You are on page 1of 32

PHẦN THỨ NHẤT ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ

NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


Chương 1
NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ
NHÀ NƯỚC
BÀI 1
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG
CỦA NHÀ NƯỚC
1. Các dấu hiệu đặc trưng của Nhà
nước.
Trong đời sống xã hội, mỗi con người là một thực thể tự
nhiên, độc lập, có ý chí và lợi ích khác nhau, nhưng con người
không thể tồn tại ngoài xã hội, không thể tách mình ra khỏi cộng đồng
mà phải liên kết với nhau, xác lập quan hệ với nhau nhằm đạt được
những mục đích về vật chất, tinh thần. Lịch sử xã hội loài người đã
từng biết đến những hình thái liên kết ấy. Nó có thể dựa trên các
yếu tố tự nhiên như quan hệ huyết thống, gia đình; có thể dựa trên
những nhu cầu về lợi ích vật chất như các phường hội của những
người làm nghề buôn bán; có thể dựa trên những quan điểm chính
trị như các đảng phái; hoặc các đặc trưng về nghề nghiệp như
Hội Nhà văn, Hội Nhà báo... Nhưng một tổ chức có khả năng
liên kết các cá nhân ở mức độ rộng lớn hơn về phạm vi, đa
dạng hơn về lợi ích và có sức mạnh chi phối đến các tổ chức
khác nhau để cộng đồng cùng tồn tại và phát triển, tổ chức đó là nhà
nước.
| Trong một quốc gia, cùng với sự tồn tại của Nhà nước còn
có các tổ chức chính trị (các đảng phái) hoặc các tổ chức chính trị
- xã hội (ví dụ ở Việt Nam: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...).
Nhưng trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nhà nước có
khả năng tác động mạnh mẽ đối với toàn xã hội về mọi mặt từ
kinh tế, chính trị, văn học, nghệ thuật, tôn giáo... đến các quyền tự do cá nhân
của con người như quyền được sống, quyền được kết hôn... Sự tác
động ấy của Nhà nước trước hết nhằm ổn định xã hội, xác lập trật tự
cần thiết để xã hội phát triển, hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng. So với các tổ chức khác trong một quốc gia, nhà
nước có những dấu hiệu đặc trưng sau đây:
a. Sự tồn tại của Nhà nước về không gian được xác
định bởi yếu tố lãnh thổ
Lãnh thổ là một trong ba yếu tố tạo thành một quốc gia (lãnh
thổ, dân cư và tổ chức chính quyền). Lãnh thổ của quốc gia gồm đất
đai nằm trong biên giới, hải phận và không phân theo quy định của
luật pháp quốc tế. Dân cư sinh sống trên lãnh thổ đó có quyền
lựa chọn để tổ chức ra nhà nước của mình (tổ chức
chính quyền). Theo đó, nhà nước đại diện cho nhân dân thực
hiện chủ quyền trên toàn lãnh thổ và bảo vệ lãnh thổ trước sự
xâm lược của các quốc gia khác.
. Trong một quốc gia chỉ có một nhà nước, mặc dù có thể có
nhiều đảng phái khác nhau bởi quan điểm chính trị, nhiều tổ chức
chính trị - xã hội với những dấu hiệu khác nhau, như: về giới tính
(Hội Liên hiệp Phụ nữ), về nghề nghiệp (Hội Nhà văn, Hội Nông
dân)... Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,
đồng thời tổ chức chính quyền địa phương tương ứng với các đơn vị
hành chính và quản lý hoạt động của dân cư sinh sống trên
đơn vị hành chính đó. Mối liên hệ giữa một cá nhân với nhà
nước được quy định bởi luật quốc tịch, không phụ thuộc vào
chính kiến, nghề nghiệp, giới tính của họ và nhà nước có
nghĩa vụ bảo vệ công dân của mình. - Tài nguyên thiên nhiên
trên lãnh thổ ảnh hưởng trực tiếp đến sự giàu có của Nhà
nước. Chỉ nhà nước mới có quyền khai thác và phân phối lợi ích
đó đến toàn thể dân chúng mà nhà nước là người đại diện. Các
đảng phái hoặc các tổ chức khác được hình thành bởi những
“nhóm dân cư” với những lợi ích khác nhau nên tính đại diện bị thu
hẹp và bị kiểm soát bởi nhà nước.
b. Nhà nước có quyền lực chính trị đặc biệt
Biểu hiện quyền lực chính trị của Nhà nước là: Nhà nước thiết
lập hệ thống các cơ quan nhà nước như Nghị viện (Quốc hội), Chính
phủ, Toà án, quân đội, cảnh sát, nhà tù. Các cơ quan này được tổ
chức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Để vận hành
“bộ máy” này, nhà nước tuyển chọn các cá nhân trong số
những cư dân trên lãnh thổ của mình theo những tiêu chí nhất định.
Trong nhà nước phong kiến, đó là những “quan lại”, ngày nay
là “công chức, viên chức nhà nước”. Đây là bộ máy tách biệt khỏi
hoạt động sản xuất, chuyên làm nhiệm vụ quản lý, điều hành xã
hội trong khuôn khổ pháp luật (ví dụ: cấp giấy phép kinh doanh;
kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá; cấp giấy phép lái
xe...); cung cấp các dịch vụ công (ví dụ: giáo dục đào tạo, y tế, bảo
hiểm xã hội (BHXH)...) hoặc thực hiện những hoạt động có tính cưỡng chế,
bảo trật tự xã hội như: xử phạt vi phạm an toàn giao
trấn áp để đảm
thông, xét xử người phạm tội. Tầng lớp cán bộ, viên chức là những
người không trực tiếp làm ra sản phẩm phục vụ xã hội, nhưng đời
sống của họ được nhà nước đảm bảo bằng việc trả lương từ ngân
sách nhà nước.
- Quyền lực chính trị của Nhà nước cũng có thể hiểu là khả năng
sử dụng vũ lực một cách độc quyền, đây cũng là điểm khác biệt
căn bản so với các loại quyền lực khác trong xã hội. Ví dụ,
không một lực lượng nào có thể sử dụng bộ máy cưỡng chế
như cảnh sát, nhà tù, quân đội để giữ trật tự xã hội trừ nhà nước.
C. Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là một thuộc tính chính trị pháp lí và
thuộc về nhân dân sinh sống trên lãnh thổ của quốc gia đó. Nhân
dân uỷ quyền cho nhà nước

10
thực hiện quyền lực của mình theo Hiến pháp và pháp luật. Do
đó, trong một quốc gia chỉ nhà nước mới có khả năng và đủ tư
cách đại diện cho nhân dân thực hiện chủ quyền quốc gia. Cụ
thể là:
Trong quan hệ đối nội, chủ quyền quốc gia được khẳng
định bằng việc nhà nước có quyền tối cao trong hoạch định chính
sách, tổ chức thực thi chính sách trên mọi mặt của đời sống xã
hội. Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chính sách là
các cư dân và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
kinh tế tồn tại trên lãnh thổ của Nhà nước ấy. Sự hình thành
và thay đổi của các tổ chức này phụ thuộc vào chính sách của
Nhà nước.

