You are on page 1of 153

1. Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước.

Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện


một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
1.1. Đặc trưng cơ bản

- Định nghĩa: : Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, tập hợp và quản lý dân cư theo
lãnh thổ, nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia, ban hành pháp luật và thực hiện việc
quản lý xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi ích các giai tầng, lợi ích của cả xã hội, vì sự tồn
tại và phát triển của cả đất nước.

- Đặc điểm:

NN là tổ chức quyền lực công đặc biệt:

Nhà nước không phải là một cá nhân riêng biệt mà là một tổ chức. Quyền lực nhà nước
là khả năng nhà nước buộc các tổ chức và cá nhân trong xã hội phục tùng nhà nước. Quyền
lực công đây được hiểu là:

- Thứ nhất quyền lực này được thực hiện một cách công khai: Nghĩa là
mọi tổ chức và các nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đều biết và đều phải
phục tùng.
- Thứ 2 đây là quyền lực công cộng: tức là quyền lực đó thường được tạo
nên và được thực hiện bởi 1 cộng đồng người nhất định => đại diện và bảo vệ lợi
ích của 1 giai cấp, 1 liên minh giai cấp, 1 cộng đồng dân cư trong 1 địa phương
hoặc toàn quốc gia dân tộc. Quyền lực nhà nước bao trùm toàn bộ lãnh thổ của
một đất nước và có tính tối cao so với quyền lực của các tổ chức khác. Quyền lực
nhà nước chi phối quyền lực của các tổ chức khác trong xã hội.

Để thực hiện quyền lực của mình , Nhà nước thành lập một lớp người chuyên làm
nhiệm vụ quản lí và thực hiện cưỡng chế đối với toàn xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội tạo
điề kiện cho xã hội ổn định và phát triển .

Nhà nước phân chia lãnh thổ theo các đơn vị hành chính và thực hiện quản lí
dân cư theo lãnh thổ. Việc phân định lãnh thổ thành các đơn vị hành chính tạo ra khả
năng để tổ chức bộ máy nhà nước một cách chặt chẽ và thống nhất với sự phân công, phân
cấp hợp lí. Nhà nước quản lí dân cư theo địa bàn cư trú của họ chứ không quản lí dân cư

1
theo mục đích, chính kiến, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính,… như các tổ chức xã hội khác.
Do vậy nhà nước có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia.

Nhà nước có chủ quyền quốc gia.

Chủ quyền quốc gia bao gồm quyền quyết định tối cao trong vấn đề đối nội và quyền
độc lập tự quyết trong vấn đề đối ngoại. Hiến pháp các nước quy định chủ quyền quốc gia
thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện do vậy nhà nước là
đại diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội, đối ngoại.

Trong nước, quy định của nhà nước có tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối
với các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các tổ chức khác chỉ được thành lập hoặc tồn tại và
hoạt động một cách hợp pháp khi được nhà nước cho phép hoặc công nhận.

Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước có quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính
sách đối ngoại của mình.

Nhà nước có quyền ban hành pháp luật và thực hiện quản lí xã hội bằng pháp
luật.

Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc
thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân trong 1 lĩnh vực, 1 phạm vi lãnh thổ, 1 thời hạn
nhất định. Pháp luật là phương tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lí xã hội. Với tư
cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội nhà nước là tổ chức duy nhất trong xã hội
có quyền ban hành ra pháp luật.

Pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp như: tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục, tổ chức thực hiện,… và các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

Pháp luật được triển khai và thực hiện một cách rỗng rãi và có hiệu quả trong phạm vi
toàn xã hội, do vậy pháp luật là phương tiện tổ chức và quản lí xã hội có hiệu quả của nhà
nước.

Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức
bắt buộc, với số lượng và thời hạn định trước, ngoài ra có quyền phát hành tiền, công
trái

2
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy định
của pháp luật . Nhà nước là bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên
thực hiện chức năng quản lí xã hội , vì vậy nó phải được nuôi dưỡng từ của cải nhân dân
đóng góp . Chỉ nhà nước mời có quyền quyết định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước
là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội . Nhà nước phát hành
tiền làm phương tiện trao đổi trong sản xuất , phân phối , tiêu dùng của cải trong đời sống .

1.2. Phân tích một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
Nhà nước thực hiện quản lí dân cư theo lãnh thổ
Nhà nước quản lí dân cư theo lãnh thổ là:
+ Nhà nước phân chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ
Nhà nước Việt Nam: nước-> tỉnh-> huyện-> xã khác với nước khác chia theo bang… (vd:
Mĩ)
+ Dân sống ở đâu Nhà nước tổ chức chính quyền tại đó để người dân được thực hiện
quyền, nghĩa vụ chỗ đó thuận lợi và nhà nước thuận tiện trong việc quản lí xã hội (người
dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính…)

Tại sao Nhà nước Việt Nam lại phải quản lí dân cư theo lãnh thổ?
Do nước Việt Nam trải dài từ Bắc chí Nam nên để thuận tiện cho việc quản lí xã hội Nhà
nước phân chia quản lí dân cư theo lãnh thổ. Dân ở đâu thì chính quyền ở đó để người dân
không phải đi quá xa để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, ngược lại, chính quyền
cũng không phải đi quá xa để phục vụ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
VD: Trong việc thực hiện quyền bầu cử của người dân. Do nguyên tắc bầu cử trực tiếp nên
nếu khu vực bỏ phiếu quá xa sẽ khó khăn cho người dân đến nơi bỏ phiếu. Ngược lại, với
những trường hợp đặc biệt được quy định không thể trực tiếp đến nơi bỏ phiếu, tổ bầu cử
phải mang hòm phiếu đến tận nơi cũng khó khăn.

Phân chia quản lí dân cư theo lãnh thổ cần những lưu ý gì?
Việc tổ chức Bộ máy chính quyền phụ thuộc vào quyền tụ cư tự nhiên của người dân.
+ Tuy nhiên, dân cư của Việt Nam không bao giờ phân bố đều. Người dân thường tập
trung đông đúc ở đồng bằng, thưa thớt ở miền núi, đặc biệt đông đúc ở những khu đô thị.
3
Mà số dân của một đơn vị lãnh thổ không nên quá đông. Do đó Nhà nước phải có những
biện pháp linh hoạt, khôn khéo để phân bổ dân cư: không thể cưỡng chế bắt ép họ về nông
thôn hay lên miền núi sinh sống mà nên đầu tư xây dựng những khu đô thị vệ tinh để thu
hút dân cư.
+ Có những trường hợp phải giải tán dân cư lấy mặt bằng cũng không thể sử dụng mệnh
lệnh hành chính mà phải dùng biện pháp thuyết phục. VD: muốn giải phóng mặt bằng xây
dựng hồ thủy điện thì chính quyền phải vận động thuyết phục sẽ xây dựng chỗ ở mới, đảm
bảo việc làm, di dời mổ mả tổ tiên… chứ không thể cưỡng ép họ rời đi rồi đền bù tiền.
+ Không thể cứng nhắc xây dựng Bộ máy chính quyền giống nhau ở các địa phương, cụ
thể là không thể quy định khuôn mẫu bao nhiêu nghìn dân một đơn vị lãnh thổ bởi sự
chênh lệch mật độ dân số giữa đồng bằng và miền núi. Từ đó, ta nên sáp nhập đồng bằng,
phân tách miền núi để thiết lập Bộ máy chính quyền.
Thực trạng: sổ hộ khẩu quản lí dân cư
Tuy nhiên có một nơi không có dân cư sinh sống nhưng vẫn có Bộ máy chính quyền bởi lí
do chủ quyền, sự khẳng định chủ quyền của quốc gia. VD: quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam. Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, nơi nào có chính quyền nơi đó phải
có đầy đủ HĐND và UBND. Tuy nhiên, hiện nay trường hợp huyện đảo Hoàng Sa có
chính quyền nhưng không đầy đủ các cấp chính quyền và không có dân. Về mặt nhà nước,
huyện đang quản lí lãnh thổ nhưng đã bị Trung Quốc tạm chiếm

2. Phân biệt Nhà nước CHXHCNVN với Đảng cộng sản VN.
Tiêu chí Nhà nước CHXHCN VN ĐCS VN
Khái niệm Tổ chức quyền lực đặc biệt -ĐCS VN – Đội tiên phong
của xã hội, bao gồm một lớp của giai cấp công nhân, đồng
người được tách ra từ xã hội thời là đội tiên phong của
để chuyên thực thi quyền lực, nhân dân lao động và của dân
nhằm tổ chức và quản lí xã tộc Việt Nam
hội, phục vụ lợi ích chung của -Nền tảng tư tưởng: chủ
toàn xã hội cũng như lợi ích nghĩa MLN và tư tưởng
của lực lượng cầm quyền HCM.
trong xã hội. -Lực lượng lãnh đạo NN và
xã hội.
4
-Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng và chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến
pháp và Pháp luật.
Cơ sở hình -Cơ sở kinh tế: QH sản xuất Tự nguyện
thành được xây dựng trên cơ sở chế
độ sở hữu nhiều hình thức
Thực hiện chính sách xây
dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xhcn
với nhiều tp kinh tế, trong đó
kt NN giữ vai trò chủ đạo.
-Cơ sở xã hội: nhân dân VN
mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, được tổng hợp thống
nhất dưới sự lãnh đạo của gc
công nhân mà đội tiên phong
là ĐCS VN.
Thành phần Công chức/ Viên chức Cán bộ/ Đảng viên
tham gia
Tổ chức và Theo Hiến pháp và Pháp luật -Theo Hiến pháp và Pháp
hoạt động luật.
-Theo điều lệ, nội quy.
Thẩm quyền - Thực hiện quyền lực công. - Thực hiện việc quản lí
- Thực hiện việc quản lí dân Đảng viên.
cư theo lãnh thổ. - Ban hành điều lệ, nội quy.
- Thực thi chủ quyền quốc gia - Quy định và thực hiện việc
- Ban hành pháp luật. thu quỹ.

- Quy định và thực hiện việc

5
thu thuế, phát hành tiền.
Bảo đảm Thuế Quỹ
hoạt động
Vai trò - NN thể chế hóa những quan -Đảng có vai trò đó là lãnh
điểm, chủ trương của Đảng đạo nhà nước và xã hội thông
thành Hiến Pháp và PL, NN qua việc ban hành các chủ
thực hiện quản lí xã hội thông trương, đường lối, thông qua
qua hệ thống PL đó. đội ngũ cán bộ, đảng viên
- Nhà nước có vai trò quản lí của mình. Thường xuyên
mọi mặt đời sống xã hội (kinh giám sát họat động của NN,
tế, văn hóa, xã hội, QPAN) và ngăn chặn tình trạng tiêu cực
chi phối mọi cá nhân, tổ chức quan liêu.
trong xã hội. - Định hướng chính trị cho
- NN đại diện cho quốc gia các thành viên trong hệ thống
tham gia vào các hoạt động chính trị.
đối ngoại.

Vị trí NN CHXHCN VN là thành ĐCS VN là thành viên trong


viên của hệ thống chính trị, là hệ thống chính trị và là hạt
trụ cột của hệ thống chính trị nhân lãnh đạo hệ thống chính
ở Việt Nam. trị đó.

#Quan hệ giữ Đảng CSVN và Nhà nước CHXHCNVN.


* Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay , Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò
chủ đạo đối với quản lí xã hội . Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với
Đảng và các tổ chức xã hội khác
* Trong quan hệ giữa Nhà nước với Đảng cộng sản Việt Nam thì Nhà nước là phương tiện
quan trọng nhất để đưa đường lối , chính sách của Đảng vào cuộc sống thông qua ba hình
thức hoạt động chủ yếu là xây dựng pháp luật , tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp
luật nhắm thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đặt ra là dân giàu nước mạnh , dân chủ , công
bằng , văn minh

6
* Đảng Cộng sản Việt Nam là “ lực lượng lãnh đạo Nhà nước “ .
+ Đảng lãnh đạo một cách toàn diện từ tổ chức đến các hoạt động của nhà nước .
+ Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước bằng việc Đảng vạch ra đường lối chiến lược về đối nội
, đối ngoại để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ; đào
tạo , bồi dưỡng cán bộ cho Nhà nước , giới thiệu đảng viên và người ngoài đảng đủ năng
lực và phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét , bố trí vào những chỗ chủ
chốt trong bộ máy nhà nước hoặc để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử trực tiếp
+ Đảng thường xuyên giáp dục chính trị , tư tưởng , đạo đức , tác phong cho cán bộ , đảng
viên và người ngoài Đảng làm việc trong bộ máy nhà nước ; chỉ đạo công cuộc cải cách ,
hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cự trong bộ máy
nhà nước hiện nay
+ Các phương pháp chủ yếu mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước là tuyên truyền, vận
động , giáo dục , thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà
nước
 Trong điều kiện một đảng cầm quyền , việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
Nhà nước và Đảng trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng Nhà nước với chức năng
của Đảng có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước phát huy hết hiệu lực của mình những
vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng , còn Đảng vẫn lãnh đạo được Nhà nước nhưng
không làm thay đổi Nhà nước . Việc phân định đó chỉ có thể được thực hiện bằng
công cụ pháp luật mới đảm bảo được tính bền vững.

3. Phân loại nhà nước, trình bày khái quát về từng loại nhà nước, cho ví dụ.
3.1 Trình bày dạng văn bản.
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người tách ra từ xã
hội để chuyên thực thi quyền lực , nhằm tổ chức và quản lí xã hội , phục vụ lợi ích chung
của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền .

7
Theo quan niệm truyền thống, xã hội có giai cấp đã và sẽ trải qua các hình thái kinh tế
xã hội là chiếm hữu nô lệ , phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, tương ứng
với bốn kiểu nhà nước : nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà
nước xã hội chủ nghĩa…
3.1. Kiểu nhà nước chủ nô :
- Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ ( chủ nô ) là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội
loài người . Kiểu nhà nước này được hình thành trên cơ sở chế độ thị tộc , bộ lạc của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy . Do lực lượng sản xuất ngày càng phát triển nên
đã có sự chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên chiếm đoạt sang nên kinh tế sản xuất. Những
biến đổi về kinh tế dẫn đến sự thay đổi về xã hội là hình thành nên các giai cấp đối lập
nhau về quyền lợi kinh tế. Giai cấp chủ nô là giai cấp chiếm số ít trong xã hội nhưng lại sở
hữu phần lớn tư liệu sản xuất không tham gia lao động sản xuất nhưng bóc lột sức lao
động. Ngược lại giai cấp nô lệ chiếm số đông trong xã hội là lực lượng sản xuất chủ yếu
nhưng không sở hữu tư liệu sản xuất và bị bóc lột sức lao động . Điều này đã dẫn đến mâu
thuẫn giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ đến mức không thể điều hòa được làm xuất
hiện nhà nước chủ nô.
* Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó, giai cấp chủ nô là
chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đối tượng sở hữu của chế độ tư hữu này rất đa
dạng gồm : đất đai, gia súc, tiền và kể cả nô lệ. Vì vậy , địa vị của giai cấp nô lệ trong xã
hội này rất thấp kém, nô lệ được coi là vật sở hữu của giai cấp chủ nô.
* Cơ sở xã hội : mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến
- Về bản chất , nhà nước chủ nô là một bộ máy cưỡng chế dặc biệt , thực hiện chức năng cơ
bản là trấn áp giai cấp nô lệ và duy trì mối quan hệ bóc lột giai cấp nhằm bảo vệ quyền lợi
của giai cấp chủ nô
- Ở các nhà nước phương Tây như La Mã , Hy Lạp cổ đại tồn tại chế độ nô lệ điển hình .
Có thể nói , sự xuất hiện của các nhà nước này phù hợp với quan điểm Mác – Lênin bắt
nguồn từ sự chuyển biến về kinh tế là hình thành chế độ tư hữu và sự chuyển biến xã hội là
8
hình thành nên giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong khi đó các nhà nước phương Đông
như Ai Cập, Ấn Độ với đặc điểm đặc thù là chế độ sở hữu chung về đất đai trong xã công
xã . Thực tế do nhu cầu trị thủy cho nền nông nghiệp và bảo vệ cộng đồng dân cư ở quốc
gia này là những nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện nhà nước chứ không phải là chế độ sở
hữu tư nhân và đấu tranh giai cấp giống như các nhà nước phương Tây.
3.2 Nhà nước phong kiến :
- Kiểu nhà nước phong kiến xuất hiện trên cơ sở hình thành phương thức sản xuất phong
kiến thay cho phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Nền kinh tế đặc trưng là nền kinh tế
nông nghiệp . Vì vậy , tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai . Chủ sở hữu của các tư liệu sản
xuất là giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến còn lực lượng lao động chính sản xuất của cải
vật chất là tầng lớp nông dân.
* Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó giai cấp quý tộc địa
chủ phong kiến là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu . Tư liệu sản xuất chủ yếu là đối
tượng sở hữu của chế độ sở hữu này là đất đai
* Cơ sở xã hội : mâu thuẫn giai cấp có tính chất đối kháng giữa giai cấp quý tộc địa chủ
phong kiến và giai cấp nông dân.
- Về bản chất , nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp quý tộc địa chủ phong kiến
chiếm số ít trong xã hội nhằm trấn áp , bóc lột đối với giai cấp nông dân là một bộ phận
chiếm số đông và cũng là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội . 3
3.3 . Nhà nước tư sản :
- Phương thức tư bản chủ nghĩa với đặc trưng là nền kinh tế công nghiệp và nên kinh tế thị
trường hàng hóa. Giai cấp tư sản được hình thành từ tầng lớp thị dân ngày càng có sức
mạnh về kinh tế nhưng lại không thỏa mãn về địa vị chính trị . Trong khi đó , giai cấp quý
tộc phong kiến nắm toàn bộ quyền lực về chính trị nhưng sức mạnh kinh tế ngày càng suy
giảm. Khi mẫu thuẫn xã hội đi đến đỉnh điểm thì mâu thuẫn này được giải quyết bằng các
cuộc cách mạng tư sản.

9
- Giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội nhưng nắm giữ phần lớn tư liệu sản xuất hay
nguồn tài sản của xã hội nên có khả năng quyết định quá trình tổ chức lao động và phân
phối sản phẩm lao động . Trong khi đó, giai cấp vô sản chiếm số đông trong xã hộ là lực
lượng sản xuất chính và bị bóc lột sức lao động . Với cơ sở kinh tế hay chế độ sở hữu tư
nhân trong giai đoạn này tất yếu hình thành nên mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Đây chính là cơ sở xã hôi – cơ sở tồn tại trực tiếp của nhà nước tư sản .
* Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó, giai cấp tư sản là
chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tư liệu sản xuất chủ yếu đối tượng sở hữu của chế
độ tư hữu này là vốn.
* Cơ sở xã hội : mâu thuẫn giai cấp có tính chất đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản ( trực tiếp nhất là giai cấp công nhân )
=> Về bản chất , nhà nước tư sản là công cụ của giai cấp tư sản chiếm số ít trong xã hội
nhằm trấn áp, bóc lột đối với giai cấp vô sản là bộ phận chiếm số đông và cũng là lực
lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội . Vì vậy, nhà nước tư sản cũng mang bản chất “bóc
lột” giống như các kiểu nhà nước trước đó.
3.4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước được chủ nghĩa Mác – Lênin dự báo tất yếu sẽ xuất
hiện thay thế cho nhà nước tư sản. Sự thay thế này diễn ra theo quy luật chung của chủ
nghĩa duy vật lịch sử - thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội TBCN sang XHCN . Về cơ sở
kinh tế , phương thức sản xuất XHCN thực hiện dựa trên chế độ sở hữu chung về tư liệu
sản xuất . Chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội là giai cấp giống như các
giai đoạn trước của xã hội. Về cơ sở xã hội, trong giai đoạn này tồn tại hai giai cấp chủ là
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, các giai cấp này liên minh , hợp tác với nhau
cùng thực hiện mục tiêu chung là giải phóng giai cấp , nhà nước. Ngoài ra, trong xã hội
vẫn còn tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và thành phần bóc lột còn sót lại dần dần sẽ cải tạo để
trở thanh giai cấp vô sản nhằm chuẩn bị cơ sở xã hội hoàn bị cho chủ nghĩa cộng sản – xã
hội không còn giai cấp và nhà nước nữa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước trong giai
10
đoạn quá độ của xã hội cộng sản chủ nghĩa, các giai cấp vẫn còn nhưng không đối kháng ,
áp bức và bóc lột tiến đến xã hội không còn đấu tranh và áp bức giai cấp, và khi áp bức giai
cấp mất đi , nhà nước sẽ tự tiêu vong
* Cơ sở kinh tế : xây dựng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất . Trong đó , giai cấp vô
sản là chủ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
* Cơ sở xã hội : liên minh, hợp tác giữa các giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là chủ
yếu chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp.
=> Do đó , nhà nước XHCN là nhà nước có bản chất “dân chủ” còn nhà nước chủ nô,
phong kiến, tư sản mang tính chất “bóc lột”.
3.2 Trình bày dạng bảng.
Tiêu NN CHỦ NÔ NN PHONG KIẾN NN TƯ SẢN NN XHCN
chí

Sự ra Đây là NN đầu tiên -NN thay thế NN chủ Vào khoảng cuối thế Cuối TK 19 đầu TK
đời ra đời và sự ra đời nô khoảng thế kỉ I kỉ 15 đầu thế kỉ 16, 20, CNTB chuyển sang
của nó cũng rất đa TCN. trong lòng xh pk CN Đế quốc: QHSX
dạng và phức tạp. phương Tây diễn ra TBCN >< LLSX phát
- >< giai cấp chủ nô
Do điều kiện kinh quá trình tư bản hóa: triển, vô sản >< tư sản
và nô lệ gay gắt:
tế, xh, địa lí và yếu (gc tư sản khủng hoảng
-Kiểu quan hệ sản
tố tác động từ bên +Nô lệ: k muốn lao chính trị trầm trọng, gc
xuất mới hình thành
ngoài (ngoại xâm, động và bị áp bức bóc vô sản cùng khổ quẫn
và phát triển mạnh
thủy lợi). Các khu lột->đtr giành chống bách nhg không còn
mẽ: QHSX Tư bản
vực khác nhau nên lại chủ nô, đòi thay nhịn nhục mà ý thức
Chủ nghĩa.
có sự xuất hiện các đổi chế độ. giác ngộ chính trị nâng
NN khác nhau. -GC mới hình thành: cao)
+Chủ nô: k thể tiếp
Nguyên nhân chính tư sản và vô sản.
tục cai trị, áp bức bóc Chính đảng, đội tiên
là chế độ tư hữu về
lột nô lệ như trước- Sản xuất ngày càng phong chiến đấu của gc
tư liệu sản xuất xuất
>buộc phải giải phát triển, địa vị vô sản được vũ trang
hiện, xã hội phân
phóng nô lệ, giao đất kinh tế của gc tư sản bằng hk thuyết MLN,
hóa giai cấp và các
canh tác và tiến hành nâng cao nhưng nhận thức rõ thế và
giai cấp đối lập
thu tô thuế->pt sản quyền lực chính trị thời cơ CM, nắm vững
nhau về lợi ích mâu

11
thuẫn gay gắt. xuất chiếm hữu nô lệ vẫn do gc địa chủ pk quan điểm bạo lực CM.
chuyển sang pk. nắm giữ-> >< tư sản
➔ CM nổ ra-> đập
và đcpk-> Để bảo vệ
➔ NN PK ra đời tan chính quyền
địa vị kte của mk, gc
-Ở 1 số nơi NN pk ra tư sản, giành
tư sản tìm cách
đời trực tiếp từ sự tan chính quyền về
chiếm vũ đài chính
rã của chế độ công xã tay nhân dân.
trí, giành chính
nguyên thủy. ➔ NN XHCN ra
quyền về tay gc
đời.
mình.
CM nhân dân cũng xảy
ra ở một số nc chưa trải
qua chế độ TBCN.
Tiền đề kinh tế xh
trong nước+yếu tố
quốc tế (dân tộc+thời
đại)-> CM ND nổ ra->
xóa bỏ NN cũ, thiết lập
NN của nhân dân lao
động

Cơ sở -Cơ sở kinh tế: QH -CSKT: QHSX PK -Cơ sở kinh tế: -Cơ sở kinh tế: QHSX
kinh tế sản xuất chiếm hữu mà đặc trưng là sở QHSX tư bản chủ XHCN mà đặc trưng là
và kết nô lên, đất đai và hữu của địa chủ pk về nghĩa giữa nhà tư chế độ công hữu về
cấu các tlsx khác hầu ruộng đất + bóc lột bản dựa trên chế độ tlsx.
giai hết thuộc sở hữu tư nông dân thông qua tư hữu về tlsx (chủ
- CSXH: quan hệ giữa
cấp nhân của các chủ phát canh thu thuế. yếu dưới dạng nhà
các giai cấp, tầng lớp
nô. Tư cung tự cấp. SX máy, hầm mỏ, đồn
trong xh, trong đó nền
Nông nghiệp. điền…) và bóc lột
-2 giai cấp cơ bản: tảng là liên minh giữa
giá trị thặng dư.
- Kết cấu gc phức tạp, giai cấp công nhân với
+ chủ nô: trực tiếp
2 gc cơ bản: -GC: chủ yếu tư sản nông dân và tầng lớp
tổ chức quá trình
và vô sản (2 mặt trí thức.
sản xuất. Chiếm + Đc pk: phân chia
><).
thiểu số nhưng có thành nhiều đẳng cấp GC thống trị cũ dần
tất cả: đất đai, tlsx, khác nhau phục thuộc +Tư sản: gc thống được gd, cải tạo từ bỏ
nô lệ, tự do cá nhân vào chức tước, phẩm trị, chiếm thiểu số âm mưu chống đối. Xh

12
và toàn quyền quyết hàm, đất đai, tài nhưng năm phần lớn tồn tại nhg gc, tầng lớp
định với nô lệ. sản… tlsx. cơ bản là thống nhất
nhau về lợi ích.
+ nô lệ: địa vị vô + nông dân: đông đảo +Vô sản: đông đảo,
cùng thấp kém, bị nhất, bị áp bức bóc ll lao động chính.
coi là tài sản của lột nặng nề. Công dân được tự
chủ nô mà chủ nô do, về hình thức,
➔ ><, đấu tranh
có quyền quyết định bình đẳng với chủ
xảy ra thường
tuyệt đối (khái thác như những công dân.
xuyên.
bóc lột, đem cho/ K có tlsx, công nhân
*Nguyên tắc: địa chủ
mua/ bán, đánh đập, phải bán sức lao
không có quyền sở
giết chết…) động của mình. Nhà
hữu đvs người sản
tư bản mua sức lao
xuất. Nhg k có tlsx
động của công nhân
nên nd phụ thuộc vào
như hàng hóa và bắt
đc.
ng công nhân sản
xuất ra hàng hóa để
bóc lột giá trị thặng
dư. KQ công nhân
vẫn lệ thuộc nhà tư
sản. Hình thức bóc
lột này tinh vi, vô
hình hơn.

Ngoài ra: trí thức,


tiểu thương, thợ thủ
công…

Bản -Giai cấp: là công -Giai cấp: ccu chuyên -Giai cấp: ccu chủ - Xóa bỏ dần chế độ tư
chất cụ chủ yếu thực chính chủ yếu của gc yếu phục vụ giai cấp hữu, thiết lập chế độ
hiện quyền lực đc pk để chống lại nd tư sản. Chế độ tư công hữu về tlsx để
chính trị của giai và người lao động bản chủ nghĩa vẫn là tiến tới xóa bỏ mọi áp
cấp chủ nô: BỘ khác->củng cố, bảo một chế độ áp bức, bức, bóc lột trong xã
MÁY TRẤN ÁP vệ sự thống trị về mọi bóc lột. XH TBCN hôi.

13
của giai cấp chủ nô mặt. vẫn đầy rẫy bất - NN của nhân dân, tồn
đối với nô lệ và công. tại và hoạt động được
(NN pk thường liên
những người lao sự ủng hộ, giúp đỡ của
kết vs các tc tôn giáo -XH: công cụ tổ
động khác. toàn xã hội. Nguyên
thành 1 chế độ cai trị chức và quản lí có
tắc và cơ chế vận hành
- Xã hội: Nhiều chủ cực kì chuyên chế để hiệu quả các mặt đời
của quyền lực NN dựa
nô đã tiến hành các đàn áp bóc lột) sống xh, đảm bảo
trên cso quyền lực
hoạt động tổ chức các quyền tự do con
-XH: Trong xhpk, khi nhân dân, không ngừng
và quản lí kinh tế ở người, đảm bảo dân
mọi qluc nn thuộc về mở rộng dân chủ và
quy mô lớn, quản lí chủ, công bằng, bình
vua chúa thì NN phát phát huy vai trò làm
đất đai, tổ chức khai đẳng và tiến bộ xã
triển hay k phụ thuộc chủ của nhân dân.
hoang, xây dựng và hội.
vào nhân cách, phẩm
quản lí công trình - Trực tiếp tổ chức và
hạnh nhà vua. Tuy ->tính xã hội dần nổi
thủy lợi-> đất nước quản lí hầu hết các mặt
nhiên, sự quan tâm trội hơn, tính giai
phát triển, đời sống quan trọng của đsxh:
đến hdxh của nn pk cấp được che giấu
nâng cao hơn. kinh tế, chính trị, văn
chưa nhiều, chưa kín đáo hơn.
hóa-xh
đúng vị trí vai trò của
nó trong xh.

Chức -Đối nội: -Đối nội: BV chế độ -Đối nội: -Đối nội:
năng sở hữu của đcpk, duy
+ Củng cố và bảo + Củng cố và bảo vệ + Quản lí xh trên tất cả
trì hình thức bóc lột
vệ chế độ sở hữu chế độ tư sản (thể lĩnh vực chủ yếu bằng
phong kiến đối với nd
của chủ nô đối với chế hóa quyền tự do PL.
và tầng lớp lao động
tlsx và nô lệ (hợp tư hữu)
khác. + Quán triệt, thể chế
pháp hóa quyền sở
+ Đàn áp công nhân hóa tư tưởng, chủ
hữu và quyền lực vô + Trấn áp nhân dân
và nhân dân lao trương, thể chế, chính
hạn của chủ nô với và người lao động
động về chính trị, tư sách của Đảng thành
nô lệ) khác bằng bạo lực
tưởng. HP và PL và dựa vào
quân đội và tôn giáo.
+ Đàn áp đối với sự đó để quản lí xh.
+ Chức năng tổ chức
phản kháng của nô + Chức năng kinh tế:
và điều tiết xã hội. + Thực hiện chuyên
lệ và tầng lớp bị cai đê điều, thủy lợi, khai
chính đối với mọi tội
trò khác bằng quân hoang, di dân, đtr -Đối ngoại:
phạm và mọi kẻ thù để
sự. chống bệnh tật đói
+ Gây ảnh hưởng bảo vệ độc lập chủ
nghèo trộm cướp…

14
+Thống trị về mặt nhg chưa nhiều. quốc tế, tìm mọi quyền và giữ vững an
tư tưởng đối với nô cách để khẳng định ninh, an toàn xh. Tạo
-Đối ngoại:
lệ và những người vị trí thống trị của đk để nhân dân phát
lao động. + Tiến hành xâm mình trên trường huy quyền làm chủ.
lược->mở rộng lãnh quốc tế, can thiệp vũ
+ Giải quyết các cvc -Đối ngoại: Thiết lập
thổ, mở rộng quyền trang khi có điều
thiết yếu của xã hội: mqh và mở rộng qh
lực, làm giàu bằng tài kiện để lật đổ các
thủy lợi (đắp đê, hợp tác, hữu nghĩ, bình
nguyên, của cải của chính phủ tỏ ra
đào kênh rạch), đẳng, tin cậy lẫn nhau
dân tộc khác. không thân hữu
chống thú dữ, bảo và cùng có lợi, vì sự
nhằm duy trì ảnh
vệ mùa màng và các + Phòng thủ đất nước phát triển tiến bộ của
hưởng của mình.
vật nuôi… và thực hiện ngoại xh… đối vs nd tất cả
giao. + Đàn áp và nô dịch các nước trên thế giới.
-Đối ngoại:
nhân dân các nước
+ Tiến hành xâm khác, gây chiến
lược để cướp bóc và tranh xâm lược khi
bắt cóc tù binh làm có điều kiện.
nô lệ, mở rộng lãnh
+ Phòng thủ, bảo vệ
thổ.
nhà nước tư sản khỏi
+ Phòng thủ đất những ảnh hưởng
nước và thực hiện của cách mạng xã
ngoại giao. hội chủ nghĩa.

+ Phát triển các liên


minh quân sự, kinh
tế nhằm bảo vệ chủ
nghĩa tư bản ở phạm
vi toàn cầu.

Hình -Hình thức chính -Hình thức chính thể: -Hình thức chính -Hình thức chính thể:
thức thế: quân chủ tuyệt đối/ thể: quân chủ lập cộng hòa dân chủ.
quân chủ đại diện hiến (quân chủ nhị
+ Chính thể quân -Hình thức cấu trúc:
đẳng cấp hợp và quân chủ đại
chủ tuyệt đối. đơn nhất, liên bang.
nghị) và chính thể

15
+ Chính thể cộng 1 số quốc gia: Cộng cộng hòa (cộng hòa -Chế độ chính trị: chế
hòa (CH quý tộc và hòa PK. tổng thống, cộng hòa độ dân chủ, một nền
CH dân chủ) đại nghị, cộng hòa dân chủ rộng rãi và
-Hình thức cấu trúc:
hỗn hợp). thực chất.
-Hình thức cấu trúc: đơn nhất, có thể là
đơn nhất (chưa có đơn nhất tập trung - Hình thức câu trúc:
sự cấu tạo nhà nước (xâm chiếm-> sáp đơn nhất, liên bang.
thành các đơn vị nhập/chia lẻ), ít gặp
- Chế độ chính trị:
hành chính lãnh liên bang pk.
thổ) + Chế độ quân phiệt:
-Chế độ chính trị:
pp bạo lực. Biến
-Chế độ chính trị: Lừa dối và bạo lực.
dạng đáng sợ chế độ
bạo lực, phản dân Công khai và hợp
phát xít: CN Sô vanh
chủ. Chính thể cộng pháp hóa việc sử
lừa bịp dân.
hòa: biện pháp dân dụng bạo lực quản lí
chủ được áp dụng NN. + Chế độ dân chủ tư
rộng rãi nhưng nhìn sản: phương pháp tự
chung nô lệ đều k do chủ nghĩa.
được coi là con
người.

VD Các nhà nước chủ Đại Việt, Champa, Anh (TK 17-18), Trung Quốc, Việt
nô đầu tiên xuất Mô-giô-pa-hít. Đức (HP 1871), Nam, Cuba… hiện nay.
hiện ở chây Á và Nhật (1889).
Bắc Phi: TQ, Ấn độ,
Babilon, Ai cập…
khoảng từ 4ooo đến
5ooo năm trước.

4. Trình bày khái niệm bản chất nhà nước. Phân tích ý nghĩa của vấn đề bản chất nhà
nước.
* Bản chất nhà nước là tổng hợp những mặt, những mối liên hệ, những thuộc tính tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong của nhà nước, quy định sự tồn tại, phát triển của nhà nước.

