các tổ chức kinh tế, lao động theo nghề nghiệp).
Công đoàn là tổ chức cho công nhân, mục tiêu là cải thiện tiền lương và
điều kiện làm việc của người lao động, gây ảnh hưởng đến quan điểm cộng đồng
và chính phủ về các vấn đề kinh tế, xã hội
Các tổ chức kinh tế là hình thức đại diện cho các tập đoàn kinh tế đa lợi
ích, sử dụng sức mạnh đầu tư và khả năng tác động đến các quốc gia khác để tác
động đến các quyết định của Chính phủ, quan tâm đến việc duy trì những điều
kiện chính trị, xã hội có lợi cho hoạt động của mình
Các tổ chức nghề nghiệp thì bảo vệ lợi ích của các nhóm lao động có nghề
nghiệp khác nhau.
Nhóm theo các vấn đề: bao gồm các phong trào bảo vệ môi trường, cải
cách đất đai, bảo vệ người tiêu dùng; hay các phong trào bảo vệ và thúc đẩy lợi
ích của những nhóm xã hội cụ thể như người cao tuổi, nhóm cứu tế trẻ em,...
Nhóm văn hóa: bao gồm các tổ chức, thể chế khác nhau như tôn giáo, sắc
tộc, cộng đồng tín ngưỡng... nhằm bảo vệ các quyền, các giá trị của đời sống văn
hóa, lòng tin tôn giáo, sự trung thành và biểu tượng của chúng.

2
Nhóm thông tin và giáo dục: bao gồm các tổ chức nhằm tạo ra và truyền
bá những tri thức, thông tin, giá trị... của cộng đồng (có thể vì mục đích lợi
nhuận hoặc không).
Nhóm theo quan điểm: dựa trên cơ sở lợi ích được thiết kế để thúc đẩy
hoặc bảo vệ những lợi ích chung của các thành viên, chẳng hạn như nông dân,
công nhân, cựu chiến binh, giáo viên, người nghỉ hưu,...
Nhóm lợi ích: nó lồng chứa ở tất cả các nhóm đã nêu ở trên. Về thực chất,
tất cả các nhóm đó đều là nhóm lợi ích. Tất cả các nhóm đó được hình thành đều
vì mục đích lợi ích chung: tình cảm, tư tưởng, tập đoàn, nghề nghiệp, bạn bè.
Tuy nhiên, nhóm lợi ích còn được hiểu là việc đòi lợi ích của mình với chính
quyền. Vì vậy, nhóm lợi ích được phân biệt với những nhóm khác bởi các tác
động qua lại của nó với những thể chế của nhà nước và những đảng phái đứng
đầu đấu tranh cho việc tham gia cơ cấu chính quyền, giành chính quyền hoặc
đang nắm giữ chính quyền. Cách tiếp cận về các nhóm lợi ích vừa dựa trên
những yếu tố tổ chức, vừa dựa trên những thể thức hành động nhằm ảnh hưởng
đến chính quyền.
Nhóm áp lực: là một tổ chức các thành viên muốn gây ảnh hưởng tới luật
pháp; các nhà lập pháp và các thành viên hành pháp. Về thực chất, các nhóm áp
lực cũng là để khai thác các nguồn lợi, tức là cũng vì lợi ích, và do vậy đôi khi
một nhóm lợi ích cũng là nhóm áp lực, hoặc lúc đầu chỉ là nhóm lợi ích nhưng
sau đó trở thành nhóm áp lực. Một nhóm áp lực có thể sự dụng các biện pháp
khác nhau để ảnh hưởng tới luật pháp như: Có thể dành tiền hoặc thời gian trợ
giúp chiến dịch tranh cử; các thành viên của nó có thể đe dọa việc bỏ phiếu (hợp
tác hoặc bất hợp tác với nhà lập pháp); một nhóm áp lực có thể giúp cho lập
pháp dễ dàng bằng cách soạn thảo những dự luật và giúp các nhà lập pháp đưa
ra những cam kết thông đồng.

3. ĐẶC ĐIỂM CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI

a. Tính chất cơ bản

Các tổ chức chính trị-xã hội đại diện cho các nhóm xã hội là cầu nối giữa
các tầng lớp nhân dân với các cơ quan quyền lực Đảng và Nhà nước. Thông qua
các tổ chức này, lợi ích chung của toàn xã hội, cộng đồng, cá nhân được kết hợp
hài hòa, làm tiền đề cho đoàn kết dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của
các tổ chức chính trị-xã hội bị quy định bởi tính chất và trạng thái của thể chế
chính trị. Các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ đơn thuần là chỗ dựa của nhà
nước, hợp tác với nhà nước, mà còn là cơ sở kiềm chế, đối trọng đối với nhà
nước, giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước một cách cân bằng trong xã hội,
không thiên vị hay tạo ra đặc quyền cho một nhóm người, hay bất cứ một tầng
lớp xã hội nào; thể hiện sự giám sát, phản biện của xã hội đối với chính sách của
nhà nước; tổ chức và cá nhân hoạt động trong bộ máy nhà nước, để làm cho nhà
nước đáp ứng được lợi ích, nhu cầu của nhân dân. Nhìn chung các tổ chức chính
trị - xã hội có các tính chất cơ bản sau:

3
2.1.1 Tính quần chúng

Tổ chức nhóm chính trị - xã hội được hình thành với một sự tập hợp lực
lượng quảng đại quần chúng theo những đặc điểm xã hội nhất định như: lứa tuổi,
giới tính, tôn giáo, nghề nghiệp,...; mà trong những đặc điểm ấy, mỗi người tìm
thấy ở nhau những vấn đề chung và họ cũng chỉ có thể giải quyết được khi cùng
liên kết lại mà phát huy sức mạnh của nhau.

Cụ thể như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị- xã hội
của giai cấp công nhân và lao động Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất
giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao động phát
huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

2.1.2. Tính chính trị

Tổ chức chính trị - xã hội thể hiện ở chỗ lợi ích của các thành viên trong
nhóm được thực hiện bằng phương thức chính trị; nghĩa là, tổ chức tác động đến
cơ chế thực thi quyền lực chính trị của xã hội mà chủ yếu và cơ bản nhất là tác
động vào thể chế quyền lực nhà nước theo yêu cầu tồn tại và phát triển của các
thành viên nhóm mình.

Một điểm hình có thể nhắc tới như: Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ
chức chính trị - xã hội, là thành viên có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống
chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức thành viên
của hệ thống chính trị. Hội cựu chiến binh Việt Nam tập hợp, đoàn kết, bồi
dưỡng và động viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng,
tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, phát huy dân chủ, góp phần giữ ổn
định chính trị, tăng cường quốc phòng và an ninh; tham gia thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; góp phần tích cực vào việc giáo dục thế hệ
trẻ và tham gia vào hoạt động nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng
và Nhà nước.

2.1.3. Tính tự nguyện

Tổ chức chính trị - xã hội là do quần chúng tự thành lập với sự tự giác gia
nhập của mỗi người theo điều lệ của tổ chức, từng tổ chức tự điều hành, tự quản
lý và tự điều phối mọi mặt về hoạt động của các thành viên trong nhóm; tự chủ
về mặt tài chính (trừ trường hợp đặc biệt).

4
Tại khoản 2 Điều 9 Hiến pháp đã xác định cụ thể các tổ chức chính trị - xã
hội bao gồm: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam”; khẳng định: “Được thành lập trên cơ sở tự nguyện”. Qua đó thể hiện tính
độc lập tương đối của các tổ chức chính trị - xã hội. Ở đây cần nhắc lại hai từ
mới bổ sung là “tự nguyện” để thấy rõ bản chất và quan điểm phát triển đoàn
viên, hội viên của các tổ chức; bảo đảm tập hợp được đông đảo quần chúng, đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Hiến pháp xác định các
tổ chức chính trị - xã hội phải tự “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
đoàn viên, hội viên tổ chức mình”.