Ví dụ: Năm 1987, Nhà nước CHXHCN Việt Nam quyết định việc
bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung bao cấp, chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước; công nhận quyền tự do
kinh doanh của công dân, theo đó các loại hình doanh nghiệp như:
DNTN, công ty trách nhiệm hữu hạn... ra đời, tham gia vào đời sống
kinh tế trong nước và xuất khẩu, từ đó hình thành hiệp hội của các
doanh nghiệp như: Hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ... -
Trong quan hệ đối ngoại, chủ quyền quốc gia có ý nghĩa là:
Nhà nước có quyền độc lập tự quyết trong quan hệ đối ngoại
mà các quốc gia khác, các tổ chức khác không thể can thiệp.
Nhà nước thay mặt nhân dân có quyền hoạch định những mục
tiêu riêng và lựa chọn những phương pháp phù hợp để thực hiện
những mục tiêu đó; các quốc gia đều bình đẳng, có quyền hạn và
nghĩa vụ ngang nhau trên cơ sở luật pháp quốc tế dù đó là nước lớn
hay nước nhỏ.
Ví dụ: Nhà nước xác lập, duy trì hoặc chấm dứt quan hệ ngoại giao
với quốc gia khác; Tham gia vào các tổ chức quốc tế; Kí kết và
thực thi các điều ước quốc tế. | Các đảng phái, tổ chức chính trị - xã
hội tồn tại trong một quốc gia không thể tự mình quyết định những
vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia đó, cũng không
có sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ với nhà nước vì nhà
nước đại diện cho ý chí của nhân dân, quyền lực của nhân dân.
Các đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội bị chi phối bởi quyền
lực nhà nước.
Ví dụ: Bằng quyền lực của mình, thông qua Toà án, nhà nước có
thể đưa ra xem xét việc quyết định giải tán hoặc cấm một đảng
phải hoạt động khi tổ chức đó vị
phạm pháp luật, phương hại đến chủ
quyền an ninh quốc gia.
d. Nhà nước đặt ra và thu thuế một
cách bắt buộc
Thuế là những khoản thu do nhà nước đặt ra. Sở dĩ cần phải có
khoản thu này vì nhà nước là một tổ chức không trực tiếp làm ra của
cải vật chất cho xã hội nhưng phải thực hiện rất nhiều những hoạt
động khác nhau để quản lý, điều hành xã hội.
Ví dụ: Trả lương cho công chức, viên chức nhà nước, các khoản
chi cho quốc phòng, an ninh, BHXH, y tế, giáo dục đào tạo, giao
thông...
Vì vậy, việc thu thuế là tạo ra nguồn tài chính cho nhà
nước. Tuy nhiên, thuế không chỉ dùng vào mục đích “nuôi” bộ
máy nhà nước mà nó còn là một kênh đầu tư cho xã hội để
phát triển. Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước có thể
làm thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động
trực tiếp đến sự tăng trưởng hay kìm hãm nền kinh tế của một quốc
gia. Thuế còn là một nguồn tài chính rất quan trọng để nhà nước thực
hiện chức năng xã hội của nó thông qua việc tạo ra các quỹ phúc
lợi, quỹ tiêu dùng để phân phối lại cho các thành viên trong xã
hội, thực hiện mục tiêu an sinh xã hội.
| Các đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội không có quyền thu
thuế. Để tồn tại và duy trì được hoạt động của mình, các tổ
chức đó cũng cần có nguồn tài chính, nhưng nó được hình thành
từ sự đóng góp mang tính tự nguyện của các thành viên, hội viên.
| Ví dụ: Đoàn phí, Công đoàn
phí...
Việc đóng thuế là nghĩa vụ của công dân và mang tính bắt
buộc, nếu công dân không thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho nhà
nước, tuỳ theo mức độ vi phạm, họ có thể bị xử lý hành chính hoặc
bị kết án. Nhưng nếu các thành viên, hội viên không thực hiện
nghĩa vụ tài chính với tổ chức của mình thì họ có thể bị khai
trừ ra khỏi tổ chức đó mà không bị cưỡng chế nhà nước như đối với
hành vi trốn thuế.
e. Nhà nước ban hành pháp luật và xác lập trật tự
pháp luật đối với toàn xã hội
Trước khi có nhà nước, những hoạt động chung của con
người trong các tổ chức thị tộc được dẫn dắt bởi niềm tin, sự tôn
kính và tinh thần tự nguyện dựa trên các quy phạm đạo đức, tín
ngưỡng, tập quán (còn gọi chung là quy phạm xã hội), trật tự xã hội
nhờ đó được duy trì.
- Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, các đảng phái, các tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện mục tiêu, tôn chỉ của mình thông
qua việc ban hành các điều lệ, nội quy, quy chế như: Điều lệ
Công đoàn, Điều lệ Đảng... để điều hành và phối hợp hoạt động của
các thành viên, hội viên tham gia vào tổ chức đó, nhưng nội dung
của chúng không thể trái với những quy định của pháp luật do nhà
nước ban hành. Về bản chất, các thành viên, hội viên thực hiện điều
lệ của các tổ chức này hoàn toàn mang tính tự nguyện, họ có
thể từ bỏ tổ chức của mình khi thấy không Còn phù hợp.
| Đối với nhà nước, ngoài việc sử dụng có chọn lọc các quy phạm
đạo đức, tập quán tồn tại trong xã hội, nhà nước đặt ra hệ
thống quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự để quản lý,
điều hành xã hội. Phạm vi tác động của pháp luật rộng hơn so với
tập quán của một cộng đồng dân cư hoặc điều lệ của tổ chức
chính trị - xã hội, vì pháp luật được ban hành bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mà trước hết là bởi Nghị viện (Quốc
hội) là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân. Mọi cá nhân,
mọi tổ chức và chính nhà nước phải thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật. Pháp luật được nhà nước đảm bảo thực
hiện bằng biện pháp giáo dục, | thuyết phục hoặc các biện pháp
cưỡng chế nhà nước khi cần thiết với công cụ bạo lực
để bảo vệ trật tự pháp
luật
2. Khái niệm nhà
nước
Từ những dấu hiệu đặc trưng của Nhà nước, có thể định
nghĩa về nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức có quyền
lực chính trị đặc biệt, có quyền quyết định cao nhất trong phạm vi
lãnh thổ, thực hiện sự quản lí xã hội bằng pháp luật và bộ máy
được duy trì bằng nguồn thuế đóng góp từ xã hội
. II, CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm chức năng nhà nước
| Chức năng nhà nước là phương diện hoạt động cơ bản,
có tính định hướng lâu dài, trong nội bộ quốc gia và trong quan
hệ quốc tế, thể hiện vai trò của Nhà nước, nhằm thực hiện những
nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. TH Nhiệm vụ nhà nước được