16
* Bản chất Nhà nước gồm nhiều thuộc tính cấu thanh, tuy nhiên trong đó nổi bật nhất là hai
thuộc tính là tính xã hội và tính giai cấp.
4.1. Tính giai cấp:
a. Nêu định nghĩa nhà nước
b. Khẳng định:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì tính giai cấp là thuộc tính cơ bản và
không thể thiếu của tất cả các nhà nước.
c. Lý do nhà nước có tính giai cấp:
Nhà nước xuất hiện do nhu cầu bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị của giai cấp thống trị
hoặc lực lượng cầm quyền.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, tức là xã hội có sự phân chia giai cấp,
mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.
Nhà nước là hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp, bởi lẽ sau khi trong xã hội đã xuất
hiện giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp thì không thể tổ chức theo hình thức thị tộc
bộ lạc được nữa mà phải tổ chức thành nhà nước, với sức mạnh và bộ máy cưỡng chế của
nó thì mới đủ khả năng làm dịu xung đột giai cấp trong xã hội hoặc giữ cho xung đột đó ở
trong vòng một “trật tự” nhất định, có như vậy, xã hội mới tồn tại và phát triển được.
d. Biểu hiện của tính giai cấp của nhà nước:
Tính giai cấp của nhà nước được thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy chuyên chính giai
cấp, tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của
lực lượng hoặc giai cấp cầm quyền trong xã hội trên ba lĩnh vực : kinh tế, chính trị và
tư tưởng.
Sự thống trị xã hội thể hiện chủ yếu ở ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị và tư tưởng, trong
đó lĩnh vực tiền đề và giữ vai trò quyết định là kinh tế. Thông thường giai cấp hoặc lực
lượng nắm quyền sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất hoặc tài sản của xã hội sẽ trở thành lực
lượng thống trị về kinh tế hay chủ thể của quyền lực kinh tế, có thể bắt lực lượng khác phải

17
phụ thuộc nó về mặt kinh tế hoặc bóc lột các lực lượng khác. Do vậy, sự thống trị về kinh
tế tạo ra tiền đề, cơ sở cho sự thống trị giai cấp.
Tuy nhiên, quyền lực kinh tế không đủ khả năng duy trì sự thống trị, vì thế để bảo vệ lợi
ích của mình, lực lượng thống trị phải dùng bộ máy nhà nước để trấn áp sự phản
kháng, sự chống đối của các giai cấp, lực lượng khác và nhà nước trở thành bộ máy cưỡng
chế đặc biệt, thành công cụ để bảo vệ lợi ích kinh tế của lực lượng cầm quyền.
Nhà nước bảo vệ lợi ích bằng cách dùng bộ máy bạo lực như quân đội, cảnh sát, tòa
án…Đồng thời nhà nước thể hiện ý chí của mình mà trước tiên là ý chí của lực lượng cầm
quyền thông qua pháp luật, thông qua các quy định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và
thực hiện, bắt cả xã hội phải phục tùng ý chí của nó. Bên cạnh đó, nhà nước còn tổ chức,
quản lí và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng; các cơ sở văn hóa giáo dục
nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của các giai cấp, lực lượng khác.
e. Biểu hiện của tính giai cấp qua các kiểu nhà nước:
Ở các nhà nước chủ nô, phong kiến, do điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ phát triển
của xã hội lúc đó nên các nhà nước này chủ yếu bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô, địa chủ,
quý tộc phong kiến, tăng lữ, đàn áp nô lệ, người dân và những người lao động khác nên
tính giai cấp của các nhà nước này thể hiện cực kỳ công khai và rõ rệt.
Ở các nhà nước tư sản, biểu hiện tính giai cấp của nhà nước có sự thay đổi qua các giai
đoạn phát triển của nhà nước tư sản. Trong thời kỳ của chủ nghĩa đế quốc, khi các nhà
nước tư bản chủ yếu bảo vệ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước
thì tính giai cấp của nhà nước cũng thể hiện rõ rệt. Ở giai đoạn của chủ nghĩa tư bản hiện
đại, do sự thay đổi trong điều kiện kinh tế, sự phát triển của xã hội, của KHKT và của nền
dân chủ, tính giai cấp của nhà nước có xu hướng thể hiện ít sâu sắc, rõ rệt hơn giai đoạn
trước. Trong các chính sách của nhà nước, bên cạnh việc tính đến lợi ích của các tập đoàn
tư bản độc quyền, của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản còn tính đến lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp khác, của cả cộng đồng.

18
Ở các nước xã hội chủ nghĩa sau này và nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay,
tính giai cấp của nhà nước thể hiện mờ nhạt, hạn chế nhiều hơn so với tính xã hội. Nhà
nước bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhận và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo
của đản cộng sản, nhà nước là công cụ để thực hiện và bảo vệ sự lãnh đạo của đảng cộng
sản, là công cụ chủ yếu để xây dựng thành công CNXH.
4.2. Tính xã hội:
a. Nêu định nghĩa nhà nước:
b. Khẳng định
Cùng với tính giai cấp thì tính xã hội cũng là thuộc tính cơ bản, khách quan và không thể
thiếu của tất cả các nhà nước
c. Lý do nhà nước có tính xã hội
Nhà nước xuất hiện do nhu cầu điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn
trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội
Nhà nước là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, là một tổ chức trong xã hội,
nó chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng xã hội loài người ở những giai đoạn lịch sử
nhất định và có sứ mệnh điều hành, quản lí xã hội.
Nhà nước là một hình thức tổ chức của xã hội nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
xã hội.
d. Biểu hiện tính xã hội của nhà nước:
Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy để tổ chức, quản lí xã hội,
nhằm thiết lập, giữ gìn trật tự và sự ổn định của xã hội, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của xã hội.
Bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được cũng phải có trật tự và sự ổn định
tương đối, tức là phải được tổ chức và quản lí chặt chẽ. Xã hội nào cũng có hàng loạt các
vấn đề mang tính chất chung như: sản xuất, thiên tai, địch họa, trật tự… để giải quyết các
vấn đề chung đó cần một tổ chức thay mặt xã hội nhân danh xã hội để tổ chức, tập

19
hợp, quản lí toàn xã hội, tổ chức phải nhân danh quyền lực chung của toàn xã hội. Tổ chức
đó chính là nhà nước
Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội nên ở mức độ này hay mức độ
khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của
quốc gia, dân tộc và công dân của mình; phải tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xã
hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế,
tạo điều kiện cho các lĩnh vực hoạt động của xã hội được tiến hành bình thường, có hiệu
quả, thúc đẩy sự phát triển của xã hội để quản lí xã hội, giải quyết các công việc chung của
cả cộng đồng xã hội.
Nhà nước có nhiều hoạt động vì lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong
xã hội, của cả cộng đồng như: xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ
tầng,…
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế để bảo vệ công lí, công bằng xã hội, bảo vệ trật tự an
ninh an toàn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn giao thông …
Nhà nước thay mặt xã hội thực thi chủ quyền quốc gia, phòng, chống ngoại xâm, bảo
vệ Tổ quốc… Không những thế, nhà nước còn là công cụ để giữ gìn và phát triển những tài
sản văn hóa tinh thần chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và phong tục,
tập quán phù hợp với ý chí của nhà nước.
d. Tính xã hội thay đổi qua các giai đoạn:
Ở các nhà nước chủ nô và phong kiến, do cơ sở kinh tế - xã hội và trình độ phát triển
của xã hội lúc đó nên tính xã hội của các nhà nước đó thể hiện khá mờ nhạt và hạn chế.
Nhà nước đã thực hiện một số hoạt động vì lợi ích chung của xã hội như xây dựng và bảo
vệ các công trình thủy nông, xây dựng đường sá, cầu cống, thúc đẩy một số ngành nghề
sản xuất phát triển.
Khi nhà nước tư sản ra đời, do yêu cầu và phát triển của xã hội, của nền dân chủ nên
tính xã hội của nhà nước tư sản thể hiện rõ rệt và rộng rãi hơn nhiều so với các nhà nước
20
chủ nô và phong kiến, đặc biệt là giai đoạn hiện tại. Nhà nước tư sản để thực hiện khá
nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, của nền văn minh nhân
loại, nhưng tất nhiên là không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của giai cấp tư sản, của lực
lượng cầm quyền.
Ở các nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tính xã hội đã thể hiện khá rộng
rãi và rõ rệt, phần lớn các hoạt động của nhà nước là vì lợi ích chung của xã hội, của cả
cộng đồng.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này sẽ là kiểu nhà nước thể hiện tính xã hội rộng rãi, rõ
rệt và sâu sắc nhất. Nhà nước sẽ dần thành nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, là công cụ để phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội và là công cụ chủ yếu để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
=> Cùng với sự phát triển của KHKT, dân chủ và văn minh mà tính xã hội của nhà nước
có xu hướng thể hiện ngày càng rõ rệt, rộng rãi và sâu sắc hơn; sự giới hạn quyền lực nhà
nước được xác định ngày càng chặt chẽ hơn; tính minh bạch, công khai và cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước ngày càng được thực hiện có hiệu quả hơn; quá trình xã hội hóa
một số hoạt động của nhà nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn.

4.3. Ý nghĩa của việc tìm hiểu bản chất nhà nước:
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất, là một
hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là
công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền
lực đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý
nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở kế thừa,
phát huy những quy định của các bản Hiến pháp trước trong điều kiện đổi mới đất nước,
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định bản chất nhà nước một cách mềm
dẻo hơn, thể hiện một cách sâu sắc và đầy đủ bản chất của nhà nước ta.
21
Bản chất nhà nước ta được cụ thể hóa qua từng chế định được quy định trong
Hiến pháp hiện hành. Việc nắm vững bản chất của nhà nước ta có ý nghĩa nhận thức và
thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công dân Việt Nam nói chung và có ý nghĩa hơn đối
với đối tượng nghiên cứu là sinh viên - đội ngũ tri thức trẻ.
Trước hết, việc nắm vững bản chất nhà nước ta góp phần làm cho sinh viên hiểu và
thêm yêu chế độ của đất nước ta. Từ đó củng cố niềm tin vào nhà nước, vào chế độ và vào
tương lai của đất nước. Đây là tiền đề quan trọng cho sự phát triển những giá trị của dân
tộc về sau.
Tiếp đó, việc nắm vững bản chất của nhà nước tạo những điều kiện cần thiết cho sinh
viên phát huy quyền hợp pháp và làm tròn nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và toàn
xã hội. Từ đây sinh viên có thể bằng chính năng lực và khả năng sáng tạo của mình tham
gia vào các hoạt động kinh tế, sáng tạo những giá trị văn hóa mới vừa mang tính hiện đại
vừa thấm nhuần nền văn hóa dân tộc, tạo nên một nét đẹp hài hòa mang đậm dấu ấn riêng.
Và đó chính là cơ sở tạo tiền đề cho sự tham gia tích cực vào các hoạt động củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc, bởi môi trường học tập là nơi giao lưu với nhiều bè bạn từ các
vùng miền trên cả nước; vì vậy nắm vững bản chất sẽ giúp sinh viên nhận thức được vấn
đề củng cố khối đại đoàn kết toàn dân không chỉ là nhiệm vụ của các cấp các ngành hay
khi đất nước vào thời chiến mà nó là nhiệm vụ của toàn dân mọi thời đại, mọi lúc mọi nơi
và không bao giờ được buông lỏng nó.
Từ đó, góp phần nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm và ý thức thực hiện nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ tổ quốc của công dân; mà trước hết đối với sinh viên đó là ra sức học tập
và công tác tốt tạo tiền đề tri thức cho sự phát triển đất nước bền vững trong tườn lai.Và đề
cao cảnh giác, ý thức giai cấp đấu tranh làm thất bại âm mưu xuyên tạc bản chất ưu việt
của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Và hơn hết, chính việc năm vững bản chất nhà nước ta và nhận thức được tầm ưu việt
của nó sẽ đó tạo niềm tin chothế hệ trẻ một xã hội “dân chủ– công bằng – văn minh - tiến
bộ” trong tương lai không xa, từ đó tạo tâm thế vững vàng cho sự nghiệp cống hiến vì
22
tương lai dân tộc, vì mong mỏi của Bác Hồ kính yêu là dân tộc ta “sánh vai với các cường
quốc năm châu” trên thế giới.

5. Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của nhà nước. Trình bày
ảnh hưởng của nó trong việc thực hiện chức năng nhà nước Việt Nam hiện nay.
5.1 Sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp
Trong bất cứ chế độ xã hội nào (XHCN, TBCN...), nhà nước đều là công cụ của giai
cấp nắm chính quyền. Vì vậy nhà nước của chế độ xã hội nào thì bảo vệ và phục vụ cho
chế độ xã hội đấy. Đó là tính giai cấp rõ nét nhất của nhà nước. Chức năng giai cấp của
Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến lượt nó, chức năng xã
hội là điều kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Nhà nước ta mang bản
chất giai cấp công nhân, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chức năng xã hội với nội dung chủ yếu là tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới
phục vụ lợi ích cho toàn xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân. Tính giai cấp của
nhà nước thì được thể hiện ở rất nhiều mặt, trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống:
Nhà nước có tính giai cấp bởi vì nó được lập ra và duy trì nhằm bảo vệ lợi ích của một giai
cấp nhất định, giai cấp đã sinh ra nó. Nhà nước là công cụ để giai cấp đó thực hiện chuyên
chính với tất cả các giai cấp khác trong xã hội. Ví dụ nhà nước chuyên chính tư sản thì
phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản có vai trò áp đặt sự thống trị nên các giai cấp khác và có
các công cụ bạo lực như cảnh sát, tòa án, quân đội để đàn áp. Tương tự như vậy với nhà
nước chuyên chính vô sản.
 Chừng nào không còn các giai cấp tồn tại thì cũng không còn nhà nước tồn tại.
Chức năng giai cấp của Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội.
Đến lượt nó, chức năng xã hội là điều kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Chức năng xã hội với nội dung chủ yếu là tổ chức, quản lý và xây dựng xã
hội mới phục vụ lợi ích cho toàn xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân.Thứ nhất, là
23
tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để
thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào
tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
=> Vì vậy nhà nước tồn tại với hai tư cách:
1. Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác.
2. Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là
người bảo đảm các quyền công dân được thực thi. Trong nhà nước, giai cấp thống trị tồn
tại trong cả mối quan hệ giữa các tầng lớp giai cấp khác, do vậy, ngoài tư cách là công cụ
duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.

5.2. Trình bày ảnh hưởng của nó trong việc thực hiện chức năng nhà nước Việt Nam
hiện nay.
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản
chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.
Nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động cơ bản của nhà nước để thực
hiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lí các mặt của đời sống
xã hội. Chức năng nhà nước luôn phản ánh bản chất nhà nước hay do bản chất nhà nước
quyết định. Với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân và là bộ máy chuyên chính
vô sản thì các chức năng tổ chức và quản lí kinh tế, tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, kĩ
thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước XHCN.
Trong quá trình xây dựng CNXH, nhà nước VN có hai nhiệm vụ chính phù hợp vs bản
chất NN là xây dựng tổ quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCN, tất cả các chức năng của
NN đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này.

24
5.3. Thực hiện tốt việc thống nhất các chức năng của nhà nước VN.
Cơ sở khách quan của sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội trong bản chất NN
chính là sự thống nhất căn bản lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao
động và lợi ích của dân tộc trong bản chất của nhà nước ta. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước
Việt Nam hiện nay là tổ chức xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Và, mục tiêu đó cũng chính là lợi ích lớn nhất, cơ bản nhất
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

1) Trước hết, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước. Đây là định hướng quan trọng nhất nhằm củng cố, nâng cao bản chất giai cấp
công nhân của Nhà nước ta; đồng thời, làm cho Nhà nước thực sự là công cụ pháp lý để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

2) Trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần tập trung xây dựng Nhà nước
ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực hiện dân chủ rộng rãi chính là để
phát huy trí tuệ của đông đảo nhân dân trong việc tham gia quản lý mọi công việc của Nhà
nước. Quyền làm chủ của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội phải được
thể chế hoá bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; kết hợp thể chế dân
chủ đại diện với thể chế dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện để nhân dân được tham gia thảo
luận và quyết định những vấn đề trọng đại liên quan đến lợi ích của đất nước; khắc phục
những biểu hiện vi phạm dân chủ hoặc dân chủ hình thức; đồng thời chống tình trạng vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ làm mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến kỷ cương pháp luật; tích
cực chống quan liêu, tham nhũng và tiêu cực nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước, củng
cố niềm tin cho nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước.
3) Thực hiện xã hội hóa trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và trong các lĩnh
vực thiết yếu như y tế, văn hóa, giáo dục đào tạo...
Với tinh thần xóa bỏ cơ chế "xin - cho", bao cấp, Nhà nước chủ trương vừa tăng dần các
nguồn đầu tư cho khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...; đồng thời, khai thác mọi
tiềm năng, động viên mọi nguồn lực trong nhân dân. Nhà nước chuyển một số hoạt động
thuộc các lĩnh vực mà trươc đây NN là chủ thể duy nhất, thành hoạt động mang tính xã hội,
được xã hội quan tâm và tham gia một cách chủ động, sáng tạo. Nhờ vậy, chức năng xã hội
đã được tổ chức thực hiện một cách hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao
và đa dạng của các tầng lớp nhân dân.

25
6. Phân tích vai trò xã hội của nhà nước CHXHCNVN hiện nay.
Nhà nước có sứ mệnh tổ chức và quản lý các mặt hoạt động cơ bản trong đời sống xã
hội, nhằm xây dựng 1 xã hội mới trong đó mọi người đều đc công bằng bình đẳng, giải
phóng khỏi mọi áp bức, bất công, mọi người đều hoàn toàn tự do bình đẳng với nhau, đời
sống vật chất tinh thần ngày càng đc nâng cao

Nhà nước tổ chức cho xã hội thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội và có thể trực tiếp
thực hiện các hoạt động đó. Tất cả đều nhắm đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh, hiện đại.

NN hướng tới việc đem lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng xã hội, không phân biệt giai
cấp, tầng lớp, dân tộc tôn giáo…Mọi thành viên trong xã hội đều được nhà nước chăm sóc,
bảo đảm, bảo vệ các quyền và lợi ich chính đáng của họ

NN tích cực phát triển nền giáo dục, y tế hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng,vật chất kỹ
thuật cùng các công trình phúc lợi xã hội, cung cấp dịch vuj công cho xã hội và bảo vệ môi
trường sống.

NN có gắng thiết lập trật tự an ninh, an toàn xã hội, trấn áp những phần tử phản tiến bộ,
thiếu ý thức và không lương thiện

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân do dân vì dân điều đó được thể hiện ở
những điểm sau:

+ Trong xã hội, mọi quyền lực nhà nước đều là của toàn thể nhân dân, đều xuất pháp từ
nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện nên nhà nước chỉ là công cụ để
đại diện và thực hiện quyền lực của nhân dân mà không phải là bộ máy để cai trị nhân dân

+ NN là của toàn thể nhân dân, nhân dân là chủ của đất nước, có quyền quyết định tối
cao và cuối cùng các vấn đề trọng đại của đất nước, các vấn đề có liên quan đến vận mệnh
quốc gia, nhà nước phải phục tùng ý chí của nhân dân

+ NN là do nhân dân tổ chức nên, thông qua việc bầu cử, nhân dân đã trực tiếp hoặc
gián tiếp thành lập nên cá CQNN. Các đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là những người
được sự ủy quyền của nhân dân, chỉ là “công bộc” “đầy tớ” của nhân dân chứ ko phải là
ông chủ của nhân dân.

26
+ NN phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ rộng rãi cho công dân, phải xây dựng các
thiết chế dân chủ để đảm bảo thực thi các quyền đó và phải tạo điều kiện cần thiết khác để
cho quyền làm chủ của nhân dân dân dần trở thành hiện thực đối với đa sô nhân dân.

+ NN phải bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân, nghiêm trị các hành vi mà
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhân dân được quyền giám sát
các hoạt động của các nhân viên và CQNN, phê bình, xây dựng, giúp đỡ để nhà nước ngày
càng trong sạch vững mạnh hơn

+ Nhà nước phải phục vụ cho lợi ích và đáp ững tốt nhất những nguyện vọng chính
đang của nhân dân. Mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân. Phải ưu
tiên lợi ích của nhân dân hơn nhu cầu của nhà nước

+ Các cán bộ, nhân viên của nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn
nhân dân hoạt động nên phải trung thành và tận tuy với nhân dân, phải thực sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không có đặc quyền đặc lợi.

NNXHCN là công cụ chủ yếu để xây dựng nền dân chủ XHCN, xây dựng 1 xã hội công
bằng, nhân đạo và bình đẳng

7. Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Theo anh (chị), làm thế nào để một nhà nước thực sự là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
7.1. Sự hiểu biết về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam , tổ chức và hoạt động theo tinh thần đề cao chủ quyền nhân dân , những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước do nhân dân quyết định . Nhà nước coi con người là giá trị
cao nhất trong xã hội , luôn phấn đấu vì hạnh phúc con người ; quyền lực nhà nước là
thống nhất , có sự phân công phối hợp , kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp , hành pháp và tư pháp ; thừa nhận vị trí tối thượng của hiến
pháp và luật trong đời sống xã hội
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai câp công nhân và giai cấp nông dân cùng đội ngũ tri

27
thức => Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân , do nhân dân và vì nhân
dân .
1.Của dân

Gốc của quyền lực nhà nước là của toàn thể nhân dân do nhân dân ủy quyền cho nhà
nước thực hiện, thế nên nhà nước chỉ là công cụ đại diện và thực hiện quyền lực của nhân
dân mà không phải là bộ máy để áp bức và cai trị nhân dân.

Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề có liên quan đến vận
mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Người dân được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, nhân dân có quyền làm bất cứ việc gì
mà pháp luật không cấm nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật của nhà
nước. NN phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ rộng rãi cho công dân, phải xây dựng
các thiết chế dân chủ để đảm bảo thực thi các quyền đó và phải tạo các điều kiện cần thiết
khác để làm cho quyền làm chủ của nhân dân dần trở thành hiện thực đối với đa số nhân
dân.

Các đại biểu do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra chỉ là những người được sự ủy
quyền của nhân dân nên đó chỉ là “công bộc” hay “đầy tớ” của nhân dân chứ ko phải là
ông chủ của nhân dân. Vì thế nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu khi những người
này không còn xứng đáng với sự ủy nhiệm của nhân dân.

VD: tên của nhiều cơ quan quan trọng đều có chữ “nhân dân”: Tòa án nhân dân; hội
đồng nhân dân; ủy ban nhân dân…

2. Do dân

- Nhà nước do nhân dân tổ chức nên thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập
nên các cơ quan nhà nước

- Nhà nước do nhân dân ủng hộ, đóng thuế để nuôi và giám sát hoạt đông của các nhân
viên và cơ quan nhà nước.

- Nhà nước do nhân dân phê bình, xây dựng giúp đỡ để cho nhà nước ngày càng trong
sạch vững mạnh hơn.

28
- Nhân đân không chỉ lập ra các cơ quan nhà nước mà còn có thể trực tiếp làm việc
trong các cơ quan đó để trực tiếp nắm giữ và thưc hiện quyền lực nhà nước.
VD: nhân dân bầu cử ra các đại biểu quốc hội.

3. Vì dân

- Đó là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện vọng của nhân
dân. Mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, phải ưu tiên
lợi ích của nhân dân hơn nhu cầu của nhà nước.

- Các cán bộ, nhân viên của nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn
nhân dân hoạt động nên phải trung thành, tận tụy với nhân dân, phải thực sự trong sạch,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư ko có đặc quyền đặc lợi.

VD: dân được hưởng các thành quả do xã hội mang lại, dân được phát biểu ý kiến,
khiếu nại, tố cáo...

 Nhà nước của nhân dân , do nhân dân thì sẽ vì nhân dân , do vậy , các cơ quan nhà
nước , cán bộ công chức , viên chức nhà nước ở Việt Nam phải luôn tôn trọng nhân dân ,
tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân , lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của nhân dân .

7.2. Để có nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần:

Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh
đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp,
hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể
hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân,

29
của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát dân, bảo đảm
trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức nhiều hình thức phù hợp để nhân
dân tích cực tham gia hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh, giữ
vững được quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo động lực to lớn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng
cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, siết
chặt kỷ luật; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hóa thành pháp
luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật.
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và
hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Đẩy mạnh các
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách
nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ
quan, tổ chức trên địa bàn, lãnh thổ. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn
dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, khắc phục tình trạng vô
kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh, trật tự; làm thất bại mọi âm

30
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”,
“tôn giáo” để chống phá chế độ ta.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước đáp ứng
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để các
cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước
trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong
việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham
gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà
nước cũng như trong đời sống xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời
cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách thức, nhất định công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành
được những thành tựu to lớn hơn nữa, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.

8. Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước dân chủ. Theo anh/chị, làm thế nào
để một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.
Chế độ chính trị dân chủ là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong đó bảo
đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hay là chủ quyền nhân dân)
cũng như bảo đảm các quyền tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con người (hay
còn gọi là quyền còn người). Có hai hình thức thực hiện chế độ chính trị dân chủ là: Trực
tiếp (thông qua bầu cử, trưng cầu ý dân), cử đại diện. Một trong những đặc trưng nổi bật
31
nhất của hình thức quản lý của chế độ dân chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số
phục tùng đa số” và thừa nhận quyền tự do trong chính kiến và bình đẳng về giới tính, về
dân tộc, về chính trị xã hội của công dân.

Chế độ dân chủ ra đời đánh dấu bước tiến bộ trong lịch sữ phát triển của loài người,
trước hết là trong đấu tranh giai cấp nhằm chống lạichế độ quân chủ mà thực chất của nó là
một người quyết định tất cả, là hình thức thống trị của một cá nhân. Có các loại: dân chủ tư
sản,dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ nhân dân, dân chủ đại diện, dân chủ thuần túy; dân
chủ hình thức; dân chủ giả hiệu.

Dân chủ ở nước ta được thể hiện, mở rộng và có cơ chế để đảm bảo thực hiện trên
nhiều lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, hệ thống pháp luật, tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.Dân chủ thực sự về kinh tế thể hiện qua cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo điều kiện cho mọi công dân phát huy được quyền tự chủ của mình trong sản xuất,
kinh doanh. Mọi công dân có quyền lao động và hưởng thành quả lao động theo năng
lực và sự đóng góp của mình, có quyền tự do kinh doanh, sản xuất, đầu tư… Nhà
nước còn có những chính sách thiết thực để khuyến khích người dân phát triển kinh tế, làm
cho dân giàu, nước mạnh.Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ thể hiện rõ nét qua các quy định
được nêu lên trong các bản hiến pháp: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân”. Quyền lực nhà nước thuộc về toàn dân chứ không hề nằm trong tay
một tổ chức, một nhóm hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình qua 2 hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại
những người có hành vi vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trong lĩnh vực tôn giáo, công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, nhà
nước cũng nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xúi giục, kích
động và lôi kéo nhân dân làm việc trái pháp luật. Ngoài ra, dân chủ còn thể hiện ở quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, tự do cư trú, có quyền học tập, khám chữa bệnh và

32
đặc biệt là quyền được thể hiện chính kiến của bản thân về việc xây dựng nhà nước và xã
hội Việt Nam.

9. Trình bày khái niệm chức năng nhà nước. Phân tích ý nghĩa của việc xác định và
thực hiện chức năng nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
9.1. Khái niệm chức năng nhà nước.
Bản chất, vai trò xã hội của Nhà nước được thể hiện thông qua chức năng nhà nước.
Chức năng nhà nước là sự biểu hiện cụ thể bản chất, vai trò của nhà nước, chúng gắn liền
với sự tổn tại và phát triển của nhà nước .
=> Là những phương hướng hoạt động cơ bản của NN, thể hiện bản chất NN & nhằm
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý NN trên các lĩnh vực của đời sống XH, trong các
giai đoạn phát triển cụ thể.
Phân loại

* Căn cứ phạm vi hoạt động của nhà nước: Có thể chia chức năng nhà nước thành 2 loại đó
là: chức năng đối nội (là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ của đất
nước) ví dụ như : nhà nước ra chính sách tăng cường các mặt hàng xuất khẩu công nghệ
cao, chức năng đối ngoại (là những hoạt động cơ bản của nhà nước thể hiện mối quan hệ
giữa nó và các quốc gia dân tộc khác ) ví dụ như đại diện cho nhà nước lên tiếng với TQ và
thế giới về giàn khoan HD-981.

* Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động của nhà nước có thể chia chức năng nhà nước thành:

Chức năng kinh tế nhằm điều tiết quản lý nền kinh tế. VD : Nhà nước đã ban hành một
loạt chính sách hỗ trợ cho phát triển kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững như thể chế thị
trường dịch vụ kế toán, kiểm toán; thể chế thị trường khoa học – công nghệ; thể chế thị
trường hàng hóa, dịch vụ;…

Chức năng xã hội nhằm giải quyết những vấn đề chung vì sự phát triển của xã hội như:
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công … VD : nhà nước
nâng cao các máy móc chuyên dùng trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là y tế.

Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược : đây là chức năng đặc trưng của giai cấp chủ
nô , nhà nước phong kiến , nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước nhằm

33
xâm chiếm mở rộng lãnh thổ , bóc lột nhân dân cũng như áp đặt sự nô dịch đối với các dân
tộc khác
Chức năng trấn áp nhằm bảo vệ địa vị và quyền thống trị của giai cấp thống trị, giữ
vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội. VD: có các cơ quan tổ chức chuyên quản lí xã hội và
cưỡng chế thực hiện như Công an, tòa án, viện kiểm sát …

Chức năng quốc phòng để chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước
VD: có quân đội, bộ đội...

Chức năng thiết lập các mối quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế.

* Căn cứ vào mục đích hoạt động của nhà nước có thể chia chức năng của nhà nước thành
2 loại chức năng là:

Chức năng tổ chức và quản lý (bao gồm 1 số chức năng cụ thể như chức năng kinh tế,
xã hội, thiết lập các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế…)

Chức năng bảo vệ (chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội..

Số lượng chức năng

Các nhà nước đều có chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng bảo vệ đất
nước…Tuy nhiên có những chức năng chỉ xuất hiện ở nhà nước hiện đại (VD: giáo dục,
KHCN, môi trường…)

Tùy vào cơ sở kte và cơ sở XH mà sự thay đổi về số lượng chức năng còn thể hiện việc
mất đi chức năng nào đó của nhà nước. (VD: chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược
chủ yếu ở nhà nước chủ nô và phong kiến…)

Các hình thức thực hiện chức năng của nhà nước

Nhà nước có nhiều hình thức để thực hiện chức năng của mình trong đó có 3 hình thức
cơ bản hay 3 hình thức mang tính pháp lý được thể hiện trong tất cả các nhà nước là: xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Ngoài ra còn có các hình thức ít hoặc không mang tính pháp lý như:

Các biện pháp tổ chức - xã hội trực tiếp (tổ chức các cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình
của quần chúng, các phong trào thi đua …).

34
Những hoạt động tác nghiệp vật chất kỹ thuật: đánh máy, văn thư, lưu trữ, in ấn…

Những hoạt động mang tính quyền lực pháp lý (hoạt động thi hành các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước, bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng..)

Phương pháp thực hiện

- Điều chỉnh PL

+ Quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ & trách nhiệm của các chủ thể

+ Tạo điều kiện và khuyến khích chủ thể chủ động tham gia tích cực vào các quan hệ XH

+ Có các chế tài nghiêm khắc để áp dụng đối vs các trường hợp vi phạm

- Thuyết phục: Động viên, khuyến khích tính tích cực, tự giác, tự nguyện của các chủ thể
trong việc đáp ứng các y/cầu thực hiện CNNN

- Cưỡng chế: NN SD trong t/hợp có vi phạm PL & cần thiết phải áp dụng trong các biện
pháp truy cứu trách nhiệm pháp lý

- Thanh tra, kiểm tra: Sử dụng thường xuyên ở nhiều cấp độ khác nhau để đánh giá, phát
hiện & xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong qúa trình thực hiện

9.2. Phân tích ý nghĩa của việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản
chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.
Nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động cơ bản của nhà nước để thực
hiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lí các mặt của đời sống
xã hội. Chức năng nhà nước luôn phản ánh bản chất nhà nước hay do bản chất nhà nước
quyết định. Với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân và là bộ máy chuyên chính

35
vô sản thì các chức năng tổ chức và quản lí kinh tế, tổ chức và quản lí văn hóa, giáo dục, kĩ
thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước XHCN.
Trong quá trình xây dựng CNXH, nhà nước VN có hai nhiệm vụ chính phù hợp vs bản
chất NN là xây dựng tổ quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCN, tất cả các chức năng của
NN đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này.

10. Phân tích các yếu tố quy định chức năng nhà nước.
Bản chất nhà nước quy định chức năng nhà nước, nhưng thức tế còn có những yếu tố
khác tác động đến chức năng nhà nước. Những yếu tố làm cho chức năng nhà nước trở nên
đa dạng, phức tạp tạo ra những sắc thái riêng của mội nhà nước cụ thể những yếu tố khách
quan, yếu tố chủ quan, yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, yếu tố nội sinh, yếu tố ngoại
sinh,..nhưng có những yếu tố diển hình tác động trực tiếp đến chức năng, để lại dấu ấn đậm
nét trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước là:
+ Cơ sở kinh tế: mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất.
+ Sự biến đổi của đời sống xã hội: cơ cấu xã hội & phân tầng xã hội, sự vận động
phát triển & thay đổi vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp dân tộc, tôn giáo trong xã hội.
+ Cá nhân: trách nhiệm của nhà nước là tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện về mặt cá nhân, đảm bảo các quyền & tự do của công dân kết hợp hài hòa giữa
lợi ích cá nhân & lợi ích cộng đồng.
+ Trách nhiệm của nhà nước trong việc xác định vị trí, vai trò của các chức năng
đối với sự ổn định & phát triển bền vững của xã hội.
+ Hoàn cảnh quốc tế & hợp tác quốc tế: tác động đến sự phát triển mọi mặt của
quốc gia, có thê mang tính tích cựa hay tiêu cực & thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của
mỗi nước.
12. Phân tích ý nghĩa của hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp đối với việc thực
hiện chức năng nhà nước.

36
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước mà ở đó các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất và có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước do một đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước có 3 chức năng cơ bản và chỉ riêng Nhà nước mới có 3 chức năng này, đó là lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được
áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lập pháp do Quốc hội tiến
hành. Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông qua các luật.
Đây là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính
trị tam quyền phân lập. Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và
quốc hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ
thống nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định
cơ quan hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là phân nhánh
quyền lực tương đương và độc lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ
quan lập pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác.
Quyền hành pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà nước, bên cạnh
quyền lập pháp và quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà nước
thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình. Quyền hành pháp bao
gồm hai quyền: quyền lập qui và quyền hành chính. Quyền lập qui là quyền ban hành
những văn bản pháp qui dưới luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban
hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản
lý tất cả các mặt, các quan hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước. Quyền hành
chính bao gồm các quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực
thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ
chức và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.
Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và chống
37
lại các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến
hành. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống tòa án nhân
danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các tranh
chấp. Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các cấp, những người
thiết lập nền móng cho một bộ máy tư pháp và cả những người trợ giúp cho hệ thống này
hoạt động tốt.