2.1.4. Tính liên hợp

Tổ chức chính trị - xã hội thể hiện ở từng tổ chức khác nhau tuy độc lập
với nhau nhưng các tổ chức có thể thâm nhập lẫn nhau, tổ chức này có thể là
thành viên của tổ chức khác có sức đại diện rộng rãi hơn để tăng cường sức ảnh
hưởng đến nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện lợi ích của nhóm mình và của
cả liên minh; từng tổ chức thường xuyên có liên hệ với nhà nước, với các chính
đảng, là cơ sở chính trị - xã hội của thế lực nào đó trong nhà nước hay các chính
đảng, phe phái chính trị khác nhau.

Cụ thể như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thuộc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong khi cả hai đều là những tổ chức chính trị - xã hội ở nước Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

2.2. Chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội

2.2.1. Giáo dục quần chúng

Giác ngộ các thành viên về mọi mặt để tăng cường khả năng thực hiện
mục tiêu của tổ chức. Không ngừng nâng cao trình độ dân trí - đặc biệt là trình
độ văn hoá pháp lý, văn hoá dân chủ, văn hoá chính trị cho các thành viên trong
tổ chức, nhằm tăng hiểu biết và thực hiện mục tiêu của tổ chức một cách đúng
đắn.

2.2.2. Bảo vệ lợi ích của quần chúng

Thông qua nhà nước, theo yêu cầu của nhóm mình, từng tổ chức can thiệp
vào những khía cạnh, với những mức độ khác nhau đối với hoạt động của nhà
nước mà thường gây sức ép buộc nhà nước phải thực thi hay điều chỉnh một
điều luật cụ thể hoặc không thực hiện chức sách hay đề ra chủ trương nào đó có
lợi cho nhóm của mình.

5
Một ví dụ điển hình như Hội Nông dân Việt Nam được thành lập nhằm
mục đích chính là động viên, tổ chức nông dân lao động trong cả nước hăng hái
tham gia sản xuất, giáo dục tinh thần yêu nước. Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông
dân Việt Nam - một bộ phận dân cư lớn nhất ở nước ta.

2.2.3. Tập hợp và đưa từng thành viên tham gia vào đời sống chính trị của
đất nước

Chính điều này đã góp phần điều chỉnh quyền lực công của nhà nước theo
hướng phục vụ cho từng bộ phận nhân dân cụ thể; tham gia vào việc giải quyết
những mối quan hệ tế nhị như vấn đề về giai cấp, chủng tộc, tôn giáo hay chống
độc quyền của hệ thống chính trị… Trong những trường hợp nhất định, tổ chức
chính trị - xã hội cũng có thể can thiệp sâu vào công việc của nhà nước, tham gia
vào việc giành quyền lực chính trị của các chính đảng.

Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị mà
ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động đến kết quả hoạt động bảo vệ quyền con
người của hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ
thống phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị.
Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị và
hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân dân.
Cho nên, xét về mặt tích cực, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều
thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp. Như vậy, có thể rút ra được
rằng đặc điểm chung nhất của các tổ chức chính trị - xã hội là sự tự liên kết
những cá nhân có chung đặc điểm xã hội thành chỉnh thể tác động vào quyền
lực nhà nước theo yêu cầu và thể hiện quyền lực nhóm dân chúng đối với sự
phát triển xã hội.

4. CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ


NGHĨA (CÁC NHÓM LỢI ÍCH)

3.1. Chủ nghĩa tư bản


Chủ nghĩa tư bản là nền kinh tế thị trường lao động tự do hoặc nền kinh tế
doanh nghiệp tự do, hệ thống kinh tế thống trị thế giới phương Tây kể từ khi chế
độ phong kiến tan rã, trong đó hầu hết các phương tiện sản xuất đều thuộc sở
hữu tư nhân và sản xuất được định hướng và thu nhập phân phối chủ yếu thông
qua hoạt động thị trường.
Hình thức thuần túy nhất của chủ nghĩa tư bản là thị trường tự do hoặc
chủ nghĩa tư bản tự do kinh tế. Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều áp dụng một
hệ thống tư bản kết hợp với một số điều tiết của chính phủ đối với hoạt động
kinh doanh và quyền sở hữu của một số ngành công nghiệp.

6
3.2. Tổ chức chính trị- xã hội và các nhóm lợi ích trong xã hội tư bản chủ
nghĩa

Các tổ chức chính trị xã hội

Trong xã hội tư bản có cả những tổ chức chính trị- xã hội thuộc giai cấp
tư sản và tổ chức chính trị - xã hội của người lao động. Các tổ chức chính trị - xã
hội của người lao động xuất hiện do yêu cầu đấu tranh giai cấp và thể hiện sự
trưởng thành của các lực lượng quần chúng. Trong đó, có những tổ chức chính
trị – xã hội là chỗ dựa của nhà nước, số khác thì đối lập với nhà nước. Giữa các
tổ chức chính trị - xã hội cũng có xung đột nhưng thường có sự tranh giành sự
ủng hộ của quần chúng và trong đấu tranh tác động vào nhà nước thì vai trò
quyết định cũng như ưu thế thường thuộc về các tổ chức chính trị - xã hội của
giai cấp tư sản.

Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm các tổ chức mà hoạt động của
chúng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Tùy theo điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể ở mỗi nước; các các đoàn thể nhân dân có đặc điểm riêng về
tổ chức và phương thức hoạt động. Thông thường các đoàn thể nhân dân không
đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền; mà thường vì lợi ích của các
thành viên trong tổ chức của mình tìm cách tác động, gây ảnh hưởng đối với
chính quyền và đảng phái chính trị.

Các nhóm lợi ích trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Nhóm lợi ích bao gồm nhiều thành viên của một xã hội có cùng quan
điểm, cùng nhu cầu lợi ích chung liên kết với nhau theo một chế độ tự nguyện,
hoạt động ảnh hưởng ở mức độ nhất định phương thức nhất định tác động đến
quyền lực nhà nước vì lợi ích, nhu cầu các thành viên của nhóm.

Các nhóm lợi ích chính trị đấu tranh cho lợi ích của nhóm mình bằng cách
tác động vào việc hoạch định chính sách của các đảng chính trị và của chính
quyền. Đây là các nhóm của những người có cùng lợi ích liên kết với nhau nhằm
gây ảnh hưởng tới các quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính
trị của Đảng cầm quyền, việc thực thi pháp luật và các chính sách kinh tế - xã
hội của Nhà nước. Các nhóm lợi ích chính trị, ở một khía cạnh nào đó có thể
hiểu là các đoàn thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội). Tuy nhiên, các
đoàn thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã hội) là các tổ chức nằm ngoài nhà
nước; còn Nhóm lợi ích chính trị thì có thể tồn tại ngay bên trong nhà nước.

Các Nhóm lợi ích chính trị, xét đến cùng, cũng chỉ là công cụ để giai cấp
tư sản thực hiện quyền lực chính trị của mình (về mặt lý thuyết các nhóm lợi ích
chính trị có vai trò trong việc giành quyền lực để đảm bảo lợi ích của quần
chúng; nhưng trên thực tế nó là thiết chế của tầng lớp thượng lưu và trung lưu có

7
xu hướng thỏa hiệp với nhà nước vì lợi ích của giới thượng lưu và nội bộ giai
cấp tư sản).

Các nhóm lợi ích là không tập trung hoạt động để tranh giành trong các
cuộc bầu cử vào các chức vụ chính quyền, họ dành sức lực cho hoạt động chính
trị và phi chính trị (nghề nghiệp) tồn tại trong thời gian nhất định.

3.2.1. Đặc điểm

3.2.1.1. Những nhóm có tính chất thể chế


Các cơ quan hành chính và tổ chức quân đội sản sinh ra những nhóm lợi
ích mạnh có khả năng ảnh hưởng đến đường lối chính trị của nhà nước theo
hướng có lợi cho họ.