hiểu là mục tiêu nhà nước cần đạt được, là những vấn đề đặt ra
mà nhà nước cần phải giải quyết. Mục tiêu là những kết quả cần
đạt được xác định trước, thể hiện ý chí chủ quan của con người.
Ví dụ: Tổ chức và quản lý kinh tế; Tổ chức và quản lý văn hoá,
giáo dục, khoa học công nghệ; Bảo vệ trật tự pháp luật, bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân...
Chức năng nhà nước được hình thành một cách khách
quan dưới tác động của nhiệm vụ nhà nước.
Ví dụ: Sự xuất hiện nhiệm vụ phòng, chống bão lụt hay dịch
bệnh... là khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của Nhà
nước, do vậy các phương diện hoạt động để thực hiện
nhiệm vụ này cũng mang tính khách quan.
Bên cạnh tính khách quan, chức năng nhà nước cũng mang tính chủ
quan. Tính chủ quan của chức năng nhà nước phản ánh hoạt
động của Nhà nước phản ánh ý chí, lợi ích của con người.
Ví dụ: Việc lựa chọn hình thức, biện pháp thực hiện chức năng
để đạt được các
nhiệm vụ đặt ra cũng thể hiện ý chí của Nhà nước, cán bộ,
nhân viên nhà nước.
2. Phân loại chức năng nhà nước
a. Căn cứ vào tính pháp lí của việc thực hiện
quyền lực nhà nước,
Chức năng nhà nước được phân loại thành ba lĩnh vực:
chức năng lập pháp, chức năng hành pháp và chức năng tư pháp.
• Chức năng lập pháp: là mặt hoạt động cơ bản của Nhà
nước trong lĩnh vực xây dựng pháp luật nhằm tạo ra những quy
định pháp luật để điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản, quan
trọng trong xã hội.
Đối với nước ta, chức năng này chỉ do cơ quan đại diện
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là
Quốc hội thực hiện. Sản phẩm của hoạt động lập pháp là các văn
bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp, bộ luật, luật được ban
hành
• Chức năng hành pháp: là phương diện hoạt động cơ
bản của Nhà nước, nhằm tổ chức thực hiện các quy định pháp luật,
đồng thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật chỉ
đạo trực tiếp hoạt động của các chủ thể khác chịu sự quản lí của Nhà
nước.
Chức năng hành pháp là hoạt động mang tính tổ chức,
khoa học, tính chủ động sáng tạo, được bảo đảm về phương
diện bộ máy là các cơ quan hành chính nhiều về số lượng, phức
tạp về cơ cấu, đa dạng về chức năng, nhiệm vụ và hình thức,
phương pháp hoạt động. Đối với nước ta, thuộc hệ thống này, ở
trung ương có Chính phủ, các cơ quan trực thuộc Chính phủ
như các bộ, cơ quan ngang bộ và
địa phương có Uỷ ban nhân dân
(UBND) các cấp.
• Chức năng tư pháp: là phương diện hoạt động cơ
bản của Nhà nước nhằm bảo vệ pháp luật, xét xử các vụ án
hình sự, giải quyết các tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa
các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế,
lao động, hôn nhân, gia đình...
| Ở nước ta, chức năng tư pháp được thực hiện chủ yếu thông
qua hệ thống cơ quan xét xử là Toà án nhân dân các cấp.
Ngoài ra, chức năng tư pháp còn được thực hiện bởi các Cơ
quan bảo vệ pháp luật khác: Viện Kiểm sát, công an, thanh tra và cơ
quan tư pháp.
b. Căn cứ vào tính hệ thống và chủ thể thực hiện
chức năng
Chức năng của toàn thể bộ máy nhà nước: là các mặt hoạt
động cơ bản của Nhà nước đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ
quan nhà nước.
Ví dụ: Để thực hiện chức năng bảo vệ trật tự pháp luật,
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đòi hỏi nhiều
cơ quan nhà nước phải tham gia như: Toà án, công an,
Viện Kiểm sát, thanh tra... Các cơ quan đó cùng tham
gia thực hiện chức năng này ở những phương diện và mức
độ khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Chức năng của cơ quan nhà nước: là một hoạt động cơ
bản của cơ quan nhà nước cụ thể, góp phần thực hiện chức năng
chung của cả bộ máy nhà nước.
Ví dụ: Chức năng của cơ quan công an là tham gia vào hoạt
động phát hiện, khởi tố, điều tra vụ án; Viện Kiểm sát: truy tố vụ
án; Toà án: thực hiện hoạt động xét xử vụ án... nhằm thực hiện
chức năng chung là bảo vệ trật tự pháp luật của cả bộ máy nhà
nước.
C. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động
thực tế của Nhà nước
• Chức năng kinh tế: là phương diện hoạt động cơ bản
của Nhà nước nhằm thực hiện các chính sách kinh tế của quốc gia..
Ví dụ: Tổ chức, quản lý, phát triển công, nông nghiệp, ngoại
thương, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ...
• Chức năng xã hội: là phương diện hoạt động cơ bản của
Nhà nước tác động vào lĩnh vực xã hội nhằm ổn định xã hội và tạo
điều kiện cho xã hội phát triển.
Ví dụ: Chức năng xã hội trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực an sinh xã hội, lao động; trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội...
d. Căn cứ vào phạm vi lãnh
thổ của sự tác động
• Chức năng đối nội: là phương diện hoạt động chủ yếu
của Nhà nước trong nội bộ đất nước.
Đơn cử các chức năng đối nội của Nhà nước Việt
Nam bao gồm:
- Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn
áp sự phản kháng, lật đổ, phản cách mạng;
- Tổ chức và quản lý văn hoá, giáo dục, khoa học,
công nghệ; - Bảo vệ trật tự pháp luật, các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân; - Tổ chức và quản lý
kinh tế.
• Chức năng đối ngoại: là phương diện hoạt động cơ
bản của Nhà nước trong quan hệ quốc tế.
Ví dụ: Bảo vệ Tổ quốc; Hợp tác quốc tế với các nhà nước khác trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, các bên
cùng có lợi.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại liên quan chặt
chẽ, hỗ trợ, tác động lẫn nhau. Trong đó, chức năng đối nội
giữ vai trò chủ đạo, có tính chất quyết định đối với chức năng
đối ngoại. Việc hoạch định và thực hiện chức năng đối ngoại
của Nhà nước luôn phải xuất phát từ nội dung và tình hình thực
hiện chức năng đối nội. Thực hiện chức năng đối nội hiệu quả sẽ
tạo điều kiện thúc đẩy thực hiện tốt chức năng đối ngoại của Nhà
nước. Kết quả, hiệu quả của việc thực hiện chức năng đối ngoại sẽ
góp phần tích cực đến việc thực hiện chức năng đối nội của
Nhà nước.
III. HÌNH THỨC VÀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