13. Phân tích vai trò của bộ máy nhà nước đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước.
BMNN thiết lập để thực hiện các CN, nhiệm vụ của NN : CN, nhiệm vụ của NN được
thực hiện thông qua BMNN, khi NN cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, NN
thành lập ra các CQ tương ứng để thực hiện CN, nhiệm vụ ấy.
VD: khi môi trường bị ô nhiễm thì NN phải thành lập CQ quản lí và bảo vệ môi trường
nhằm xây dựng và ban hành giải pháp , phương hướng khắc phục hiệu quả…

14. Phân tích mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước và chức năng nhà nước của nhà
nước Việt Nam hiện nay.
1.Định nghĩa

CQNN là hệ thống các CQNN từ trung ương tới địa phương, đc tổ chức & hoạt động
theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành 1 cơ chế để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của NN.

Chức năng NN là những phương hướng hoạt động cơ bản của NN, thể hiện bản chất
NN & nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý NN trên các lĩnh vực của đời sống
XH, trong các giai đoạn phát triển cụ thể.

2. Mối liên hệ giữa BMMM và chức năng NN

BMNN được thành lập và hoạt động để thực hiện các CNNN, do vậy, quy mô, cơ cấu
của BMNN cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của từng cơ quan NN… chịu sự chi

38
phối có tính chất quyết định của CNNN (VD: nếu CN chủ yếu của NN là trấn áp thì trong
BMNN các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất…)
CNNN càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì BMNN càng đồ sộ, phức tạp, số lượng
các CQ và nhân viên trong BMNN càng đông hơn và cách thức tổ chức và hđ của các CQ
trong BMNN càng phải KH và hợp lí hơn.
Do được thành lập để thực hiện các CNNN nên hiệu quả thực hiện các CNNN lại phụ
thuộc vào sự hợp lí trong tổ chức và hiệu quả hđ của BMNN.

15. Phân tích khái niệm cơ quan nhà nước, phân biệt cơ quan nhà nước với bộ phận
khác của nhà nước.
15.1 Kn CQNN:
Định nghĩa: Cơ quan nhà nước là một số lượng người nhất định được tổ chức và hoạt động
theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước

Đặc điểm:

Cơ quan nhà nước có thể gồm 1 người hoặc 1 nhóm người.

Trình tự thành lập và cơ cấu tổ chức của CQNN do pháp luật quy định

Cơ quan nhà nước nhân danh và sử dụng quyền lực NN để thực hiện thẩm quyền của
mình ( đó là toàn bộ những quyền mà nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho nó, nó bao gồm
những nội dung sau: có quyền ban hành những văn bản pháp luật nhất định – tức là những
văn bản đó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức cá nhân có
liên quan; có quyền yêu cầu các tổ chức và cá nhân có liên quan phải thực hiện. Những văn
bản đó được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước; có
quyền kiểm tra giám sát, việc thực hiên các văn bản của CQNN, đồng thời có thể sửa đổi
bổ sung hoặc thay thế các văn bản đó)

Mỗi cơ quan nhà nước sẽ thực hiện những chức năng riêng theo quy định của pháp luật.

Những người đảm nhiệm chức vụ trong các cơ quan nhà nước phải là công dân.

15.2. Phân biệt:

39
Cơ quan nhà nước Cơ quan của các tổ chức xã hội

Là khái niệm dùng để chỉ 1 Là khái niệm dùng để chỉ 1


người hoặc 1 nhóm người đc tổ người hoặc 1 nhóm người đc
chức & hoạt động theo quy định thành lập & hoạt động theo quy
Định nghĩa của PL, nhân danh NN thực hiện định của tổ chức, nhân danh tổ
QLNN. chức để thực hiên hoạt động của
tổ chức

Quốc hội, Chính phủ là Cơ quan Ban chấp hành trung ương đảng
Ví dụ nhà nước cộng sản Việt Nam là 1 cơ quan
của tổ chức Đảng

-Đều gồm 1 ng hoặc 1 nhóm người đc thành lập & hoạt động trên cơ
sở các quy định chung nhất định, nhân danh tổ chức để thực hiên
hoạt động của minh

-Trong quá trình hoạt động, các CQ này đều có thể ban hành ra
những quy định có gía trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối
vs những tổ chức hoặc cá nhân nhất định.

-Đều có quyền yêu cầu các tổ chức & cá nhân có liên quan phải
thực hiện các quy định đó.
Giống nhau -Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó

-Sửa đổi, bổ sung các quy định

-Đảm bảo cho các quy định đc thực hiện = nhiều biện pháp nhất
định (tuyên truyền, cổ động, cưỡng chế …)

-Thực hiện những chức năng, nhiệm vụ riêng theo quy định của tổ
chức.

-Những người đảm nhiệm chức vụ trong các CQ này đều là công
dân

Trình tự Do PL quy định Do điều lệ của tổ chức quy định


thành lập &

40
cơ cấu tổ
chức

Nhân danh NN & Sử dụng Nhân danh tổ chức để thực hiện


Nhân danh
QLNN để thực hiện thẩm quyền các HĐ của tổ chức
ai ??
của mình

-Ban hành những văn bản PL -Ban hành ra các quy định có
nhất định: những văn bản này có g/trị bắt buộc phải tôn trọng
gía trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối vs các hội
hoặc thực hiện đối vs các tổ chức viên trong tổ chức
& cá nhân có liên quan.

-Yêu cầu các tổ chức & cá nhân


có liên quan phải thực hiện
nghiêm chỉnh những văn bản mà
nó ban hành & có hiệu lực pháp
lý.

Thẩm quyền
-Đảm bảo cho các văn bản đó đc - Đảm bảo cho các quy định của
thực hiện = các biện pháp mang nó đc thực hiện = sự tự giác của
tính QLNN (tuyên truyền, giáo các hội viên & = các hình thức
dục, cổ động, cưỡng chế) kỷ luật của tổ chức

-Kiểm tra, giám sát việc thực


hiện các văn bản của CQNN,
đồng thời có thể sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế các văn bản đó.

-Mỗi CQNN sẽ thực hiện những -Mỗi CQ của tổ chức sẽ thực


chức năng riêng theo quy định hiện những chức năng, nhiệm vụ
của PL riêng theo quy định của tổ chức

41
Công chức, viên chức trong Các thành viên của tổ chức được
CQNN được hình thành bằng bầu, cử từ các thành viên của tổ
Thành viên
con đường bầu, cử hoặc tuyển chức đó
theo luật định

Ngân sách NN cấp để duy trì Hoạt động nhờ vào ngân sách
HĐ, đc quy định cụ thể theo luật của nhà nước (ngửa tay xin nhà
Ngân sách
định nước) và tiền đóng góp từ các
hội viên.

16. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc đảm bảo chủ quyền nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1. Nêu định nghĩa nguyên tắc:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo,
những định hướng làm cơ sở, nền tảng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong đó, “Đảm bảo chủ quyền nhân dân” là một nguyên tắc tối quan trọng, được quy
định rất rõ ràng trong Hiến Pháp 2013 của nước Việt Nam
2. Phân tích:
Đây là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong tổ chức và hoạt động của BMNN
đương đại. Trước đây, chủ quyền quốc gia thuộc về vua. Nhà vua có quyền quyết định tối
cao trong mọi vấn đề của đất nước.
Hiện nay, chủ quyền trong XH thuộc về nhân dân. Nhân dân là người chủ tối cao của
đất nước, là người thành lập ra NN, trao quyền cho NN và kiểm tra, giám sát hoạt động của
NN. ND có quyền quyết định tối cao trong các vấn đề quan trọng của đất nước, NN phải
phục tùng các quyết định của ND. Hiến pháp và pháp luật ở hầu hết các quốc gia đương đại
quy định:
- Chủ quyền thuộc về ND

42
- Các hình thức để ND tham gia vào tổ chức và hoạt động của BMNN: bầu cử và ứng
cử vào CQ đại diện của NN, trực tiếp thực hiện các hoạt động của NN khi được bầu, bổ
nhiệm hoặc tuyển dụng vào CQNN
-Vị trí, vai trò của CQ dân cử trong BMNN
- Những vấn đề quan trọng của đất nước NN ko được tự ý quyết định, NN phải trưng cầu ý
kiến ND
- Trách nhiệm của NN trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con ng,
quyền CD; quy định vai trò của XH dân sự…
* Tại VN, chủ quyền ND được nhận thức và thực hiện với những mức độ, phạm vi khác
nhau.
1. Nhà nước CHXHCNVN là NN pháp quyền XHCN của ND, do ND, vì ND.
2. Nước CHXHCNVN do ND làm chủ, tất cả quyền lực NN thuộc về ND mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp CN với giai cấp ND và đội ngũ tri thức (Điều 2 HP 2013)

17. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo hiến pháp và pháp luật.
1. Nêu định nghĩa nguyên tắc:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo,
những định hướng làm cơ sở, nền tảng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong đó, “Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật”
là một nguyên tắc tối quan trọng, được quy định rất rõ ràng trong Hiến Pháp 2013 của
nước Việt Nam
2. Phân tích:
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các CQNN phải đc tiến hành
theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật; mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải
nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình;
tăng cường công tác kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm minh mọi hành vi VPPL
43
- Trong lĩnh vực lập quy: Khi ban hành QPPL thuộc phạm vi điều chỉnh của mình, các cơ
quan nhà nước phải tôn trọng pháp chế, phải tôn trọng Hiến Pháp và luật. Nội dung của các
VBQPPL ko được trái với hiến pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành những văn bản
QPPL trong phạm vi thẩm quyền, theo hình thức, trình tự thủ tục do pháp luật quy định

- Trong lĩnh vực thực hiện pháp luât: Việc áp dụng các QPPL phải tuân theo nguyên tắc
pháp chế tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các VBQPPL khác, phải thiết lập
trách nhiệm pháp lý với chủ thể áp dụng QPPL, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật,
việc áp dụng pháp luật cần phải đúng nội dung, đúng thầm quyền và phải tôn trọng những
VBQPPL do chính cơ quan đấy ban hành.

- Trong lĩnh vực tổ chức: Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi
hỏi việc thực hiện pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý
và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức
năng này. Vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản
lý hành chính nhà nước, vi phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với
nhau.

- Trong việc quản lý nói chung: Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi
quyết định hành chính và hành vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp
dụng trên cơ sở hiến định.

- Phải chịu trách nhiệm trước pháp luật: Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải
chịu trách nhiệm do những sai phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, những hành động mà đã xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với
một chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy
thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt
44
dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân thủ
thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và
giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra
với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía
các cơ qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và công dân.

Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế sẽ là cơ sở đảm bảo cho sựu hoạt động bình
thường của BMNN,tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy hiệu lực quản lý NN, bảo đảm
công bằng xã hội.

18. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước tư sản.
1. Nêu định nghĩa nguyên tắc:
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo,
những định hướng làm cơ sở, nền tảng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong đó, “Phân quyền” là một nguyên tắc tối quan trọng, được quy định rất rõ ràng
trong Hiến Pháp 2013 của nước Việt Nam
2. Phân tích.
Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (hay còn gọi là nguyên tắc phân quyền) có
cơ sở từ thuyết tam quyền phân lập. Thuyết tam quyền phân lập lần đầu tiên xuất hiện bởi
nhà tư tưởng Hi Lạp Aristote. Theo Aristote nhà nước quản lí xã hội bằng ba phương pháp:
lập pháp-hành pháp-phân xử. Ông cho rằng không có loại hình chính phủ nào là duy nhất
có thể phù hợp với tất cả thời đại và quốc gia. Bên cạnh Aristote có John Locke, Locke cho
rằng: quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền
lực của mình cho nhà nước qua khế ước, và để chống độc tài phải thực hiện phân quyền.
Locke phân quyền lực thành: lập pháp- hành pháp-liên hợp. Từ thế kỉ 18, nhà tư tưởng vĩ
đại người Pháp Montesquieu phát triển thuyết tam quyền phân lập thành một thuýêt độc
lập với mục đích tạo dựng thể chế chính trị đảm bảo tự do công dân.

45
Nếu như quyền lập pháp với hành pháp nhập lại trong tay 1 người thì sẽ dẫn đến hậu
quả là làm tăng sự độc tài. Nếu tư pháp nhập lại với quyền lập pháp sẽ dẫn đến sự độc đoán
với quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu tư pháp nhập lại với
hành pháp thì quan tòa sẽ có sức mạnh của 1 kẻ đàn áp. Còn nếu 1 người hay 1 tổ chức của
quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng nắm luôn 3 quyền nói trên thì tất cả sẽ mất
hết. Chính vì vậy trong bộ máy nhà nước tư sản quyền lực nhà nước được phân làm 3
phần đưa vào 3 cơ quan riêng biệt đó là: Lập pháp thuộc về quốc hội, hành pháp thuộc
về chính phủ và tư pháp thuộc về tòa án. Việc này sẽ làm hạn chế sự độc đoán chuyên
quyền và để cho các quyền lực có thể kiểm soát bằng các cơ quan độc lập có quyền ngang
nhau và đối trọng nhau.

19. Phân tích các giải pháp hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay.
1. Định nghĩa BMNN
BMNN là hệ thống các CQNN từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt
động theo quy định của PL để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NN.
2. Đặc điểm của BMNNVN hiện nay.
a. BMNNVN mang tính nhân dân sâu sắc
- BMMM do nhân dân tổ chức ra nên nó được tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự ủy
nhiệm của nhân dân.
- Các cơ quan, nhân viên NN nhận được quyền lực từ nhân dân, thừa ủy quyền của nhân
dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của họ, các hoạt động của BMNN đều nhằm
phục vụ nhân dân, bảo đảm, bảo vệ lợi ích của nhân dân, chịu sự giám sát của ND…
b. BMNNVN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tập trung dân chủ và
tiến bộ xuất phát từ bản chất của NNCHXHCNVN
- Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNNVN hiện nay bao gồm: bảo đảm chủ
quyền ND; quyền lực NN là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các

46
CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật; tập trung dân chủ…
c. Trong BMNNVN, các cơ quan quản lí kinh tế - XH ngày càng phát triển hoàn thiện
để thực hiện sự quản lí mọi mặt của đs XH, các cơ quan cưỡng chế, trấn áp được xây dựng
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để có thể có đủ khả năng bảo vệ CQQG, trật tự
an ninh, an toàn XH.
d. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tăc đặc thù trong tổ chức và hoạt động
của BMNNVN hiện nay.
3. Hoàn thiện BMNNVN hiện nay.
- Hoàn thiện BMNN là hoạt động phải được tiến hành thường xuyên nhằm làm cho tổ
chức và hoạt động của BMNN ngày càng tinh gọn, chặt chẽ, hợp lí, dân chủ đảm bảo sự
kiểm soát quyền lực NN, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của đội ngũ công chức NN, bảo
đảm, bảo vệ quyền con ng, quyền công dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
BMNN.
- Thời gian vừa qua, tổ chức và hoạt động của BMNN ở nước ra đã được đổi mới và
hoàn thiện một cách đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Tuy
nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định như: cơ cấu chưa phù hợp với điều kiện, tình hình
đất nước; hoạt động chưa đạt hiệu quả như mong muốn…
- Cần có những biện pháp như sau:
+ Đổi mới cơ cấu tổ chức BMNN, đổi mới cách thức, trình tự tổ chức các CQNN. Giảm
bớt số lượng các CQNN. Công tác bầu cử, thi tuyển, bổ nhiệm… phải là thực sự dân chủ,
khách quan, khoa học, tránh hình thức, đảm bảo lựa chọn đúng người có năng lực và phẩm
chất…
+ Đổi mới, nâng cao vai trò của từng CQNN. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp, chủ
động trong hoạt dộng của hệ thống cơ quan ĐBND. Quốc hội phải trở nên hoạt động
thường xuyên. Nâng cao vai trò của Chính phủ với tính chất là cơ quan thực hiện quyền

47
hành pháp. Cải cách, nâng cao năng lực của chính quyền cấp cơ sở, chuyên nghiệp hóa
hoạt động của nó, xóa bỏ sự phân biệt công chức cấp xã trong hệ thống công chức NN.
+ Tăng cường sự phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lực NN. Phân định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các CQNN. Đòi hỏi có cơ chế rõ ràng để
thực hiện việc kiểm soát giữa các CQ trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
+ Nâng cao năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tính chuyên
nghiệp và tinh thần phục vụ trong hoạt động của đội ngũ công chức NN
+ Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho ND, bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền CD
+ Tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí để làm trong sạch BMNN,
củng cố lòng tin ở người dân.
20. Phân biệt nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang thông qua những ví dụ cụ thể
về hai dạng cấu trúc nhà nước này.
Định nghĩa nhà nước đơn nhất: Là nhà nước duy nhất và có chủ quyền hoàn toàn
trong phạm vi lãnh thổ của 1 quốc gia. (VD: Việt Nam)
Định nghĩa nhà nước liên bang: Là 1 nhà nước do nhiều nhà nước hợp thành trong đó
có 1 nhà nước chung cho toàn liên bang và mỗi bang thành viên có 1 nhà nước riêng. (VD:
Mỹ )
- Nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang khác nhau bởi những điểm sau:
Nhà nước đơn nhất Nhà nước liên bang

Nó có một hệ thống cơ quan nhà Nó có nhiều hệ thống cơ quan nhà


nước từ trung ương tới địa phương. nước, trong đó có một hệ thống là
Cơ quan nhà nước ở trung ương có chung cho toàn liên bang, có thẩm
thẩm quyền lập pháp, hành pháp và quyền tối cao trên toàn lãnh thổ, mỗi
tư pháp trên toàn lãnh thổ, cơ quan bang thành viên lại có một hệ thống
nhà nước ở địa phương phụ thuộc vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cơ quan trung ương trong phạm vi bang đó

-Lãnh thổ được phân chia thành các Nhà nước này có ba hệ thống chính

48
đơn vị hành chính- lãnh thổ không có quyền là liên bang, bang và địa
chủ quyền nhà nước phương. Sự phân chia quyền lực giữa
- có hai hệ thống chính quyền là nhà nước liên bang với các nhà nước
trung ương và địa phương thành viên được thể hiện rõ trong cả
ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư
pháp

Nó có một hệ thống pháp luật duy Có nhiều hệ thống pháp luật, nhiều
nhất từ trung ương tới địa phương, có bản hiến pháp trong đó có một hệ
một bản hiến pháp và một hệ thống thống là chung cho toàn liên bang, có
pháp luật duy nhất có hiệu lực trên 1 bản hiến pháp chung với hiệu lực
toàn lãnh thổ pháp lý cao nhất và trên phạm vi toàn
lãnh thổ liên bang, mỗi bang thành
viên lại có một hệ thống pháp luật,
một bản hiến pháp riêng và chỉ có
hiệu lực pháp lý trong phạm vi toàn
bang đó

Trước đây, công dân chỉ có một quốc Công dân có nhiều quốc tịch
tịch nhưng nay thì có thể có nhiều
quốc tịch
VD: Lào, Việt Nam, Campuchia… Ví dụ: Mỹ , Liên Xô (cũ)…

21. Cho biết ý kiến cá nhân của anh/chị về những ưu việt, hạn chế của chính thể quân
chủ và chính thể cộng hoà.
* Chính thể quân chủ:
Là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một
phần vào tay một cá nhân (vua; quốc vương…) theo phương thức cha truyển con nối (thế
tập).

49
Ưu việt:
Vai trò của vương triều nổi trội hơn cả các chính khách – người đứng đầu nhà nước
được dân bầu. Sự lựa chọn vị trí cao nhất trong chế độ quân chủ không bị ảnh hưởng hay
phụ thuộc vào yếu tố tài chính, phương tiện truyền thông hay đảng phái chính trị.

Tại các nước quân chủ, sự tồn tại của vị vua thường là điều duy nhất để giữ gìn đất
nước trước thảm họa nội chiến. Quốc vương đặc biệt quan trọng ở các nước đa sắc tộc như
Bỉ và Trung Đông.

Chính thể quân chủ có thể ngăn chặn sự hình thành các chính phủ cực đoan bằng cách
điều chỉnh “nhân sự” của chính phủ. Tất cả các chính khách chính khách chính trị buộc
phải thực thi vai trò giống như thủ tướng hay bộ trưởng theo đúng Luật và dưới quyền nhà
vua.

Chế độ quân chủ có vai trò ổn định đất nước bằng cách chuyển giao quyền lực từ từ.

Chế độ quân chủ hoàn toàn “xứng cái tâm, đáng cái tầm”, đủ danh vọng và uy tín để
thực hiện những sự lựa chọn cuối, hay những quyết định khó khăn nhất cho đất nước mà
không một chế độ nào làm được.
 Ví dụ: Cuối Thế chiến thứ II, Hoàng đế Nhật Bản Hirohito đưa ra quyết định vô
cùng sáng suốt bất chấp sự lộng hành, ngạo mạn của quân đội đòi chiến đấu đến
cùng và kết quả đã cứu được đất nước và giảm thiểu tử vong bằng quyết định đầu
hàng đồng minh.
Nhược điểm:
Vương triều có thể sử dụng quyền lực tuyệt đối, tùy tiện mà không qua bất kì sự kiểm
soát nào.
Vương triều nặng tư tưởng sinh ra để cai trị, quan tâm nhiều đến lợi ích cá nhân hơn lợi
ích chung của đất nước.
Tiềm ẩn nguy cơ phân quyền cát cứ, tranh vương đoạt vị.
Nhìn chung, chế độ quân chủ hiện vẫn còn bị chỉ trích, bị coi là không phù hợp với xã
hội hiện đại. Một trong những lý do là vương triều có thể sử dụng quyền lực tuyệt đối,

50
tùy tiện mà không qua bất kỳ sự kiểm soát nào; thậm chí có vương triều nặng tư tưởng
sinh ra để cai trị, quan tâm nhiều đến lợi ích cá nhân hơn là lợi ích chung của đất nước.
* Chính thể cộng hòa:
Cộng hòa là chính thể mà trong đó quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về cơ quan
(tập thể) đại diện của nhân dân.
Ưu điểm
Quyền lực tối cao NN nằm trong tay một hoặc một số cơ quan bầu ra theo nhiệm kì
nhất định. Phương thức trao quyền lực được quy định về mặt hình thức pháp lí.
Sự phân chia quyền lực rõ ràng và cơ chế kiềm chế giúp NN thực hiện chức năng một
cách chuyên trách, không có sự chồng chéo và càng không có sự làm quyền, lộng hành.
BMNN là một hệ thống thống nhất có thể quản lí đát nước một cách dễ dàng và hiệu quả.
Có tính dân chủ, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân.
Các chức năng xã hội được chú trọng hơn, XH phát triển, hiện đại, văn minh, công
bằng, đs nhân dân ấm no hạnh phúc.
Nhược điểm:
Đối với chính thể cộng hòa, NN là bộ máy phục vụ nhân dân nhiều hơn là BM cai trị.
Tuy nhiên, nhìn nhận sai chức năng của NN có thể dẫn đến NN làm việc quá tài còn XH trì
trệ đi xuống, điển hình là thời kì bao cấp ở nước ta.
Vẫn tồn tại dân chủ hình thức trong chính thể cộng hòa. Trong các nước cộng hòa dân
chủ tầng lớp nhân dân lao động trực tiếp tham gia bầu cử để lập ra cơ quan đại diện (quyền
lực) của nhà nước nhưng trên thực tế nhân dân vẫn còn “mù mờ” về quyền này của mình.
Ở một số nước cộng hòa kém tiến bộ hơn như công hòa phong kiến, cộng hòa dân chủ chủ
nô… gc thống trị của NN bóc lột thường đặt ra nhiều quy định nhằm hạn chế hoặc vô hiệu
hóa quyền này của nhân dân lao động.
22. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hình thức nhà nước.
1. Hình thức chính thể

Chế độ sở hữu ảnh hưởng rất lớn đến hình thức chính thể. Quyền lực kinh tế là cơ bản
để thâu tóm những quyền lực khác. Người có quyền lực kinh tế sẽ xây dựng cho mình một
bộ máy nhà nước sử dụng bạo lực có tổ chức để bảo vệ tài sản của mình, do đó, họ có

51
quyền lực chính trị. Quyền lực kinh tế tâp trung trong tay một bộ phận dẫn đến quyền lực
chính trị tập trung trong tay một bộ phận, hình thành chính thể quân chủ.

VD: nhà nước chủ nô mọi tư liệu sản xuất nằm trong tay chủ nô, bao gồm cả nô lệ nên NN
chủ nô là công cụ chuyên chính để bảo vệ tài sản của chủ nô, cụ thể là hợp pháp hóa quyền
sở hữu và quyết định tuyệt đối của chủ nô với nô lệ. Đây là một NN quân chủ tuyệt đối.

Tư liệu sản xuất, quyền lực kinh tế không tập trung, thuộc về 1 giai cấp, tầng lớp trong
xã hội dẫn đến quyền lực chính trị không còn chuyên quyền, độc đoán, phản dân chủ nữa
hình thành chính thể cộng hòa.

VD: NN XHCN mọi công dân đều bình đẳng và có quyền lao động chính đáng, làm và
hưởng theo lao động của chính mình, quyền lực NN thuộc về nhân dân và toàn xã hội, BM
chính quyền bị hạn chế quyền lực bởi hệ thống HP và PL.

Yếu tố tư tưởng cũng ảnh hưởng lớn đến hình thức chính thể. Những học thuyết như
thần quyền, thiên mệnh, nho giáo đều coi vua là thiên tử, thế thiên hành đạo, mọi người
dân đều phải nghe lời vua. Điều này phù hợp với ý chị của giai cấp thống trị khiến giai cấp
thống trị lợi dụng những tư tưởng này để truyền bá những điều có lợi cho giai cấp mình.
Đó là đặc trưng của NN quân chủ.

2. Hình thức cấu trúc

Quy định bởi điều kiện thực tế: địa lí, chủng tộc, sắc tộc, truyền thống, văn hóa.

3. Chế độ chính trị

- Phong trào quần chúng nhân dân. Nhân dân cam chịu sự áp bức bóc lột gc thống
trị càng bóc lột nô dịch dã man hơn. Chế độ chính trị phản dân chủ. Nhân dân đứng lên đấu
tranh mãnh liệt, dù thất bại hay thành công đều tác động lớn đến chế độ chính trị, dân chủ
hơn.
- Yếu tố quốc tế, thời đại. Thành quả đấu tranh của gc công nhân toàn thế giới (tiêu
biểu là thành tựu CMVN)) tác động mạnh mẽ đến tinh thần trỗi dậy, phong trào đấu tranh
toàn thế giới. Chiến thắng ĐBP mở ra toan thế giới cuộc đtr chống lại đế quốc, điển hình là
châu Phi, Mỹ Latinh.
- Trình độ dân trí: Một xã hội có mặt bằng dân trí cao sẽ biết đòi hỏi những quyền
lợi chính đáng giành cho mình, vì thế, một chế độ dân chủ hay độc tài có kéo dài hay che
52
giấu được bản chất của nó bao lâu phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí. Trên cơ sở
người dân tham gia vào kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà nước trong các xã hội
hiện đại, nhà nước buộc có cơ chế tự điều chỉnh cho phù hợp với mong muốn nguyện vọng
của nhân dân, mà nhìn chung là một chế độ dân chủ, công bằng, văn minh.

23. Phân tích vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. Trình bày ý nghĩa
của việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị.
Định nghĩa: NN

Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, tập hợp và quản lý dân cư theo lãnh thổ, nắm
giữ và thực thi chủ quyền quốc gia, ban hành pháp luật và thực hiện việc quản lý xã hội
bằng pháp luật, phục vụ lợi ích các giai tầng, lợi ích của cả xã hội, vì sự tồn tại và phát
triển của cả đất nước.

Khái niệm HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội trực tiếp nắm giữ
hoặc tham gia thực thi quyền lực chính trị, có mối liên hệ mật thiết với nhau dưới sự lãnh
đạo của một đảng hoặc một liên minh các đảng phái chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu
chính trị của lực lượng cầm quyền

Vị trí: Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời sống
chính trị xã hội. Nhà nước có quan hệ với tất cả tổ chức khác trong hệ thống chính trị,
thu hút các tổ chức đó về phía mình. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị là lực
lượng hỗ trợ nhà nước.
Vai trò: nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ
thống chính trị. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống chính trị. Nhà
nước là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước
chi phối tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Nó cho phép thành lập cũng như
làm mất đi một thành tố nào đó trong hệ thống chính trị. Nó có thể điều hòa được quan hệ
giữa các lực lượng chính trị trong xã hội, nó là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực nhân
dân và công cụ thực hiện quyền lực nhân dân.
Ý nghĩa của việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước:
53
Khẳng định vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của nhà nước trong hệ thống chính trị,
đảm bảo các quyền lợi, nghĩa vụ của nhà nước trong hệ thống.
24. Phân tích ưu thế của nhà nước so với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị,
liên hệ thực tế Việt Nam.
1. Nhà nước là sản phẩm thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội do giai cấp cầm
quyền lãnh đạo, nhằm xóa bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới.
Hệ thống chính trị được hình thành cùng với sự hình thành của nhà nước tư sản nên chỉ
trong XHTBCN và XHXHCN mới có HTCT. So với các tổ chức khác trong HTCT, nhà
nước được xây dựng, bảo vệ, củng cố và phát triển trên nền tảng XH rộng lớn nhất. Cơ sở
XH của nhà nước là mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội… Cơ sở xã hội của các tổ chức
khác chỉ là một bộ phận của dân cư.
2. Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức, hợp pháp cho toàn thể xã hội, nhân
danh xã hội để thực hiện việc tổ chức và quản lí hầu hết các mặt của đs XH
Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập, đại diện và thực hiện quyền lực của nhân
dân nên chỉ nhà nước mới là đại diện chính thức cho toàn xã hội, có chức năng tổ chức và
quản lí xã hội để thiết lập trật tự Xh, vì sự phát triển chung của XH.
3. Nhà nước có quyền lực công khai và có phạm vi tác động rộng lớn nhất trong
HTCT, bao trùm lên toàn XH, tới mọi cá nhân, tổ chức, mọi miền lãnh thổ và các lĩnh
vực hoạt động cơ bản của XH.
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước có bộ máy hùng mạnh nhất, bao gồm một
hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong đó có cả các cơ quan
bạo lực như quân đội, cảnh sát để bảo đảm cho việc thực hiện quyền lực NN.
4. Nhà nước có pháp luật, công cụ quản lí XH có hiệu quả nhất.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực
hiện với tất cả các tổ chức và cá nhân trong XH. Pháp luật do NN ban hành và bảo đảm
thực hiện bằng tất cả sức mạnh của mình, trong đó có sức mạnh cưỡng chế.

54
Quy định của các tổ chức khác chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối
với các hội viên trong tổ chức, đồng thời chỉ được đảm bảo thực hiện bằng sự tự giác của
hội vien và các hình thức kỉ luật của tổ chức, nên sức mạnh và hiệu quả thấp hơn pháp luật.
Các tổ chức khác chỉ được nêu lên sáng kiến XDPL khi được NN cho phép.
5. Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT nắm giữ và thực hiện chủ quyền
QG:
Trong HTCT chỉ NN mới có quyền cho phép các tổ chức khác trong HTCT được thành
lập hoặc được tồn tại và hoạt động một cách hợp pháp, chỉ NN mới có toàn quyền xác định
và thực hiện các đường lối, chính sách đối ngoại của mình. Do đó, chỉ NN mới đủ khả
năng huy động mọi tiềm năng trong nước, mọi sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế vào công cuộc
XD và phát triển đất nước.
6. Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn nhất, vì vậy NN có đầy đủ các phương
tiện vật chất cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
Nhà nước có quyền thu thuế, phát hành tiền, quốc trái và là chủ sở hữu lớn nhất trong
XH nen nó có sức mạnh vật chất to lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của
nó và của XH mà còn có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác
trong HTCT.

25. Phân tích mối quan hệ giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam với Đảng cộng sản Việt
Nam. Ý nghĩa của mối quan hệ này trong tổ chức, quản lý xã hội hiện nay.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức quyền lực công của quốc gia VN, nhờ có pháp
luật và những phương tiện cưỡng chế hợp pháp nên có khả năng tổ chức và quản lí dân cư
trong phạm vị lãnh thổ VN nhằm thực hiện mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN nhằm thiết lập, giữ gìn
trật tự xã hội; nhà nước CHXHCNVN là đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc VN
trong các quan hệ đối nội và đối ngoại và là chủ thể độc lập trong các quan hệ quốc tế.

55
ĐCSVN là tổ chức tự nguyện của những người lao động ưu tú có cùng mục đích, chính
kiến và lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động và xây dựng thành
công CNXH ở VN.
Hệ thống CTXHCN là tổng thể các tổ chức chính trị- xã hội có mối liên hệ mật thiết
với nhau mà vai trò lãnh đạo thuộc về ĐCS, nhằm thực hiện QLND, xây dựng CNXH. ở
VN hiện nay, HTCT bao gồm: Đảng, nhà nước, Mặt trận tổ quốc VN, các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo một cơ chế bảo đảm đầy đủ
QLND dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và Đảng cộng sản là hai thành tố quan trọng nhất trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Giữa chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ. Đảng là lực
lượng lãnh đạo nhà nước, đồng thời nhà nước có sự tác động rất lớn đối với đảng. Sự lãnh
đảo của Đảng cộng sản đối với nhà nước là 1 điều tất yếu, khách quan, phù hợp với quy
luật phát triển.
Tác động của Đảng đối với nhà nước: Đảng lãnh đạo nhà nước = những hình thức và
phương pháp nhất định
 Đảng đề ra đường lối, chính sách có tính chất định hướng cho sự phát triển của đất
nước trong từng giai đoạn nên cũng là sự định hướng cho việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước trong mỗi giai đoạn đó để nhà nước cụ thể hóa thành PL và tổ chức thực
hiện
 Đảng lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho nhà nước, các cán bộ
đó có thể được đảm nhiệm các chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước = con đường nhà
nước, thông qua bầu cử, ứng cử, bổ nhiệm
 Đảng theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của nhà nước để kịp thời phát
hiện và uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà nước để vừa đảm bảo cho
nhà nước hoạt động theo đúng hướng đảng đã vạch ra, vừa có thể phát hiện ra những điểm
thiếu sót, bất hợp lý trong đường lối, chính sách của đảng mà sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn của đất nước
56
Tác động của nhà nước đối với đảng:

 Nhà nước ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng trong PL, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc
cho sự tồn tại, hoạt động và lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội
 Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng thành PL, tổ chức thực hiện và
đảm bảo cho Pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. = cách đó, nhà nước đảm bảo cho
đường lối, chính sách của Đảng có thể được thực hiện trong toàn xã hội, giúp cho đảng
thực hiện được quyền lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội
 Thông qua hoạt động thực tiễn, nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn trong đường
lối, chính sách của đảng, từ đó có cơ sở đóng góp ý kiến cho đảng hoạch định đường lối,
chính sách để bảo đảm sự phù hợp hơn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Vì
thế nhà nước là tổ chức mà thông qua đó đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến
trình phát triển của xã hội.
 Nhà nước bảo vệ đường lối, chính sách cũng như tổ chức của đảng, tạo điều kiện về
cơ sở vật chất, hỗ trợ kinh phí hoạt động và các điều kiện khác cho đảng hoạt động
 Nhà nước quản lý các đảng viên và các tổ chức đảng theo PL nhằm bảo đảm hoạt
động của đảng viên và các tổ chức đảng phù hợp với PL, nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCNVN
* Ý nghĩa của việc xác định mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước:
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa NN
và Đảng trên cơ sở phân định rõ chức năng của NN và Đảng trên cơ sở phân định rõ ràng
chức năng của NN với chức năng của Đảng có ý nghĩa quan trọng để NN phát huy hết hiệu
lực của mình vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn Đảng vẫn lãnh đạo được NN nhưng
không làm thay NN. Việc phân định đó chỉ có thể được thực hiện bằng công cụ PL mới
bảo đảm được sự chắc chắn và bền vững.