Ở Anh có Hội Quan chức Thủ đô, Hội của những người đồng tỉnh ở Nghị
viện, các tổ chức quốc gia, các tổ chức công đoàn. Ở Đức có Hội các thành phố,
Ý có Hội các vùng, Mỹ có Hội các Thống đốc toàn quốc, Hội các Thị trưởng và
Hội các Chính phủ bang. Ở Pháp, Hội các Thị trưởng của thành phố lớn có khả
năng gây áp lực đối với Chính phủ Trung ương trong việc đưa ra chính sách
quốc gia có lợi cho họ.

3.2.1.2. Những nhóm hợp tác

Hợp tác nhóm có tính trọng tâm cao và là tập hợp lực lượng theo chức
năng dựa trên lĩnh vực cụ thể (như các hợp tác nhóm về kinh tế số) giữa người
trong cùng một nhóm hay những quốc gia với nhau về các vấn đề như bảo vệ
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, phòng chống bệnh
HIV/AIDS, chống chiến tranh.

3.2.1.3. Những tổ chức của giới chủ


Ở các nước tư bản chủ nghĩa, chính phủ không dám coi thường các yêu
cầu của nhóm lợi ích của giới chủ kinh doanh trong việc đề ra các chính sách
kinh tế - xã hội.

Ở Mỹ có “Hiệp hội toàn quốc của các chủ xưởng”, “Phòng thương mại
Hoa Kỳ”, ở Đức có hiệp hội những người thêu công nhân, Liên đoàn các phòng
thương mại và Liên đoàn kỹ nghệ Đức, Ý có Liên đoàn giới chủ tư nhân và liên
hiệp các lĩnh vực công cộng, ở Anh có tổng liên đoàn công nghiệp Anh… Tất cả
nhóm lợi ích của giới chủ chỉ có một đòi hỏi là đảm bảo tự do kinh doanh,
chống lại những mưu toan trong xã hội kinh tế.

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và
của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện. Vì mang nặng tính
chính trị hoặc tư tưởng, các nhóm lợi ích công đoàn gắn với các đảng phái đấu
tranh cho dự án xã hội rộng lớn nên phải đấu tranh trên cả 3 mặt trận: đấu tranh
8
đối với chính phủ, đấu tranh đối với giới chủ và đấu tranh đối giữa các tổ chức
công đoàn.
Như ở Mỹ có các Tổ chức công đoàn (Tổng liên đoàn lao động, Liên đoàn lao
động dân chủ, Liên đoàn giáo dục quốc dân, Tổng liên đoàn viên chức..)

3.2.1.5. Những hiệp hội nhân dân, nhóm nông nghiệp

Ở Ý, giới điền chủ nông nghiệp (Coldiretti) luôn được chính phủ của đảng
dân chủ Thiên Chúa giáo bảo vệ, ở Pháp, mối liên hệ giữa chính phủ với các tổ
chức nông dân luôn có quan hệ chặt chẽ, ở Đức những người làm nông nghiệp
được coi như là một trong những nhóm gây áp lực mạnh nhất, ở Mỹ từ năm
1983 đến 1986 những tài khoản dùng cho việc nâng đỡ giá cả và thu nhập trong
khu vực nông nghiệp lên tới 63 tỷ USD.

Loại hình các nhóm lợi ích:

Nhóm thực hiện lợi ích giai cấp: Nhóm doanh nghiệp lo xây dựng những
chính sách bảo đảm sự tồn tại chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ tư hữu, kinh
doanh tự do; nhóm công đoàn bảo vệ lợi ích cho người lao động.

Các nhóm nghề nghiệp (nhà giáo, y tế, thương mại...): Tổ chức thành
các hiệp hội từ trung ương đến địa phương (Phòng Thương mại, Uỷ ban Công
đoàn trung ương).

Các nhóm theo từng vấn đề: Nhóm người cùng mong muốn giải quyết
một vấn đề xã hội nào đó (nhà ở, công viên, trường học, phúc lợi xã hội). Các
nhóm lợi ích lãnh thổ: Các nhóm chỉ quan tâm tới những vấn đề của địa phương.
Các nhóm quan tâm cải cách: Nhóm người có nguyện vọng cải cách hay
hoàn thiện một số hoạt động chính trị - xã hội (Câu lạc bộ thành phố, Liên đoàn
các nữ cử tri...)

Tựu trung lại, những nhóm lợi ích là tổ chức bao gồm nhiều thành viên
của một xã hội có cùng quan điểm, nhu cầu lợi ích chung liên kết với nhau theo
chế độ tự nguyện, hoạt động ảnh hưởng ở mức độ nhất định phương thức nhất
định tác động đến quyền lực nhà nước vì lợi ích, nhu cầu các thành viên nhóm.
Các nhóm lợi ích chính trị đấu tranh cho lợi ích của nhóm mình bằng cách tác
động vào việc hoạch định chính sách của các đảng chính trị và chính quyền.

3.2.2. Chức năng


Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống chính trị và kinh tế trong đó các cá nhân
hoặc công ty tư nhân sở hữu và kiểm soát các phương tiện sản xuất và phân phối
hàng hóa và dịch vụ. Nhiều tổ chức và liên minh chính trị và xã hội tồn tại dưới
chủ nghĩa tư bản, mỗi tổ chức có mục tiêu riêng. Theo James M. Jasper, "Các

9
phong trào xã hội và các nhóm lợi ích tìm cách gây ảnh hưởng đến chính sách
của chính phủ và các chủ thể khác bằng cách huy động hành động tập thể, tác
động đến dư luận và phát triển các chính sách và chương trình thay thế". Các tổ
chức này hoạt động để thúc đẩy lợi ích của nhiều nhóm và cá nhân, và các mục
tiêu chung của họ có thể được chia thành ba loại: kinh tế, xã hội và chính trị.

3.2.2.1. Về mặt kinh tế


Các hiệp hội doanh nghiệp là các tổ chức hoạt động nhằm tác động đến
các chính sách kinh tế có lợi cho các thành viên của họ. Một số ví dụ tiêu biểu
về các tổ chức này bao gồm Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia (NAM) tại Mỹ,
Keidanren tại Nhật Bản, Phòng Thương mại Hoa Kỳ và Liên đoàn Công nghiệp
Đức (BDI). Tại Hoa Kỳ, NAM đại diện cho lợi ích của ngành công nghiệp sản
xuất và vận động hành lang cho các chính sách hỗ trợ các thành viên của họ,
chẳng hạn như giảm thuế và bãi bỏ một số những quy định, trong khi Phòng
Thương mại Hoa Kỳ đại diện cho hơn 3 triệu doanh nghiệp và hoạt động nhằm
thúc đẩy thị trường tự do và hỗ trợ các doanh nghiệp Mỹ tăng trưởng. BDI ủng
hộ các chính sách tương tự như cải cách thuế, chính sách năng lượng và chính
sách thương mại, cũng như thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, các tổ chức đấu tranh cho các vấn đề liên quan đến kinh tế
không chỉ dừng lại trong nội địa quốc gia của họ mà có thể có sức ảnh hưởng
mang tầm đa quốc gia, khu vực hay thậm chí là thế giới. Các tổ chức bảo vệ môi
trường như Greenpeace và Friends of the Earth vận động xây dựng các luật bảo
vệ môi trường và lợi ích của người tiêu dùng. Tương tự, các tổ chức như
Consumer Reports và Public Citizen ủng hộ các hoạt động và chính sách kinh tế
bền vững.