1. Hình thức nhà nước

a. Khái niệm hình thức nhà nước - Hình thức nhà nước được
hiểu là những cách thức tổ chức và phương pháp để thực
hiện quyền lực nhà nước. Khái niệm hình thức nhà nước có
hai vấn đề cơ bản:
15
- Thứ nhất, hình thức, cách thức tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó được chia thành hai nội dung: cách thức tổ
chức quyền lực tối cao ở trung ương (được gọi là hình thức
chính thể) và tổ chức quyền lực theo đơn vị hành chính - lãnh thổ
(còn gọi là hình thức cấu trúc).
- Thứ hai, phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước
(được gọi là chế độ chính trị).
Cũng là cơ quan đại diện cho cử tri, Nghị viện Anh có
thể thành lập, bất tín nhiệm và giải tán Chính phủ; trong khi
Quốc hội Mĩ không thành lập, không thể giải tán Chính phủ và
cách chức Tổng thống Mĩ. Sự khác nhau này thể hiện cách thức
tổ chức, thiết lập mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất
trung ương hay nói cách khác là sự khác nhau về
hình thức chính thể.
. Cũng trong một quốc gia, một số bang ở Mĩ cho phép mang
vũ khí, trong khi một số bang khác thì không; hoặc một số bang
không cho phép phá thai, một số cho phép có điều kiện, một số chỉ
cần người phụ nữ yêu cầu. Về bộ máy quản lí, mỗi một bang có hệ
thống Toà án, cơ quan đại diện, Thống đốc riêng và có thể có Hiến
pháp và những quy định pháp luật khác nhau. Ngược lại, ở Việt
Nam, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không thể có
những quy định khác nhau về cùng một vấn đề, không có hệ thống
cơ quan nhà nước riêng, độc lập với bộ máy nhà nước. Đây chính là
hai mô hình khác nhau về tổ chức quyền lực nhà nước theo cấu trúc
lãnh thổ. I Ở một số nhà nước, việc quyết định những vấn đề nhất
định được thực hiện bằng cách hỏi ý kiến nhân dân và hình
thức cao hơn, để nhân dân bỏ phiếu trực tiếp quyết định và nhà
nước phải thực hiện các quyết định đó.
Ví dụ: Ở một số nước trong Liên minh châu Âu, việc quyết định
tham gia đồng tiền chung châu Âu thông qua Hiến pháp chung
của châu Âu là do cử tri bỏ phiếu quyết định. Ở Việt Nam, quy
chế dân chủ cơ sở và khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” là những biểu hiện của cách thức thực hiện
quyền lực
mang tính dân
chủ.
Có một số nhà nước, việc quyết định những vấn đề quan trọng
do một nhóm hoặc một cá nhân toàn quyền quyết định, loại trừ
sự tham gia của nhân dân vào các công việc này. Nói cách
khác, đây là sự cai trị chuyên chế độc tài (ví dụ: những nhà nước
phát xít). Toàn quyền quyết định và loại trừ sự tham gia của nhân
dân hay tôn trọng và tổ chức cho nhân dân tham gia vào công việc
nhà nước là hai cách thức, phương thức thực hiện quyền lực
nhà nước khác nhau, đối lập nhau.
b. Hình thức
chính thể
• Khái niệm chính thể N Tổ chức và vận hành quyền lực nhà
nước ở trung ương hay còn gọi là hình thức chính thể có ba nội dung
cơ bản: (i) Cách thức, trình tự tổ chức quyền lực
16
nhà nước trung ương; (ii) Mối quan hệ giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương; (iii) Sự tham gia của nhân
dân vào việc tổ chức quyền lực nhà nước ở trung ương. Nói
một cách đơn giản, nó trả lời ba câu hỏi: (i) Quyền lực nhà nước
trung ương được hình thành như thế nào? (ii) Các cơ quan có quyền
lực đó quan hệ với nhau ra sao? (iii) Nhân dân tham có thể tham gia
và tham gia như thế nào vào việc hình thành các cơ quan này?
- Thứ nhất: Cách thức, trình tự tổ chức quyền lực nhà
nước trung ương
Thông thường, quyền lực nhà nước ở trung ương được tổ
chức thành ba loại: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp dựa trên cách thức phân loại chức năng nhà nước ở
Chương 1 của giáo trình này. Quyền lập pháp (xây dựng luật) thường
được thực hiện bởi cơ quan đại diện cho toàn thể cử tri, Cơ quan đó
được gọi là Quốc hội hay Nghị viện. Quyền thi hành pháp luật do cơ
quan đại diện ban hành thường được gọi là quyền hành pháp và
cơ quan thực hiện quyền này có tên gọi phổ biến là Chính phủ.
Quyền bảo vệ pháp luật thường được gọi là quyền tự pháp và
cơ quan thực hiện quyền này thường là Toà án.
+ Về cách thức thành lập, có những cách cơ bản
như sau:
+ Bầu và bầu cử là việc nhiều người hoặc toàn dân lựa
chọn và trao quyền cho một hoặc một số người giữ những chức
vụ nhất định trong bộ máy nhà nước.
Ví dụ: Nhân dân bầu các đại biểu Quốc hội ở Việt
Nam, bầu Tổng thống ở Mĩ.
+ Bổ nhiệm là việc chọn một hoặc một số người giữ chức vụ
trong bộ máy nhà nước.
Ví dụ: Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam bổ nhiệm Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
Nữ hoàng Anh bổ nhiệm Thủ tướng.
• Thế tập là việc được thừa hưởng tước vị, chức vụ do có
cùng dòng tộc với nhà vua.
Ví dụ: Elizabeth II kế vị vua George VÌ vào năm 1952, Bhumibol
Adulyadej của Thái Lan kế vị ngai vàng sau khi anh của ông - vua
Ananda Mahidol - mất năm 1946. + Về trình tự thiết lập các cơ
quan quyền lực nhà nước:
Trình tự thiết lập cơ quan quyền lực nhà nước ở trung
ương là nói đến các bước, các giai đoạn của quá trình thiết lập
các Cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương. Có hai loại trình tự
phổ biến trong thực tiễn:
• Loại thứ nhất, việc thiết lập các cơ quan quyền lực theo
thứ tự trước sau và thành công trong việc thiết lập cơ quan trước
mới có thể thiết lập được cơ quan sau.
Ví dụ: Ở Việt Nam, Quốc hội được bầu ra trước. Sau đó,
Quốc hội quyết định thành lập ra Chính phủ. Cơ cấu, số lượng
thành viên của Chính phủ do Quốc hội quy định,
• Loại thứ hai, việc thiết lập các cơ quan quyền lực nhà
nước ở trung ương độc lập với nhau, việc thiết lập cơ quan này
không ảnh hưởng tới việc thiết lập cơ quan khác.
Ví dụ: Ở Mĩ, việc bầu Tổng thống không phụ thuộc vào
việc bầu Quốc hội và ngược lại. - Thứ hai: Mối quan hệ giữa
các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương
Theo nội dung và vị trí của các chủ thể, quan hệ giữa các
cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương có thể chia thành
hai loại cơ bản. B + Loại thứ nhất, quan hệ giữa các chủ thể
ngang bằng về vị trí và do vậy nội dung quan hệ giữa chúng
mang tính chất kiềm chế, đối trọng, giám sát lẫn nhau.
Ví dụ: Quan hệ giữa Tổng thống Mĩ và Quốc hội Mĩ là quan
hệ giữa hai chủ thể cùng do dân bầu ra, địa vị ngang nhau. Nội
dung quan hệ giữa hai chủ thể này là | kiềm chế, đối trọng và
kiểm soát lẫn nhau, không phụ thuộc vào nhau.
+ Loại thứ hai, quan hệ giữa các chủ thể không ngang nhau về
vị trí và do vậy nội dung quan hệ giữa chúng mang tính chất thứ bậc,
trên dưới, nhấn mạnh sự thống nhất về quyền lực.
Ví dụ: Quốc hội Việt Nam là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
có quyền thành lập và bất tín nhiệm Chính phủ, Chính phủ phải chịu