57
26. Phân tích yêu cầu, đòi hỏi đối với pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Thứ nhất, trong NN pháp quyền, PL đã trở thành công lý của thời đại.
PL không còn là công cụ của riêng NN, điều chỉnh các QHXH theo ý chí chủ quan của
NN mà là sự kết tinh những giá trị XH cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho ND
PL thừa nhận và hướng tới việc bảo đảm, bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền CD,
hướng tới việc bảo vệ công bằng XH. Do vậy, PL thực sự trở thành chuẩn mực chung được
mọi người thừa nhận.
PL được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân, nhóm XH và lợi
ích chung của toàn XH.
Hoạt động áp dụng PL được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ công lý, bảo
đảm, bảo vệ các quyền con người, tự do cá nhân, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã
hội.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống PL theo các tiêu chí của PL trong NN pháp quyền,
đồng thời tổ chức thực hiện PL một cách có hiệu quả.
BMNN phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ HP và PL

Nói đến pháp quyền là nói đến quyền lực hay sức mạnh của pháp luật. Trong HTPL của
NNPQ, HP là đạo luật thể hiện một cách tập trung ý chí của nhân dân, có hiệu lực pháp lí
cao nhất. Sự thống trị của HP và PL chính là cơ sở hình thành nên NNPQ, vì thế, tôn trọng
và thực hiện nghiêm chỉnh HP và PL là nhu cầu tự thân của NNPQ. Song song với đó, PL
của NNPQ phải là HTPL tiến bộ, dân chủ, minh bạch, phù hợp với các điều kiện hiện hữu
của đất nước như trình độ phát triển kinh tế- xã hội, đạo đức, PTTQ… phải thể hiện ý chí
nhân dân, thừa nhận rộng rãi quyền cơ bản của con người, quyền dân chủ của công dân…

Mọi thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được quy định rành
mạch, rõ ràng trong Hiến pháp và các đạo luật, không một cơ quan nhà nước nào, dù là
Quốc hội có thể tự đặt thêm cho mình các quyền hạn, ngoài các quyền đã được Hiến pháp
quy định.

Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành trên cơ sở Hiến
pháp không chỉ quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành

58
pháp và tư pháp mà còn phải quy định chặt chẽ và rành mạch mối quan hệ quyền lực
giữa các cơ quan này trong quá trình thực hiện quyền lực được nhân dân uỷ quyền.

BMNN phải được tổ chức và hoạt động theo cơ chế đảm bảo sự phân công và kiểm soát
quyền lực giữa các CQNN (nhìn lại câu 18)

Nếu như quyền lập pháp với hành pháp nhập lại trong tay 1 người thì sẽ dẫn đến hậu
quả là làm tăng sự độc tài. Nếu tư pháp nhập lại với quyền lập pháp sẽ dẫn đến sự độc đoán
với quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu tư pháp nhập lại với
hành pháp thì quan tòa sẽ có sức mạnh của 1 kẻ đàn áp. Còn nếu 1 người hay 1 tổ chức của
quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng nắm luôn 3 quyền nói trên thì tất cả sẽ mất
hết. Chính vì vậy trong bộ máy nhà nước tư sản quyền lực nhà nước được phân làm 3
phần đưa vào 3 cơ quan riêng biệt đó là: Lập pháp thuộc về quốc hội, hành pháp thuộc
về chính phủ và tư pháp thuộc về tòa án. Việc này sẽ làm hạn chế sự độc đoán chuyên
quyền và để cho các quyền lực có thể kiểm soát bằng các cơ quan độc lập có quyền ngang
nhau và đối trọng nhau. Do đó, cần đảm bảo sự kiểm soát chéo chặt chẽ giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước, vừa kiềm chế, vừa thúc đẩy lẫn nhau, tạo động lực cho sự phát triển
chung.

BMNN đảm bảo cho người dân được thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quyền con
người, quyền công dân của mình.

Trong NNPQ, bộ máy nhà nước không có lợi ích riêng, công việc riêng. Công việc của
các cơ quan nhà nước, lợi ích của các cơ quan nhà nước chỉ có thể là lợi ích của nhân dân,
công việc của nhân dân. Quyền lực của bộ máy nhà nước chính là quyền lực do nhân dân
uỷ quyền, nhằm giúp nhân dân thực hiện tốt quyền của mình, bảo vệ tốt lợi ích của mình ở
những quan hệ mà tự người dân không thể trực tiếp thực hiện. Do vậy, quyền lực của bộ
máy nhà nước luôn phải được hạn chế và quy định chặt chẽ. Sự xuất hiện bất kỳ một cơ
quan công quyền nào trong bộ máy nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu của người dân,
nhằm đáp ứng các đòi hỏi đảm bảo quyền và tự do của người dân. Bộ máy nhà nước phải
được hình thành trên cơ sở ý nguyện và lựa chọn của người dân thông qua chế độ bầu cử
thật sự dân chủ để bầu ra những người đại diện của nhân dân thực thi công quyền.

59
Để đảm bảo việc nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước mà không bị “mất quyền” thì
công việc của các cơ quan và công chức nhà nước phải công khai, minh bạch. Các cơ quan
nhà nước và công chức nhà nước phải có trách nhiệm báo cáo, giải trình trước nhân dân,
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình đối với tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước.

BMNN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở xác định rõ MQH và tương tác lẫn nhau
giữa NN PQXHCN và XH dân sự

XHDS được hình thành bởi những tổ chức phi NN

NNPQ dù ưu việt đến đâu cũng không thể trực tiếp giải quyết được mọi vấn đề cụ thể,
đa dạng đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội vẫn cần có những hình
thức tổ chức khác, cách thức khác phi nhà nước để tập hợp người dân, thể hiện được ý chí,
nguyện vọng của người dân, để tự tổ chức các quá trình xã hội, phát triển đời sống dân cư
và cộng đồng, tự khẳng định vị trí, trách nhiệm của mình trong sự phát triển xã hội. Do đó,
Nhà nước cùng với sự tồn tại với xã hội dân sự, chia sẻ trách nhiệm với xã hội dân sự, tôn
trọng và tạo điều kiện phát huy vai trò và thế mạnh của xã hội dân sự là quy luật có tính
phổ biến của một nền dân chủ. Bộ máy nhà nước cần được tổ chức phù hợp với vị trí, vai
trò và trách nhiệm cần có của mình để giải quyết các công việc, các yêu cầu, đòi hỏi mà
bản thân các cấu trúc xã hội dân sự không thể tự mình giải quyết, hoặc không giải quyết
một cách hiệu quả.

Rõ ràng, sự hiện diện của các cấu trúc tổ chức của xã hội dân sự đã giảm tải không ít
công việc của Nhà nước, tạo cơ sở để xác định rõ hơn phạm vi, mức độ, giới hạn của hoạt
động nhà nước, làm tinh gọn bộ máy nhà nước.

27. Trình bày quan điểm của anh (chị) về nhận định: “Việc quá đề cao pháp luật có
thể dẫn đến tình trạng lạm dụng pháp luật”.
Trước hết nói về sự khác biệt giữa đề cao pháp luật và thượng tôn pháp luật: Nếu như
nói về tính chất rõ ràng một bên hàm chứa yếu tố cưỡng bức từ phía ngoài, còn một bên
xuất phát từ phía trong chính yếu tố của sự vật. Thượng tôn là hàm chứa việc thừa nhận,
tôn trọng ở một cấp độ cao nhất từ phía xã hội đối với pháp luật. Ngược lại, đề cao nó biểu
hiện là xuất phát từ ý chí bên ngoài (nhà nước) là đề cao đối với pháp luật. Do đó, có thể
thấy đây là hai trạng thái khác nhau.
60
Trong các nhà nước được coi là dân chủ thì pháp luật luôn được ban hành và thông qua
bằng các con đường chính đáng. Sự chính đáng này thể hiện việc ban hành pháp luật luôn
phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của nó như: đồng thuận đa số, thẩm quyền ban
hành, trình tự…, và nó không có những biểu hiện che đậy các hành vi làm luật không chính
đáng. Do đó, hầu hết các đạo luật của quốc gia khi đưa vào áp dụng nó làm cho đa số
những người áp dụng, những người tham gia các quan hệ pháp lý này cảm thấy mãn. Đó là
những đạo luật chứa đựng cả niềm tin của xã hội trong đó. Những người tham gia vào các
quan hệ pháp luật đều cảm thấy rằng ý chí của mình đã được thể hiện trong đó. Hay chí ít
là ý chí của xã hội đã được thể hiện trong các đạo luật đó. Và nếu pháp luật có đi ngược ý
chí của một số cá nhân đơn lẻ thì họ cũng vẫn thoải mái chấp nhận vì cho rằng mình đã hi
sinh một cách chính đáng tự do tự nhiên để đổi lấy tự do dân sự (tự do xã hội). Bởi vì họ
đều hiểu một điều đơn giản rằng trong tự do dân sự họ luôn được bảo vệ bởi các trật tự xã
hội (theo các nhà vị lợi thì người ta sẽ thoải mái hi sinh những lợi ích đó (tự do tự nhiên) vì
họ biết rằng họ sẽ được nhiều hơn mất).

Khi một hệ thống pháp luật đáp ứng được niềm tin của xã hội thì các giá trị của hệ
thống pháp luật mới dần được thẩm thấu vào các thành viên xã hội. Dần dần nó trở thành
niềm tin nội tâm của mỗi cá nhân. Từ đó xã hội mới có thể đánh giá và cảm nhận về pháp
luật có đáng được thượng tôn hay không? Ngược lại, có những hệ thống pháp luật trong
nhà nước pháp quyền mà con người chưa có được niềm tin nội tâm vào đó chắc hẳn chưa
thể đặt ra vấn đề thượng tôn pháp luật mà ở đây chỉ là đề cao pháp luật. Vì trong bất cứ nhà
nước pháp quyền nào, điều kiện tiên quyết của nó là phải đề cao pháp luật, nghĩa là đó là
nguyên lý chung của các nhà nước pháp quyền vì theo cách hiểu thông thường, nhà nước
pháp quyền chính là một nhà nước đề cao pháp luật lên trên các giá trị khác và nhà nước
pháp quyền luôn đòi hỏi công dân của mình phải coi pháp luật là tối cao. Tuy nhiên, việc
cảm nhận và ứng xử với hệ thống pháp luật như thế nào lại phụ thuộc vào nhận thức, tình
cảm của xã hội về hệ thống pháp luật đó.

Nếu quá đề cao pháp luật mà coi thường các thể chế phi quan phương khác thì pháp luật
sẽ trở thành một công cụ của NN. Như thế thì một NN chuyên quyền, độc đoán có thể ban
hành mọi thứ PL, kể cả những thứ xâm phạm các quyền cơ bản của con người để cai trị.
Có thể thấy việc lạm dụng PL biểu hiện rõ ở việc lạm dụng quyền lực chính trị: Việc ban
hành một số chủ trương, chính sách, nghị quyết, quyết định của tập thể hoặc cá nhân trái
quy định của Đảng, pháp luật của NN, của cấp trên; có tình trạng bán chức, bán quyền, bán
vị trí công tác…; hay việc lạm dụng quyền lực lập pháp biểu hiện ở việc ban hành một số

61
chính sách, PL k công bằng, có lợi cho cơ quan, đơn vị, giai cấp nào đó trong XH; qua vc
ban hành một số thể chế, chính sách cụ thể về phát triển kinh tế, XH, thực hiện các chương
trình, dự án đầu tư,… bị chi phối, bóp méo, chia sẻ có lợi cho bộ, ngành, địa phương,
doanh nghiệp nào đó.

28. Phân tích những yêu cầu, đòi hỏi đối với bộ máy nhà nước trong nhà nước pháp
quyền.
Từ các đặc điểm có tính phổ biến của NNPQ và các đặc thù của NNPQ XHCN của dân,
do dân, vì dân ở nước ta, trong quá trình đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước phải
xuất phát từ các yêu cầu sau:
Một là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Trước hết, để đổi mới bộ máy nhà nước phải xem xét đến khả năng sửa đổi Hiến pháp và
các đạo luật về tổ chức bộ máy theo đúng các giá trị và tiêu chuẩn của chế độ pháp quyền
dân chủ. Mọi thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được quy
định rành mạch, rõ ràng trong Hiến pháp và các đạo luật, không một cơ quan nhà nước
nào, dù là Quốc hội có thể tự đặt thêm cho mình các quyền hạn, ngoài các quyền đã được
Hiến pháp quy định. Ý nghĩa sâu sắc của NNPQ chính là ở nhận thức: Nhà nước của pháp
quyền chứ không phải pháp quyền của Nhà nước. Do vậy, luật pháp phải là khách
quan đối với Nhà nước, là yếu tố cơ bản quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành trên cơ sở Hiến
pháp không chỉ quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp mà còn phải quy định chặt chẽ và rành mạch mối quan hệ quyền lực giữa các cơ
quan này trong quá trình thực hiện quyền lực được nhân dân uỷ quyền
Hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động đúng với quan điểm:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp”.

62
Vấn đề đặt ra ở đây là tính thống nhất của quyền lực nhà nước cần được nhận thức đầy
đủ và đúng đắn từ góc độ của chế độ pháp quyền. Thật ra, bất luận trong một mô hình tổ
chức nhà nước nào, quyền lực nhà nước, tự bản thân nó luôn bao hàm sự thống nhất; thiếu
tính thống nhất quyền lực là mất hiệu lực. Sở dĩ quyền lực nhà nước có được hiệu lực vì nó
luôn là một hệ thống. Chính sự phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp là sự phân công giữa ba bộ phận của một hệ thống tồn tại dưới dạng một chính thể
các quan hệ quyền lực. Do vậy, khi xác định tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự
phân công, phối hợp giữa ba quyền, cần phải đặt ba quyền này trong một thể thống nhất
của hệ thống với việc xác định rõ địa vị pháp lý của từng thiết chế quyền lực thực hiện các
quyền. Hiến pháp cần chỉ rõ rằng: Sự phân công, phối hợp giữa ba quyền và tương ứng với
chúng là ba thiết chế quyền lực nhà nước, là sự phân công có điều kiện về khả năng loại bỏ
sự độc quyền quyền lực từ bất kỳ một thiết chế quyền lực nào. Theo đó, mỗi một thiết chế
quyền lực chỉ thực thi một loại quyền lực và không thể có một thiết chế quyền lực nào lại
thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước vào tay mình. Tinh thần này chính là nội dung pháp
lý của sự phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước và nếu có có tồn tại
một nguyên tắc tập quyền, thì chính là sự biểu đạt của tư tưởng: toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, chứ không thể toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Quốc hội như
đã từng được quan niệm. Chúng ta không chủ trương thực hiện phương thức “kiềm chế,
đối trọng” trong cơ cấu phân quyền như quy định của nhiều nước, nhưng phải xây dựng
một cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các nhánh quyền lực nhà nước sao cho mỗi cơ quan
nhà nước đều phải thực hiện đúng thẩm quyền của mình trong đúng phạm vi, thủ tục và
giới hạn được luật pháp định đoạt, không một hoạt động quyền lực nào nằm ngoài sự kiểm
soát kể cả từ phía xã hội và ngay cả trong nội bộ bộ máy nhà nước. Dĩ nhiên, mọi sự kiểm
soát quyền lực, bất luận được tiến hành bởi một cơ quan nào đều không được phép làm
ngưng trệ, cản trở việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước khác, mà

63
ngược lại, phải làm cho việc thực hiện thẩm quyền của mỗi một cơ quan trở nên minh bạch
hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động không vì mục đích “cai trị dân
chúng”, không nhằm tạo ra các ưu thế và điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước
trong quản lý các công việc của dân chúng, mà phải vì mục đích đảm bảo cho người dân
được thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quyền con người của mình.
Trong NNPQ, bộ máy nhà nước không có lợi ích riêng, công việc riêng. Công việc của
các cơ quan nhà nước, lợi ích của các cơ quan nhà nước chỉ có thể là lợi ích của nhân dân,
công việc của nhân dân. Quyền lực của bộ máy nhà nước chính là quyền lực do nhân dân
uỷ quyền, nhằm giúp nhân dân thực hiện tốt quyền của mình, bảo vệ tốt lợi ích của mình ở
những quan hệ mà tự người dân không thể trực tiếp thực hiện. Do vậy, quyền lực của bộ
máy nhà nước luôn phải được hạn chế và quy định chặt chẽ. Bộ máy nhà nước phải được
tổ chức như một nhân tố bảo đảm quyền con người, vì quyền con người, theo ý chí và
nguyện vọng của người dân.
Bốn là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở xác định rõ mối quan
hệ và tương tác lẫn nhau giữa NNPQ XHCN và xã hội dân sự trong điều kiện cụ thể
nước ta.
Một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa NNPQ và Nhà nước toàn trị là ở chỗ, Nhà
nước toàn trị bao trùm toàn bộ xã hội, quyết định hầu hết các vấn đề của đời sống xã hội,
hay nói một cách khác là “nhà nước hoá toàn bộ xã hội”; NNPQ không đồng nhất Nhà
nước với xã hội mà tồn tại đồng hành với xã hội trên cơ sở phân định khá rõ tính chất,
phạm vi, mức độ và phương pháp tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và các cấu
trúc của xã hội dân sự.
Năm là, trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta,
việc đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

64
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với NNPQ XHCN của dân, do dân, vì
dân là một đặc điểm quan trọng của Nhà nước ta. Đặc điểm này luôn chi phối quá trình đổi
mới, cải cách bộ máy nhà nước ta trong suốt những năm đổi mới đất nước.
Đặc điểm, yêu cầu của quá trình xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở
nước ta đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo chính trị của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, đồng thời tôn trọng vị trí, vai trò độc lập của bộ máy nhà nước,
không bao biện làm thay Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực do nhân dân uỷ
quyền.
29. Phân tích các đặc trưng cơ bản của pháp luật, trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện
một đặc trưng của pháp luật Việt Nam hiện nay.
KN PL: là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
bằng nhiều biện pháp , thể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị, vì sự tồn tại, phát triển của cả xã hội.

Là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội PL có những thuộc tính cơ bản sau:

PL có tính quyền lực nhà nước (PL do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện).

Pháp luật không có quyền lực nhà nước nhưng lại có tính quyền lực nhà nước vì pháp
luật do nhà nước đặt ra. Mà nhà nước lại là tổ chức hợp pháp công khai và có quyền lực
bao trùm toàn xã hội. Thông qua nhà nước giai cấp thống trị thể hiện và hợp pháp hóa ý chí
của giai cấp mình. Việc bảo đảm cho các quy định pháp luật được thực thi có hiệu quả
chính là việc bảo đảm cho quyền lực nhà nước có thể tác động đến mọi chủ thể.

PL đc bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cưỡng chế
nhà nước rât nghiêm khắc như phạt tiền, tù có thời hạn, tù chung thân… làm cho PL luôn
đc các tổ chức, cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.

PL có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung.

PL gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có kết
cấu logic chặt chẽ và đc đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự tổng
hợp từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho các

65
qui định PL có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các tổ chức, cá
nhân thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà PL đã dự liệu.

PL mang tính chất bắt buộc chung, các qui định PL đc dự liệu không phải cho một tổ
chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân liên quan. Việc thực hiện PL
là bắt buộc đối với bất cứ tổ chức, cá nhân nào khi đã ở vào hoàn cảnh, điều kiện mà PL đã
dự liệu.

PL có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng đều được PL
điều chỉnh. PL là sự mô hình hóa những nhu cầu xã hội, những quy luật phát triển xã hội
dưới dạng các quy tắc xử sự chung, không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nước,
PL còn phản ánh những nhu cầu, đòi hỏi khách quan của xã hội dưới hình thức pháp lý.

Pháp luật có tính hệ thống:

Bản thân pháp luật là một hệ thống các quy phạm hay các quy tắc xử sự chung , các
nguyên tắc , các khái niệm pháp lí … Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách
tác động lên cách xử sự của chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó , làm cho quan hệ phát
triển theo chiều hướng mà nhà nước mong muốn . Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà
giữa chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

30. Phân biệt pháp luật với các công cụ khác trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội.
Tiêu chí Pháp luật Các công cụ khác

Khái niệm Pháp luật là hệ thống các quy Là hệ thống những quy tắc xử sự
tắc xử sự chung mang tính bắt chung được hình thành trong đời
buộc được nhà nước ban hành sống xã hội, dùng để điều chỉnh
hoặc thừa nhận nhằm điều các quan hệ xã hội.
chỉnh các mối quan hệ xã hội
theo mục tiêu và định hướng cụ
thể.

Tính quyền Pháp luật mang tính quyền lực Không mang tính quyền lực nhà
lực nhà nhà nước được nhà nước đảm nước, được đảm bảo thực hiện
bảo bằng các biện pháp tuyên bằng lương tâm, dư luận xã hội ,

66
nước truyền, giáo dục, cưỡng chế không mang tính cưỡng chế .

Phạm vi tác Phạm vi tác động rộng lớn, bao Phạm vi tác động hẹp, mỗi công
động trùm lên mọi chủ thể có liên cụ chỉ có phạm vi tác động đối với
quan thành viên tổ chức mình

Hình thức Tương đối chặt chẽ, có hệ Hình thức mang tính rải rác,
thống, khoa học không hệ thống, khó tập hợp

Tính ổn Tính ổn định thấp hơn, dễ thay Tính ổn định cao, tồn tại lâu dài,
định đổi hơn khó thay đổi

Hiệu quả Hiệu quả tác động cao hơn vì Hiệu quả hoạt động thấp hơn vì
được bảo đảm thực hiện bằng thiếu tính cưỡng chế
cưỡng chế nhà nước

Bản chất Mang tính xã hội và tính giai Mang tính xã hội nhưng tính giai
cấp cấp có thể có hoặc không

31 + 32.Phân tích biện pháp giải quyết sự xung đột giữa pháp luật với đạo đức/ tập
quán.
Việc xử lí xung đột giữa PL và các công cụ khác phải dựa trên 4 nguyên tắc sau:

PL là tối thượng, có quyền lực cao nhất và khả năng chi phối tất cả. Các công cụ khác
chỉ để hỗ trợ cho PL.

Luôn phải tôn trọng, bảo đảm, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, thuần phong
mỹ tục của dân tộc.

Đạo đức là GỐC của PL và các công cụ khác. PL là CHUẨN của đạo đức và các công
cụ khác bởi PL tiến bộ, nhân đạo và phản ánh đúng tình hình XH. Từ đó đặt ra yêu cầu xây
dựng PL phải trên cơ sở đạo đức và các phong tục tập quán phù hợp với các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng những quan điểm lạc hậu, trái với quy luật phát triển thì
phải bị loại trừ.

Lợi ích của Quốc gia là tối thượng, sau đó là lợi ích của cộng đồng và cá nhân.

67
Dựa trên các nguyên tắc này để xử lí sự xung đột, mâu thuẫn giữa PL và các công cụ
khác. Cụ thể, khi PL không phù hợp với các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc thì PL phải thay đổi. Khi PL được xây dựng phù hợp với các
quan niệm đạp đức/pttq thì sẽ phản ánh được ý chí, nhu cầu, lợi ích của các thành viên
trong cộng đồng. PL sẽ được mọi người chấp hành nghiêm túc hơn vì họ thực hiện bằng
lương tâm và niềm tin, khiến hiệu quả điều chỉnh của PL sẽ cao hơn. Ngược lại, khi các
quan niệm đạo đức và phong tục tập quán đã lỗi thời, lạc hậu, ngược lại với sự phát triển
của XH thì chúng phải được thay đổi.

Để thay đổi được đạo đực và phong tục tập quán lạc hậu là một việc khó khăn vì chúng
đã bám rễ sâu vào đời sống, tư duy của người dân, vì vậy bên cạnh việc sử dụng PL còn
phải kết hợp với các điều kiện kinh tế XH.

=> Tùy vào các trường hợp khác nhau, các quan hệ XH khác nhau, khi điều chỉnh các
mối quan hệ XH phải:

1. Lựa chọn công cụ điều chỉnh sao cho phù hợp.

2. Cách sử dụng công cụ phải đúng cách.

3. Biện pháp chế tài phải phù hợp.

4. Tác động đến một mức độ nhất định phải dừng lại.

33. Phân tích ưu thế của pháp luật so với các công cụ khác trong điều chỉnh quan hệ
xã hội.
Sở dĩ, PL có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng như nêu trên là bởi vì, so với các công cụ
điều chỉnh khác, PL thể hiện những ưu thế vượt trội sau đây:
1. PL có phạm vi tác động rộng lớn nhất.
PL do nhà nước ban hành, vì vậy, nó được truyền bá, phổ biến bằng con đường chính
thức thông qua hệ thống cơ quan NN có thẩm quyền. Nhờ đó, PL có khả năng tác động đến
mọi cá nhân, tổ chức trong XH, tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động
đến mọi vùng miền, lãnh thổ của đất nước. Ở đâu có sự hiện diện của chính quyền, ở đó có

68
sự tác động của PL. Bởi vậy, PL có thể điều chỉnh các QHXH trên bình diện rộng lớn trên
các lĩnh vực của đời sống.
2. PL được NN tổ chức thực hiện và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau.
NN bảo vệ PL bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp cưỡng chế NN,
nhờ đó nó có tính bắt buộc đối với mọi người. Trong điều kiện XH có sự khác biệt, thậm
chí mâu thuẫn về lợi ích, mọi người đều muốn cái lợi cho riêng mình thì những lời khuyên,
điều răn hay những cách xử sự theo thói quen…không phải khi nào cũng phát huy tác
dụng. Trong điều kiện đó, phải dùng các biện pháp cưỡng chế của PL mới có thể thiết lập
được trật tự, mới duy trì được sự ổn định của đời sống. PL mang tính bắt buộc đối với mọi
người. Nói cách khác, thực hiện PL nghiêm chỉnh là sự bắt buộc đối với các chủ thể, hoàn
toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ.
3. PL có hình thức xác định chặt chẽ nhất.
PL có sự xác định chặt chẽ về hình thức là một trong những ưu thế vượt trội của PL so
với các công cụ điều chỉnh khác. PL, bản thân nó là một hệ thống, đó là một thể thống
nhất bao gồm các QPPL có mlh mật thiết với nhau được sắp xếp một cách logic, khách
quan và khoa học. Ngôn ngữ PL thường một nghĩa, rõ nghĩa, chính xác, không trừu tượng,
chung chung.
Ngược lại, các thể chế phi quan thường không có sự xác định về mặt hình thức. Phong
tục tập quán thể hiện dưới dạng hành vi mẫu, đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ yếu được
truyển miệng dưới dạng tục ngữ, ca dao…
4. PL dễ thích ứng với đk thực tế của đs XH.
Là hình thức pháp lí của các QH KTXH, vì vậy, về cơ bản PL quy định về vấn đề gì,
quy định như thế nào, điều đó phụ thuộc vào thực trạng của đk KTXH. PL có thể đáp ứng
kịp thời yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Ngược lại, đạo đức, phong tục tập quán… thường
có quá trình hình thành và biến đổi khá chậm chạp. Nói cách khác, các thể chế phi quan
thường không phản ánh kịp thời sự phát triển của cuộc sống. Do đó, chúng không thể điều
chỉnh một cách kịp thời sự biến động của các QHXH.
69
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, PL cũng có những hạn chế nhất định.

34. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nhà nước pháp quyền.
1. Nêu định nghĩa PL, đạo đức.
PL: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bá, buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thựa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của
các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Đạo đức: Chỉ một yếu tố trong tính cách và giá trị của mỗi con người. Là hệ thống các
quy tắc về chuẩn mực của cộng đồng và xã hội.
2. Sự tác động của PL đến đạo đức, được thể hiện qua các điểm sau:
PL là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức chính thống hay của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền. Nhờ được luật hóa,
những tư tưởng, quan điểm đạo đức chính thống của giai cấp thống trị được truyền bá một
cách nhanh chóng và rộng khắp trên toàn XH, trở thành những chuẩn mực mang tính bắt
buộc chung đối với tất cả mn.
Bằng việc ghi nhận những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức trong PL, PL góp
phần củng cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức XH, hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức,
đảm bảo cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.
PL loại trừ những quan niệm, tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái với ý chí NN, lợi ích của
lực lượng cầm quyền, lợi ích chung của cộng đồng cũng như tiến bộ xã hội (PL nghiêm
cấm việc tuyên truyền những tư tưởng đạo đức đó, cấm những hành vi thể hiện các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức đó; bắt buộc thực hiện những hành vi thể hiện quan niệm đạo
đức mới, tiến bộ; quy định các chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm những quy
định trên)
PL góp phần ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức; ngăn chặn việc hình
thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ XH;

70
góp phần hình thành những quan niệm đạo đức mới; do vậy, PL là công cụ hữu hiện nhất
để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại của đạo đức.
3. Sự tác động của đạo đức đến PL
a. Đạo đức tác động đến sự hình thành PL:
Bất kì hệ thống PL nào cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất
định. Đạo đức là chất liệu góp phần tạo nên các quy định của PL. Những quan điểm,
quan niệm, chuẩn mực đạo đức chính thống đóng vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc
XDPL.
Nhiều quan niệm đạo đức được thể chế hóa trong PL, nhiều quy tắc đạo đức phù hợp
với ý chí của NN được thừa nhận trong PL, góp phần tạo nên PL. NN có thể thừa nhận một
tập quán đạo đức, biến chúng thành tập quán pháp hoặc thừa nhận cách giải quyết một vụ
việc cụ thể dựa trên các quan niệm đạo đức, biến chúng thành tiền lệ pháp. Tuy nhiên,
những quy tắc đạo đức trái với ý chí của NN sẽ trở thành tiền đề để hình thành nên những
quy phạm thay thế chúng nên cũng góp phần làm hình thành nên PL.
b. Đạo đức tác động đến việc thực hiện PL của các chủ thể:
Những quy tắc đạo đức được thừa nhận trong PL và các quy định PL được XD phù hợp
với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức XH thì sẽ phản ánh đươc ý chí, nhu cầu, lợi ích
của các thành viên trong XH, chúng sẽ được mn thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác
hơn vì họ thực hiện bằng lương tâm và niềm tin của họ, nhờ vậy, hiệu quả điều chỉnh của
PL sẽ cao hơn. Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của NN sẽ cản
trở việc thực hiện PL trong thực tế. Đồng thời, những quy định PL trái với đạo đức XH
chắc chắn sẽ rất khó đi vào đs, hiệu quả điều chỉnh XH sẽ ko cao, có khi còn phản tác
dụng.
Ý thức đạo đức của cá nhân giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện PL. Người có
ý thức đạo đức tốt thường là người có thái độ tôn trọng PL, nghiêm chỉnh thực hiện PL.
Trong TH chỉ vô ý dẫn đến vi phạm PL thì họ thường có ý thức ăn năn, hối hận, thành

71
khẩn, sửa chữa. Ngược lại, chủ thể có ý thức đạo đức kém thì thường việc thực hiện PL sẽ
không nghiêm, dẫn tới sự coi thường PL, vi phạm PL vì thế sẽ gia tăng.