3.2.2.2. Về mặt xã hội


Các tổ chức nhân và dân quyền tiêu biểu như Hiệp hội quốc gia vì sự tiến
bộ của người da màu (NAACP) ở Mỹ, Đại hội dân tộc châu Phi (ANC) ở Nam
Phi, Hiệp hội đồng tính nữ và đồng tính nam tại Đức (LSVD) và Tổ chức phụ nữ
Canada (CWF),... đã có những tác động và đóng góp đáng kể đến các vấn đề xã
hội. Các tổ chức này và nhiều tổ chức dân, nhân quyền tương tự khác đã đấu
tranh để thúc đẩy nhằm tạo ra một xã hội công bằng và bình đẳng hơn thông qua
các chiến dịch vận động quyền và công lý cho các nhóm thiểu số và bị chịu thiệt
thòi.

Các tổ chức tôn giáo như Hội đồng Quốc gia của các Nhà thờ ở Hoa Kỳ và
Rashtriya Swayamsevak Sangh (RSS) ở Ấn Độ thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc của
đạo Hindu và gây ảnh hưởng đến các chính sách chính trị, giúp định hình các
vấn đề xã hội bằng cách thúc đẩy các giá trị phù hợp với niềm tin tôn giáo của
họ.

10
3.2.2.3. Về mặt chính trị

Công đoàn là các tổ chức bảo vệ quyền của người lao động và ủng hộ các
điều kiện lao động tốt hơn. AFL-CIO là một trong những liên đoàn lao động lớn
nhất ở Hoa Kỳ, đại diện cho hơn 12 triệu công nhân, trong khi Liên đoàn Công
đoàn Đức (DGB) là một liên đoàn lao động lớn đại diện cho hơn 6 triệu thành
viên. Các tổ chức này sử dụng quyền lực chính trị của mình để vận động hành
lang cho các chính sách có lợi cho người lao động, chẳng hạn như tiền lương
cao hơn, điều kiện làm việc an toàn hơn và phúc lợi tốt hơn.

Các nhóm vận động nhân quyền cũng đóng một vai trò quan trọng trong
việc gây ảnh hưởng đến nền chính trị dưới một xã hội chủ nghĩa tư bản. Tại Hoa
Kỳ, American Civil Liberties Union (ACLU) là một tổ chức phi lợi nhuận ủng
hộ các quyền tự do dân sự và quyền cá nhân. Tại Pháp, Liên đoàn Nhân quyền là
một tổ chức nhân quyền đấu tranh chống phân biệt đối xử và thúc đẩy nhân
quyền. Các tổ chức này sử dụng quyền lực chính trị của mình để tác động đến
các chính sách phù hợp với các giá trị và mục tiêu của họ.

3.2.3 Nguyên tắc hoạt động

3.2.3.1. Chủ nghĩa tư bản và các thể chế chính trị

Các thể chế chính trị dưới chủ nghĩa tư bản chủ yếu được thiết kế để duy
trì luật pháp và trật tự cũng như bảo vệ quyền sở hữu tư nhân. Trong các nền dân
chủ tự do, pháp quyền, phân chia quyền lực và bảo vệ quyền cá nhân là những
nguyên tắc trung tâm định hướng hoạt động của các thể chế chính trị . Tuy nhiên,
những nguyên tắc này thường bị phá vỡ do ảnh hưởng của lợi ích tư bản đối với
tiến trình chính trị.

Luật tài chính vận động tranh cử, vận động hành lang và vòng xoáy giữa
chính phủ và tư nhân đều là những ví dụ về cách chủ nghĩa tư bản có thể bóp méo
hoạt động của các thể chế chính trị.

Ở phương Tây, “vận động hành lang” đã trở thành một phương pháp đặc
trưng cho sự tác động của các nhóm lợi ích đối với những người hoạch định
chính sách nhà nước, được thực hiện theo các bước: Tìm cách tiếp xúc, cung cấp
thông tin, huy động cử tri, ủng hộ các cuộc vận động bầu cử. Quá trình này gây
áp lực ngay trong lòng cơ quan lập pháp và hành pháp.

Các nhóm tác động đến các quan chức nhà nước để chi phối đến quyết định
của họ. Vũ khí của họ là tiền. Do cử tri ngày càng quan tâm đến tư cách của các
nhà chính trị nên các hình thức đưa hối lộ ngày càng tinh vi hơn. Họ dùng sức ép
của thông tin đại chúng (tivi, báo chí) và quần chúng để tác động đến chính
quyền. Họ có thể tác động đến Tổng thống, thuyết phục các Nghị sĩ sửa đổi các
đạo luật.

11
3.2.3.2. Chủ nghĩa tư bản và các thể chế xã hội

Các thể chế xã hội dưới chủ nghĩa tư bản được thiết kế để thúc đẩy sự gắn
kết và ổn định xã hội đồng thời phục vụ lợi ích của giới tinh hoa tư bản. Gia đình,
hệ thống giáo dục và phương tiện truyền thông đều là những ví dụ về các thể chế
xã hội hoạt động trong khuôn khổ tư bản chủ nghĩa. Gia đình thường được coi là
một tổ chức quan trọng để xã hội hóa các cá nhân theo các chuẩn mực và giá trị
của xã hội tư bản . Hệ thống giáo dục được thiết kế để cung cấp cho các cá nhân
những kỹ năng và kiến thức cần thiết để tham gia vào nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Các phương tiện truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong việc định
hình dư luận và thúc đẩy văn hóa tiêu dùng.
Các nhóm tác động đến các quan chức nhà nước để chi phối đến quyết định của
họ. Vũ khí của họ là tiền. Do cử tri ngày càng quan tâm đến tư cách của các nhà
chính trị nên các hình thức đưa hối lộ ngày càng tinh vi hơn. Họ dùng sức ép của
thông tin đại chúng (tivi, báo chí) và quần chúng để tác động đến chính quyền.
Họ có thể tác động đến Tổng thống, thuyết phục các Nghị sĩ sửa đổi các đạo luật.
Các nhóm lợi ích cấp bang có ảnh hưởng mạnh hơn các nhóm liên bang đối với
hoạt động của Chính phủ, vì nhiệm kỳ của các Nghị sĩ bang ngắn, nhiều người
không quen với nguyên tắc, thủ tục, họ cần những người hoạt động hành lang
chuyên nghiệp (lobby); hơn nữa họ đại diện cho những địa phương nhỏ, nên
không quan tâm lắm đến các dự luật không động chạm đến cử tri của mình, và dễ
bị các lobby thuyết phục.

Nhìn chung, hoạt động của các nhóm lợi ích có thể chia ra ba loại: quan hệ
với công chúng, tham gia vào bầu cử và vận động hành lang (làm lobby).

Tóm lại, các nguyên tắc vận hành của các thể chế chính trị và xã hội dưới
chủ nghĩa tư bản rất phức tạp và thường gây tranh cãi. Trong khi các thể chế
chính trị được thiết kế để bảo vệ các quyền cá nhân và duy trì pháp quyền, thì ảnh
hưởng của các lợi ích tư bản có thể làm đẩy sự gắn kết xã hội và phục vụ lợi ích
tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng cũng có thể tạo cơ hội cho sự phản kháng và
những tầm nhìn thay thế về xã hội.
suy yếu các nguyên tắc này. Các thể chế xã hội được thiết kế để thúc

3.3. Giới thiệu một số nhóm lợi ích tiêu biểu

*Mĩ

Các nhóm thảo luận chính sách: Vào đầu thế kỷ XX có Liên hiệp Dân sự
toàn quốc, Uỷ ban Đại hội, Ban Hội thảo, Hội đồng Quan hệ đối ngoại, Uỷ ban
Phát triển kinh tế. Các nhóm thảo luận chính sách bảo thủ: Hiệp hội Các nhà sản
xuất quốc gia, Phòng Thương mại Hoa Kỳ, Viện Doanh nghiệp Mỹ...