trách nhiệm trước Quốc hội. Đây là mối quan hệ trên dưới, chấp hành,
theo đó Chính phủ phải phụ thuộc vào Quốc hội.
- Thứ ba: Sự tham gia của nhân dân vào việc tổ chức
quyền lực nhà nước ở trung ương
Sự tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan
nhà nước bằng bầu cử và cách thức xác định kết quả cũng rất
khác nhau.
Ví dụ: Ở Liên bang Nga, nhân dân trực tiếp bầu Quốc hội,
bầu Tổng thống Liên bang; còn ở CHLB Đức, nhân dân chỉ
bầu Quốc hội nhưng không bẩu Tổng thống. Ở Mĩ, cử tri có
thể bầu nhiều lần hơn so với ở CHLB Đức hoặc Vương
quốc Anh. Chế độ bầu cử theo đa số có nghĩa là ứng cử viên có
số phiếu bầu cao nhất là thẳng cử trong khi chế độ bầu cử theo tỉ lệ
đại diện xác định thắng cử phụ thuộc vào tỉ lệ số phiếu mà họ có
được. .
Như vậy, cách thức, số lượng tham gia của nhân dân vào việc tổ
chức bộ máy nhà nước thông qua bầu cử là một nội dung của khái
niệm chính thể.
Hình thành nên các cơ quan nhà nước như thế nào,
những cơ quan này vận hành ra sao và cách thức thực hiện
quyền lực trong mối quan hệ với nhân dân (hình thức chính thể)
là những nội dung đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội.
• Phân loại chính
thể
Cách phân loại hình thức chính thể phổ biến hiện nay dựa
trên nguồn gốc quyền lực nhà nước và sự tham gia của nhân
dân vào quyền lực nhà nước.
Theo cách này, chính thể chia thành hình thức chính thể
quân chủ và chính thể cộng hoà. Quân chủ là hình thức chính thể
trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước được tập trung toàn bộ (hay
một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa
kế. Cộng hoà là hình thức theo đó quyền lực tối cao của Nhà nước
thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: Việt Nam là chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa,
Thái Lan là chính thể quân chủ.
- Chính thể quân chủ được chia thành hai loại là quân chủ tuyệt
đối (nhà vua nắm quyền lực vô hạn) và quân chủ hạn chế (nắm một
phần quyền lực). Quân chủ hạn chế có thể chia làm hai loại: quân
chủ đại nghị (nhà vua bị hạn chế bởi Nghị viện) và quân chủ lập
hiến (nhà vua bị hạn chế bởi Hiến pháp). và
Ví dụ: Nhà nước trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam là
quân chủ tuyệt đối, Vương quốc Anh là quân chủ đại nghị, Nhật
Bản là quân chủ lập hiến.
- Cách phân loại hình thức chính thể cộng hoà hiện đại dựa trên
vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà
nước ở trung ương chia thành ba loại cơ bản: Cộng hoà tổng
thống; Cộng hoà đại nghị và cộng hoà lưỡng hệ.
+ Cộng hoà tổng thống có những đặc tính: (i) Người
đứng đầu hành pháp là nguyên thủ quốc gia và được bầu phổ
thông; (ii) Nhiệm kì của lập pháp và người đứng đầu hành pháp
là xác định và không phụ thuộc vào sự tín nhiệm của nhau; (iii)
Tổng thống thiết lập, điều hành Chính phủ; (iv) Thành viên
của Chính phủ không đồng thời là thành viên của lập pháp.
Ví dụ: Hợp chủng quốc Hoa Kì (Mĩ) là chế độ cộng hoà tổng
thống. Theo đó, Tổng thống được bầu phổ thông với nhiệm kì 04
năm. Tổng thống Mĩ không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
không bị Quốc hội giải tán. Tổng thống Mĩ thành lập Chính phủ
và các bộ trưởng không là thành viên của Quốc hội Mĩ.
+ Cộng hoà đại nghị có các đặc tính: (i) Người đứng đầu
hành pháp, bao gồm cả Thủ tướng và Nội các, hình thành từ Nghị
viện và là thành viên của Nghị viện; (ii) Hành pháp có thể bị giải
tán bởi đa số trong Nghị viện, thông qua thủ tục bỏ phiếu bất tín
nhiệm; (iii) Vị trí nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu hành pháp
là tách biệt; (iv) Lãnh đạo hành pháp mang tính tập thể trong
đó Thủ tướng là người đứng đầu.
Ví dụ: CHLB Đức, Cộng hoà Italia là chính thể cộng hoà đại
nghị. Chính phủ hình thành từ Nghị viện, chịu trách nhiệm
trước Nghị viện và có thể bị Nghị viện giải tán, nguyên thủ quốc
gia là Tổng thống tách biệt với Thủ tướng - người đứng đầu cơ
quan hành pháp.
+ Cộng hoà lưỡng hệ có các đặc tính: (i) Tổng thống được bầu
phổ thông; (ii) Tổng thống có quyền hiến định rất lớn, là người
đứng đầu hành pháp và nguyên thủ quốc gia; (iii) Thủ tướng và
các bộ trưởng nắm quyền hành pháp và
chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Thực chất, chế độ này kết
hợp những đặc tính của hai chế độ trên. Những nước theo
hình thức cộng hoà lưỡng hệ tiêu biểu: CHLB Nga, Cộng hoà
Pháp.
Ví dụ: Tổng thống CHLB Nga do dân bầu, có quyền rất
lớn và là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu hành pháp. Thủ
tướng Dmitry Medvedev nắm quyền hành pháp
chịu trách nhiệm trước
Quốc hội.
C. Hình thức cấu trúc
• Khái niệm hình thức cấu
trúc
Vì sự khác biệt về địa lí, thành phần cư dân, văn hoá, trình
độ phát triển kinh tế... hoặc lịch sử hình thành quốc gia, hầu hết các
nhà nước được cấu thành từ những phần lãnh thổ với những bộ máy
quản lí tại những bộ phận lãnh thổ đó.
Ví dụ: Lịch sử hình thành Hợp chủng quốc Hoa Kì tạo nên các
tiểu bang trong nhà nước liên bang, nhưng với Việt Nam, việc
chia toàn bộ quốc gia thành các tỉnh, thành phố và các cấp nhỏ
hơn xuất phát từ yếu tố địa lí, văn hoá, cư dân, trình độ phát triển
kinh tế với mục đích quản lí xã hội nhằm phát triển đồng đều và bình
đẳng giữa những khu vực, bộ phận khác nhau.
Như vậy, hình thức cấu trúc là việc nhà nước được cấu thành từ
những đơn vị hành chính lãnh thổ như tiểu bang, tỉnh, thành phố...
hay chia thành các cấp với trật tự thứ bậc như thế nào và các bộ
phận lãnh thổ đó quan hệ với nhau ra sao.
Ví dụ: Có nên chia thành các tiểu bang có chủ quyền độc lập hay
chia thành các đơn vị hành chính như tỉnh, thành phố không có
chủ quyền? Có thể nói, hình thức cấu trúc được hiểu là sự cấu
tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập
mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung
ương với địa phương. + Phân loại hình thức cấu trúc - Nhà nước
liên bang
Những nhà nước liên bang điển hình như Hợp chủng quốc
Hoa Kì được chia thành 50 tiểu bang với những hệ thống pháp luật,
bộ máy nhà nước độc lập với nhau và độc lập với bộ máy nhà nước
trung ương. CHLB Đức gồm 16 tiểu bang với những cơ quan nhà
nước độc lập với chính quyền trung ương. Như vậy, nhà nước liên
bang được cấu trúc từ các nhà nước thành viên (tiểu bang) với sự
độc lập nhất định thể hiện bằng việc có hệ thống pháp luật
riêng, bộ máy quản lí riêng. Các nhà nước tiểu bang có mức độ
độc lập với nhà nước liên bang, có chủ quyền.
- Nhà nước đơn nhất B Nhà nước đơn nhất là hình thức tổ
chức quyền lực nhà nước theo đó chủ quyền tập trung vào chính
quyển trung ương, chính quyền địa phương, vùng có thể có thẩm
quyền ở những mức độ nhất định nhưng thẩm quyền này do chính
quyền