35. Vì sao pháp luật không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh quan hệ xã hội?
Trong sự phát triển tự nhiên của đs XH, bên cạnh những mqh cần thiết, có ích cho
XH thì cũng luôn có cả những mqh ko có ích, thậm chí có hại cho trật tự chung. Để duy trì
ổn định, trật tự XH đòi hỏi các MQH trong XH phải được điều chỉnh, nhằm khuyến khích,
tạo điều kiện cho những QHXH có lợi cho đs XH được tồn tại và phát triển. PL kp là công
cụ duy nhất mà là công cụ hữu dụng nhất để điều chỉnh QHXH.
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng
thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo vệ
trật tự XH.
Bản chất của mqh XH là sự tác động qua lại giữa các bên chủ thể tác động lẫn nhau
thông qua hành vi của mình. Trong cuộc sống, mọi người đều không thể tồn tại một cách
biệt lập mà phải tham gia vào các mqh với người khác, tạo nên hệ thống các mối quan hệ
XH vô cùng phức tạp, đan xen chằng chịt với nhau. Khi tham gia vào các mqh XH thì mỗi
hành vi của người này đều có thể ảnh hưởng đến lợi ích của người khác cũng như của cả
cộng đồng.
=> PL không thể điều chỉnh đến từng QHXH trong đời sống nên cần các công cụ điều
chỉnh khác cùng điều chỉnh đảm bảo trật tự XH và cộng đồng.
36. Tại sao cần phải kết hợp giữa pháp luật với các công cụ khác trong điều chỉnh
quan hệ xã hội? (Trả lời như câu 35. Vì pháp luật không phải công cụ toàn năng nên…)

72
37. Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội.
1. Định nghĩa QHXH và điều chỉnh QHXH:
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng
hình thành hoặc thay đổi và phát triển trên những mục đích, định hướng nhất định, nhằm
thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự XH.
VD: muốn thiết lập trật tự an toàn giao thông đường bộ, NN ta phải ban hành Luật giao
thông đường bộ để hướng dẫn cách đi đúng đường hay cách tham gia giao thông đường bộ
cho tất cả mọi người.
2. Mục đích điều chỉnh QHXH:
Mục đích điều chỉnh QHXH là làm cho các QHXH hình thành hoặc thay đổi và phát
triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự
XH. Nói một cách cụ thể, thông qua việc tác động lên các QHXH hay tác động lên hành vi
của các chủ thể tham gia, có thể điều chỉnh được QHXH theo hai hướng:
Đối với các QHXH phù hợp với lợi ích của NN, lợi ích của XH, với tiến trình phát
triển của XH, ví dụ như quan hệ mua bán, gửi giữ, QH bảo hiểm y tế, bảo hiểm XH… thì
có thể khuyến khích các chủ thể tham gia, củng cố, bảo vệ chúng, tạo điều kiện cho chúng
hình thành và phát triển hoặc thúc đẩy sự phát triển của chúng.
Đối với các QHXH không phù hợp với lợi ích của NN, của XH, không phù hợp với
quy luật phát triển của XH, vd: QH cạnh tranh không lành mạnh, trốn thuế,… thì phải hạn
chế, ngăn chặn sự hình thành, phát triển của chúng.
3. Công cụ điều chỉnh QHXH:
Để điều chỉnh QHXH, con người cần đặt ra các quy tắc hành vi hay quy phạm XH để
hướng dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia vào QHXH đó, vì thế, quy phạm XH trở
thành công cụ để điều chỉnh QHXH. Các QHXH rất phong phú, đa dạng và phức tạp, do
vậy, để điều chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ khác nhau, bao
gồm PL, đạo đức, phong tục tập quán… CÁc công cụ đó vừa có sự độc lập, ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau, hợp thành hệ thống công cụ điều chỉnh các mối quan hệ XH.
73
47. Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội bằng pháp luật.
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng
hình thành hoặc thay đổi và phát triển trên những mục đích, định hướng nhất định, nhằm
thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự XH.
Trong điều kiện ngày nay, PL trở thành công cụ hàng đầu, quan trọng và có hiệu quả
nhất, công cụ ko thể thay hế để điều chỉnh các mối quan hệ XH, quản lí XH. “PL nổi lên
như một công cụ thép, có hiệu lực mang tính uy quyền của NN. PL là hạt nhân, giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống các quy tắc XH. PL không đơn thuần là công cụ quản lí NN, nó
còn được xác định là công cụ để mỗi người tự bảo vệ lợi ích của mình; công cụ điều chỉnh
các mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật
tự đời sống chung. Nói cách khác, trong điều kiện ngày nay, PL không còn được quan
niệm là của riêng NN, nó được quan niệm là một loạt quy tắc sinh hoạt công cộng, một
công cụ để điều chỉnh các mqh XH, PL là của chung toàn XH.
Bất kì một thể chế phi quan phương nào cũng không thể hoán đổi vị trí của PL, càng
ko thể thay thế cho PL
=> Nhìn chung trên TG, các NN đều sử dụng PL làm công cụ chủ yếu để quản lí XH.
38. Trình bày khái niệm bản chất pháp luật. Phân tích ý nghĩa của vấn đề bản chất
pháp luật.
38.1. Bản chất PL do cơ sở KTXH và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy
định.
1. Định nghĩa PL: …
2. Phân tích
Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, PL luôn gắn bó chặt chẽ với NN, phản ánh bản
chất của NN, vì vậy, cũng như NN, xét về bản chất, PL là một hiện tượng vừa mang tính
XH, vừa mang tính giai cấp.
a. Tính giai cấp:

74
Tính giai cấp của XH thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
hay lực lượng cầm quyền trong XH, là công cụ điều chỉnh QH giữa các giai ấp, các lực
lượng XH theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng
này. Nói cách khác, nó là ý chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành PL. Bởi vì:
Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố và bảo vệ quyền
thống trị của mình, tìm mọi cách để đạt mục đích đó. Một trong những cách hiệu quả
nhất là biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của NN và từ ý chí của NN sẽ thể hiện
ra thành cách quy định cụ thể của PL tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải
tôn trọng hoặc thực hiện trong toàn XH.
PL điều chỉnh QH giữa các giai cấp, điều chỉnh các QHXH theo chiều hướng mà giai
cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền mong muốn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị
thống trị của lực lượng này.
Biểu hiện của tính giai cấp của PL có sự thay đổi qua các kiểu PL:
PL chủ nô thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính giai cấp của kiểu
Pl này thể hiện khá công khai, rõ rệt.
PL phong kiến thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và tính
giai cấp của kiểu PL này cũng thể hiện công khai, rõ rệt.
PL tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song biểu hiện tính giai
cấp của kiểu PL này có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của XH TBCN. Ở giai
đoạn của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của PL tu sản chưa thể hiện công
khai thì ở giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tính giai cấp của PL tư sản thể hiện công khai và rõ
rệt hơn nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn của CNTB hiện đại, tính giai cấp của
PL tư sản có xu hướng thể hiện mờ nhạt hơn giai đoạn trước.
PL XHCN thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người dân
lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của
đảng này. Tính giai cấp của kiểu PL này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiểu PL vì
giai cấp thống trị trong XH này chiến tuyệt đại đa số dân cư.
75
b. Tính xã hội:
Tính xã hội của PL thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí chung của cả XH, là công
cụ điều chỉnh các QHXH, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự XH, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của XH.
Trong đời sống XH, do sự đòi hỏi của các QH giao tiếp giữa người với người nên đã
hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lí, thể hiện
ý chí chung của cả cộng đồng, được cả cộng đồng chấp nhận và tuần thủ.
PL là phương tiện để giải quyết khía cạnh XH của đời sống như: phòng, chống và
khắc phục hậu quả chiến tranh… Nói cách khác, PL luôn hàm chứa các giá trị XH phổ
biến, thuộc về con người. PL luôn phản ánh điều kiện KT-XH, những quan niệm đạo đức,
truyền thống tốt đẹp… Vì thế , PL có nhiểu quy định thể hiện tính XH của nó.
PL là biểu tượng của công lí, công bằng XH, nó bảo đảm cho các chủ thể ngang
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong mối quan hệ XH nhất định. PL là một trong
những công cụ để bảo vệ những công trình và những giá trị VH, tinh thần chung của XH,
những giá trị đạo đức, truyền thống của 1 số phong tục , tập quán của dân tộc.
Mặc dù, tính XH là thuộc tính chung của tất cả các kiểu PL, song sự thể hiện tính XH
có sự khác nhau giữa các kiểu PL. CÙng với sự phát triển của XH, tính XH của PL ngày
càng trở nên sâu sắc và rộng rãi hơn.
Biểu hiện của tính XH trong NN chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn chế, chủ yếu
thể hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, an toàn XH, bảo vệ các công trình công
cộng…
Biểu hiện tính XH của PL tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các giai đoạn phát triển của
NN tư sản, PL tư sản ra đời thể hiện sự tiến bộ hơn so vs PL phong kiến. Phạm vi điều
chỉnh rộng dần. PL trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lí bình đẳng giữa
các cá nhân trong XH, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
PLXHCN thể hiện tính XH rộng rãu và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu PL trước đó.
PL là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng XH dân chủ,
76
công bằng, văn mình, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con
người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. PL XHCN là PL vì con người, nhằm
phục vụ con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát triển toàn diện.
38.2. Ý nghĩa của việc tìm hiểu bản chất PL:
Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, PL luôn gắn bó chặt chẽ với NN, phản ánh bản
chất của NN, vì vậy cũng như NN, xét về bản chất, PL là một hiện tượng vừa mang tính xã
hội vừa mang tính giai cấp.
Là một phạm trù ý thức XH, PL chịu sự quy định của tồn tại XH, chế độ kinh tế là cơ sở
của PL, nội dung của PL do các quan hệ KT-XH quyết định , khi các quan hệ KT-XH thay
đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của PL. Bên cạnh đó, đường lối chính sách của
lực lượng cầm quyền luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với PL.
PL không chỉ phản ánh các chính sách KT mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản
ánh đối sách giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, bản chất của
PL do cơ sở KTXH và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy định. PL là sự mô
hình hóa những nhu cầu khách quan, phổ biến trong XH.
=> Trong điều kiện phát triển ngày nay, để thúc đẩy phát triển của XH, đòi hỏi PL của mỗi
nước phải có sự phù hợp nhất định dựa vào cơ sở KT và cơ sở XH của mình.

39. Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của pháp luật. Trình bày
ý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở nước
ta hiện nay
39.1. SỰ thống nhất giữa tính XH và tính giai cấp
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Hai thuộc
tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống thì không có
pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp hoặc không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất
tính xã hội. Tuy nhiên ở mức độ nào đó thì hai tính chất này của pháp luật thể hiện rất khác
nhau và thường biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, quan điểm, đường lối
77
chính sách và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, hoặc ở các thời kỳ lịch sử khác
nhau thì mức độ thể hiện cũng khác nhau.
a.Pháp luật chủ nô:
Pháp luật chủ nô ra đời dựa trên cơ sở sản xuất chiếm hữu nô lệ và thể hiện bản chất
giai cấp sâu sắc. Tính xã hội của pháp luật chủ nô chưa được thể hiện nhiều. Pháp luật
chủ nô quy định và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô là công dân có đầy đủ
mọi quyền hành và nô lệ thì không có quyền hạn gì cả kể cả quyền làm một con người.
Pháp luật chủ nô củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ. Quyền
này bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ
một cách tuyệt đối và truyền từ đời nay sang đời khác. Vì thế mà trong giai đoạn này pháp
lu ật mang tính giai cấp sâu sắc, tính xã hội của pháp luật chủ nô chỉ là phương tiện để
duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển vì lợi ích của các lực lượng
khác nhau trong xã hội
b. Pháp luật phong kiến:
Pháp luật phong kiến thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, củng cố địa vị
thống trị của địa chủ phong kiến đối với nông dân. Pháp luật phong kiến củng cố quan hệ
sản xuất phong kiến trên cơ sở chế độ chiếm hữu của địa chủ đối với đất đai, các tư liệu
sản xuất và cả một phần sức lao động của người nông dân. Hình thức bóc lột mà nhà nước
phong kiến đã đặt lên thành pháp luật là nghĩa vụ phải nộp tô thuế của người nông dân.
Pháp luật phong kiến thể hiện tính xã hội khá rõ nét. Biểu hiện của nó là việc pháp luật
được coi là một công cụ để quản lý xã hội.
Các nhà nước phong kiến tùy thuộc điều kiện cụ thể của đất nước mình luôn tiến hành
các hoạt động kinh tế xã hội vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của nhân dân cả nước,
vì sự phồn thịnh của quốc gia. Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến khi mà mọi quyền lực
đều phụ thuộc vào vua chúa hay quan lại thì nền chính trị tốt hay xấu , tính xã hội nhiều
hay ít, lại phụ thuộc vào nhân cách, phẩm hạnh của các vị vua chúa, quan lại.
c. Pháp luật tư sản:
78
Trong pháp luật tư sản có nhiều quy định về quyền tự do, dân chủ…làm nhiều
người lầm tưởng pháp luật tư sản là pháp luật chung của xã hội, không mang tính
giai cấp, do nhân dân xây dựng và vì lợi ích của nhân dân. Nhưng thông qua chế định
quyền sở hữu, chế định về hợp đồng…, tính giai cấp của pháp luật tư sản được thể hiện rõ
nét. Chẳng hạn về chế định quyền sở hữu, pháp luật của các nước tư sản đều ghi nhận
quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, pháp luật tư sản tuyên bố
bảo vệ quyền tư hữu của tất cả mọi người nhưng thực chất pháp luật tư sản chỉ bảo vệ chế
độ tư hữu của giai cấp tư sản, còn bản thân người công nhân không có gì mà tư hữu ngoài s
ức lao động của họ. Nên xét cho cùng quyền tư hữu không tồn tại đối với giai cấp công
nhân mà chỉ phục vụ cho giai cấp tư sản nắm phần lớn tư liệu sản xuất trong xã hội.
Pháp luật tư sản đặc biệt quan tâm bảo vệ quyền sở hữu bởi vì nó liên quan tới các nhà
tư sản chiếm số ít trong xã hội nhưng lại chiếm giữ tỷ lệ lớn của cải trong xã hội. Về tính
xã hội, phạm vi các quan hệ xã hội mà pháp luật tư sản điều chỉnh ngày càng mở rộng đã
tác động hiệu quả đến mọi lĩnh vực của xã hội. Sự ổn định của nhà nước tư sả n hiện đại
phụ thuộc rất nhiều vào chức năng xã hội và hiệu quả tác động của pháp luật vì nhiều biến
động, xung đột xã hội đã được giải quyết ổn thoả dựa trên cơ sở pháp luật. Do đó tính xã
hội của pháp luật tư sản ngày càng được đề cao và phát triển.
Qua phân tích ở trên, pháp luật tư sản bộc lộ rõ bản chất giai cấp tư sản – giai cấp nắm
quyền lực kinh tế và chính trị trong xã hội tư sản. Nhưng mặt khác, pháp luật tư sản có giá
trị xã hội to lớn , đây là bước tiến vượt bậc của văn minh nhân loại theo hướng phát triển
các tư tưởng dân chủ, công bằng, quyền con người và nó thực sự trở thành công cụ hữu
hiệu điều chỉnh mọi quan hệ xã hội . Nhiều chế định luật tiến bộ mà ngày nay chúng ta cần
quan tâm nghiên cứu, chọn lọc để áp dụng.
d. Pháp luật XHCN:
Pháp luật XHCN cũng như các kiểu pháp luật khác đều có tính giai cấp và tính xã hội
nhưng tính giai cấp và tính xã hội của pháp luật XHCN có những nội dung khác với các
kiểu pháp luật của các nhà nước trước đó. Tính giai cấp và tính xã hội trong pháp luật
79
XHCN được nâng lên ở tầm cao hơn đó là tính giai cấp công nhân và tính nhân dân. Tính
giai cấp công nhân của pháp luật XHCN được thể hiện ở chỗ pháp luật không phải là công
cụ phản ánh ý chí của thiểu số giai cấp thống trị bóc lột mà phản ánh ý chí của giai cấp
công nhân, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất XHCN, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH.
39.2.Ý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở
nước ta hiện nay
Ở VN, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước, cả
nước đi lên chủ nghĩa XH. PL XHCN ở VN hiện nay được xây dựng trên cơ sở kinh tế là
các quan hệ sản xuất gắn với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế NN
giữ vai trò chủ đạo; cơ sở XH là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức; cơ sở tư tưởng là CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Cũng như các PL
khác, PL VN hiện nay vừa mang tính XH, vừa mang tính giai cấp.

40. Phân tích tính chủ quan và tính khách quan của pháp luật. Theo anh/chị, làm thế
nào để ngăn ngừa hiện tượng duy ý chí trong xây dựng pháp luật.
40.1. Phân tích tính chủ quan và tính khách quan của PL
Tính chủ quan của PL: PL mang tính chủ quan vì PL phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của nhà làm luật, hay cụ thể là phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị. Sự ra đời của một
hệ thống PL mới trong điều kiện hoàn cảnh XH vận động hay phát triển đều phụ thuộc vào
người làm luật hay ý chí chủ quan của chính nhà nước. Điều này thể hiện rõ qua 3 điểm
sau:
Khâu cuối cùng đưa ra quyết định về sự thay đổi của hệ thống PL là cơ quan lập pháp.
Người làm luật chịu sự tác động của sự vận động XH, có khả năng nhận thức được mức
độ tác động của quá trình vận động để đưa ra quyết định về sự thay đổi hệ thống PL.

80
Cơ quan lập pháp, với tư cách là giai cấp cầm quyền, sẽ xác định lợi ích cũng như các
mối quan hệ XH mới được điều chỉnh có phù hợp với giai cấp thống trị không, sau đó đến
mức độ phù hợp với hoàn cảnh XH hiện tại và tương lai.
Tính khách quan của PL: Sự vận động khách quan của của XH đóng vai trò nền tảng,
ảnh hưởng đến sự thay đổi của hệ thống PL và tác động đến ý chí của nhà làm luật, qua đó
PL thể hiện sự phát triển khách quan của XH.
PL chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển khi XH có giai cấp, từ đó ứng với một hoàn cảnh
XH nhất định sẽ sản sinh ra một hệ thống PL tương ứng. Khi XH có biến động về kinh tế,
văn hóa,.. thì cơ cấu các mối quan hệ XH sẽ biến đổi theo, từ đó tác động đến ND, hình
thức và cơ cấu của hệ thống PL.
40.2. Ngăn ngừa hiện tượng duy ý chí trong XDPL:
Để thực hiện sự nghiệp đổi mới, một nguyên tắc hết sức quan trọng - nguyên tắc
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật và rút ra bài học kinh
nghiệm bổ ích "xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan".
Tại Đại hội VII và trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
CNXH", Đảng ta đã chỉ rõ: "Trong cách mạng XHCN, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong
cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc
xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp…". => Nhận định đó cho thấy chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí là một trong những
yếu tố chủ yếu dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm trong việc hoạch định đường lối,
chính sách, trong hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta suốt một thời gian dài.
Trong quá trình xây dựng một chế độ xã hội mới, việc hoạch định đường lối chiến
lược lâu dài và định ra đường lối sách lược, chính sách cụ thể cho từng giai đoạn là hết
sức quan trọng. Thực tiễn cũng đã chỉ ra rằng sự can thiệp một cách duy ý chí vào các qúa
81
trình kinh tế, văn hoá và khoa học – kỹ thuật, việc áp đặt ý muốn chủ quan vào việc hoạch
định đường lối, chính sách vào hoạt động thực tiễn đã dẫn đến những biến dạng, "tha hóa"
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
kéo dài. Bởi vậy, việc khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong việc hoạch định
đường lối, chính sách và trong hoạt động thực tiễn luôn là một vấn đề mang tính thời sự
cấp bách.
Vấn đề quan trọng ở đây là:
Thứ nhất, lợi ích của giai cấp thống trị có phù hợp với quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội không?
Thứ hai đường lối, chính sách có phản ánh một cách đúng đắn và kịp thời quy luật
khách quan và lợi ích của đông đảo quản chúng lao động không?
Thứ ba, các biện pháp và phương tiện thực hiện đường lối, chính sách đó trong thực tiễn
có đem lại hiệu quả không?
Rõ ràng là, trong bất cứ đường lối, chính sách nào ngoài cơ sở khách quan còn có mặt
chủ quan. Mặt khách quan của đường lối, chính sách là hoàn cảnh kinh tế, chính trị -
xã hội, mối quan hệ giữa các giai cấp và lợi ích của chủ thể đường lối, chính sách. Mặt
chủ quan của đường lối, chính sách thể hiện trong ý chí, nguyện vọng của chủ thể,
trong việc lựa chọn các biện pháp, phương tiện thực hiện nó trong thực tiễn.
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phạm phải sai lầm giáo điều, cứng nhắc và
chủ quan duy ý chí khi áp đặt một mô hình CNXH được thiết kế không xuất phát từ thực
tiễn nước ta. Đó là mô hình CNXH thuần khiết với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ
hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể được phép tồn tại với sự thống nhất tuyệt đối về
chính trị và tinh thần. Biểu hiện rõ nét nhất của sai lầm đó là đường lối xây dựng
CNXH với bốn mục tiêu chủ yếu mà Đại hội IV đã đề ra, là kế hoạch hoàn thành thời
kỳ quá độ trong vòng 20 năm, là mong muốn giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội cả
bề rộng lẫn chiều sâu trong một khoảng thời gian ngắn, là sự phủ nhận nền sản xuất

82
hàng hóa và thành kiến với quy luật giá trị, với mối quan hệ hàng - tiền, với cạnh
tranh…
* BIỆN PHÁP:
Một là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và
thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực
cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh quốc
gia; Hai là, hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, có chính sách
đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở
đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp
Ba là, hoàn thiện thể chế về phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục -
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để tranh thủ những
thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Bốn là, đổi mới vai trò, chức năng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và
năng lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền
lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
41. Trình bày những hiểu biết của anh/chị về pháp luật dân chủ. Theo anh/chị, làm
thế nào để pháp luật thực sự dân chủ.
41.1. PL dân chủ
Chế độ chính trị dân chủ là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong đó bảo
đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hay là chủ quyền nhân dân)
cũng như bảo đảm các quyền tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con người (hay
còn gọi là quyền còn người). Có hai hình thức thực hiện chế độ chính trị dân chủ là: Trực
tiếp (thông qua bầu cử, trưng cầu ý dân), cử đại diện.
83
Pháp luật là yếu tố cốt tử, yếu tố không thể thiếu song hành với NN pháp quyền, nhưng
không phải hệ thống PL nào cũng đủ điều kiện là PL của NN pháp quyền. tâm lí dân tộc,
phù hợp với tiến trình phát triển văn minh nhân loại. PL dân chủ là PL tiến bộ, minh
bạch, phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như trình độ phát triển của
KTXH, đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, văn hóa, đặc điểm
PL dân chủ phải thể hiện được ý chí của ND, thừa nhận rộng rãi các quyền cơ bản của
con người, quyền dân chủ của CD, đồng thời thể hiện sự tác động qua lại, trách nhiệm
tương hỗ giữa NN với các cá nhân, tổ chức trong XH cũng như giữa các cá nhân, tổ chức
trong XH đối với nhau.
PL phải có hiệu lực phổ biến đối với mọi người, phải có tính ổn định để giúp các chủ
thể có thể dự đoán được trước kết quả hành vi của mình cũng như lường trước được phản
ứng của NN hoặc các chủ thể khác đối với hành vi đó.
=> Không chỉ CD có trách nhiệm với NN mà NN phải có trách nhiệm với CD.
Tính dân chủ của HTPL không chỉ thể hiện trong nội dung các quy định của PL mà cả
trong quá trình xây dựng PL để PL thực sự thể hiện ý chí của ND. Các quy định của PL
phải rõ ràng, cụ thể, được công bố công khai và rộng rãi để bất kì ai khi cần bảo vệ các
quyền, lợi ích của mình đều có thể dễ dàng tìm được. PL dân chủ phải có tính khả thi và
chủ yếu được thể hiện trong các đạo luật được xây dựng với kĩ thuật lập pháp cao, trong đó
Hiến pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất.
PL không còn là công cụ riêng của NN, điều chỉnh các QHXH theo ý chí chủ quan của
NN mà là sự kết tinh những giá trị VHXH cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho ND
Quá trình XDPL phải có sự tham gia rộng rãi của toàn thể ND để đảm bảo PL thể hiện
được ý chí chung của ND. PL thừa nhận và hướng tới việc bảo đảm, bảo vệ tốt nhất
quyền con người, quyền CD, hướng tới bảo vệ công bằng XH, vì vậy, nó thực sự trở thành
chuẩn mực chung được mn thừa nhận. Các quy định trong HTPL dân chủ được xây dựng
trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân, nhóm XH và lợi ích chung của toàn

84
XH. Hoạt động áp dụng PL được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ công lí,
bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, tự do cá nhân, công bằng XH.
41.2. Giải pháp để có PL thật dân chủ:
- Đảm bảo tính giai cấp và tính XH của PL.

- Giảm tính duy ý chí trong hoạt động xây dựng PL ( câu trên)

- Nhân dân phải được tham gia xây dựng PL:

+ Gián tiếp: thông qua đại biểu Quốc hội, các cá nhân trong Nhà nước để đưa tiếng nói,
ý chí của dân vào PL. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với các đại biều: phải gần dân để có cơ hội
chia sẻ, thân dân để dân tin tưởng và chia sẻ mong muốn của mình, lắng nghe dân để thực
sự nghe đúng tiếng nói của dân và tạo điều kiện cho họ nói, thấu hiểu dân để đặt mình vào
cương vị của họ, và trung thành với dân để đưa ý chí, tiếng nói của dân một cách chính
xác, trung thực.

+ Trực tiếp: người dân tham gia trực tiếp dưới hình thức trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, chỉ
nên để nhân dân quyết định về Hiến pháp và một số đạo luật lớn, để dân đóng góp ý kiến
vào việc xây dựng dự thảo văn bản. Cần có cơ chế chịu trách nhiệm, cơ chế để nhân dân
yêu cầu hủy bỏ những điều luật không hợp lý…

42. Phân tích các yếu tố quy định bản chất, nội dung của pháp luật.
Các yếu tố quy định bản chất, nội dung của PL là cơ sở KT và cơ sở XH.
Tính giai cấp của XH thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
hay lực lượng cầm quyền trong XH, là công cụ điều chỉnh QH giữa các giai ấp, các lực
lượng XH theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng
này. Nói cách khác, nó là ý chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành PL.
- Biểu hiện của tính giai cấp của PL có sự thay đổi qua các kiểu PL:
+ PL chủ nô thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính giai cấp của
kiểu Pl này thể hiện khá công khai, rõ rệt.
+ PL phong kiến thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và tính
giai cấp của kiểu PL này cũng thể hiện công khai, rõ rệt.
85
+ PL tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song biểu hiện tính giai
cấp của kiểu PL này có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của XH TBCN. Ở giai
đoạn của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của PL tu sản chưa thể hiện công
khai thì ở giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tính giai cấp của PL tư sản thể hiện công khai và rõ
rệt hơn nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn của CNTB hiện đại, tính giai cấp của
PL tư sản có xu hướng thể hiện mờ nhạt hơn giai đoạn trước.
+ PL XHCN thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người dân
lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của
đảng này. Tính giai cấp của kiểu PL này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiểu PL vì
giai cấp thống trị trong XH này chiến tuyệt đại đa số dân cư.
b. Tính xã hội:
Tính xã hội của PL thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí chung của cả XH, là công
cụ điều chỉnh các QHXH, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự XH, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của XH.
+ Biểu hiện của tính XH trong NN chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn chế, chủ yếu
thể hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, an toàn XH, bảo vệ các công trình công
cộng…
+ Biểu hiện tính XH của PL tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các giai đoạn phát triển
của NN tư sản, PL tư sản ra đời thể hiện sự tiến bộ hơn so vs PL phong kiến. Phạm vi điều
chỉnh rộng dần. PL trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lí bình đẳng giữa
các cá nhân trong XH, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
+ PLXHCN thể hiện tính XH rộng rãu và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu PL trước
đó. PL là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng XH dân chủ,
công bằng, văn mình, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con
người được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. PL XHCN là PL vì con người, nhằm
phục vụ con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát triển toàn diện.

86
43. Phân tích luận điểm: “Xã hội không thể một ngày thiếu pháp luật”.
1. Định nghĩa PL
PL là hệ thống các quy tắc xử sự chung được NN đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các QHXH theo mục đích, định hướng của NN.
2. Vai trò của PL đối với XH:
a. PL điều tiết và định hướng sự phát triển của các QHXH:
PL không sinh ra các QHXH nhưng là phương tiện không thể thiếu và hiện nay là
công cụ có hiệu quả nhất để điều tiết và định hướng cho sự phát triển của các QHXH,
thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lí cho chủ thể tham gia QHXH, các biện
pháp đảm bảo thực hiện các quyền đó. PL tạo ra hành lang pháp lí, khuôn khổ cho các
QHXH vận hành. Nhờ có PL, các thành viên trong XH nắm bắt được nhưng hành vi nào là
hợp pháp, được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó
có cách ứng xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể.
PL củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các QHXH, ngăn
ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của XH phù hợp
với quy luật khách quan (VD: QH sở hữu, sự tích tụ, tập trung ruộng đất)
Vai trò của PL càng được thể hiện rõ khi có sự thay đổi lớn trong đời sống XH. Sau mỗi
cuộc cách mạng, cải cách XH, những yếu tố mới được xác lập thường gặp phải sự chống
đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, ko còn phù
hợp nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn. Bằng PL, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được
khẳng định, nhờ đó sự tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chăn, không thể đảo
ngược.
b. PL là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH.
Trật tự an toàn XH là trạng thái của đs XH, trong đó tình hình chính trị ổn định, an ninh
QG được giữ vững và con người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động,
học tập, nghỉ ngơi… không bị xâm hại. An ninh chủ yếu được thể hiện trong lĩnh vực

87
chính trị, an toàn XH được thể hiện trên nhiều mặt, an toàn trong sản xuất, trong giao
thông, sinh hoạt hàng ngày…
PL hướng dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia các QHXH theo chiều hướng
nhằm thiết lập an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH, theo quy định những tiêu chuẩn an
toàn lỹ thuật để bảo đảm sự an toàn cho mn trong các lĩnh vực lao động, sản xuất, tiêu
dùng…
PL cấm những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH và quy định các
biện pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi đó, qua đó mà đảm bảo được trật tự,
an ninh, an toàn XH.
c. PL là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong XH.
Trong XH, tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi: tranh
chấp giữa các doanh nghiệp, giữa người mua và người bán…Quy định của PL về quyền và
nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể tham gia QHXH chính là các chuẩn mực, cơ sở để giải
quyết tranh chấp đó.
PL quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp đó nhằm bảo
đảm cho tranh chấp được giải quyết một cách công bằng, vừa thấu tình, vừa đạt lí, bảo đảm
công minh của PL.
d. PL là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người:
Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành động, tự do lựa
chọn cách thức và mức độ thể hiện tháo độ cũng như hành động theo ý mình, không bị hạn
chếm ràng buộc, cấm đoán một cách vô lý.
PL của các NN hiện đại có vai trò to lớn trong việc đảm bảo dân chủ, bình đẳng, công
bằng, tiến bộ XH:
+ PL quy định quyền lực NN thuộc về ND, đảm bảo cho ND tham gia quản lí NN và
XH, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của NN, quy định trách nhiệm của NN
trước ND…

88
+ PL chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên khác biệt về mặt nguồn gốc, xuất thân,
chủng tộc, màu da, giới tính,,,
+ PL thừa nhận quyền bình đẳng trước PL của tất cả mọi người.
+ PL bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai tầng, nhất là
những người ở vị trí XH yếu hơn.
+ Thông qua PL, người có công thì được hướng, kẻ có tội thù bị trừng phạt
+ PL là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến bộ, thúc đẩy
XH phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người.
e. PL đảm bảo sự phát triển bền vững của XH.
PL điều chỉnh các QHXH theo chiều hướng vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế, vừa bảo
đảm phát triển XH, vừa bảo vệ môi trường.
f. PL có vai trò giáo dục vô cùng lớn.
Để điều chỉnh hành vi của con người, PL phải tác động lên ý thức của họ
PL vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của nhận thức PL. Với tính chất công
khai của mình, một khi PL được công bố, bắt buộc các thành viên trong XH phải nắm bắt
được chúng.
PL giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các thành viên trong XH. PL là cơ sở hình
thành ý thức tuân thủ PL, thái độ tôn trọng PL, sống và làm việc theo PL, PL thúc đẩy hình
thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp.
PL giáo dục ý thức CD, làm hình thành ở mỗi người ý thức trách nhiệm, bổn phận của
cá nhân.
- PL định hướng hành vi con người.

44. Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?
Xã hội không thể một ngày thiếu PL bởi PL vô cùng cần thiết, có vai trò QUAN
TRỌNG, không thể thay thế. (Trả lời tiếp như câu 43)

89
45. Phân tích khái niệm nguồn của pháp luật. Cho biết các phương thức tạo nguồn
của pháp luật Việt Nam hiện nay.
* Lịch sử vs nhiều quan điểm:
Trong khoa học pháp lí ở Việt Nam hiện nay, tồn tại một số quan niệm khác nhau về
nguồn của pháp luật. Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng , nguồn của pháp luật là tất cả
những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, thực hiện
pháp luật, cũng như áp dụng để giải quyết những vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tiễn.
Theo quan điểm này, nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức:
+ Phương diện nội dung: Là xuất xứ và là căn nguyên của pháp luật. Vì nó được các
chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật.
+ Phương diện hình thức: Là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong
thực tế, hay là nơi chứa đựng, là nơi có thể cung cấp các QPPL, tức là những căn cứ mà
các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực
tế.
 Hình thức bên ngoài của pháp luật thường được xem xét dưới dạng nguồn
hình thức
* Định nghĩa :
Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí để
các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói cách khác, nguồn của pháp luật là tất cả các yếu
tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức
trách có thẩm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
Có 3 loại nguồn của PL: Tập quán pháp, Tiền lệ pháp và Văn bản QPPL

Tiêu Tập quán pháp Tiền lệ pháp Văn bản QPPL


chí
KN Tập quán: Là những thói Tiền lệ: Là cách thức giải QPPL: là quy
quen trong ứng xử của quyết các vụ việc đã xảy tắc xử sự chung
cộng đồng hay những ra trước. Những cách do Nhà nước
quy tắc xử sự chung được thức, phán quyết để giải ban hành hoặc
hình thành một cách tự quyết các vụ việc xảy ra thừa nhận và
phát trong một cộng đồng trước mang tính gương đảm bảo thực
dân cư, được lưu truyền mẫu được nhà nước đưa hiện để điều
chủ yếu theo phương làm khuôn mẫu để giải chỉnh các quan

90
thức truyền miệng, được quyết các vụ việc tương hệ xã hội và
đảm bảo thực hiện bằng tự về sau bảo vệ lợi ích
thói quen, bằng sức Tiền lệ pháp: là hình thức cho giai cấp
thuyết phục của chúng, pháp luật tồn tại dưới thống trị
bằng dư luận xã hội và dạng các phán quyết của VBQPPL là văn
bằng cả các biện pháp các chủ thể có thẩm bản chứa đựng
cưỡng chế phi nhà quyền khi giải quyết các các quy tắc xử
nước. vụ việc cụ thể được nhà sự chung, do
Tập quán pháp: là hình nước thừa nhận và làm các chủ thể có
thức của pháp luật tồn tại khuôn mẫu cho việc giải thẩm quyền ban
dưới dạng những phong quyết các vụ việc tương hành theo trình
tục, tập quán đã được lưu tự về sau. tự thủ tục và
truyền trong đời sống xã Án lệ là một hình thức hình thức luật
hội, được nhà nước thừa của PL , theo đó Nhà định, được nhà
nhận và nâng lên thành nước thừa nhận những nước bảo đảm
những quy tắc xử sự bản án, quyết định giải thực hiện và
mang tính bắt buộc đối quyết vụ việc của tòa được sử dụng
vỡi xã hội án (trong các tập san án nhiều lần trong
lệ) làm khuôn mẫu và cơ cuộc sống.
sở để đưa ra phán quyết
cho những vụ việc hoặc
trường hợp có tình tiết
hay vấn đề tương tự sau
đó.

Đặc Là hình thức pháp luật Được sử dụng chủ yếu +Là văn bản
điêm xuất hiện sớm nhất và trong cá nhà nước chủ nô, chứa đựng các
được sử dụng khá phổ sử dụng rộng rãi trong quy tắc xử sự
biến trong nhà nước chủ các nước phong kiến và chung
nô và phong kiến, trong hiện nay chiếm một vi trí +Do các chủ
nhà nước tư sản hình thức quan trọng trong các nhà thể có thẩm
này vẫn được sử dụng nước tư sản, nhất là ở quyền ban hành
nhất là những nước có Anh, Mĩ.Tiền lệ pháp theo trình tự
chế độ quân chủ, nhưng được sử dụng phổ biến thủ tục được

91
phạm vi hẹp hơn so với hơn trong các quan hệ pháp luât quy
các nhà nước trước. dân sự, đặt biệt là trong định.
các qua hệ thương mại do +Có tên gọi cụ
xu thế hội nhập của nền thể theo quy
kinh tế quốc tế. định của pháp
luật
Được nhà nước
đảm bảo thực
hiện bằng nhiều
biện pháp
+Được áp dụng
nhiều lần trong
cuộc sống cho
nhiều vụ việc
hay những đối
tượng khác
nhau trong thời
gian văn bản có
hiêu lực

* Phương thức tạo nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ quan niệm về nguồn của PL và giá trị của từng loại nguồn PL mà mỗi
nước có thể có các loại nguồn PL khác nhau. Ngay trong một nước, trong các điều kiện
hoàn cảnh kinh tế XH khác nhau cũng có thể có các loại nguồn PL khác nhau. Nguồn của
PL khá phong phú, bao gồm nhiều loại như văn bản quy phạm PL; tập quán pháp; tiền lệ
pháp; đường lối; chính sách của lực lượng cầm quyền… Trong đó, VBQPPL; tập quán
pháp; tiền lệ pháp là những loại nguồn cơ bản, các loại nguồn khác được coi là những
nguồn không cơ bản, nó có giá trị bổ sung, thay thế khi các loại nguồn cơ bản ko quy định
hoặc có những hạn chế, khiến khuyết.
Có hai phương thức chủ yếu là NN thừa nhận hoặc đặt ra.