Các quỹ: Có vài trăm quỹ có tiền và quan tâm tài trợ cho các chương trình
có quan hệ tới chính sách công. Các quỹ được thành lập do các gia đình giàu có,
12
docác tổ hợp doanh nghiệp, do nhiều thành phố... chủ yếu là giới thượng lưu và
tập đoàn doanh nghiệp như: quỹ Rockefeller, Ford…

Các tổ chức công đoàn: Liên đoàn lao động và Đại hội các tổ chức công
nghiệp Mỹ (AFL - CIO) có xu hướng chống cộng, đại diện cho 100 tổ chức
công đoàn quốc gia và quốc tế, gồm 13 triệu thành viên. Nó có ảnh hưởng lớn
đến các cuộc bầu cử. Tuy nhiên, gần đây ảnh hưởng của các tổ chức công đoàn
ngày càng giảm. Năm 1955, có 40% công nhân nông nghiệp vào công đoàn, đến
1980 chỉ còn 18%. Công đoàn bị các tổ chức chính trị các tập đoàn tư bản lợi
dụng và AFL - CIO ngày càng quan tâm đến chính trị hơn là đến lợi ích của
công nhân.

Các tổ chức phi chính phủ (NGO): Đó là tất cả các tổ chức, hội, đoàn
được thành lập và hoạt động không vì mục đích vụ lợi mà vì mục đích nhân đạo,
cứu trợ,từ thiện, hoặc thúc đẩy hòa bình, hoà giải, trao đổi văn hóa, kỹ thuật...
nằm ngoài tổ chức hệ thống và quản lý của chính phủ. Các tổ chức NGO không
phải xin phép thành lập, nhưng có giấy phép hoạt động miễn thuế. Tuy nhiên,
cũng có một số NGO đăng ký hoạt động chính thức và có tư cách pháp nhân.
Các tổ chức này tồn tại bằng cách vận động, xin tài trợ từ các quỹ, các tổ chức
kinh doanh, các cá nhân giàu có và có khi từ chính phủ…

Các tổ chức chính trị - xã hội xuất hiện ngày càng nhiều. Đó là các tổ
chức cựu chiến binh, thanh niên, phụ nữ, các tổ chức từ thiện, y tế, giáo dục, tôn
giáo... Ngoài ra, có cả các tổ chức phản động, tội phạm: dân tộc chủ nghĩa, phân
biệt chủng tộc, các nhóm chống cộng, các tổ chức maphia, hoạt động sòng bạc,
buôn bán ma tuý. Ở Mỹ có khoảng 24 gia đình trùm mafia và những nhóm cực
hữu phản động phân biệt chủng tộc.
Các nhóm lợi ích được pháp luật bảo vệ, nhưng để tránh lạm dụng, Quốc
hội ra các đạo luật quy định chặt chẽ hơn về vận động hành lang. Thường những
người có trình độ cao thuộc tầng lớp trung, thượng lưu có động cơ chính trị mới
tham gia các nhóm này. Họ hoạt động gắn với các uỷ ban hành động chính trị,
gắn với các tổ hợp quân sự - chính trị, các liên đoàn lao động. Số lượng các uỷ
ban này ngày càng tăng và có ảnh hưởng lớn đến chính trị và chính sách nước
Mỹ.

*Vương quốc Anh

Các nhóm lợi ích ở Vương quốc Anh là các yếu tố quan trọng trong đời
sống chính trị của Vương quốc Anh. Sự tồn tại và hoạt động của họ có thể nhìn
thấy ở cấp độ địa phương cũng như ở cấp độ toàn cầu. Chúng được định hướng
để thúc đẩy lợi ích của các nhóm đặc biệt trong lĩnh vực công cộng rộng rãi
tương ứng trong các lĩnh vực chính trị.

Nhóm lợi ích có tính thể chế như Hội những quan chức thủ đô, Hội của
những người đồng tỉnh ở Nghị viện,... Các tổ chức quốc gia như Hiệp hội

13
thương mại…Các tổ chức công đoàn Anh Liên đoàn công nghiệp Anh, Liên
hiệp công nhân Anh, Liên hiệp công đoàn, Hội các thành viên thương mại Anh,...

Các hình thức và mục đích hoạt động của các nhóm lợi ích ở Vương quốc
Anh có thể rất đa dạng. Họ có thể hỗ trợ và kích động trong các cuộc bầu cử cho
những người có nguyện vọng hoặc một số ứng cử viên chính trị hoặc giúp đỡ tài
chính cho các đảng và một số ứng cử viên trong các chiến dịch bầu cử cũng như
trong các trường hợp khác. Họ cũng tham gia đưa ra các đề xuất và thậm chí
quyết định một số vấn đề mà họ quan tâm cũng như cung cấp thông tin và hỗ trợ
chuyên môn cho một số đại biểu chính trị (Richardson, 2000). Các nhóm khác
nhau cũng có thể gây ảnh hưởng để cản trở và thúc đẩy hiệu quả đạt được của
một số đảng phái chính trị. Lợi ích nhỏ hoặc không đủ có thể có các quyết định
hoặc hoạt động của giới tinh hoa chính trị nếu các quyết định của họ không được
thực hiện trong các tổ chức cơ bản của cuộc sống và công việc trong một xã hội.

4. CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ


NGHĨA

4.1. Xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong
thế kỷ XIX khi các quốc gia tìm kiếm cho mình một cách thức hợp lý trong phát
triển và xây dựng nhà nước bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Tuy
nhiên do nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan mà chủ nghĩa xã hội đã rơi
vào khủng hoảng ở những thập niên 80, 90 ở thế kỉ XX cho nên từ rất nhiều
quốc gia nhưng hiện tại chỉ còn chính thức 4 quốc gia được công nhận là nhà
nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác-Lenin đó
là: Việt Nam, Trung Quốc (ngoài trừ Ma Cao và Hồng Kông), Lào và Cuba.

4.2. Đặc điểm


Một là, trong hệ thống chính trị Xã hội Chủ nghĩa, Đảng Cộng sản giữ vai
trò lãnh đạo, Nhà nước là trung tâm thực hiện quyền lực và các tổ chức chính trị -
xã hội thành viên đóng vai trò hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan nhà nước khi thực
hiện quyền lực. Về cơ bản, hệ thống chính trị tại các nước Xã hội chủ nghĩa có
các tổ chức chính trị - xã hội chính như Mặt trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ.

Mặt trận là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo. Tại các quốc gia xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận hoạt động dưới các tên gọi: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban
Công tác Mặt trận Thống nhất Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mặt trận
Lào Xây dựng Đất nước, và Các Uỷ ban bảo vệ Cách mạng Cuba (CDR).

14
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động,
chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham
gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn
đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động
người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp
luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng
Công hội Trung Quốc, Liên đoàn Công đoàn Lào và Trung tâm những người lao
động Cuba (CTC) là những tổ chức chính trị - xã hội lớn nhất về số lượng thành
viên tại các nước xã hội chủ nghĩa.

Đoàn Thanh niên Cộng sản, thường được gọi tắt là Đoàn, là tổ chức của
thanh niên do Đảng Cộng sản sáng lập. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến,
phấn đấu vì mục đích, lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc, Đoàn Thanh niên Nhân dân
Cách mạng Lào và Đoàn Thanh niên Cộng sản Cuba (UJC) là lực lượng nòng cốt
chính trị trong phong trào thanh niên Xã hội Chủ nghĩa và là cơ quan quản lý
nhiều tổ chức và phong trào dành cho thanh niên.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Liên đoàn Phụ nữ toàn Trung Quốc, Hội
liên hiệp Phụ nữ Lào và Hội Liên hiệp Phụ nữ Cuba (FMC) là những tổ chức
chính trị, xã hội của phụ nữ, mục đích hoạt động là vì sự bình đẳng và phát triển
của phụ nữ quốc gia nói chung và phụ nữ toàn thế giới nói riêng.

Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức rộng khắp theo các cấp
hành chính từ trung ương đến cơ sở. Nghĩa là các tổ chức chính trị - xã hội không
chỉ tồn tại theo một hệ thống từ trên xuống dưới, trong các lĩnh vực, ngành nghề
mà còn tồn tại đan xen, lồng vào nhau tạo thành một khối vững chắc với liên hệ
chặt chẽ. Ví dụ như: Mặt trận Lào xây dựng Đất nước có 4 cấp:

• Cấp Trung ương (gọi là Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước Trung ương)

• Cấp tỉnh, thủ đô (gọi là Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước tỉnh, thủ đô)

• Cấp huyện, thành phố (gọi là Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước huyện,
thành phố)
• Cấp thôn, bản (gọi là Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước thôn, bản)

Ba là, Các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động chủ yếu trên cơ sở tài
chính Nhà nước, nghĩa là được Nhà nước bao cấp về mặt tài chính và các điều
kiện cơ sở vật chất để làm việc, hoạt động. Đội ngũ cán bộ chuyên trách của các
tổ chức được hưởng lương từ ngân sách, được xếp vào các ngạch công chức nhà
nước. Điều này tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội tập trung vào

15
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà không phải lo tìm kiếm nguồn
tài chính để duy trì hoạt động.

Bốn là, các tổ chức chính trị - xã hội trong giai đoạn đầu, nhất là trong giai
đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc thì chức năng chính trị được coi là nổi trội.
Chức năng xã hội sau này mới được làm nổi bật trong quá trình xây dựng Tổ
quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Năm là, Phương thức hoạt động chung của các tổ chức chính trị - xã hội là
vận động, thuyết phục, bảo đảm dân chủ tạo sự đoàn kết, thống nhất hành động
một cách tự nguyện của mọi tầng lớp nhân dân góp phần xây dựng và thực hiện
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng và bảo
vệ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Phương thức hoạt động cụ thể của các tổ chức
chính trị - xã hội thể hiện qua một số điểm cơ bản dưới đây, tùy theo tính chất,
đặc điểm của mỗi tổ chức:

• Hoạt động trên cơ sở tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động để đi tới thỏa thuận chung cũng như giúp đỡ lẫn nhau trong
quá trình tổ chức thực hiện các chương trình đã thoả thuận đó.
• Vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng tự nguyện tham gia vào các tổ
chức, thực hiện đường lối chính trị của Đảng vừa bằng tổ chức, vừa bằng
các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước.
• Kết hợp công tác vận động quần chúng của các tổ chức chính trị - xã hội
với công tác quản lý của Nhà nước.
• Kết hợp lực lượng chuyên trách với lực lượng không chuyên trách trong
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
• Hoạt động đa dạng, linh hoạt trên cơ sở kinh phí từ ngân sách nhà nước,
các nguồn tài trợ và đóng góp của các thành viên, hội viên.

4.3. Giới thiệu về các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước XHCN

4.3.1. Trung Quốc

Các tổ chức chính trị-xã hội Trung Quốc chủ yếu được thành lập trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đại diện cho các tầng lớp nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Các tổ chức này đã phát huy tốt vai trò là cầu
nối giữa người dân với Đảng và chính quyền, tham gia giám sát và phản biện xã
hội. Các tổ chức tiêu biểu là: Tổng Công hội toàn quốc Trung Hoa, Hội Liên
hiệp Thanh niên toàn quốc Trung Hoa, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Liên
hiệp Phụ nữ toàn quốc Trung Hoa, Hội Liên hiệp Công thương nghiệp toàn quốc
Trung Hoa, Hiệp hội hữu hảo nhân dân Trung Quốc,...

Hội nghị Chính trị hiệp thương nhân dân: là tổ chức mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi nhất của Trung Quốc, có các thành viên là các đảng phái và

16
các tổ chức chính trị-xã hội, đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân
tộc và đại biểu các giới, phản ánh những nguyện vọng và ý kiến của các tầng lớp
nhân dân đối với những vấn đề phát triển đất nước, thực hiện thương chính trị và
chức năng giám sát, phát huy dân chủ, bàn thảo các phương châm, chính sách
lớn của Nhà nước, tham gia quản lý nhà nước. Với chức năng chủ yếu của hội là
hiệp thương chính trị, giám sát dân chủ, tổ chức tham gia các đảng phái, đoàn
thể và nhân sĩ các giới tham chính tham nghị của hội. Hội nghị Chính trị hiệp
thương nhân dân còn được coi là cơ quan hiệp thương của các đảng, phái, là một
hình thức tổ chức quan trọng, là diễn đàn, nơi điều hòa các mối quan hệ trong
chế độ hợp tác nhiều đảng và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, ngoài ra còn được tổ chức ở tất cả các cấp hành chính từ
Trung ương đến cơ sở.

Tổng công đoàn toàn quốc Trung Hoa: là đoàn thể nhân dân bao gồm
những công chức Trung Quốc tự nguyện tụ hợp lại với nhau, là cơ quan lãnh
đạo và cơ quan đại diện tối cao của Công đoàn các cấp. Chức năng chủ yếu là
duy trì và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp và quyền dân chủ của công chức; động
viên và tổ chức cho công chức tích cực tham gia xây dựng và cải cách; hoàn
thành nhiệm vụ phát triển kinh tế và xã hội; đại diện cũng tham gia quản lý tổ
chức công chức và công việc trọng đại của xã hội, nhà nước, tham gia quản lý
dân chủ cùng với các cơ quan, xí nghiệp, sự nghiệp, đối với xí nghiệp sản xuất
kinh doanh và các hạng mục quản lý cần thi hành giám sát; điều tiết mối quan hệ
giữa quần chúng công nhân, đến mâu thuẫn giữa lãnh đạo và quần chúng công
nhân, duy trì mối liên hệ giữa Đảng và chính phủ với quần chúng công nhân.

Hội liên hiệp Thanh niên toàn quốc Trung Hoa (Liên thanh toàn
quốc):là tổ chức liên hiệp lấy Đoàn thanh niên cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc
làm sức mạnh cơ bản của các đoàn thể thanh niên, là 1 tổ chức chiến tuyến yêu
nước thống nhất rộng rãi của thanh niên các giới các dân tộc. Chức năng chủ yếu
của Đoàn Cộng thanh (Đoàn thanh niên cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc) là
đoàn kết; giáo dục; dẫn dắt thanh niên để thực hiện theo con đường cơ bản của
Đảng cộng sản Trung Quốc, phát huy tinh thần trợ thủ đắc lực của đảng và tác
dụng hậu bị cho quân đội, thể hiện và duy trì quyền, lợi ích cụ thể của thanh
niên, toàn tâm toàn ý phục vụ thanh niên.

Hội liên hiệp Phụ nữ toàn quốc Trung hoa (Liên phụ toàn quốc): là tổ
chức quần chúng tập hợp toàn bộ nữ công chức các dân tộc, nữ nông dân, phần
tử nữ tri thức và nữ lao động trong các lĩnh vực khác nhau. Chức năng cơ bản là
đoàn kết, vận động đông đảo chị em phụ nữ tham dự vào công cuộc kiến thiết
đất nước và phát triển kinh tế, đại diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích của phụ nữ,
xúc tiến nam nữ bình đẳng.

Hội liên hiệp Công thương nghiệp toàn quốc Trung Hoa (Liên công
thương toàn quốc): bao gồm những thành viên làm trong công thương nghiệp
thuộc các đoàn thể xã hội cấu thành, là đoàn thể nhân dân và thương hội dân

17
gian của tổ chức giới Công thương Trung Quốc. Chức năng chủ yếu là: Đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, phản ánh ý kiến yêu cầu và kiến
nghị của hội viên, tham dự quản lý vào những công việc của đất nước, tham dự
hiệp thương những chính sách quan trọng về kinh tế xã hội của đất nước để cung
cấp những thông tin, quản lý, pháp luật, kế hoạch, thẩm tra, huy động vốn, tư
vấn cho các hội viên để hội viên và các xí nghiệp có sự điều tiết kinh tế cho phù
hợp, nhận sự ủy thác của các bộ ngành có liên quan và của chính phủ.