20
trung ương cho phép và về lí thuyết, chính quyền trung ương
có thể giải tán chính quyển vùng và địa phương.
Ví dụ: Các tỉnh, thành phố ở Việt Nam không thể có Hiến
pháp riêng, không thể có bộ máy quản lí độc lập mà nó
hoàn toàn phụ thuộc vào bộ máy nhà nước trung ương.
Quốc hội có thể tách, nhập các đơn vị hành chính, hình thành,
giải tán các
đơn vị hành chính mới. | Tóm lại, hình thức nhà nước cấu trúc
theo lãnh thổ có hai mô hình cơ bản là nhà nước theo chế độ
liên bang và nhà nước đơn nhất. Mỗi một mô hình tổ chức và vận
hành quyền lực theo lãnh thổ có những đặc điểm khác nhau nhưng
phải tuân thủ những nguyên lí chung là bảo đảm mối quan hệ
giữa chủ quyền quốc gia và quyền tự chủ của chính quyền
cấp dưới; bảo đảm sự thống nhất và sự khác biệt; bảo đảm
yêu cầu hiệu quả trong quản lí.
d. Chế độ chính trị
• Khái niệm chế độ
chính trị
Cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào,
có vì nhân dân hay không, quyền lực này có thuộc về nhân dân hay
không, có do nhân dân hay không là một trong những nội dung của
khái niệm chế độ chính trị.
| Chế độ chính trị có thể được hiểu là những cách thức,
phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước. Nếu như hình thức
chính thể và hình thức cấu trúc cho ta biết quyền lực nhà nước
được tổ chức theo hình thức nào thì khái niệm chế độ chính
trị cho ta biết quyền lực đó được thực hiện như thế nào, theo
cách nào.
• Phân loại chế độ chính trị Chế độ chính trị được
chia thành chế độ dân chủ và phi dân chủ.
- Phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước dân chủ
được hiểu là cách thức thực hiện quyền lực theo đó có tổ chức
cho sự tham gia của nhân dân vào việc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước.
Ví dụ: Trong lĩnh vực lập pháp, quyền lực lập pháp thuộc về
Quốc hội, Quốc hội được thực hiện quyền lập pháp theo nhiều cách
khác nhau. Nếu Quốc hội cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến,
đánh giá trong suốt quá trình xây dựng pháp luật, cách thức thực
hiện quyền lực lập pháp của Quốc hội thì việc thực hiện quyền
lực nhà nước này được coi là có dân chủ hay chế độ chính trị dân
chủ.
- Phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước phi dân chủ
là phương pháp ngăn cản, loại trừ sự tham gia của nhân dân vào bộ
máy nhà nước và đời sống chính trị. Quyền lực nhà nước được
thực hiện một cách chuyên chế và độc đoán.
Ví dụ: Trong quá trình thực hiện pháp luật, cơ quan hành pháp
không lắng nghe ý kiến của nhân dân, không cho nhân dân tham gia
góp ý, không tạo điều kiện cho nhân dân giám sát và thực hiện quyền
lực này một cách tuỳ tiện, theo ý chí của người có quyền thì được
coi là thực hiện quyền lực không dân chủ.
2. Bộ máy nhà nước
a. Khái niệm bộ máy nhà nước
B Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương xuống địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc
chung thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ để thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước'.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ
trung ương xuống địa phương.
Ví dụ: Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam ở trung ương gồm
có Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao; ở địa phương có Hội đồng nhân dân (HĐND) và
UBND các cấp.
Bộ máy nhà nước được tổ chức theo những nguyên tắc nhất
định nhằm bảo đảm cho sự vận hành của bộ máy nhà nước thống
nhất, đồng bộ và có hiệu quả. Có thể nói, các nguyên tắc tổ chức
bộ máy nhà nước chính là cơ sở kiến trúc nên toàn bộ máy nhà
nước, tạo ra sự khác biệt giữa bộ máy nhà nước này với bộ máy
| Ví dụ: Bộ máy nhà nước tư sản tổ chức theo
nhà nước khác.
nguyên tắc phân quyền.
Theo đó, Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ nắm quyền
hành pháp và Toà án có quyền tư pháp. Các cơ quan này vừa
thực hiện quyền năng của mình vừa kiểm soát các nhánh
quyền lực khác. Trong khi đó, bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, quyền lực nhà nước tập
trung vào Cơ quan đại điện cao nhất.
Ví dụ: Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất có quyền tổ chức ra các cơ quan nhà nước khác
ở trung ương và có quyền giám sát tối cao.
Mỗi cơ quan nhà nước đểu có chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn riêng nhưng khi các cơ quan nhà nước thực hiện
chức năng riêng của mình là nhằm góp phần thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ví dụ: Cơ quan điều tra thực hiện chức năng điều tra, cơ quan Viện
Kiểm sát thực hiện chức năng công tố, Toà án thực hiện chức
năng xét xử.
Điều này có nghĩa ba Cơ quan này đang góp phần thực hiện
chức năng của Nhà nước là chức năng bảo vệ trật tự pháp luật,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy, vai trò của
bộ máy nhà nước là nhằm để thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước.
Ví dụ: Để nhà nước thực hiện được chức năng trấn áp thì phải tổ
chức ra các cơ quan như: quân đội, nhà tù, cảnh sát; để nhà
nước quản lí giáo dục, y tế thì phải tổ chức các cơ quan như Bộ
Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo...
Nguyễn Cửu Việt, 2008, Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia, HN, tr.56.