92
VD:
- Tập quán pháp là những tập quán của cộng đồng được NN thừa nhận, nâng lên thành
PL.
- Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ
việc cụ thể, được NN thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc
khác tương tự
- VBQPPL là VB do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình
thức do PL quy định, trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các MQH
XH.
46. Phân tích khái niệm văn bản qui phạm pháp luật, cho ví dụ. Trình bày ưu thế của
văn bản quy phạm pháp luật so với các loại nguồn khác của pháp luật.
1. Nêu định nghĩa VBQPPL
ĐN: Văn bản QPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có
thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức luật định, được nhà nước bảo đảm
thực hiện và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống.

2. Văn bản QPPL có các đặc điểm sau:


Là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung.
Do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục được pháp luật quy định.
(VD: Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng,….) =>mang tính pháp lý cao
Có tên gọi cụ thể theo quy định của pháp luật như Hiến pháp, luật, nghị định,..
Được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp như tuyên truyền, tổ chức
thực hiện,..và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế.
Được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho nhiều vụ việc hay những đối tượng khác
nhau trong thời gian văn bản có hiệu lực.
Dễ phổ biến, dễ kiểm soát, đơn giản khi ban hành hoặc sửa đổi, có tính khái quát cao.

93
=> Văn bản qui phạm pháp luật vừa là nguồn , vừa là hình thức pháp luật quan trọng
bậc nhất . Đây là hình thức pháp luật thành văn, thể hiện rõ nét nhất tính xác định về
hình thức của pháp luật.
* Một số văn bản luật như: Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật hình
sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật giao thông đường bộ 2008,..vv…
* Ví dụ về văn bản dưới luật
▪ Pháp lệnh số 10/2014/UBTVQH13 (PHÁP LỆNH Cảnh sát môi trường)
▪ Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt
3. Ưu thế của văn bản quy phạm pháp luật so với các loại nguồn khác của pháp luật.
* KQ về các loại nguồn khác:
- KN Tập quán pháp: là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục,
tập quán đã được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận thành những
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với xã hội.
-KN Tiền lệ pháp: là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng các phán quyết của các chủ
thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận và làm khuôn
mẫu cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau.
* Ưu thế:
VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động XDPL, thường thể hiện trí tuệ của
một tập thể và tính khoa học tương đối cao. Trong khi tập quán pháp thường hình thành
một cách tự pháp, còn án lệ thì hình thành do kết quả của hoạt động ADPL, do vậy, tính
khoa học thường thấp hơn VBQPPL.
Các quy định trong VBQPPL được thể hiện thành văn nên rõ ràng, cụ thể, dễ bảo đảm
sự thống nhất, đồng bộ của HTPL, dễ phổ biến, dễ áp dụng, có thể được hiểu và thực hiện
thống nhất trên phạm vi rộng. Trong khi đó, tập quán pháp tồn tại dưới dạng bất thành văn
nên thường chỉ được hiểu một cách ước lệ, nó lại có tính tản man, địa phương nên khó bảo
đảm có thể hiểu và áp dụng một cách thống nhất trên phạm vi cả nước.
94
VBQPPL có thể đáp ứng được kịp thời những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống vì dễ sửa
đổi, bổ sung… trong đó tập quán pháp thường có tính bảo thủ, chậm thay đổi.

47. Phân tích khái niệm tập quán pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của tập
quán pháp. Cho ví dụ minh hoạ.
1. Nêu định nghĩa và VD về tập quán pháp:
KN : Tập quán: Là những thói quen trong ứng xử của cộng đồng hay những quy tắc xử sự
chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư, được lưu truyền chủ
yếu theo phương thức truyền miệng, được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng sức
thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả các biện pháp cưỡng chế phi nhà
nước.
Tập quán pháp: là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục, tập quán đã
được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và nâng lên thành những
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối vỡi xã hội

Là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng khá phổ biến trong nhà
nước chủ nô và phong kiến, trong nhà nước tư sản hình thức này vẫn được sử dụng nhất là
những nước có chế độ quân chủ, nhưng phạm vi hẹp hơn so với các nhà nước trước.

Nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp không chỉ đơn giản là sự chấp
nhận của nhà nước đối với tập quán , khuyến khích xử sự theo tập quán đó mà quan trọng
là đưa quyền lực nhà nước vào trong tập quán đó. Chính vì vậy, khi một tập quán được
thừa nhận thành tập quán pháp nó sẽ trở lên có ý nghĩa bắt buộc và mang tính cưỡng chế.
* Ý nghĩa và cách thừa nhận :
Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau, có
thể liệt kê danh mục các tập quán được nhà nước thừa nhận .
+ Với nhà nước : Tập quán đóng vai trò quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một
quốc gia
+ Với xã hội : tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen
ứng xử của cộng đồng , đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với ý chí cộng đồng
*Cách nhà nước thừa nhận tập quán pháp :

95
- Nhà nước thừa nhận tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau , có thể liệt kê danh
mục các tập quán được nhà nước thừa nhận, viện dẫn các tập quan trong pháp luật thành
văn , áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc phát sinh trong thực tiến.
Đặc điểm
Ưu điểm:
- Dễ áp dụng vì đó là những thứ rất gần gũi với cuộc sống (VD: Người Anh có thói quen đi
bên trái )
- Khắc phục được những lỗ hổng của pháp luật. Khi mà pháp luật chưa có những quy định để
giải quyết 1 vấn đề nào đó thì sẽ áp dụng tập quán pháp.
VD: Tại 1 số vùng trên đất nước ta. Nếu cuộc hôn nhân của 1 cặp vợ chồng mà có xích mích
nặng đến mức phải ra tòa thì theo tập quán người trong 2 họ sẽ đến để hòa giải
+ Theo điều 3 – Bộ luật dân sự: Khi các chủ thể không thể giải quyết được mâu thuẫn mà
không có điều luật nào giải quyết thì áp dụng tập quán pháp
Nhược điểm :
- Thiếu khoa học do được hình thành một cách tự phát.
-Mang tính cục bộ địa phương nên tính quy phạm phổ biến sẽ bị hạn chế
- Hình thức này chủ yếu tồn tại bằng truyền miệng nên việc áp dụng tập quán có thể không
thống nhất do xuất hiện nhiều dị bản dẫn đến cách hiểu bị sai lệch
-Hình thành chậm, có tính bảo thủ nên ko đáp ứng được yêu cầu linh hoạt của cuộc sống

Ví dụ về tập quán pháp ở VN hiện nay :


Ví dụ về tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp ở hai địa phương khác
nhau ở hai địa phương đều có tập quán để áp dụng như trường hợp trâu bò thả rông thuộc
sở hữu của ai?
Ở khu vực miền núi phía bắc Tây Nguyên đối với trâu bò thả rông. Người được trâu bò
thả rông sau một thời gian không phải là người được xác lập quyền sở hữu đối với trâu bò
này mà người sở hữu thực sự của nó là người đã thả rông nó vì tập quán những nơi này là
thả rông trâu bò, việc áp dụng tập quán này hoàn toàn phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng,
khí hậu của vùng núi mùa khô lạnh, trâu bò không có thức ăn thì thả rông cho trâu bò tự
tìm thức ăn, đến mùa ấm áp có thức ăn thì trâu bò về lại chuồng trại ban đầu của nó. Ở địa
phương khác, việc xác định chủ sở hữu đối với trâu bò được xác định sở hữu cho người bắt

96
được trâu bò trong một thời hạn nhất định. Như vậy, ở hai địa phương khác nhau, việc xác
định chủ sở hữu đối với trâu, bò thả rông bị lạc áp dụng tập quán khác nhau. Do đó, khi
phát sinh tranh chấp việc lựa chọn tập quán ở địa phương nào áp dụng để giải quyết tranh
chấp còn nhiều vướng mắc.
=> Điều 242 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với
gia súc bị thất lạc:
Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo cho ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận
lại. Chủ sở hữu nhận lại gia súc bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi
phí khác cho người bắt được.Sau sáu tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có
người đến nhận thì gia súc đó thuộc sở hữu của người bắt được; nếu gia súc bắt được là
gia súc thả rông theo tập quán thì thời hạn này là một năm.Trong thời gian nuôi giữ gia
súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số
gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.
48. Phân tích khái niệm tiền lệ pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của tiền lệ
pháp. Cho ví dụ minh hoạ.
KN : Là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng những phán quyết của các chủ thể có
thẩm quyền khi
giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận làm khuôn mẫu để giải quyết
các vụ việc có tính chất tương tự về sau.
Được sử dụng chủ yếu trong cá nhà nước chủ nô, sử dụng rộng rãi trong các nước
phong kiến và hiện nay chiếm một vi trí quan trọng trong các nhà nước tư sản, nhất là
ở Anh, Mĩ.Tiền lệ pháp được sử dụng phổ biến hơn trong các quan hệ dân sự, đặt biệt là
trong các qua hệ thương mại do xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế.

97
Ưuđiểm
Tiền lệ pháp giúp cho hệ thống pháp luật của các quốc gia mang đậm hơi thở của cuộc
sống vì nó được rút ra từ cuộc sống
Là pháp luật của thực tế nên nó sẽ điều chỉnh được những vấn đề mang tính khái quát
qua đó khắc phục được các lỗ hổng pháp lý của hệ thống pháp luật
Vì được hình thành từ thực tiễn nên tiền lệ pháp có thể thay đổi theo thời gian. Điều đó
thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo của tiền lệ pháp phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của
xã hội nhất là về lĩnh vực: Hợp đồng, Giao dịch thương mại, dân sự
Đối với việc xét xử tòa án tiền lệ pháp có tác dụng thúc đẩy sự công bằng của thẩm
phán trong quá trình xét xử (Vì các đối tượng liên quan trong vụ án có thể biết trước được
hậu quả pháp lý của vụ việc, họ biết các quyết định này không phải là quyết định tùy tiện
của các thẩm phán, mà thẩm pháp đã quyết định dựa vào các bản án trước đó. Thứ 2 Tránh
việc được việc xét xử theo cảm tính của thẩm phán, các đương sự khi nhận được bản án
cũng không được tùy tiện kháng cáo bừa bãi)
Tiền lệ pháp tạo điều kiện cho thẩm phán có thể đưa ra những quan điểm, tư tưởng và
đường lối mới trong việc áp dụng pháp luật để phù hợp với thực tiễn
Nhược điểm :
Tiền lệ pháp do được hình thành không phải từ hoạt động của cơ quan lập pháp mà từ
cơ quan tư pháp với hành pháp nên tính chất pháp lí của nó ko cao.
Tiền lệ pháp là 1 hình thức làm luật mà xuất pháp từ hoạt động tòa án. Quyết định theo
bản án của tòa án rất nhiều, tăng liên tục theo thời gian nên gây nhiều khó khăn trong việc
chọn lựa các án lệ phù hợp bởi vì mỗi vụ việc tuy có thể có những điều kiện và hoàn cảnh
như nhau nhưng tính chất vụ việc lại hoàn toàn khác nhau. THẨM PHÁN buộc phải so
sánh và hình thành 1 tiền lệ mới dẫn đến phức tạp khi áp dụng pháp luật.
Mặc dù có tính mềm dẻo nhưng vẫn có tính cứng nhắc. Vì trong quá trình xét xử thẩm
phán sẽ phải tuân thủ những tiền lệ trước đó. Ngoài ra tiền lệ pháp được hình thành từ
những bản án riêng lẻ vì thế ko mang tính khái quát nên rất khó để hệ thống.
Án lệ giải thích :
Án lệ số 01 :
Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là
chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính
mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà
không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết

98
người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn
nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương
tích dẫn đến chết người”.
49. Phân tích khái niệm qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu qui
phạm pháp luật.
ĐN: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích mong
muốn
Đặc điểm:
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự: Với tư cách là quy tắc xử sự, QPPL luôn là khuôn
mẫu cho hành vi của con người, nó chỉ dẫn cho cho mọi người cách xử sự trong những tình
huống nhất định, xác định phạm vi xử sự của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện
nhất định, cũng như kết quả hay hậu quả bất lợi gì mà họ phải chịu.
- QPPL là chuẩn mực để giới hạn và đánh giá hành vi con người: Không chỉ là khuôn
mẫu cho việc đánh giá hành vi,QPPL còn là chuẩn mực để xác định giới hạn và đánh giá
hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước và từ phía các
chủ thể khác về tính hợp pháp hay ko hợp pháp trong xử sự các bên. Nghĩa là thông qua
QPPL mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có hoặc ko có ý nghĩa pháp lý, hoạt
động nào hợp pháp hoặc trái pháp luật…

- QPPL do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện: QPPL là do các cơ
quan có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với
bản chất của pháp luật. QPPL thể hiện ý chí của nhà nước, chúng chứa đựng những tư
tưởng những quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình vào các quy phạm
pháp luật bằng cách xác định những tổ chức cá nhân nào, trong những hoàn cảnh điều kiện

99
nào phải chịu sự tác động của QPPL, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả
những biện pháp mà nhà nước sẽ đảm bảo cho chúng được thực hiện.

- QPPL là quy tắc xử sự chung: QPPL được ban hành ko phải cho 1 tổ chức hay 1 cá
nhân cụ thể nào mà cho các tổ chức các cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Quy tắc xử sự chung là sự khái quát từ các quy tắc xử sự cụ thể nên nó sẽ phù hợp hầu hết
các trường hợp cụ thể. Mọi tổ chức cá nhân ở vào tình huống mà QPPL đã dự liệu thì đều
xử sự như nhau.

- QPPL là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội mà nội dung của nó thường thể hiện ở 2
mặt là cho phép và bắt buộc: Nghĩa là QPPL là quy tắc xử sự mà trong đó chỉ ra các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Là công
cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, QPPL thường chứa đựng các chỉ dẫn về khả năng và
các phạm vi các bên có thể xử sự cũng như những nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ
xã hội mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được QPPL dự liệu cho các chủ thể tham
gia quan hệ mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết. Hình thức tính chất của sự liên
hệ đó do nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ xã hội đó. Vì vậy
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, QPPL có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà
nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước
để họ biết được cái gì có thể làm, cái gì ko được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh ko
được làm trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó
- QPPL có tính hệ thống: Mỗi QPPL ko tồn tại và tác động một cách biệt lập riêng rẽ mà
giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những hệ thống lớn
nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội
50. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của từng bộ phận trong qui
phạm pháp luật.
1. Nêu định nghĩa QPPL:
2. Phân tích cơ cấu của QPPL:

100
a. Giả định :
- Là bộ phận của QPPL nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc
sống mà khi gặp thì mn cần phải xử sự theo quy định của PL và chỉ rõ chủ thể nào cần phải
xử sự trong điều kiện, hoàn cảnh đó. Phần này còn nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh
để áp dụng các biện pháp tác động của NN và chỉ rõ chủ thể nào sẽ là đối tượng để áp dụng
chế tài hoặc các biện pháp tác động khác của NN.
- Vì vậy, bộ phận giả định của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: Ai? Khi nào? Trong
điều kiện, hoàn cảnh đó?
- Giả định của quy phạm pháp luật có thể là giả định đơn giản => tức là chỉ nêu lên 1
điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế
VD1: Khoản 1 điều 87 Luật giáo dục năm 2005 quy định: “Người được học các
chương trình giáo dục đại học nếu được thưởng học bổng, chi phí đào tạo do nhà nước
cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định kí kết với nhà nước thì sau khi tốt nghiệp
phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của nhà nước; truờng hợp không chấp
hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo
- Giả định của quy phạm pháp luật có thể là giả định phức tạp tức là nêu lên nhiều
điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống và chỉ khi xảy ra tất cả các điều
kiện hoàn cảnh đó thì cơ quan, tổ chức cá nhân được đề cập đến mới chịu sự tác động
của quy phạm

VD2: Điều 19 nghị định số 70/2001/NDDCP ngày 3/10/2001 của chính phủ quy định chi
tiết thi hành luật hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp người được cấp dưỡng
1 lần lâm vào tình trạng khó khắn trần trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, mà
người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn
thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người cấp dưỡng

 Giả định trên nêu lên 2 hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống. Một là
người được cấp dưỡng 1 lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng yêu cầu cấp

101
dưỡng bổ sung và 2 là người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để
cấp dưỡng cao hơn.
Ý nghĩa:
+ Làm cho mn biết quy phạm đó điều chỉnh QHXH nào, ai và khi nào, trong điều kiện và
hoàn cảnh nào thì cần phải xử sự theo quy phạm đó.
+ Bộ phận này cũng cho các CQNN có thẩm quyền biết là khi nào thì họ cần phải áp dụng
các biện pháp tác động của NN được quy định trong quy phạm, áp dụng đối với ai, đối
tượng nào và điều kiện để áp dụng các biện pháp đó là gì.
b. Quy định :
- Là bộ phận của QPPL nêu lên cách xử sự hay quy tắc xử sự cho chủ thể khi ở các điều
kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm. Đây là phần trực tiếp thể hiện ý
chí của NN, là mệnh lệnh của NN đối với các chủ thể, phần này thường chỉ rõ quyền và
nghĩa vụ pháp lí cho các chủ thể tham gia vào QHXH do quy phạm điều chỉnh. Vì vậy, bộ
phận quy định của quy phạm thường trả lời cho các câu hỏi: được làm gì? Ko được làm gì?
Phải làm gì và làm ntn ?
- Phần quy định của QP gồm hai loại là dứt khoát và tùy nghi. Quy định dứt khoát là quy
định chỉ nêu lên một xử sự rõ ràng, dứt khoát cho chủ thể. Quy định tùy nghi là quy định
nêu lên nhiều cách xử sự, cho phép chủ thể lựa chọn và thực hiện một trong các cách đó.
VD: Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài
sản chung”. Bộ phận quy định của QP này là cụm từ “có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản riêng của mình, nhập hoặc ko nhập tài sản riêng vào tài sản chung” và là quy
định tùy nghi.
Ý nghĩa:
+ Hướng dẫn cách xử sự cho các chủ thể tham gia vào QHXH do quy phạm đó điều
chỉnh, chỉ cho mọi người biết khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định
của QP thì họ được làm gì hay hành vi nào họ được phép thực hiện; họ không được làm gì
102
hay hành vi nào họ ko được phép thực hiện; họ phải làm gì hay hành vi nào họ bắt buộc
phải thực hiện.
+ Nói cách khác, bộ phận quy định của QP chỉ cho mn biết các quyền và nghĩa vụ pháp lí
của họ khi tham gia vào QHXH do quy phạm điều chỉnh; đồng thời, nó cũng chỉ cho mn
biết ý chí, mong muốn, mục đích của NN khi điều chỉnh QH đó.
c. Chế tài:
- Là bộ phận của QPPL nêu lên các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà
NN dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả định của QPPL khi
họ VPPL, ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ những nghĩa vụ pháp lí đã được
nêu trong bộ phận quy định của QPPL.
- Chế tài của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: chủ thể được nêu trong phần giả định
của QP có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi gì hoặc biện pháp cưỡng chế
nào nếu VPPL; hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể áp dụng những biện pháp
cưỡng chế nào đối với các chủ thể VPPL?
- Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định (những
đòi hỏi, yêu cầu) của PL được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế, bởi vì, nó nêu lên
các biện pháp cưỡng chế NN nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL và nhằm răn đe, phòng
ngừa sự VPPL có thể xảy ra trong thực tế.
- Chế tài của QPPL có thể cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp cưỡng chế NN; song
cũng có thể là ko cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp cưỡng chế NN, cho phép các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng có thể lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp đó tùy theo
mức độ vi phạm của chủ thể vi phạm.
- Chế tài của QPPL còn có thể được chia thành các loại như: chế tài hình sự; chế tài hành
chính; chế tài kỉ luật; chế tài dân sự…
- Ngoài chế tài, để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh, NN còn quy định các
biện pháp tác động khác như: khen thưởng, khuyến khích về vật chất, tinh thần hoặc các
lợi ích khác cho các chủ thể có thành tích trong học tâp, công tác, phục vụ…; các biện
103
pháp pháp lí bất lợi nhưng ko mang tính chất trừng phạt… Vì thể, bộ phận thứ ba của
QPPL nên gọi là biện pháp tác động của NN hay biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì sẽ
bao quát và chính xác hơn.
Ý nghĩa:
+ Chỉ cho mn biết những biện pháp cưỡng chế NN nào hay những hậu quả pháp lí bất
lợi nào họ có thể gánh chịu nếu tham gia vào QHXH do QP điều chỉnh mà ko thực hiện
hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ các nghĩa vụ pháp lí được nêu trong phần quy định của
QP, tức là thực hiện ko đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của NN đối với họ
+ Vì thế, chế tài được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa sự VPPL, và nhằm trừng phạt các
chủ thể VPPL để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính nghiêm
minh của PL.
=> Có thể nói, trong các biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì chế tài là biện pháp quan
trọng nhất, có tác dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.

51. Nêu các cách trình bày qui phạm pháp luật trong văn bản qui phạm pháp luật.
Qua đó, phân biệt qui phạm pháp luật với điều luật, cho ví dụ.
51.1. Các cách trình bày QPPL
a. Cách 1: Tất cả các bộ phận của một QPPL có thể được trình bày trong cùng một điều,
một khoản của 1 VB QPPL
VD: Khoản 1 Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định: ““Người được học các
chương trình giáo dục đại học nếu được thưởng học bổng, chi phí đào tạo do nhà nước
cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định kí kết với nhà nước thì sau khi tốt nghiệp
phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của nhà nước; truờng hợp không chấp
hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo”
b. Cách 2: Trong một điều của 1 VB QPPL có thể trình bày một hoặc nhiều QPPL.
VD: Luật giao thông đường bộ với mỗi 1 khoản trong 1 điều luật sẽ là 1 QPPL

104
c. Cách 3: Các bộ phận của 1 QPPL có thể được trình bày trong các điều, khoản khác nhau
của cùng 1 VB QPPL.
VD: Khoản 1 Điều 301 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội bắt
cóc con tin như sau: “Người nào bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép
một QG, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc ko làm
một việc như một điều kiện để thả con tin, nếu ko thuộc TH quy định tại điều 113 và điều
299 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
d. Cách 4: Các bộ phận mang nội dung của 1 QPPL có thể được trình bày trong các điều
khoản khác nhau của các VBQPPL khác nhau.
Đây là cách trình bày khá phổ biến trong các VBQPPL Việt Nam hiện nay.
VD: Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :
“Cấm các hành vi sau đây:

Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang
có chồng, có vợ.”
Điều 182 BLHS năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
“Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các TH sau đây, thì bị phạt
cảnh cáo, phạt cải tạo ko giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 đến 01 năm”
Nếu ghép hai điều luật này với nhau sẽ thành một QPPL hoàn chỉnh có đủ cả ba bộ phận
e. Cách 5: Trật tự sắp xếp các bộ phận trong QPPL ko nhất thiết phải theo đúng thứ tự: giả
định, quy định, chế tài hay biện pháp tác động của NN mà có thể trình bày các bộ phận đó
theo cách đảo lộn hoặc đan xen nhau.
VD:
Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :
105
“Cấm các hành vi sau đây:

Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang
có chồng, có vợ.”
51.2. Phân biệt qui phạm pháp luật với điều luật, cho ví dụ.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích NN
mong muốn.

Điều luật là những điều cơ bản nhất của một văn bản pháp luật hay một hợp đồng, quy
định nào đó. Người ta có thể áp dụng điều luật trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống như
kinh tế, thể thao, các tổ chức,...
Quy phạm pháp luật và điều luật là hai hiện tượng pháp lý độc lập. Nếu quy phạm
pháp luật là một bộ phận cấu thành của pháp luật trên phương diện nội dung, thì điều
luật lại là sự biểu hiện của pháp luật về mặt hình thức.
Điều luật và các quy phạm pháp luật có thể trùng khớp với nhau hoặc có thể không
trùng khớp với nhau. Trường hợp trùng khớp là khi cả ba phần của quy phạm pháp
luật được thể hiện ở trong cùng một điều luật, còn trường hợp không trùng khớp là khi
nội dung của quy phạm pháp luật được thể hiện ở một vài điều luật khác nhau.
Tồn tại ba cách thức thể hiện mối liên hệ giữa một điều luật và quy phạm pháp
luật.
Thứ nhất, khi một điều luật trùng khớp với một quy phạm pháp luật. Đây là
trường hợp không phải là quá phổ biến trong kỹ thuật lập pháp hiện đại mà là phổ biến
trong lịch sử xây dựng luật pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, cách thức này
được tìm thấy nhiều ở trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ở nước ta. Trong nhiều
điều luật ở phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành, phần quy định của quy phạm
106
pháp luật được biểu hiện dưới dạng “quy định cấm đoán”, còn giả thiết là nêu các điều kiện
hay chủ thể và phần thứ ba là các chế tài (tử hình, chung thân, tù có thời hạn…).
Ví dụ, tại Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi) “Giết con mới đẻ” quy định:
“Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách
quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.[1] Ở
Điều luật này có thể thấy cả ba phần của quy phạm pháp luật hình sự. Giả định bao gồm
người mẹ mới đẻ con, do ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu nặng nề hoặc do hoàn cảnh
khách quan đặc biệt, giết con hoặc vứt làm đứa trẻ chết; quy định thể hiện ở việc cấm giết
con mới đẻ; chế tài có thể là phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến hai năm.
Thứ hai, khi một quy phạm pháp luật được thể hiện ở nhiều điều luật khác nhau
trong cùng một văn bản hoặc trong các văn bản khác nhau. Đây là trường hợp khi giả định
hoặc giả định và quy định nằm trong một điều luật hoặc cả ba phần khác nhau của quy
phạm pháp luật được thể hiện trong các điều luật khác nhau.
Chẳng hạn, Bộ luật Lao động năm 2012 tại Điều 108 quy định về nghỉ trong giờ làm
việc:
“1. Người lao động làm việc liên tục 08 giờ hoặc 06 giờ theo quy định tại Điều 104
của Bộ luật này được nghỉ giữa giờ ít nhất 30 phút, tính vào thời giờ làm việc.
2. Trường hợp làm việc ban đêm, thì người lao động được nghỉ giữa giờ ít nhất 45
phút, tính vào thời giờ làm việc.
3. Ngoài thời gian nghỉ giữa giờ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người sử
dụng lao động quy định thời điểm các đợt nghỉ ngắn và ghi vào nội quy lao động.”
Theo Điều này, chúng ta hoàn toàn không tìm thấy phần thứ ba “bảo đảm” (hay “chế
tài”) đâu. Tuy nhiên, có thể thấy phần đảm bảo này lại được quy định ở các điều khoản
trong chương XVI “Thanh tra lao động, xử phạt vi phạm lao động” hoặc ở Nghị định

107
95/2013/ NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động,
bảo hiểm xã hội và đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng…
Thứ ba, khi trong một điều luật chứa đựng không chỉ một quy phạm pháp luật mà
một vài quy phạm pháp luật.
Trường hợp này thực tế cũng không phải là hiếm trong kỹ thuật lập pháp ở nước ta
hiện nay. Có thể thấy, ở trong rất nhiều điều luật thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự hiện hành có đến hai hoặc ba “khoản” mà mỗi một khoản hoàn toàn có thể đứng độc lập
thành một quy phạm pháp luật riêng biệt. Có thể thấy ví dụ ở các điều như “Điều 93 - Tội
giết người” hay “Điều 111 - Tội hiếp dâm”. Trong mỗi điều luật này có từ 3 đến 5 khoản
và rất nhiều trong số các khoản đó có đầy đủ các bộ phận của một quy phạm pháp luật
hoàn chỉnh.
52. Phân tích bộ phận chế tài của qui phạm pháp luật. Tại sao trên thực tế, bộ phận
chế tài thường không cố định.
- Là bộ phận của QPPL nêu lên các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà
NN dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả định của QPPL khi
họ VPPL, ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ những nghĩa vụ pháp lí đã được
nêu trong bộ phận quy định của QPPL.
- Chế tài của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: chủ thể được nêu trong phần giả định
của QP có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi gì hoặc biện pháp cưỡng chế
nào nếu VPPL; hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể áp dụng những biện pháp
cưỡng chế nào đối với các chủ thể VPPL?
- Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định (những
đòi hỏi, yêu cầu) của PL được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế, bởi vì, nó nêu lên
các biện pháp cưỡng chế NN nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL và nhằm răn đe, phòng
ngừa sự VPPL có thể xảy ra trong thực tế.
- Chế tài của QPPL có thể cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp cưỡng chế NN; song
cũng có thể là ko cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp cưỡng chế NN, cho phép các chủ
108
thể có thẩm quyền áp dụng có thể lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp đó tùy theo
mức độ vi phạm của chủ thể vi phạm.
- Chế tài của QPPL còn có thể được chia thành các loại như: chế tài hình sự; chế tài hành
chính; chế tài kỉ luật; chế tài dân sự…
- Ngoài chế tài, để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh, NN còn quy định các
biện pháp tác động khác như: khen thưởng, khuyến khích về vật chất, tinh thần hoặc các
lợi ích khác cho các chủ thể có thành tích trong học tâp, công tác, phục vụ…; các biện
pháp pháp lí bất lợi nhưng ko mang tính chất trừng phạt… Vì thể, bộ phận thứ ba của
QPPL nên gọi là biện pháp tác động của NN hay biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì sẽ
bao quát và chính xác hơn.
Ý nghĩa:
+ Chỉ cho mn biết những biện pháp cưỡng chế NN nào hay những hậu quả pháp lí bất
lợi nào họ có thể gánh chịu nếu tham gia vào QHXH do QP điều chỉnh mà ko thực hiện
hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ các nghĩa vụ pháp lí được nêu trong phần quy định của
QP, tức là thực hiện ko đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của NN đối với họ
+ Vì thế, chế tài được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa sự VPPL, và nhằm trừng phạt các
chủ thể VPPL để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính nghiêm
minh của PL.
=> Có thể nói, trong các biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì chế tài là biện pháp quan
trọng nhất, có tác dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.
* Tại sao trên thực tế, bộ phận chế tài thường không cố định.
Chế tài ko cố định nêu lên nhiều biện pháp chế tài, hoặc một biện pháp nhưng nhiêu mức
để chủ thể có thể lựa chọn.
VD: “phạt tiền từ 1tr đến 2tr đồng đối với hành vi môi giới, dẫn dắt, tổ chức, tạo điều kiện
cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với
quy định PL, làm ảnh hưởng tới an ninh trật tự” – Điều o Khoản 3 Điều 7 Nghị định số
150/2005/NĐ – CP)
109
Bởi lẽ, QHXH là vô cùng phức tạp, các giả định, quy định của QPPL là vô cùng đa dạng,
đòi hỏi chế tài nêu lên sao cho phù hợp với mỗi QHXH.Chế tài ko cố định ko nêu biện
pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và
mức cao nhất của biện pháp tác động. Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu, là
do chủ thể có thẩm quyền áp dụng QP lựa chọn cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể của từng vụ việc cần áp dụng.

53. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Việc thể hiện nội dung từng bộ phận
của qui phạm pháp luật có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện pháp luật trên thực tế.
ĐN: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích mong
muốn
- Trrong XH có nhiều loại QPPL khác nhau cùng được sử dụng để điều chỉnh các QHXH
như quy phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy phạm của các tổ chức chính trị - XH, quy
phạm (tín điều) tôn giáo và QPPL… Các quy phạm XH khác nhau thì có những đặc tính
khác nhau, nhưng chúng luôn liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và
cùng tác động lên các QHXH. Trong XH có giai cấp thì QPPL có vai trò quan trọng
nhất đối với việc duy trì trật tự XH, tạo điều kiện cho XH ổn định và phát triển.

- Việc thể hiện nội dung từng bộ phận của qui phạm pháp luật có ảnh hưởng lớn đến việc
thực hiện pháp luật trên thực tế, bởi lẽ thể hiện từng nội dung giúp quy phạm trở nên rõ
ràng, phổ biến, ai cũng hiểu và tiếp nhận được nội dung QPPL. Các QP XH là những hiện
tượng ko thể thiếu của đời sống XH, chúng là những phương tiện để quản lí XH, phối
hợp ý chí và quy tụ có mục đích mong muốn tạo điều kiện cho XH ổn định và phát triển.
QPPL điều chỉnh mối QH giữa con người – là nhu cầu tất yếu, cần thiết của đời sống con
người, đặc biệt là khi tính chất XH hóa các hoạt động của con người ngày càng được mở
rộng về quy mô và sự phức tạp.

110
54. Phân tích khái niệm hệ thống pháp luật. Trình bày ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ
thống pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
54.1. Phân tích kn HTPL:
Khái niệm HTPL được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
1. Theo nghiax rộng:
- HTPL được hiểu là 1 “dòng họ PL” hay một “hệ tộc PL” được dùng để chỉ tập hợp các hệ
thống PL của 1 số nước có những nét tương tự nhất định do cùng dựa trên 1 nền tảng PL.
chính trị, tư tưởng hoặc văn hóa chung. VD: hệ thống Common Law, hệ thống Civil Law,
hệ thống PL hồi giáo, HTPL XHCN…
- Cũng theo nghĩa rộng, HTPL còn được xem xét dưới tên gọi HTPL quốc tế và HTPL liên
quốc gia.
+ HTPL quốc tế là tổng thể các QPPL do các QG và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa
thuận xây dựng nên hoặc thừa nhận để điều chỉnh các QH có tính chất công phát sinh trong
đời sống quốc tế. HTPL này có hai loại nguồn cơ ban là điều ước quốc tế và tập quán quốc
tế.
+ HTPL liên quốc gia là tổng thể các QPPL do một nhóm QG thỏa thuận xây dựng nên và
chỉ có giá trị tôn trọng và thực hiện đối với các QG thuộc nhóm đó, VD: PL của Liên minh
châu Âu, PL của ASEAN…
2. Theo nghĩa hẹp:
- Khái niệm HTPL có thể được hiểu theo nghĩa là HTPL thực định của 1 QG. VD: HTPL
VN.
=> HTPL là tổng thể các QPPL có mlh nội tại và thống nhất với nhau, được phân định
thành các ngành luật, các chế định PL, được thể hiện trong các hình thức PL mà cơ bản là
một hệ thống các VB QPPL, án lệ, tập quán pháp.
- HTPL thực định của mỗi QG có thể được xem xét trên các phương diện: hình thức cấu
trúc, nội dung và hình thức thể hiện.
a. Xét về hình thức cấu trúc:
111
- HTPL là thể thống nhất các ngành luật, trong đó mỗi ngành luật lại được coi là 1 hệ thống
nhỏ hơn bao gồm các chế định PL và mỗi chế định lại bao gồm nhiều QPPL.
- Ngành luật là tổng thể các QPPL điều chỉnh 1 hoặc 1 số loại QHXH có tính chất giống
nhau phát sinh trong 1 lĩnh vực hoạt động của đs bằng những biện pháp điều chỉnh nhất
định.
- Chế định PL: là 1 nhóm QPPL điều chỉnh 1 nhóm QHXH có đặc điểm chung, có mối liên
hệ mật thiết với nhau thuộc cùng 1 loại.
- QPPL là quy tắc xử sự chung do NN đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều
chỉnh các QHXH theo mục đích của NN.
Các yếu tố này có MQH qua lại mật thiết với nhau để tạo nên một thể thống nhất là HTPL.
b. Xét về mặt nội dung:
- HTPL là sự phản ánh các điều kiện KT-XH, truyền thống, lịch sử, phong tục, tập quán,
đặc điểm tâm lí dân tộc của 1 đất nước trong 1 giai đoạn phát triển của lịch sử. Do vậy, nội
dung của HTPL của các nước khác nhau sẽ khác nhau và nội dung PL của cùng 1 nước
nhưng ở các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử cũng khác nhau.
c. Xét về mặt hình thức thể hiện:
- HTPL thực định được thể hiện trong các hình thức PL như tập quán pháp, án lệ, VBQPPL
mà chủ yếu là trong các hệ thống VBQPPL có giá trị pháp lí cao thấp khác nhau, bao gồm
các VB luật và các VB dưới luật.
=> HTPL theo nghĩa chung nhất được hiểu là một chỉnh thể các hiện tượng pháp luật (mà
cốt lõi là các QPPL, được thể hiện trong các nguồn PL) có liên kết, ràng buộc chặt chẽ,
thống nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh PL
đối với các QHXH.