4.3.2. Lào

Ở Lào, Mặt trận Lào xây dựng đất nước là tổ chức chính trị của toàn xã
hội, liên hiệp tự nguyện được hình thành trên cơ sở tự giác của các tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân đại diện cho các giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi và đại diện nhân dân Lào đang
sinh sống ở nước ngoài.
Mặt trận Lào xây dựng đát nước được lập nên với những chức năng cơ
bản bao gồm:
• Giáo dục và đoàn kết nhân dân các dân tộc hoạt động theo đường lối của
Đảng và pháp luật của nhà nước;
• Giáo dục và đoàn kết các tôn giáo, hệ phái;
• Giáo dục, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, những người có trình độ, trí
thức, doanh nhân và các tổ chức xã hội hoạt động theo chủ trương của
Đảng và pháp luật của Nhà nước;
• Hoàn thiện tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ có chất lượng cao để hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó;
• Chủ động làm công tác chính trị-tư tưởng cho đội ngũ cán bộ;
• Theo dõi, kiểm tra khắc phục những mâu thuẫn trong xã hội và kiến nghị
với các bên liên quan để khắc phục kịp thời.
Tương ứng với những chức năng đã nêu trên thì về cơ bản Mặt trận nêu ra
những nhiệm vụ sau:
• Đoàn kết nhân dân các dân tộc, các tầng lớp, tôn giáo, giới tính, lứa
tuổi trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước;
• Huy động mọi lực lượng trong xã hội thực hiện đường lối chính sách
của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ;
• Lập các hội nghị cơ sở với nhân dân, giáo dục nhân dân, hòa giải nhân
dân của các dân tộc với mục tiêu đoàn kết bền chặt;
• Góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước
pháp quyền, nhà nước của dân, do nhân dân, vì lợi ích của nhân dân;

18
• Theo dõi, kiểm tra hoạt động của Quốc hội, hội đồng địa phương và
các cấp chính quyền;
• Phối hợp với các bên và tất cả các bên tham gia vào các hoạt động vì
xã hội và cộng đồng đa dân tộc Lào;
• Góp phần vào nền ngoại giao nhân dân phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng.
Ngoài ra quốc gia Lào còn có các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể
nhân dân khác bao gồm: Công đoàn, Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào,
Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh và nhiều tổ chức xã hội và các đoàn thể nhân
dân khác.

4.3.3. Cuba

Ở Cuba, nhân dân Cuba thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ
thông qua việc bầu đại diện của mình vào cơ quan dân cử, mà còn thông qua các
tổ chức đoàn thể mà họ là thành viên, nơi người dân thể hiện sự ảnh hưởng của
mình tới các quyết sách của nhà nước. Ví dụ như khi Quốc hội Cuba đề xuất
Luật Lao động mới vào năm 2012, quá trình tham vấn kéo dài một năm với gần
70 nghin cuộc họp công đoàn và sự tham gia của gần 3 triệu công nhân đã đưa
tới 101 sửa đổi quan trọng bao gồm 28 quy định hoàn toàn mới.

Đoàn Thanh niên cộng sản Cuba (UJC) có hơn nửa triệu đoàn viên, được
coi là cánh tay đắc lực của Đảng. Các tổ chức quần chúng nổi bật tại Cuba có
thể kể đến như: Mặt trận (Các Uỷ ban bảo vệ cách mạng-CDR); Công đoàn
(Trung tâm những người lao động Cuba-CTC); Phụ nữ (Hội Liên hiệp phụ nữ
Cuba-FMC); Cựu chiến binh (Hội Cựu chiến binh cách mạng-ACR); Nông dân
(Hội tiểu nông-ANAP); Sinh viên, học sinh (Liên đoàn Sinh viên đại học-FEU,
Liên đoàn Học sinh trung học-FEEM) và Đội Thiếu niên Jose Marti…

5.GIỚI THIỆU, LIÊN HỆ THỰC TRẠNG NÂNG CAO CÁC TỔ CHỨC


CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

5.1. Đặc điểm cơ bản

Ở Việt Nam hiện nay, về mặt tổ chức của hệ thống chính trị gồm có ba bộ
phận cơ bản gồm: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội mà trong đó các
tổ chức chính trị-xã hội gồm:
• Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn
giáo và người Việt Nam định cư tại nước ngoài.
-Mặt trận Tổ quốc là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất, đại diện
quyền làm chủ của nhân dân. Thành viên (50 thành viên) trong Mặt trận

19
Tổ quốc Việt Nam bao gồm: Tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt
Nam; các tổ chức chính trị-xã hội; các tổ chức chính trị-xã hội-nghề
nghiệp; các tổ chức xã hội; các tổ chức xã hội-nghề nghiệp; Quân đội
nhân dân Việt Nam; các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.
-Đối với mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đây là một bộ phận của hệ thống
chính trị mà nó đóng vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Ngoài ra Mặt trận còn có cơ cấu tổ chức mang tính đặc thù, thành viên
bao gồm các cấp: tổ chức chính trị (Đảng Cộng Sản Việt Nam); tổ chức
xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ở mỗi cấp hành chính
có Ủy ban Mặt trận là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội cùng cấp, ở
khu dân cư (dưới cơ sở) có Ban Công tác Mặt trận.

• Ngoài ra các tổ chức chính trị-xã hội khác bao gồm: Công đoàn, Đoàn
Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân. Tùy
theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định trong điều lệ của đoàn thể,
vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích
thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội
viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội:
- Liên đoàn lao động: đại diện người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, tham gia quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế- xã hội, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước.
- Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: có chức năng tham mưu, giúp
việc cho ban chấp hành, cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác đoàn
theo quy định của Luật Thanh niên và điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh.
- Hội cựu chiến binh: có chức năng đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của cựu chiến binh, vận động cựu chiến binh
thực hiện nhiệm vụ chính trị-xã hội của cách mạng của hội.
- Hội Liên hiệp phụ nữ: chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý
Nhà nước.
- Hội nông dân: đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, nhà
nước và khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của nông dân.

5.2. Chức năng và vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội ở nước ta

5.2.1 Chức năng


❖ Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên và hội
viên

20
Đây là đòi hỏi tất yếu của mỗi tổ chức chính trị-xã hội. Bởi vì mục đích
hoạt động của chúng trước hết là vì lợi ích của tổ chức hay nhóm của mình.
Trong các tổ chức chính trị-xã hội, Mặt trận là tổ chức rộng rãi nhất, liên minh
của mọi tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội. Mặt trận không có hội viên
nhưng Mặt trận có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong liên minh.
Còn mỗi thành viên lại có trách nhiệm bảo vệ lợi ích thiết thực của mỗi hội viên
trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích thiết thực của mỗi hội viên trên cơ sở kết
hợp hài hòa các lợi ích, quyền và nghĩa vụ; làm cho lợi ích của mỗi hội viên,
mỗi tổ chức chính trị-xã hội không đói lập, đi ngược lại lợi ích chung của đất
nước, xã hội.

❖ Tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhát trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân
Đây chính là chức năng, nhiệm vụ hàng đầu của các tổ chức chính trị-xã hội
mà đặc biệt là tổ chức Mặt trận, kể cả trong các giai đoạn đấu tranh giải phóng
dân tộc trước đây cũng như trong thời kỳ mới hiện nay. Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ nhiệm vụ của các tổ chức này là “phát
huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong nhân dân”, Điều 2, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1992) cũng nêu
rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân”.

❖ Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Mặt trận Tổ quốc thực hiện các hoạt động tuyên truyền, động viên nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật. Mặt trận Tổ quốc thực
hiện phối hợp với chính quyền cấp xã tổ chức vận động Nhân dân thực hiện dân
chủ ở cơ sở, hương ước, quy ước ở khu dân cư; chỉ đạo hoạt động của Ban thanh
tra nhân dân được thành lập ở cấp xã và Ban giám sát đầu tư của cộng
đồng; tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở. Ngoài ra, Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) cũng đã nêu rõ rằng nhiệm vụ của các tổ chức
chính trị-xã hội là “động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh
thi hành Hiến pháp và pháp luật”.