22
b. Cơ quan nhà nước - bộ phận cấu thành
của bộ máy nhà nước
Mặc dù các cơ quan nhà nước khác nhau có vị trí, tính
chất, chức năng và thẩm quyền khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các
cơ quan nhà nước đều có các đặc điểm chung giống nhau và nhờ đó
có thể phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức kinh tế, tổ
chức chính trị và các tổ chức khác trong xã hội. Cơ quan nhà
nước có một số đặc điểm cơ bản sau: B Thứ nhất, cơ quan nhà nước
là tổ chức không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất. Có thể nói
rằng, các cơ quan nhà nước là những tổ chức chuyên làm nhiệm vụ
quản lí xã hội và không trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế
như các doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội. Mặc dù
giống với các tổ chức khác là cơ quan nhà nước cũng thực hiện
sự quản lí đối với con người nhưng cơ quan nhà nước không
trực tiếp sản xuất ra của cải phục vụ cho con người như lúa
gạo, quần áo... Tuy nhiên, thông qua các hoạt động của mình,
các cơ quan nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức khác
tham gia vào quá trình sản xuất.
Ví dụ: Bộ Công Thương có vai trò quan trọng trong việc quản lí
đối với ngành công nghiệp và thương mại của nước ta nhằm tạo
doanh nghiệp thực hiện các hoạt
điều kiện thuận lợi cho các
động sản xuất, kinh doanh của mình.
Thứ hai, Cơ quan nhà nước có quyền nhân danh nhà
nước để thực hiện quyền lực nhà nước. Các cơ quan nhà
nước từ trung ương xuống địa phương đều đại diện cho nhà
nước thực hiện quyền lực nhà nước. Tính quyền lực nhà nước
của cơ quan nhà nước thể hiện ở chỗ, các quyết định của cơ
quan nhà nước được ban hành trên cơ sở ý chỉ đơn phương của mình
và có tính chất bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan. .
Ví dụ: Bản án hình sự của Toà án có tính bắt buộc đối với người bị
kết án, hay quyết định xử phạt hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước có tính | bắt buộc đối với chủ thể vi phạm hành chính.
Các quyết định của cơ quan nhà nước được bảo đảm
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Dĩ nhiên, không
phải thực hiện mọi quyết định của cơ quan nhà nước đều cần đến
cưỡng chế nhà nước mà trước hết các quyết định này được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện của đối tượng. Mặc dù các quyết định này thể
hiện ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước nhưng không có nghĩa
là xuất phát từ ý chí chủ quan, tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước mà
phải dựa trên cơ sở pháp luật, phù hợp với đạo đức xã hội.
| Thứ ba, Cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động của mình
trong phạm vi thẩm quyền của mình trên cơ sở pháp luật quy
định. Mặc dù tất cả các cơ quan nhà nước đều có quyền lực nhà
nước nhưng mỗi cơ quan có được quyền lực nhà nước trong một
giới hạn nhất định và giới hạn đó được gọi là thẩm quyền. Mỗi cơ
quan

'Theo Nguyễn Cửu Việt, 2008, Sđd: “Thẩm quyền của cơ quan
nhà nước được hiểu là tổng thể quyền, nghĩa vụ chung và những quyền
hạn cụ thể mang tính quyền lực - pháp lí mà nhà nước trao cho cơ quan nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước”.

23
nhà nước đều có thẩm quyền riêng của mình, các cơ quan
nhà nước khác nhau sẽ có thẩm quyền khác nhau.
Ví dụ: Thẩm quyền của cơ quan cảnh sát giao thông khác với cơ
quan thuế và cơ quan quản lý thị trường. Cảnh sát giao thông không có
những người có hành vi sai phạm như
quyền xử phạt đối với
trốn thuế hoặc bán hàng kém chất lượng.
Thẩm quyền của cơ quan nhà nước được xác định thông qua
các quy định trong các văn bản pháp luật. Trong các yếu tố của
thẩm quyền cơ quan nhà nước thì quan trọng nhất là quyền ban
hành quyết định pháp luật. Các cơ quan nhà nước chỉ hoạt động
trong phạm vi thẩm quyền của mình, trong phạm vi đó, các cơ quan
nhà nước hoạt động một cách độc lập, chủ động và sáng tạo. Việc
thực hiện thẩm quyền đối với các cơ quan nhà nước vừa là quyển,
nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ, không phụ thuộc vào ý muốn, sự
xét đoán riêng của bản thân các cơ quan hay bất kì người lãnh đạo
nào...
Tóm lại, có thể hiểu rằng, cơ quan nhà nước là một tổ
chức mang quyền lực nhà nước, được thành lập trên cơ sở
pháp luật và được giao những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định
để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong phạm
vi luật định
. C. Các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước của các
quốc gia trên thế giới ngày nay
• Nguyên thủ quốc
gia
Ở hầu hết các quốc gia, hiến pháp quy định nguyên thủ quốc
gia là người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt nhà nước
về mặt đối nội và đối ngoại. Về nguyên tắc, nguyên thủ quốc gia là
đại diện tượng trưng cho sự bền vững và tập trung của Nhà nước.
Nguyên thủ quốc gia ở các quốc gia khác nhau có thể có tên gọi
khác nhau như Tổng thống, Chủ tịch nước, Quốc vương... Thông
thường, nguyên thủ quốc gia là một cá nhân đứng đầu nhà nước.
Tuy nhiên, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây có thời kì nguyên
thủ quốc gia là một tập thể.
Ví dụ: Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao là nguyên thủ theo quy định của
Hiến pháp Liên bang Xô viết năm 1977, hoặc thiết chế Hội đồng
Nhà nước cũng là nguyên thủ theo quy định Hiến pháp năm 1980
của Việt Nam. Mức độ thực quyền của nguyên thủ quốc gia phụ thuộc
vào mô hình chính thể của Nhà nước.
Nhìn chung, thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia được thể
hiện trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và đối ngoại. Về
hành pháp, nguyên thủ quốc gia thể hiện có quyền bổ nhiệm
các quan chức cấp cao của hành pháp. Nguyên thủ là người
đứng đầu nhà nước nên cũng được giao quyền thống lĩnh lực
lượng

Nguyễn Cửu Việt, 2008, sđd, tr.127, 2 Nguyễn Đăng Dung,


1997, Luật Hiến pháp nước ngoài, NXB Đồng Nai,
tr.112.