112
54.2.Trình bày ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống pháp luật đối với hoạt động xây
dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
a. Đối với hoạt động XDPL:
- Khi XDPL phải luôn ý thức được rằng các quy định PL, các nguồn PL luôn có mối liên
hệ, ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với nhau và luôn thống nhất với nhau. Do vậy, các tổ
chức cá nhân khi ban hành bất kì 1 quy định PL nào cũng phải chú ý đến tính hệ thống của
nó, nghĩa là quy định PL được ban hành phải đảm bảo sự thống nhất với các quy định
PL khác, với các điều kiện thực thi nó. Nếu quy định hay nguồn PL mới ban hành mâu
thuẫn, ko thống nhất với các quy định hay nguồn PL hiện hành thì phải được sửa đổi, hủy
bỏ quy định hay nguồn PL mới ban hành hoặc là phải sửa đổi, hủy bỏ các quy định hay
nguồn PL hiện hành để luôn đảm bảo sự vận động, phát triển và sự thống nhất của HTPL.
Tránh hiện tượng các quy định hay nguồn PL của HTPL thiếu đồng bộ, thống nhất sẽ làm
cho tính khả thi thấp, khó đi vào cuộc sống.
- Trong các hoạt động XDPL thì nguồn PL có hiệu lực pháp lí thấp ko được ban hành
trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn và tất cả chúng phải phù hợp với
hiến pháp - luật cơ bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.
- Việc ban hành quy định hay nguồn PL phải chú ý đến khả năng thi hành nó trên thực tế,
nghĩa là, nó phải phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi PL hiện hành. Nếu quy
định hay nguồn PL đó được ban hành ko phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi PL
hiện hành thì có hoặc là nó phải được sửa đổi, hủy bỏ, hoặc là phải đổi mới, tổ chức lại các
thiết chế và cơ chế thực thi PL ko chú ý đến khả năng tổ chức thực hiện các quy định PL
mà mình đã ban hành.
b. Đối với hoạt động thực hiện PL:
- Xuất phát từ hệ thống của PL đòi hỏi tất cả các quy định PL hiện hành đều phải được
thực hiện nghiêm minh, các hiện tượng PL đều phải tối ưu. Việc thực hiện hay ko thực
hiện một quy định PL nào đó luôn có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện
các quy định PL khác, nghĩa là, việc thực hiện quy định PL này sẽ là tiền đề, điều kiện để
113
thực hiện các quy định PL khác. Việc thực hiện quy định PL này chỉ có thể được tiến hành
khi đã thực hiện các quy định PL khác, nói cách khác, ko thể chỉ thực hiện quy định PL
này mà ko thực hiện quy định PL khác và ngược lại. Nhiều trường hợp, một quy định hay
một văn bản QPPL ko được thực hiện hoặc được thực hiện ko nghiêm minh đã làm cho các
quy định hay văn bản PL khác ko thể thực hiện được. Điều này cho thấy ko thể coi
thường việc thực hiện bất kì một quy định PL nào xuất phát từ HTPL.
- Khi tiến hành thực hiện, áp dụng PL phải ưu tiên các quy định của HP, của các nguồn
PL có hiệu lực pháp luật cao hơn…

55. Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống qui phạm pháp luật. Trình bày căn
cứ để phân định các ngành luật.
55.1. Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống qui phạm pháp luật.

* Hệ thống quy phạm PL (còn gọi là hệ thống cấu trúc của PL) là tổng thể các quy định
PL, có sự liên kết, gắn bó thống nhất nội tại với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, được
phân định thành các bộ phận như quy phạm PL, chế định PL, ngành luật…
* Hệ thống PL gồm các thành tố cơ bản là: QPPL, chế định PL, ngành luật. Ngoài ra
còn có các thành tố khác như phân ngành luật (lớn hơn chế định PL nhưng nhỏ hơn ngành
luật), tổ hợp các ngành luật (lớn hơn ngành luật nhưng nhỏ hơn HTQPPL)… Với mỗi quốc
gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều căn cứ khác nhau mà có sự phân định (xác định) các
bộ phận của HTQPPL khác nhau.
- Quy phạm PL:
+ Là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do
CQNN, người có thẩm quyền ban hành và được NN bảo đảm thực hiện. QPPL là một hệ
thống nhỏ, được cấu tạo từ các bộ phận như giả định, quy định, chế tài PL…
- Chế định PL:

114
+ Là tập hợp (hệ thống) bao gồm một nhóm QPPL điều chỉnh một nhóm QHXH có liên
quan mật thiết với nhau. Tính chất chung của mỗi nhóm QHXH đòi hỏi phải có những
nhóm QPPL tương ứng để điều chỉnh. Việc xác định đúng tính chất nhóm của QHXH là
vấn đề có ý nghãi quan trọng trong việc hình thành chế định PL.
+ Tồn tại chế định PL của ngành luật (gồm nhóm các QPPL điều chỉnh nhóm QHXH thuộc
một lĩnh vực, liên quan đến cùng một ngành luật. Chẳng hạn, chế định CD trong ngành luật
HP), song cũng có chế định PL liên ngành luật (gồm nhóm QPPL điều chỉnh nhóm QHXH
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Chẳng hạn, chế
định hợp đồng liên quan đến cả ngành luật dân sự, ngành luật thương mại và luật lao
động…)
- Ngành luật:
+ Là tập hợp (hệ thống) bao gồm các QPPL điều chỉnh một loại QHXH (những QHXH
có chung tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đs XH) bằng những phương pháp nhất
định.
+ Mỗi ngành luật thường có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của
riêng mình. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những QHXH được PL điều
chỉnh có chung tính chất (cùng loại), phát sinh trong một lĩnh vực nhất định điều chỉnh của
1 ngành luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào ý chí của NN và các
điều kiện chính trị, XH khác…
VD: Trong đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự trước đây bao gồm cả các QHXH
phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ, nhưng sau này các QHXH phát sinh liên quan
đến việc kết hôn giữa nam và nữ được tách ra khỏi đối tượng điều chỉnh của PL dân sự tạo
nên ngành luật hôn nhân và gia đình.
+ Phương pháp điều chỉnh PL là những cách thức tác động PL lên các QHXH. Phương
pháp điều chỉnh của ngành luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các QHXH mà
PL điều chỉnh và ý muốn chủ quan của những người trực tiếp ban hành PL thông qua sự
nhân thức, ý thức của họ về lợi ích NN, của XH trong mỗi giai đoạn lịch sử. Nói cách khác,
115
việc sử dụng cách thức nào để điều chỉnh một dạng QHXH nào đó là phụ thuộc vào nội
dung, tính chất của QHXH đó và ý chí của người ban hành PL.
+ Các cách thức tác động PL lên các QHXH có thể là: cấm (cấm tiến hành một số hoạt
động nhất định); bắt buộc (phải thực hiện 1 số hoạt động nhất định); cho phép (được phép
thực hiện một số hoạt động trong những phạm vi nhất định).
+ Các ngành luật khác nhau có những phương pháp điều chỉnh khác nhau. Thông
thường, các phương pháp điều chỉnh PL có thể chia thành hai loại đặc trưng là phương
pháp mệnh lệnh và phương pháp tự định đoạt (thỏa thuận). Phương pháp mệnh lệnh dùng
để điều chỉnh các QHXH mà trong đó có một bên tham gia là NN (thông qua CQNN có
thẩm quyền) chẳng hạn, các quan hệ PL hành chính, hình sự… Phương pháp tự định đoạt
thường dùng để điều chỉnh các QHXH mà các bên tham gia có địa vị pháp lí bình đẳng với
nhau như QHPL dân sự…
55.2. Trình bày căn cứ để phân định các ngành luật.
Việc phân định hệ thống QPPL thành tổ hợp các ngành luật ở các QG khác nhau thường
khác nhau.
Ở một số QG căn cứ vào chủ thể và lợi ích mà PL bảo vệ trong hệ thống QPPL có sự
phân định thành công pháp và tư pháp. Việc phân định này được thực hiện nhiều ở các
nước châu Âu lục địa.
* Công pháp:
Bao gồm các QPPL điều chỉnh các QHXH liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của
CQNN, những QH liên quan tới việc bảo vệ lợi ích XH (lợi ích công) nói chung. Trong
công pháp thường sử dụng phương pháp điều chỉnh mang tính mệnh lệnh, đơn phương thể
hiện QH quyền lực và phục tùng. Công pháp có các ngành luật đặc trưng như luật hiến
pháp, luật hành chính, luật tài chính công, luật ngân hàng, luật hình sự…
* Tư pháp:
Bao gồm các QPPL điều chỉnh các QHXH giữa tư nhân với tư nhân, liên quan tới bảo vệ
lợi ích riêng của từng cá nhân với các phương pháp điều chỉnh đặc trưng là thỏa thuận,
116
bình quyền và các bên tự do thể hiện ý chí của mình trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lí. Có các ngành luật đặc trưng như luật dân sự, hôn nhân gia đình, luật
thương mại…
* Luật nội dung (luật vật chất):
Gồm các QPPL điều chỉnh, bảo vệ các QHXH trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống
XH. Luật nội dung thường bao gồm các QPPL hiến pháp, hành chính, dân sự, hình sự…
Đây là nền tảng của hệ thống QPPL, chúng thường xác định quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm pháp lí của các tổ chức và cá nhân, cũng như điều kiện để thực hiện chúng…
* Luật hình thức (luật thủ tục):
Gồm các QPPL xác định cơ chế, quy trình, trình tự, thủ tục để thực hiện các QPPL
nội dung. Luật hình thức thường gồm các QPPL tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng
hành chính… QPPL hình thức thường liên quan đến việc giải quyết các vụ việc tại các cơ
quan NN, tòa án, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm PL… Có thể
nói, việc phân định các bộ phận cấu thành hệ thống QPPL chỉ mang tính chất tương đối, nó
có thể thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào sự phát triển, thay đổi của các QHXH và quan
điểm của các nhà KH pháp lí ở mỗi QG.
56. Phân tích khái niệm hệ thống nguồn của pháp luật. Trình bày vai trò của các loại
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Hệ thống nguồn PL được xem là tập hợp tất cả các nguồn PL, quan trọng hơn cả là các
loại văn bản QPPL có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp một cách thống
nhất, phù hợp với nhau vừa theo tính chất của các QHXH mà chúng điều chỉnh, vừa theo
trật tự thang bậc hiệu lực PL của chúng.
- Theo tính chất của các QHXH mà PL điều chỉnh có thể tập hợp, sắp xếp các nguồn PL
thành các nhóm điều chỉnh 1 loại QHXH có chung tính chất thuộc 1 lĩnh vực nhất định của
đời sống XH và thường gọi là nguồn của ngành luật. Tuy nhiên, do một số nguồn PL, đặc
biệt là văn bản QPPL có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc phân
định này thường ko triệt để và gặp nhiều khó khăn, nhiều khi ko thể thực hiện được.
117
- Theo trật tự thứ bậc hiệu lực PL thì các nguồn PL được sắp xếp thành tòa tháp với trật
tự nguồn PL có hiệu lực PL cao nhất (Hiến pháp) ở trên cùng, tiếp đến là các nguồn PL
khác (văn bản luật thông thường), rồi đến các nguồn PL và VB dưới luật (phụ thuộc thẩm
quyền và vị trí của các cơ quan đã ban hành ra chúng).
- Giữa các nguồn của PL luôn có mối liên hệ, ràng buộc theo cả chiều ngang và chiều dọc,
nhất là các văn bản cùng quy định về một vấn đề ko được phép chồng chéo, mâu thuẫn với
nhau. Các nguồn PL có hiệu lực PL khác nhau quy định về cùng một vấn đề mà mâu thuẫn
nhanh thì thực hiện theo nguồn PL có hiệu lực PL cao hơn hoặc theo thứ tự ưu tiên đối với
loại nguồn đó.

57. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật. Theo anh/chị cần làm gì
để hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay thực sự dân chủ?
57.1. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật.
a. Khái niệm XDPL:
- XDPL là quá trình hoạt động của các CQNN hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo
trình tự và thủ tục do PL quy định nhằm ban hành các QPPL để điều chỉnh QHXH theo
mục đích của NN.
- Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát những sự
việc khách quan liên quan đến quá trình nâng ý chí nhà nước lên thành pháp luật. Đây là
những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể
tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ các quy phạm pháp luật phải nghiêm
chỉnh tuân theo.
b. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật.
- Nguyên tắc này đòi hỏi hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường chưng cầu ý
dân hoặc bởi CQ đại diện do dân bầu ra. Các dự án luật, các đạo luật đã được ban hành cần
phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến nhân dân, nhất là đối với các đói tượng áp dụng
của luật.
118
- Mục đích: Việc XDPL có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, nhằm làm
cho PL thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong XH. Nguyên tắc
này cho phép phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp ND trong XH và hoạt động
XDPL, đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức PL của ND. Sự tham gia của ND vào
quá trình XDPL sẽ là điều kiện để đảm bảo sự tự giác thực hiện PL nghiêm minh và có
hiệu quả sau này. Ko chỉ bảo đảm sự công khai cuản phải bảo đảm sự minh bạch trong quá
trình XDPL. Tất cả các công đoạn, quy trình của quá trình XDPL, các nguyên tắc XDPL
đều cần phải được quy định rõ ràng, rành mạch.
- Để đảm bảo nguyên tắc này, nhà nước phải ko ngừng mở rộng dân chủ, các CQNN,
những chủ thể có thẩm quyền XDPL phải thực sự lắng nghe ý kiến của ND, tạo điều kiện
cho ND tham gia đông đảo và phải coi đó là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.
57.2. Theo anh/chị cần làm gì để hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
thực sự dân chủ?
- Ở VN, mặc dù chưa có VBQPPL nào được thông qua theo thủ tục chưng cầu ý dân, song
trong quá trình xây dựng các VBQPPL quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật dân sự… NN
luôn thu nhập và tham khảo ý kiến của ND và các chủ thể có liên quan.
* Để hoạt động XDPL thật sự dân chủ cần:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào quá
trình XDPL. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp - trưng cầu dân ý, để toàn dân có
quyền tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ
chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch,
tạo cơ hội để người dân nắm được các công việc của Nhà nước để tham gia xây dựng một
cách chủ động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
- Tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng sự hình thành
và tham gia của các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết các nhu cầu của nhân
119
dân và tích cực tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Có các cơ chế và phương thức để
phát huy và tiếp nhận được các ý kiến phản biện của nhân dân và của các tổ chức quần
chúng.
- Tiếp tục có biện pháp giáo dục nâng cao kiến thức, trình độ, nhất là ý thức chính trị,
tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa trong
việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lý nhà nước.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ
chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
- Sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các báo
điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản
ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.

58. Phân tích nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật. Trình bày ý nghĩa
của nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật
- KN XDPL
- KN Nguyên tắc XDPL
58.1. Phân tích nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật.
- Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của XH,
phải phản ánh đúng nhu cầu khách quan của XH, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp
với thực tế cuộc sống. Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhân các quy luật
phát triển của XH bằng QPPL, PL luôn là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế
giới khách quan, con người nhận thức tồn tại XH sau đó đưa ra các quy tắc cho hành vi của
mình. Do vậy, nội dung của PL phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như
điều kiện KT-XH, phong tục, tập quán, nền đạo đức chính thống, truyền thống, đặc điểm
tâm lí dân tộc, trình độ dân trí, trình độ phát triển của nền dân chủ… Có như vậy, PL mới
có tính khả thi, mới được thực hiện trong thực tế, nếu ko thì PL chỉ tổn tại trên bàn giấy.

120
Quá trình XDPL phải phản ảnh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều
chỉnh bằng PL đối với các QHXH nhất định.
- Để bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong XDPL thì trước khi bắt tay
vào XDPL cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn XH, các điều kiện kinh tế, chính trị, tư tưởng,
tâm lí XH; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân
tộc và sắc tộc; khả năng thực hiện các quy định PL trên thực tế… thông tin từ việc nghiên
cứu này sẽ là cơ sở tốt để xây dựng các quy định PL phù hợp. Ngoài ra còn phải nghiên
cứu thực tiễn pháp lí trước đó như thực tiễn quản lí, thực hiện xét xử, hoạt động của các tổ
chức và cá nhân trong XH…
- Các dự án luật phải được nhiều cơ quan; tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, đặc biệt là
cần có nhiều phương án để cho các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn. Sau khi đã có phương
án điều chỉnh cần phải có sự thẩm định, đánh giá về các mặt kinh tế, XH, KH… để PL
mang lại hiệu quả cao.

58.2.Trình bày ý nghĩa của nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật
59. Phân tích khái niệm pháp điển hóa pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của
pháp điển hóa pháp luật.
- Pháp điển hóa là một trong hai hình thức thực hiện của hệ thống hóa PL.
- Kn: Pháp điển hóa là hoạt động của CQNN có thẩm quyền nhằm tập hợp các quy định,
các nguồn PL hiện hành, có thể chỉnh sửa, loại bỏ hoặc sửa đổi bổ sung các quy định cần
thiết và sắp xếp chúng lại trong một chỉnh thể thống nhất, khoa học theo lĩnh vực hoặc theo
chủ đề để tạo thành một VBQPPL mới hoặc bộ pháp điển.
- Pháp điển hóa được tiến hành theo hai cách cơ bản là pháp điển hóa về nội dung và
pháp điển hóa về hình thức.
+ Pháp điển hóa về nội dung là việc tập hợp các quy định PL hiện hành, có thể sửa đổi
hoặc loại bỏ các quy định ko phù hợp, bổ sung thêm những quy định mới nhằm tạo ra một
VBQPPL mới (bộ luật) để đáp ứng sự điều chỉnh PL đối với các QHXH.
121
+ Pháp điển hóa về hình thức là tập hợp, sắp xếp các quy định PL, các nguồn PL đang có
hiệu lực PL thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề, có thể có những sửa đổi, điều chỉnh
cần thiết (chủ yếu về mặt kĩ thuật) nhằm làm cho các quy định này hoàn chỉnh, phù hợp
với nhau hơn, nhưng vẫn bảo đảm nội dung, trật tự pháp lí của các quy định đó. Hay nói
cách khác, pháp điển hóa về mặt hình thức ko nhằm tạo ra các bộ luật đồ sộ mà là việc sắp
xếp các quy định PL, các nguồn PL theo các chủ đề phục vụ công tác tra cứu, tiện lợi cho
việc nhận thức và thưc hiện chúng. Bộ pháp điển chỉ chứa những quy định PL còn hiệu lực
PL tại thời điểm đó.
- Quá trình pháp điển hóa, đặc biệt là việc pháp điển hóa PL về nội dung đòi hỏi phải tuân
theo những nguyên tắc nhất định, phải tiến hành phù hợp với các yêu cầu của kĩ
thuật lập pháp, bảo đảm tính khoa học và tính khách quan cũng như các nguyên tắc của
hoạt động XDPL. Hoạt động pháp điển hóa phải được tiến hành thường xuyên để cập nhật,
bổ sung những quy định mới, những quy định PL đã bị sửa đổi, đồng thời loại bỏ kịp thời
những quy định PL ko còn hiệu lực PL.
- Mục đích pháp điển hóa:
+ Kết quả cuối cùng của pháp điển hóa là làm hình thành nên một bộ pháp điển hoặc một
bộ luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các QPPL, các chế định PL và các VBQPPL cũ
nhằm làm cho PL thống nhất, hợp lí và phát triển hơn nên chủ thể tiến hành pháp điển hóa
chỉ có thể là CQNN có thẩm quyền theo quy định của PL. Ở VN, nếu pháp điển hóa về nội
dung thì chỉ có Quốc hội mới có thể tiến hành, còn pháp điển hóa về hình thức thì chủ thể
có thể tiến hành bao gồm Bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, VKSND, Kiểm
toán NN, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước.
- Ý nghĩa của pháp điển hóa:
+ Việc xây dựng Bộ pháp điển ở Việt Nam là hết sức cần thiết, góp phần tạo bước
chuyển biến mới về chất của hệ thống pháp luật, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng thời, Bộ pháp điển góp phần nâng cao tính thống nhất,
122
đồng bộ, tính công khai, minh bạch cũng như nâng cao sự tin tưởng của người dân, doanh
nghiệp đối với hệ thống pháp luật. Cụ thể:
- Tiện lợi trong việc tìm kiếm, tra cứu, thỏa mãn nhu cầu sử dụng và tìm hiểu các quy
định của pháp luật
Hiện nay, Bộ pháp điển có 45 chủ đề được đánh số thứ tự từ số 1 đến số 45, trong đó, mỗi
chủ đề chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội nhất định
được xác định theo lĩnh vực, ví dụ: Chủ đề số 1. An ninh quốc gia; chủ đề số 2. Bảo hiểm;
chủ đề số 3. Bưu chính, viễn thông; chủ đề số 4. Bổ trợ tư pháp …
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sự
tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật
Sau khi Chính phủ thông qua từng phần của Bộ pháp điển thì kết quả đó được đăng tải và
duy trì thường xuyên, liên tục trên Cổng thông tin điện tử pháp điển và được sử dụng miễn
phí. Đây là Cổng thông tin độc lập, đăng tải Bộ pháp điển, do Nhà nước giữ bản quyền và
giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý, duy trì hoạt động. Bộ pháp điển sẽ góp phần nâng
cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Điều này xuất phát từ hai yếu
tố cơ bản: (1) Bộ pháp điển chỉ bao gồm các quy định do cơ quan nhà nước ở trung ương
ban hành đang có hiệu lực, do đó, người dân có thể tin tưởng rằng tất cả các quy định do cơ
quan nhà nước ở trung ương ban hành đang có hiệu lực đều nằm trong Bộ pháp điển; (2)
khi cần tìm hiểu để áp dụng pháp luật trong một lĩnh vực nhất định, về cơ bản, người dân
chỉ cần tìm hiểu các quy định trong các chủ đề, đề mục nhất định của Bộ pháp điển. Qua
đó, Bộ pháp điển góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật cũng
như góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.
- Pháp điển góp phần nâng cao tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống quy phạm
pháp luật
Các quy phạm pháp luật từ cấp Thông tư trở lên đang còn hiệu lực (trừ Hiến pháp và các
quy định thuộc về bí mật nhà nước) được thực hiện pháp điển theo một quy trình nhất định,
bảo đảm các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực phải được tập hợp đầy đủ, bảo đảm tính
123
hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, phù hợp, từ đó phát hiện những quy định trái pháp luật,
mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp để có các biện pháp xử lý kịp thời. Như vậy, có thể
nói rằng, kết quả pháp điển các đề mục, các chủ đề trong Bộ pháp điển giúp cơ quan lập
pháp, cơ quan soạn thảo có cái nhìn tổng thể, toàn diện về thực trạng hệ thống pháp luật
hiện nay, từ đó các điều luật được xây dựng sẽ phù hợp và thống nhất với các quy định
trong hệ thống pháp luật, hạn chế được trường hợp các văn bản hướng dẫn thi hành trái với
quy định của cấp trên, mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định của pháp luật khác.
Đồng thời, khi thực hiện pháp điển sẽ dễ nhận ra những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
không còn phù hợp và thậm chí là trái pháp luật sẽ được sàng lọc và xử lý kịp thời.
- Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thông qua việc pháp điển, việc sắp xếp các quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến
nhau vào một chỗ góp phần chỉ ra những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp
để cơ quan nhà nước kịp thời ban hành văn bản quy phạm pháp luật khác để sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ cho phù hợp cũng như kịp thời ban hành văn bản mới để quy
định, điều chỉnh các quan hệ xã hội cần điều nhỉnh nhưng chưa có quy phạm pháp luật nào
quy định. Do đó, từ kết quả pháp điển các đề mục, các chủ đề trong Bộ pháp điển sẽ giúp
hoạt động lập quy được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của
các quan hệ xã hội; đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các văn bản của cấp trên và và các
văn bản của cơ quan quản lý về lĩnh vực đó.
Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật. Việc một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh
có ý nghĩa gì đối với sự vận động và phát triển của nó.

124
60. Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật. Việc một quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh có ý nghĩa gì đối với sự vận động và phát triển của nó.
60.1. Kn QHPL:
- QHPL là QHXH được PL điều chỉnh trong đó các bên tham gia QHPL có các quyền và
nghĩa vụ pháp lí được NN bảo đảm thực hiện.
- Đặc điểm:
+ Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh: Trong đời sống con
người, mỗi loại quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bởi 1 loại quy tắc xã hội. Nếu như
quan hệ đạo đức là do quy tắc đạo đức điều chỉnh, quan hệ tôn giáo do các tín điều tôn giáo
điều chỉnh thì quan hệ pháp luật phải do pháp luật điều chỉnh. Nhờ được pháp luật điều
chỉnh nên quan hệ pháp luật mang tính xác định, cụ thể cả về phương diện lẫn chủ thể, cơ
cấu và nội dung. Được pháp luật điều chỉnh ko có nghĩa là khi các quy định pháp luật được
coi là cơ sở pháp lý của quan hệ đó mất đi (tức là chấm dứt hiệu lực) thì chấm dứt luôn cả
quan hệ pháp luật cụ thể: chẳng hạn như các quan hệ hôn nhân gia đình, sở hữu tài sản thời
hong kiến ngày nay vẫn được thừa nhận giá trị pháp lý của nó, mặc dù các quy định pháp
luật phong kiến điều chỉnh các quan hệ lĩnh vực đó không còn trên thực tế.

+ Tính ý chí trong quan hệ pháp luật được thể hiện rõ ràng minh bạch: Đặc điểm
chung của quan hệ xã hội là mang tính ý chí bởi nó được hình thành trên nền tảng ý thức
của con người. Tuy nhiên, so với quan hệ xã hội khác, tính ý chí trong quan hệ pháp luật
được thể hiện 1 cách rõ ràng và cụ thể, minh bạch hơn. Chẳng hạn: “ ý chí trong quan hệ
tín ngưỡng tôn giáo giữa các tín đồ với đấng tối cao của họ chủ yếu từ tâm linh, niềm tin
thông qua sự cầu nguyện mà thôi”. Nhưng với đối với quan hệ pháp luật ý chí thể hiện rất
cụ thể, chi tiết → từ việc xác định mục đích thiết lập quan hệ pháp luật, lựa chọn phương
thức thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách hợp lý tiết kiệm nhất.

(Lý do)→ Ý chí trong quan hệ pháp luật có thể là ý chí nhà nước buộc các chủ thể khác
tham gia quan hệ pháp luật cụ thể đó phải tuân thủ. Ví dụ “trong quan hệ pháp luật hình sự
ý chí của nhà nước được thể hiện thông qua bản án của tòa án buộc kẻ phạm tội phải chấp
hành. Đó có thể là sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể tham gia tham gia quan hệ pháp
luật cụ thể. Chẳng hạn trong QHPL dân sự, hôn nhân gia đình, ý chí của quan hệ pháp luật
là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia vào những quan hệ pháp luật cụ thể đó.

125
+ Quan hệ pháp luật có sự phù hợp giữa nội dung thực tế và hình thức pháp lý tương
ứng:

Phương diện thực tế chính là nội dung thực tế, cụ thể của quan hệ đó. Chẳng hạn như việc
mua bán nhà, kết hôn, lập di chúc…vv.

Phương diện pháp lý là hình thức pháp lý của mỗi loại quan hệ pháp luật, hình thức pháp
lý này bị quy định bởi nội dung thực tế của quan hệ. “Rõ ràng chúng ta ko thể lấy mẫu hợp
đồng mua bán nhà, đất dùng để đăng ký kết hôn hoặc làm bản di chúc” .

=> Do đó mỗi nội dung thực tế của 1 loại quan hệ pháp luật phải được tồn tại dưới 1 hình
thức pháp lý tương ứng

+ Quan hệ pháp luật có tính phổ biến trong đời sống pháp lý: quan hệ pháp luật hình
thành trên thực tế chính là sản phẩm của nhận thức xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể
cũng như nhà nước và xã hội. Chính vì lẽ đó, quan hệ pháp luật có tính phổ biến trong đời
sống xã hội từ con đg hình thành, phương thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đến cơ chế pháp
lý bảo đảm.

+ Quan hệ pháp luật được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước: việc thực hiện pháp
luật dưới hình thức quan hệ pháp luật phải được bảo đảm bằng các biện pháp của nhà
nước. Các biện pháp bảo đảm của nhà nước đa dạng về hình thức, tính chất và phương diện
tác động như bắt buộc cưỡng chế, tùy nghi, cho phép. Đảm bảo bằng các biện pháp nhà
nước đối với quan hệ pháp luật gồm các lĩnh vực như: bảo đảm về mặt pháp lý, vật chất, tổ
chức kĩ thuật, tư tưởng .

60.2. Việc một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có ý nghĩa gì đối với sự vận
động và phát triển của nó.
- Khi ban hành PL, nhà làm luật luôn phải cân nhắc, tính toán bằng cách nào, tác động ở
mức độ nào… QHXH được PL tác động (điều chỉnh) trở thành QHPL. Khi đó, các bên
tham gia QHXH được PL điều chỉnh phải xử sự theo những cách thức mà PL đã xác định,
họ có thể hoặc cần phải hay ko được thực hiện những hành vi nhất định nhằm ko những
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình mà còn đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ thể bên kia. Nếu một chủ thể ko thực hiện đúng đắn, đầy đủ cách thức ứng xử
của mình, bên chủ thể kia có quyền yêu cầu nhà nước can thiệp. Trong trường hợp này,

126
bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng là biện pháp cưỡng chế, NN buộc các
chủ thể phải thực hiện nghiêm chỉnh các hành vi đã được xác định.
- PL ko điều chỉnh tất cả các QHXH, nó chỉ điều chỉnh những QHXH cơ bản, đã trở thành
phổ biến trong đời sống. Việc PL điều chỉnh QHXH nào đó dựa trên sự nhận thức của NN
về vai trò của PL, nhu cầu của đời sống XH, khả năng điều chỉnh của PL, ý chí của NN…

61. Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật, cho ví dụ về quan hệ pháp luật cụ thể mà
anh/chị tham gia hàng ngày.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, trong đó các bên tham
gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ pháp lí được nhà nước bảo đảm thực hiện
- Quan hệ pháp luật trước hết là quan hệ xã hội, đó là quan hệ giữa người với người
trong cuộc sống. Các quan hệ xã hội rất đa dạng, phức tạp vì vậy xã hội có nhiều công cụ,
phương tiện khác nhau để tác động đến. Một quan hệ xã hội cụ thể có thể chịu tác đọng của
nhiều loại phương tiện điều chỉnh, hiểu quả tác động của mỗi loại công cụ trong nhiều
trường hợp có sự khác nhau khá lớn. Bởi vì những đặc tính vượt trội của mình, pháp luật
có ưu thế hơn hẳn so với những quy phạm xã hội khác. Tuy nhiên sự tác động của pháp
luật tới các quan hệ xã hội cũng phải có giới hạn. Khi ban hành pháp luật, nhà làm luật
luôn phải cân nhắc, tính toán xem quan hệ xã hội nào cần tác động bằng pháp luật, tác
đọng bằng cách nào, mức độ nào. Quan hệ xã hội được pháp luật tác động trở thành quan
hệ pháp luật
- Các bên khi tham gai vào quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh thì phải sự xử the
những cách thức mà pháp luật đã xác định. Để từ đó đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của chính mình và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bên kia
- Pháp luật không điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội, nó chỉ điều chỉnh những quan
hệ xã hội cơ bản, đã trở thành phổ biến trong đời sống. Việc pháp luật điều chỉnh quan hẹ
xã hội nào đó dựa trên sự nhận thức của nhà nước về vai trò của pháp luật, nhu cầu của đời
sống xã hội, khả năng điều chỉnh củ pháp luật, ý chí của nhà nước ….
127
VD: Quan hệ pháp luật mà tôi tham gia hàng ngày đó là quan hệ giữa chủ nhà cho thuê và
người thuê

- Đây là quan hệ giữa chủ nhà cho thuê và tôi- người người thuê nhà, đây là quan hệ
mà chúng tôi tham gia hàng ngày từ lúc bắt đầu kí kết hợp đồng cho đến khi hết hạn hợp
đồng mà chúng tôi đã kí kết với nhau .

- Đây là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ

- Chủ nhà cho thuê có trách nhiệm cung cấp cho tôi những dịch vụ đã được kí kết
trong hợp đồng, cũng như những nghĩa vụ mà người cho thuê phải thực hiện khi đăng kí
kinh doanh dịch vụ nhà cho thuê. Khi thực hiện đúng những điều này người cho thuê có
quyền được đòi quyền lợi của mình đó chính là tiền thuê nhà đã thỏa thuận

- Người cho thuê – tôi: có quyền và nghĩa vụ ngược lại.

62. Phân tích những yếu tố bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ
thể quan hệ pháp luật, cho ví dụ minh hoạ.
Quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể được xem xét dưới hai góc độ:
* Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể với tư cách là chủ thể của pháp luật
nói chung. Ở góc độ này nó bao gồm tất cả những quyền và nghĩa vụ tạo nên địa vị pháp lí
của chủ thể. Ví dụ: tổng thể các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định
trong hiến pháp tạo nên địa vị pháp lí của CD trong mối quan hệ với NN.
* Thứ hai, quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể với tư cách là chủ thể của một QHPL
cụ thể.
- Quyền chủ thể là khả năng chủ thể được xử sự theo những cách thức nhất định mà PL
cho phép, bao gồm những khả năng sau:
+ Khả năng tự xử sự theo những cách thức nhất định mà PL cho phép. VD: Lan mua
một cái áo thì Lan có quyền đem cho, bán lại …

128
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải chấm dứt hành vi cản trở việc thực hiện
quyền của mình hoặc phải thực hiên những nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền của
mình. VD: A cho B mượn sách, yêu cầu B phải trả sách đúng thời hạn…
+ Khả năng được bảo vệ, tức là được yêu cầu các CQNN có thẩm quyền bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm hại. VD: A cho B mượn tiền nh lần B ko trả, A
có quyền kiện B ra tòa…

- Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy định của PL
nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác, bao gồm các xử sự bắt buộc sau:

+ Chủ thể phải thực hiện những hành vi nhất định. VD: cha mẹ sinh ra con cái, có trách
nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con thành người…

+ Chủ thể phải kiềm chế, ko thực hiện những hành vi nhất định .VD: trong phòng thi ko
được sử dụng tài liệu khi ko được sự cho phép…

+ Chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lí khi ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy
đủ các nghĩa vụ pháp lí của mình. VD: sử dụng tài liệu bị phát hiện sẽ bị đình chỉ thi …

Bảo đảm pháp lý có thể được hiểu là các quy định của pháp luật trực tiếp liên quan đến
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân.