❖ Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước


Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia vào công tác bầu cử thông qua việc
lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân;
tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử; phối hợp với cơ quan nhà nước hữu
quan tổ chức hội nghị cử tri ở cấp xã, các cuộc tiếp xúc giữa cử tri với người
ứng cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật về bầu cử.

21
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử đại diện tham gia Hội
đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp,
Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì lựa chọn, giới thiệu người đủ điều kiện, tiêu
chuẩn để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp
luật.

Tham gia xây dựng pháp luật: Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội về xây dựng luật,
pháp lệnh; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh;
tham gia góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp, dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật khác; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản pháp luật trái Hiến pháp và pháp luật.

Tham dự các kỳ họp Quốc hội, phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban nhân dân; tham gia
phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng như tham gia góp ý, kiến nghị với Nhà
nước.

❖ Thực hiện giám sát và phản biện xã hội


Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật. Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Việc giám sát nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm,
khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ
biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể thông qua các hình thức giám sát khác
nhau như nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền, tổ chức đoàn
giám sát; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;... (Chương V
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Chủ trương về phản biện xã hội đã được Đảng ta nêu ra những năm gần đây.
Văn kiện của Đại hội X chỉ rõ: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội”. Cụ thể hơn, phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp
luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án của cơ quan nhà nước.Nội
dung phản biện xã hội bao gồm sự cần thiết; sự phù hợp với chủ trương, đường
22
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tính đúng đắn, khoa học, khả
thi; đánh giá tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại của dự thảo văn bản; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, Nhân dân, tổ chức. (Điều 32, Điều 33 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

❖ Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình hợp tác và phát triển
Thực chất đây là hình thức “hoạt động đối ngoại nhân dân” của các tổ
chức chính trị-xã hội trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Như vậy, trong hệ thống chính trị Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội có các
chức năng nhất định của mình. Điều đó được quy định bởi địa vị chính trị pháp
lý của chúng cùng với yêu cầu, khách quan của đời sống chính trị và đặc điểm
của hệ thống chính trị Việt Nam. Từ việc xác định các chức năng nêu ở trên,
chúng ta nhận thấy các tổ chức chính trị-xã hội ở Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò
to lớn trong hệ thống chính trị.

5.2.2 Vai trò

Vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội được thể hiện ở hai điểm cơ bản sau:

Một là, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tạo sự đồng thuận xã
hội để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Đây là vai trò
tối quan trọng của các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Vai trò này đã được kiếm nghiệm trong thực tiễn cuộc sống và được thể hiện
ngay từ khi các tổ chức chính trị-xã hội ở nước ta mà đặc biệt là Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam xuất phát chính ngay từ yêu cầu tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân trong một mặt trận để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự phát
triển ngày một dông thành viên hơn những năm gần đây trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam càng thể hiện rõ hơn vai trò quan trọng đó của các tổ chức chính trị-xã
hội

Hai là, đại diện, bảo vệ lợi ích và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vai trò này
của các tổ chức đã được xác định ở Hiến pháp và pháp luật. Trong Văn kiện Đại
hội lần thứ X Đảng ta đã xác định các tổ chức chính-xã hội ở Việt Nam không
chỉ có vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân mà còn có vai trò
“đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân” Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2006, tr.124.

5.3. Nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam
- Nói chung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội ở Việt
Nam:

23
+ Hoạt động trên cơ sở tự nguyện hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hoạt động giữa các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhằm
đi tới thỏa thuận chương trình hành động chung, các tổ chức phối hợp, giúp đỡ
nhau trong quá trình tổ chức thực hiện.
+ Vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng tự nguyện tham gia vào các tổ
chức, xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
vừa bằng tổ chức, vừa bằng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước.
+ Kết hợp công tác vận động, quần chúng với tham gia quản lý nhà nước và xã
hội.
+ Kết hợp lực lượng chuyên trách với lực lượng không chuyên trách trong mọi
hoạt động.
+ Hoạt động đa dạng, linh hoạt trên cơ sở kinh phí từ ngân sách nhà nước, các
nguồn tài trợ và đóng góp của các thành viên, hội viên.
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội phải được tổ chức
và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Nhà nước
Việt Nam.

5.4. Liên hệ thực trạng nâng cao chất lượng các tổ chức chính trị - xã hội tại
Việt Nam
5.4.1. Thực trạng
- Trong Đại hội toàn quốc lần thứ XI, Đảng đã khẳng định: “Mặt trận tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tri thức, phát triển đoàn
viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu
quả thiết thực…; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần
tích cực vào những thành tựu của đất nước”-DCSVN: Văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ XI, NXB chính trị quốc gia, HN,2011, tr. 158-159.
- Nhiều tổ chức đã coi trọng các mặt công tác giáo dục, vận động và tập
hợp quần chúng tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền và phát huy quyền làm chủ của từng cộng đồng xã hội công dân trong
công cuộc phát triển đất nước; đặc biệt có hiệu quả trong đấu tranh chống những
biểu hiện tiêu cực trong xã hội, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống quan
liêu-tham nhũng, lãng phí và tệ nạn xã hội.

- Tuy nhiên Đại hội lần thứ XI cũng đánh giá: “Việc tuyên truyền, vận
động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở”.
DCSVN: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, NXB chính trị quốc gia,
HN,2011, tr.171

24
- Nội dung và hình thức hoạt động của một số tổ chức ở từng cấp chưa đổi
mới kịp nhu cầu đa dạng về lợi ích của các tầng lớp quần chúng, còn nặng tính
chính trị. Bộ máy chuyên trách ở Trung ương và cấp tỉnh, còn lớn mà chủ yếu là
sử dụng ngân sách nhà nước đã tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế; còn trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh thì đưa vào giá thành sản phẩm ảnh hưởng trực
tiếp đến sức cạnh tranh của đơn vị kinh tế. Đội ngũ cán bộ trực tiếp ở cơ sở xã
phường thị trấn còn rất mỏng, sự liên kết với hệ thống các tổ chức xã hội chưa
thật chặt chẽ.

5.4.2 Một số biện pháp

+ Đảng chỉ rõ: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng
cường tổ chức, đối mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng
hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.”-
DCSVN: Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, NXB chính trị quốc gia,
HN,2011, tr.246

+ Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả
về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát
huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề xuất sửa đổi, bổ sung các chính sách,
pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
cải thiện điều kiện nhà ở, làm việc… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân.

+ Góp phần tích cực vào xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân,
chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao trình độ giác
ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và
hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Hỗ
trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của
dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói, giảm
nghèo, làm giàu hợp pháp.

+ Đóng vai trò chính trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền
thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí,
phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi
dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ

25
hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi
đồng vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt
và phụ trách.

+ Góp phần thiết thực vào việc nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật
chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, đề xuất bổ sung hoàn thiện các luật pháp,
chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của
mình; tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên
quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm
hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
+ Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây dựng và bảo
vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân của cựu chiến
binh. Động viên cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tích
cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng cho các thế hệ trẻ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tệ nạn xã hội; xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh.

+ Góp phần tích cực vào việc xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh
giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của tri thức. Có chính sách đặc biệt đối với
nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của
các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách
của Đảng. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức
với Đảng và Nhà nước.

+ Khâu mang tính đột phá trong công tác cán bộ của các tổ chức chính trị-
xã hội là phải làm giảm tối thiểu cơ quan chuyên trách mà hầu hết cán bộ của
các tổ chức chính trị-xã hội phải nằm trong lòng các cơ quan chính quyền Nhà
nước, các đơn vị kinh tế, các đơn vị sự nghiệp, trong tất cả các tổ chức xã hội.

26

You might also like