24
vũ trang. Về đối ngoại, nguyên thủ quốc gia có quyền thay mặt cho
nhà nước, có quyền bổ nhiệm các đại sứ, các đại diện ngoại giao;
triệu hồi các đại sứ; tiếp nhận uỷ nhiệm thu các đại diện ngoại
giao nước ngoài; quyết định phong hàm cấp ngoại giao. Về
lập pháp, thông thường nguyên thủ quốc gia có quyền công
bố các đạo luật và phủ quyết lập pháp. Nguyên thủ quốc gia
thực hiện quyền này là nhằm kiểm soát quyền lập pháp của
Nghị viện. Về tư pháp, nguyên thủ quốc gia có quyển bổ
nhiệm các thẩm phán Toà án cấp cao, tổng công tố, người
đứng đầu ngành tư pháp. Nguyên thủ quốc gia cũng có quyền
ân xá và đặc xá.
• Nghị viện
Ở các nhà nước tư sản ngày nay, quyền lập pháp được
trao cho Nghị viện nên Nghị viện còn được gọi là cơ quan lập
pháp. Tuy nhiên, ngoài chức năng lập pháp, Nghị viện còn
thực hiện các chức năng quan trọng khác như giám sát Chính
phủ, chức năng tài chính quyết định các vấn đề về ngân sách
nhà nước), chức năng đại diện (đại diện cho nhân dân cả nước,
có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của toàn dân, kể cả những nhóm
người thuộc về thiểu số...). Do đó, có thể nói, Nghị viện chiếm vị trí
đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước, vì
thiếu nó hai nhánh quyền lực kia không thể hoạt động được.
. Có thể khái quát thẩm quyền của Nghị viện trong những lĩnh vực
cơ bản như sau: Về lập pháp, Nghị viện là cơ quan có quyền
thảo luận và thông qua các dự luật. Quyền này được xem là
quyền quan trọng nhất của quy trình lập pháp; Về tài chính, Nghị viện
có quyền phê chuẩn sử dụng ngân sách, phân bổ ngân sách,
quyết toán ngân sách. Các quyền này được xem là những quyền
khá quan trọng của Nghị viện trong việc kiểm soát chi tiêu của Chính
phủ và thông qua đó, Nghị viện có thể kiềm chế, giám sát bộ máy
hành pháp; Về quốc phòng an ninh và đối ngoại, Nghị viện có
quyền quyết định chiến tranh hay hoà bình, có quyền ban
hành luật hay phê chuẩn ban bố tình trạng khẩn cấp hay thiết
quân luật; Về đối ngoại, Nghị viện có quyền phê chuẩn các hiệp
ước giữa Chính phủ với Chính phủ của các nước khác hay tổ
chức quốc tế; Về hành pháp, các nước có chính thể đại nghị
thì Nghị viện có quyền hạn rộng lớn như thành lập Chính phủ,
giám sát Chính phủ, có quyền bất tín nhiệm đối với Chính
phủ. Ngược lại, các nước có chính thể cộng hoà tổng thống và
cộng hoà hỗn hợp, quyển can thiệp của Nghị viện đối với hành pháp
có phần hạn chế và chủ yếu có quyền kiểm soát Chính phủ; Về tư
pháp, một số quốc gia quy định Nghị viện có quyền luận tội các
quan chức cấp cao của hành pháp, kể cả nguyên thủ quốc gia. Thủ
tục này còn gọi là thủ tục đàn hạch và được quy định hết sức chặt chẽ
nhằm tránh việc sử dụng tuỳ tiện gây mất ổn định chính trị của quốc
gia.

1 Nguyễn Đăng Dung, Thái Vĩnh Thắng, Nguyễn Chu Dương, 2008, Thể chế
chính trị các nước châu Âu, NXB Chính trị Quốc gia, HN, tr.80.

25

•Chính
phủ
Ở các quốc gia ngày nay, thông thường Chính phủ được gọi là
cơ quan hành pháp. Vì vậy, theo nghĩa đơn giản nhất, Chính
phủ là cơ quan thi hành pháp luật. Vì thế, chức năng chủ yếu
của Chính phủ là quản lí xã hội trên cơ sở luật của Nghị viện.
Tuy nhiên, khi thực hiện hoạt động quản lí của mình, Chính phủ có
thể bạn hành các văn bản pháp luật gọi là hoạt động lập quy. Bên
cạnh đó, thông thường Chính phủ cũng được trao quyền thi hành
các phán quyết của Toà án. Trên thực tế, dù ở bất kì chính thể nào
thì Chính phủ vẫn là thiết chế có vị trí trung tâm trong bộ máy nhà
nước, có quyền hạn rất lớn và có thể lấn át các thiết chế quyền lực
khác như Nghị viện, Toà án. Vì vậy, mục tiêu tham gia bầu cử của
các đảng chính trị ở các nước tư bản chủ yếu là nhằm nắm quyền
kiểm soát Chính phủ.
N Nhìn chung, thẩm quyền của Chính phủ thể hiện trong
các lĩnh vực sau: Về hoạch định chính sách, Chính phủ có thẩm
quyền khởi xướng và hoạch định các chính sách đối ngoại và đối
nội của Nhà nước. Thực chất, thẩm quyền này nhằm giúp Chính
phủ hạn chế quyền lực của lập pháp; Về quản lý nhà nước, Chính
phủ là cơ quan có thẩm quyền quản lí cao nhất của Nhà nước trên
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội... Đây chính là thẩm quyền quan trọng và thường xuyên
của Chính phủ; Về quốc phòng, an ninh, Chính phủ vừa là cơ
quan có quyền soạn thảo các chính sách liên quan đến quốc
phòng, an ninh và đối ngoại, vừa là cơ quan có quyền chỉ đạo
thực hiện các chính sách này; Về ngoại giao, Chính phủ có quyền
đệ trình hoặc tự mình đàm phán kí kết các hiệp ước quốc tế.
Ngoài ra, Chính phủ cũng có quyền đệ trình nguyên thủ quốc
gia bổ nhiệm các đại sứ, đại diện ngoại giao tại nước ngoài; Về
lập pháp và lập quy, Chính phủ có quyền trình các dự án luật tới
Nghị viện, có quyền đề nghị nguyên thủ phủ quyết các dự luật của
Nghị viện và có quyền ban hành văn bản pháp quy để cụ thể hoá
các quy định của luật hoặc để bổ khuyết cho sự thiếu hụt của luật
được áp dụng vào cuộc sống; Về tư pháp, Chính phủ có quyền đệ
trình nguyên thủ quốc gia hay Nghị viện bổ nhiệm thẩm phán. Phần
lớn Chính phủ của các nhà nước tư sản nằm giữ quyền thi hành
án.
• Τοά άη
Ngày nay, hiến pháp của các nước đều quy định Toà án có
chức năng xét xử (nắm giữ quyền tư pháp) nhằm đảm bảo quyền tự
do, công bằng của công dân. So với các thiết chế quyền lực khác,
Toà án thực hiện chức năng xét xử dựa trên cơ sở quy định của pháp
luật và được xem là cơ quan có vai trò bảo vệ công lí cho xã hội. Do
đó, yêu cầu quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của
cơ quan này là phải đảm bảo sự độc lập. Vì vậy, hầu hết các nước
đều ghi nhận nguyên tắc toà án xét xử độc lập tuân theo pháp
luật trong hiến pháp của mình. Để bảo đảm cho
thẩm phán độc lập khi thực hiện nhiệm vụ của mình, pháp luật
các nước tư sản thường đưa ra các quy định mang tính nguyên
tắc như: Thẩm phán không thể là người thuộc các tổ chức chính
trị (các đảng phái chính trị), tổ chức kinh tế hay | thuộc bất kì cơ
quan nhà nước nào khác; Thẩm phán thường có nhiệm kì lâu dài
hoặc suốt đời; Thẩm phán được bổ nhiệm chứ không bầu cử;
Thẩm phán được hưởng thu nhập cao. Theo xu hướng chung,
vai trò của Toà án ngày càng được tăng cường nhằm mục tiêu
xây dựng pháp quyền mà cụ thể hơn là bảo đảm các quyền
con người.

You might also like