Chẳng hạn, ở nước ta, quyền bầu cử, ứng cử của công dân phải được cụ thể hóa trong
các luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quyền tự do ngôn luận được cụ thể hóa
trong luật báo chí, luật về tiếp cận thông tin..., quyền tự do kinh doanh phải được quy định
trong các luật về doanh nghiệp, hợp tác xã, luật thương mại..., quyền tự do cá nhân của
công dân được quy định trong các luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự,
hành chính..., nghĩa vụ đóng thuế được quy định trong các luật thuế..., nghĩa vụ bảo vệ Tổ
quốc được thể hiện trong luật về nghĩa vụ quân sự, dân quân tự vệ.... Quy định trách nhiệm
của nhà nước, cán bộ công chức trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công
dân. Quy định thủ tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân. Thủ tục thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân trong hệ thống pháp luật bao gồm rất nhiều các thủ tục khác nhau
như thủ tục bầu cử, thủ tục tư pháp áp dụng trong tòa án xét xử các vụ việc hành chính,
hình sự, dân sự. Quy định chế tài bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ. Chế tài bao gồm
các chế tài hành chính, hình sự, dân sự, kỷ luật hành chính và cả chế tài hiến pháp áp dụng
đối với người thực hiện quyền hay nghĩa vụ và đối với cán bộ, công chức liên quan. Qua

129
chức năng trừng trị, giáo dục, phòng ngừa và khôi phục quan hệ xã hội bị vi phạm, chế tài
bảo đảm cho quyền hay nghĩa vụ của công dân được thực hiện. Chế tài có thể được áp
dụng bởi tòa án hay cơ quan hành chính nhà nước. Quy định về giải quyết tranh chấp pháp
luật về quyền và nghĩa vụ. Các tranh chấp pháp luật này có thể là tranh chấp pháp luật giữa
các cá nhân, tổ chức, cơ quan và giữa nhà nước với các chủ thể này liên quan đến việc thực
hiện quyền hay nghĩa vụ của công dân. Các tranh chấp được giải quyết dưới nhiều hình
thức khác nhau theo các thủ tục nhất định do các cơ quan, tổ chức (tòa án, trọng tài phi
chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức hòa giải...) thực hiện.

Giải thích chính thức quy định về quyền và nghĩa vụ trong hiến pháp. Giải thích quy
định đó có thể được thực hiện bởi cơ quan tài phán trong quá trình xét xử các tranh chấp
hay vi phạm quyền và nghĩa vụ hiến pháp. Việc giải thích này có thể do tòa án, cơ quan
thường trực của nghị viện thực hiện. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân. Hoạt động giám sát, kiểm tra do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, có thể chia
thành các hoạt động giám sát, kiểm tra của nhà nước (nghị viện, cơ quan hành chính cấp
trên...) và giám sát do xã hội (các tổ chức xã hội, hội đoàn, công dân) thực hiện. Giám sát,
kiểm tra là hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc thu thập và đánh giá thông tin về thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, từ đó, có các phương án xử lý để bảo đảm thực hiện
thực tế các quyền và nghĩa vụ đó.

63. Cho ví dụ về một quan hệ pháp luật cụ thể và xác định chủ thể, khách thể, nội
dung của quan hệ pháp luật đó.
A mua chiếc xe mô tô của hãng Honda.
Quan hệ pháp luật ở đây là "Mua bán tài sản"'
Chủ thể: A và hãng Honda.
Khách thể: Quyền sở hữu tài sản (chuyễn giao quyền sở hữu).
Nội dung: Theo luật dân sự
Điều 428. Hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên
bán.

130
64. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của việc
thực hiện pháp luật.
64.1.Khái niệm: Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các
chủ thế được hình thành trong quá trình thực hóa các quy định của PL.
VD: Hành vi đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy, hành vi đi bên phải khi tham gia giao
thông.
Đặc điểm:
Thứ nhất thực hiện pháp luật là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người: Nhà
nước đặt ra pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo chiều hướng mà nó mong
muốn. Tất cả các quan hệ xã hội đều được thể hiện thông quan cách xử sự của mọi người
với nhau, vì thế, bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia
vào một quan hệ xã hội nhất định, nhà nước có thể tác động lên các quan hệ xã hội, điều
chỉnh chúng theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay
xử sự của con người mà không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, do vậy, chỉ có
thể căn cứ vào xử sự thực tế của các chủ thể thì mới có thể xác định được họ có thực hiện
pháp luật hay không.
Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể có thể được thể hiện dưới dạng hành động,
tức là thể hiện qua những lời nói, cử chỉ, động tác nhất định, ví dụ, đội mũ bảo hiểm khi
tham gia giao thông bằng xe máy, thỏa thuận, ký kết hợp đồng mua bán…; song cũng có
thể được thể hiện dưới dạng không hành động, tức là không thực hiện những cử chỉ, động
tác, lời nói nhất định, ví dụ, không vượt đèn đỏ, không đi vào đường ngược chiều khi tham
gia giao thông.
Thứ hai, thực hiện pháp luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật: Đây là lẽ đương nhiên vì thực hiện pháp luật là sự
hiện thực hóa các quy định của pháp luật hay làm cho các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước
đối với các chủ thể khác trở thành hiện thực, tức là biến các quy định của pháp luật từ trong

131
văn bản thành cách xử sự thực tế của các chủ thể khi tham gia vao các quan hệ pháp luật.
Vì vậy, những hành vi trái pháp luật không bao giờ được coi là thực hiện pháp luật .
- Thứ ba, thực hiện pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có năng lực
hành vi pháp luật, tức là xử sự của chủ thể có khả năng bằng hành vi của chính
mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Các hình thức thực hiện pháp luật
+ Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật
cấm được thực hiện ở hình thức này.
VD: một công dân không thực hiện những hành vi tội phạm được qui định trong bộ luật
hình sự, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của bộ luật này.
+ Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hoạt động tích cực. Các quy phạm pháp luật bắt
buộc (các quy phạm quy định nghĩa vụ chủ thể phải tiến hành những hành vi tích cực nhất
định) được thực hiện ở hình thức này.
VD: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy hiểm đến tính
mạng và người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động tích cực thi hành qui định
về nghĩa vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói riêng.
+ Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không
thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
Như vậy hình thức này khác với 2 hình thức trên ở chỗ chủ thể không bị buộc không
được làm hoặc phải làm một việc nào đó mà được tự do lựa chọn theo ý chí của mình.
VD: việc thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử, quyền khiếu nại và tố cáo…
+ Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua
cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện
những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp
132
luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp
luật.
VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt
64.2. Mục đích, ý nghĩa của thực hiện PL:
Việc thực hiện PL có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống. Bằng việc thực hiện PL,
các quy định của PL từ trong nguồn luật khác nhau đã đi vào đời sống, trở thành hành vi
thực tế của các chủ thể. Nhờ đó, PL phát huy vai trò của nó trên thực tế, làm cho đời sống
XH ổn định, trật tự và có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các quyền, lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức được đảm bảo, bảo vệ, đời sống XH được an toàn. Thông qua việc
thực hiện PL, những hạn chế khiếm khuyết (nếu có) của PL sẽ được bộc lộ, nhờ đó, PL có
thể được hoàn thiện một cách kịp thời.

65. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật. Trình bày các yếu tố ảnh hưởng tới việc
thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện PL diễn ra phổ biến trong đời sống hàng ngày, vậy nên những yếu tố ảnh
hưởng cũng rất phong phú, đa dạng
1.Sự phát triển kinh tế xã hội
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống
các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong
thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện
thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội chậm
phát triển, kém năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện
pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết
pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp
luật của các chủ thể pháp luật.

133
Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác
nhau, do đó nó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật ở nước ta. Kinh tế
có phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi ích kinh tế được
đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách pháp luật,
sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của
các chủ thể đối với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính
tích cực, thuận chiều, phù hơp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành.
2. Yếu tố chính trị.
Yếu tố chính trị là toàn bộ yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và quá trình tổ chức, thực hiện chúng; các quan hệ
chính trị và ý thức chính trị, hoạt động của hệ thống chính trị. Cùng với đó là nền dân chủ
xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội. Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu
quae của hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân,
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Một đất nước có môi trường chính
trị ổn định là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật, bởi nó củng
cố niềm tin của người dân, để họ tin và đi theo Đảng. Một đất nước bất ổn về chính trị
sẽ luôn khiến người dân hoang mang, lo lắng, dao động…và dẫn đến việc thực hiện pháp
luật không tốt. Nhận thấy đây là một trong những yếu tố quan trọng cho việc thực hiện
pháp luật hiệu quả, chính xác. Hiện nay Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo sâu sát đối với
việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức nhằm nâng cao ý thức chính trị cũng như hiểu biết
pháp luật cho các Đảng viên và đã đạt được kết quả tốt đẹp, để các Đảng viên luôn là
những người đi trước, gương mẫu thực hiện pháp luật, từ đó tăng được lòng tin của quần
chúng nhân dân.

134
3. Yếu tố văn hóa - đời sống.
Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động
thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông
thôn.
Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thực
hiện pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã hội ở đo thị
cao. Cư dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích
cực tham gia vào các hoạt động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Các
phong trào có sức huy động quần chúng ở các đô thị thường diễn ra nhanh hơn so với ở
nông thôn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đô thị thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã
hội có trình độ học vấn tương đối cao. Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp về xã hội cơ
bản tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là
điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực
hiện pháp luật. Mặt khác, đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận không thể thiếu trong
dân cư đô thị thường được gọi dưới cái tên “những phần tử ngoài lề xã hội”. Về phương
diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm nhiều tới mức
đáng báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi, bảo vệ
pháp luât.
Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và rất chặt chẽ, liên kết
cả thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác . Điều
đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong
gia đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Người dân nông thôn thường sống đoàn kết gắn bó
với quê hương làng xóm, rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Đây là một biểu hiện rất riêng,
rất đặc thù của lối sống nông thôn Việt.
Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự
kiện pháp luật hiện tượng xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng
lớp xã hội. và của các cơ quan chức năng, nêu lên những tấm gương điển hình người tốt
135
việc tốt trong việc thực hiện pháp luật… Những thông tin đó ở chừng mực khác nhau tác
động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi con người, khiến cho họ thực hiện pháp
luật tốt hơn.
4. Yếu tố pháp luật
Bản thân pháp luật được sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội là cơ sở để các chủ
thể thực hiện pháp luật. Song chính các mặt, khía cạnh khác nhau của các chuẩn mực pháp
luật cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thực hiện pháp luật.
Các yếu tố truyền thống cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động thực
hiện pháp luật trong giai đoạn hiện tại. Sự quản lý Nhà nước bằng pháp luật là nhằm
khắc phục tính thiển cận, cục bộ trong quá trình phát triển, sản xuất, xây dựng làng xã trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Thông qua pháp luật, Nhà nước nhắc nhở, duy trì mọi nghĩa
vụ của người dân và làng xã đối với Nhà nước và xã hội. Trong quá trình phát triển Nhà
nước thừa nhận làng có lệ riêng của mình sao cho không trái với nguyên tắc quy định của
pháp luật. Hệ thống tự quản chủ yếu dựa vào dư luận xã hội, uy tín của các vị chức sắc và
đặc biệt vai trò của lệ làng. Cần kết hợp cả hai hình thức quản lý này trong hoạt động thực
hiện pháp luật.

66. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của hoạt
động áp dụng pháp luật.
66.1. Khái niệm áp dụng PL:
Định nghĩa: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành, thông
qua những trình tự thủ tục chặt chẽ mà PL quy định, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp
luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Đặc điểm:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước: Hoạt
động áp dụng pháp luật chỉ các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy
136
định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cũng chỉ được phép áp dụng pháp luật trong
một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ
quan, tổ chức nhà nước thì chỉ có tòa án mới có quyền xét xử để định tội và định hình hình
phạt cho người phạm tội cũng như để giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia
đình…; chỉ ủy ban nhân dân mới có quyền xem xét để cấp giấy khai sinh cho trẻ em, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng.
Khi ADPL, chủ thể có thẩm quyền có thể nhân danh quyền lực NN, sử dụng quyền lực
NN để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc
thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định này luôn
thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền AD mà không phụ thuộc vào ý chí
của đối tượng áp dụng và được NN bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên ý chí đơn phương của
chủ thể có thẩm quyền ko thể là ý chí cá nhân, tùy tiện của người áp dụng mà phải là ý chí
được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật. VD:
Các thí sinh khi tham dự kì thi tuyển sinh ai cũng muốn trúng tuyển và được gọi nhập học,
song cơ sở đào tạo phải căn cứ vào quy định của pháp luật để quyết định những người
trúng tuyển và gọi nhập học
+ Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện
bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước.
- ADPL có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện PL vừa là hình thức NN tổ
chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của PL vì vậy hoạt động này phải được tiến
hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do PL. Vì thế những hoạt động này
phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy
định. Trình tự thủ tục này thường khác nhau trong các trường hợp áp dụng pháp luật khác
nhau tùy theo quy định cụ thể của pháp luật. VD: Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các chủ thể khác với trình tự, thủ tục cấp giấy chứng kết hôn hoặc
khác trình tự, thủ tục tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp..

137
Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do PL
quy định. (mục đích: nhằm tránh sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước, nếu quá trình áp
dụng sai thì kết quả cũng sẽ sai)
Nói chung, các quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ra trong quá
trình áp dụng pháp luật, có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của đối tượng áp dụng, nó có thể
mang lại cho người ta lợi ích rất lớn (ví dụ, quyết định giao quyền sử dụng đẩt, quyết
định tăng lương, quyết định công nhận tốt nghiệp,,,) song nó cũng có thể bắt người ta phải
gánh chịu những hậu quả rất nặng nề ( ví dụ, quyết định xử phạt hành chính, bản án
hình sự…). Do vậy, để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của quá trình áp dụng pháp luật,
hoạt động này không thể được tiến hành một cách tùy tiện mà phải tuân theo những trình
tự, thủ tục và trên cơ sở những điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Đương nhiên,
trình tự, thủ tục đó không thể như nhau trong tất cả các vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ
việc này sang vụ việc khác tùy theo tính chất của vụ việc. Vi dụ, trình tự, thủ tục xem xét
để cấp giấy chứng nhận kết hôn sẽ khác với trình tự , thủ tục công nhận tốt nghiệp cho
người học, càng khác với trình tự, thủ tục xử phạt người vi phạm hành chính.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối
với các quan hệ xã hội nhất định.
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ thể cụ
thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp dụngvào việc
giải quyết một vụ việc thực tế của chủ thể cụ thể thì có nghĩa là quy phạm đó đã được cá
biết hóa vào trường hợp của chủ thể đó. Ví dụ, quyết định tuyển dụng một người nào đó
làm giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội là sự cá biệt hóa về quy phạm về quyền
và nghĩa vụ lao động của công dân vào trường hợp của người được tuyển dụng. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, các quy phạm được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể
hay được cá biệt hóa phải là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các quy phạm pháp luật
đang còn hiệu lực pháp lí. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền
không thể lựa chọn và áp dụng các quy phạm đã hết hiệu lực.
138
Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy
định của PL)
Có 1 số vụ việc khi xét đến, mà trong PL chưa quy định hoặc quy định chưa rõ
ràng thì các chủ thể có thẩm quyền phải vận dụng sáng tạo việc áp dụng tập quán hoặc áp
dụng pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. (Để t/h nhà chức trách phải có ý thức Pl cao,
tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức, và có tay nghề cao).
Có thể nói, áp dụng pháp luật bao hàm cả ba hình thức tuân theo, thi hành và sử
dụng pháp luật, bởi vì, trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền cũng có
thể bị cấm thực hiện những hành vi nhất định, và họ phải tuân theo pháp luật, họ cũng phải
thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành pháp luật, đồng thời có
những quyền hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp luật.
66.2. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng PL:
PL sau khi được ban hành và có hiệu lực phải được các chủ thể thực hiện một cách
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp các quy định của PL ko được thực
hiện, thực hiện ko nghiêm chỉnh bởi những nguyên nhân từ phía các cá nhân, tổ chức trong
XH; nhiều trường hợp quy định của PL ko được thực hiện bởi thiếu tác động từ phía các cơ
quan, nhà chức trách có thẩm quyền. Trong tất cả các trường hợp đó đều đòi hỏi sự can
thiệp của các chủ thể có thẩm quyền nhằm làm cho các chủ thể khác trong XH thực hiện
đầy đủ, đúng đắn, nghiêm chỉnh các quy định của PL. Hoạt động áp dụng PL luôn được
tiến hành thông qua những quan hệ PL cụ thể, trong đó, một bên chủ thể là cơ quan, nhà
chức trách tiến hành ADPL, một bên chủ thể là cá nhân, tổ chức được (bị) ADPL. Đây là
hình thức thực hiện PL vô cùng quan trọng.

139
67. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các bảo đảm của hoạt động áp
dụng pháp luật. (đặc điểm)
1. Phân tích (Như câu 66)
2. Trình bày:
Các bảo đảm của hoạt động áp dụng pháp luật:
- Ảnh hưởng đến pháp luật:
• triệt để hoặc nghiêm minh
• tốt hoặc không tốt
• dễ dàng hay khó khăn
- Yếu tố:
• Bản thân pháp luật (mức độ hoàn thiện của hệ thông pháp luật): toàn diện, thống
nhất, đồng bộ, phù hợp, khả thi, kĩ thuật pháp lí
• Công tác tổ chức, thực hiện pháp luật: vấn đề lớn
• Trình độ dân trí (người dân), ý thức pháp luật (nhà chức trách): ý thức chính trị
• Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, xử lí vi phạm pháp luật

68. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các biện pháp khắc phục hạn
chế (nếu có) trong hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
1. Phân tích: Như trên.
2. Biện pháp:
- Chỉnh đốn công tác tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan Hành pháp:
- Nâng cao thẩm quyền của quốc hội trong hoạt động lập pháp, nhất là soạn thảo chính
sách luật.
- Tăng cường giám sát, kiểm tra, lên án hành vi tiêu cực trong áp dụng pháp luật (hối lộ,
lạm quyền..)
- Cho phép người dân tham gia nhiều hơn vào giám sát kiểm tra hoạt động hành pháp,
thực hiện phương châm : “Dân biết, dân làm, dân kiểm tra”
140
69. Phân tích khái niệm giải thích pháp luật. Trình bày sự cần thiết của việc giải thích
pháp luật.
69.1. Giải thích PL:
Giải thích PL là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng, ý nghĩa của QPPL; bảo đảm cho PL
được nhận thức và thực hiện đúng đắn, thống nhất.
Giải thích PL là hoạt động được tiến hành thường xuyên. Nó được chia thành hai hình
thức sau:
a. Giải thích PL chính thức:
Đây là hoạt động giải thích PL của các chủ thể có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền
là các cá nhân, tổ chức, cơ quan NN được PL trao quyền giải thích. Giải thích PL chính
thức có thể được tiến hành bởi chính CQ đã ban hành ra VBPL cũng có thể trao quyền giải
thích cho những CQ khác…
Giải thích PL chính thức được thể hiện dưới hình thức VB và gọi là VB giải thích PL.
Khi giải thích chính thức, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo những trình tự, thủ tục
chặt chẽ do luật quy định.
Nội dung giải thích PL chính thức có thể có tính quy phạm hoặc có tính cụ thể. Trong
giải thích có tính quy phạm, nội dung lời giải thích là khuôn mẫu để thực hiện nhiều lần
trong thực tế. Giải thích có tính cụ thể chỉ được áp dụng một lần trong một vụ việc cụ thể.
Khi giải thích về một quy định nào đó, chủ thể giải thích chính thức đưa ra các tình huống
thực tế có thể xảy ra và hướng dẫn giải quyết sự việc theo quy phạm cụ thể nào trong VB.
Nội dung giải thích PL chính thức có giá trị bắt buộc phải thực hiện như chính quy định
được giải thích. Đương nhiên VB giải thích chính thức sẽ hết hiệu lực khi VB được giải
thích hết hiệu lực trong thực tế.
b. Giải thích PL ko chính thức:
Đây là hoạt động giải thích PL của tất cả các cá nhân, tổ chức nào trong XH. Hình
thức giải thích PL này rất phổ biến trong thực tế, mang tính quảng đại quần chúng. Giải
141
thích PL ko chính thức thường được thể hiện trong các bài viết, bài bình luận hay bài phân
tích về PL trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế giải thích ko chính thức
thường mang tính chủ quan, có thể ko chính xác và chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với người
được giải thích. Mặc dù vậy, giải thích PL của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lí, các
luật gia có uy tín… có ảnh hưởng lớn tới nhận thức và hành vi của người dân.
69.2. Trình bày sự cần thiết của việc giải thích pháp luật.
Để việc quản lí XH đạt hiệu quả cao nhất thì PL phải phát huy hết vai trò tác động vào
các QHXH. Muốn vậy khi ban hành PL, các chủ thể có thẩm quyền phải xem xét để đảm
bảo tạo ra được hệ thống quy tắc xử xự thể hiện được đúng ý chí của NN, đồng thời PL
phải được thực hiện đúng, thống nhất trong phạm vi cả nước. Thực tiến cho thấy, việc ban
hành PL được tiến hành bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau. Tình trạng mâu thuẫn,
chồng chéo, trùng lặp giữa các VBQPPL đã xảy ra, nhiều trường hợp có những quy định
PL trìu tượng, chung chung, mập mờ, ko rõ nghĩa, gây khó khăn cho các chủ thể trong việc
thực hiện, nhất là trong hoạt động áp dụng PL.
- Khắc phục tình trạng trên, cần thiết phải có hoạt động giải thích PL, nhằm làm sáng tỏ về
nội dung, tư tưởng, mục đích, hoàn cảnh, ý nghĩa của các quy định trong PL, làm rõ
mqh giữa các QPPL trong cùng một VB cũng như trong các VB khác nhau, đảm bảo cho
việc thực hiện và áp dụng PL được đúng đắn, chính xác, thống nhất trong cả nước.

70. Phân biệt vi phạm pháp luật với các vi phạm khác trong xã hội. Cho ví dụ.
Căn cứ để phân VPPL Vi phạm khác trong XH
biệt
Khái niệm Là hành vi trái PL, có lỗi, do chủ Là những hành vi trái đạo đức
thể có năng lực trách nhiệm pháp XH, trái với quy định của các tổ
lí thực hiện, xâm hại các QHXH chức trong XH, trái phong tục tập
được PL bảo vệ. quán… nhưng ko trái với PL.

142
Đặc điểm - Là hành vi trái PL, bị PL cấm, - Ko trái với PL, những hành vi vi
hành vi vượt quá sự cho phép phạm ko gây ra hoặc đe dọa gây
của PL, hành vi ko thực hiện sự thiệt hại cho XH và chưa được
bắt buộc của PL hay hành vi thực PL quy định đến.
hiện ko đúng cách thức mà PL
yêu cầu. Hành vi đó có thể gây
ra hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
XH và phải được PL quy định.
Chế tài - Một ng được cho là có năng lực - Hình phạt theo quy định mà tổ
trách nhiệm pháp lí khi họ đạt chức XH đặt ra
đến một độ tuổi do PL quy định - Với hành vi vi phạm đạo đức,
- Chịu trách nhiệm hành vi của tôn giáo… nhận sự chỉ trích, lên
mình theo độ tuổi quy định trong án từ XH.
PL, chế tài nghiêm khắc được
thể hiện bằng VBPL cụ thể.

71. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích các dấu hiệu của vi phạm
pháp luật đó.
A (29 tuổi) yêu B (27 tuổi), hai người đã đến tuổi kết hôn nhưng A ko có tiền để lo cưới B,
trên đường A về nhà B ra mắt bố mẹ, A đã nảy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 12h trưa, khi
A đi qua đồng, A thấy C đang nghe điện thoại mà ko để ý đến túi xách, nhân lúc đường
vắng người , A đi xe máy phóng qua và dùng tay phải cướp cả ví và điện thoại của C, trong
ví C có 10 triệu và thẻ khác. Ngay sau đó C đi báo công an địa phương và A bị bắt.
Đây là một VPPL vì:
- VPPL là hành vi thực tế của con người: A do ko có tiền nên nảy sinh ý định trộm cắp
và đã cướp của C
143
- VPPL là hành vi trái PL: A đã cướp túi xách và điện thoại của C. Hành vi của A được
quy định trong điều 173 BLHS 2015.
- VPPL do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện : A đã ở độ tuổi trưởng
thành có thể tự nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi VPPL của mình.
- VPPL luôn chứa đựng lỗi của chủ thể: A hoàn toàn tỉnh táo và bình thường, A lựa chọn
trộm cắp để có tiền cho bản thân.

72. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích cấu thành của vi phạm
pháp luật đó.
a. Mặt khách quan:
- Hành vi trái PL: Khoảng 12h trưa nhân lúc đường vắng người, A thấy C đang nghe điện
thoại mà ko để ý đến túi xách, A đã cướp cả ví và điện thoại của C, trong ví C có 10 triệu
và thẻ khác.
- Hậu quả: C bị mất cả ví và điện thoại
- Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm:
+ Thời gian: khoảng 12h trưa
+ Địa điểm : bên cánh đồng
+ Công cụ: A dùng xe máy đi qua và cướp đồ bằng tay phải
b. Mặt chủ quan:
- Lỗi của chủ thể gây VPPL: trong trường hợp này A mắc lỗi cố ý, nghĩa là A hoàn toàn
tỉnh táo và nhận thức được hành vi vi phạm của mình.
- Động cơ vi phạm: do ko có tiền để hỏi cưới B
- Mục đích của vi phạm: chiếm đoạt tài sản cá nhân của C, bao gồm túi xách và điện thoại
c. Chủ thể của VPPL: anh A ở độ tuổi trưởng thành có đủ năng lực pháp lí chịu trách
nhiệm với hành vi mà mình gây ra.
d. Khách thể của VPPL: đối tượng là C và khách thể là tài sản cá nhân của C

144
73. Phân tích khái niệm truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trình bày mục đích, ý nghĩa
của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý.
73.1. Khái niệm:
- Trách nhiệm pháp lý của chủ thể VPPL là sự bắt buộc chủ thể VPPL phải gánh chịu
những hậu quả pháp lí bất lợi, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa NN với chủ thể VPPL,
được pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể VPPL bị áp dụng những biện pháp
cưỡng chế được pháp luật quy định
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động thể hiện quyền lực của NN do CQNN hay
nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hóa bộ phận chế tài của QPPL đối
với các chủ thể VPPL.
- ĐẶC ĐIỂM:

+) Chỉ được áp dụng khi có vi phạm pháp luật xảy ra. Vi phạm pháp luật là cơ sở thực
tế của trách nhiệm pháp lý. Không có vi phạm pháp luật sẽ không có trách nhiệm pháp lý.
Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ được áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật ( chủ thể
có khả năng trách nhiệm pháp lý )

+) Chủ thể tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý chủ yếu là các cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và mỗi chủ thể đó cũng chỉ
được truy cứu trách nhiệm pháp lý trong 1 phạm vi nhất định theo quy định của pháp lý.
Chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý là chủ thể vi phạm pháp luật

VD: toà án hình sự truy cứu trách nhiệm hình sự, toà án nhân sự truy cứu trách nhiệm dân
sự, cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền và nhà chức trách truy cứu trách nhiệm
hành chinh của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị truy cứu trách nhiệm

+) Được áp dụng theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định. Việc truy cứu trách
nhiệm hình sự , trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chinh, trách nhiệm kỷ luật phải được
tiến hành theo những quy định pháp luật về tố tụng hình sự , dân sự, thủ tục và trình tự xử
phạt hành chinh, thủ tục và trình tự xét, quyết định kỷ luật.

+) Luôn gắn liền với biện pháp cưỡng chế có tích chất trừng phạt. các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật ( chế tài hình

145
sự, chế tài kỷ luật, chế tài hành chính ). VD: cưỡng chế hành chính nhằm ngăn chặn dịch
bệnh, trưng thu có bồi hoàn hặc không có bồi hoàn,…

73.2. Phân tích MỤC ĐÍCH, ý nghĩa của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể VPPL

- Truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật là nhằm bảo vệ chế
độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo
cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả

- Truy cứu trách nhiệm pháp lý nhằm mục đích trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp
luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy
định trong các quy phạm pháp luật. ngoài ra còn có ý nghĩa lớn trong việc phòng ngừa, cải
tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật

- Truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có tác dụng răn đe những chủ thể khác khiến họ phải
kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giaó dục các tổ chức và các cá nhân ý thức
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm
cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật, từng bước hạn chế và tiến tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống
xã hội.

Ý NGHĨA: bao trùm, xuyên suốt hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí là nhằm bảo vệ
trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong
xã hội, đảm bảo cho các quan hệ xã hội diễn ra trong ổn định, trật tự, phát triển một cách
bình thường. Đồng thời, truy cứu trách nhiệm pháp lý nhằm xử lí người vi phạm pháp luật,
trừng phạt họ, qua đó cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật của họ.
Bên cạnh đấy truy cứu trách nhiệm pháp lý cũng nhằm răn đe, phòng ngừa đối với
những chủ thể khác trong xã hội, làm cho họ nhận thức được tính nghiêm minh của luật
pháp mà không dám vi phạm pháp luật, ngoài ra, trong một số trường hợp, truy cứu trách

146
nhiệm pháp lí còn nhằm khôi phục trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội trước khi bị
xâm hại.

74. Phân tích yêu cầu, đòi hỏi đối với hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nghĩa
là, hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành đúng thẩm quyền, theo đúng
trình tự, thủ tục mà PL quy định, có căn cứ pháp lí vững chắc, đúng người, đúng vi phạm,
đúng Pl, tránh oan sau nhưng ko bỏ lọt vi phạm.
+ Bảo đảm tính hợp lí trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, nghĩa là quyết định
áp dụng PL được ban hành khi truy cứu trách nhiệm pháp lí phải phù hợp với các điều kiện
hiện thức để có thể thi hành được đồng thời phải đảm bảo tính có lợi nhất về tất cả các mặt
KT, chính trị, VH-XH.
+ Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ các quyền, các giá trị con người. Ko áp dụng những biện pháp cưỡng chế có tính
chất làm nhục con người. Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối,
lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm và VPPL có tính chuyên nghiệp. Khoan hồng đối
với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, ăn năn hối cải, lập công,
tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
+ Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng,
nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm pháp lí được thuận lợi, ngăn chặn kịp thời các
VPPL tương tự có thể xảy ra cũng như ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực trong quá trình truy
cứu trách nhiệm pháp lí.
+ Bảo đảm nguyên tắc công bằng trong truy cứu trách nhiệm pháp lí.

75. Phân tích ý nghĩa của từng yếu tố trong cấu thành vi phạm pháp luật đối với việc
truy cứu trách nhiệm pháp lý.
147
1. Khái niệm :
VPPL, truy cứu trách nhiệm pháp lí
2. Ý nghĩa:
a. Ý nghĩa của yếu tố khách quan đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí:
- Hành vi VPPL chính là yếu tố bắt buộc trong VPPL vì đây là yếu tố xác định chủ thể có
VPPL hay ko, hay chủ thể có tội hay ko. Từ đây các cơ quan có thẩm quyền mới tiếp tục
tìm hiểu về VPPL và truy cứu trách nhiệm pháp ló mà chủ thể phải gánh chịu với hành vi
của mình.
- Dựa vào mức độ hậu quả mà hành vi VPPL gây ra mà cơ quan có chức năng quyết định
tới hình thức trách nhiệm của chủ thể vi phạm là nặng hay nhẹ, bị phạt án tù hay hưởng án
treo…
- Viêc xác định công cụ, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi trái PL là căn cứ để chứng
minh rằng chủ thể đó có VPPL và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình hay
ko.
b. Ý nghĩa của các yếu tố về mặt chủ quan đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí:
- Lỗi là yếu tố bắt buộc phải có của mặt chủ quan hay trong một VPPL. Cũng như hành cvi
trái PL của mặt khách quan thì việc xác định lỗi của chủ thể cũng là việc xác định chủ thể
có VPPL hay ko và từ đó các cơ quan chức năng quyết định có truy cứu trách nhiệm pháp
lí của chủ thể hay ko. Lỗi được chia thành 4 loại: lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô
ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
- Động cơ tuy kp là yếu tố bắt buộc trong mặt chủ quan của VPPL, tuy nhiên yếu tố này có
ý nghĩa trong việc xác định tính chất hành vi đó là việc tăng nặng hay giảm nhẹ tội mà chủ
thể phải gánh chịu.
- Mục đích gắn liền với lỗi cố ý trực tiếp nên việc xem xét mục đích cũng có ý nghĩa trong
việc tăng năng hay giảm nhẹ tội do chủ thể gây nên.
c. Ý nghĩa của yếu tố chủ thể đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí:

148
- Việc xem xét tới chủ thể của VPPL có ý nghĩa trong việc cấu thành nên tội danh của chủ
thể VPPL hay có truy cứu trách nhiệm pháp lí với chủ thể đó hay ko. Chủ thể phải được
xem xét trên hai phương diện là người có năng lực trách nhiệm pháp lí và đạt độ tuổi theo
quy định của PL
d. Ý nghĩa của yếu tố khách thể :
Tùy vào từng QHPL mà khách thể là yếu tố có ý nghĩa để xác định mức độ nguy hiểm của
hành vi VPPL.

76. Phân tích căn cứ đánh giá ý thức pháp luật của một cá nhân, liên hệ bản thân.
1. Khái niệm:
- Ý thức PL: là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, thái độ, tình
cảm của con người đối với PL và các hiện tượng pháp lí khác, thể hiện mối quan hệ giữa
con người đối với PL và sự đánh giá về mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay
ko hợp pháp…đối với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lí và
XH.
- Ý thức PL cá nhân: là quan niệm, sự hiểu biết và tình cảm, thái độ của cá nhân con người
đối với PL và các hoạt động thực tiến pháp lí.
- Ý thức PL cá nhân phản ánh đặc điểm nhân cách cá nhân và điều kiện tồn tại của mỗi .
Điều này cũng có nghĩa là khoảng cách và sự khác biệt nhất định về ý thức PL giwuax các
cá nhân CD trong XH luôn tồn tại và rất khó đem lại sự tương đồng.
- Tuy nhiên, ý thức PL cá nhân là cơ sở tạo lập ý thức PL XH. Việc giáo dục PL, nâng ý
thức PL nói chung chỉ có hiệu quả thực sự khi giải quyết được một cách căn bản những
vấn đề thuộc về điều kiện tồn tại và ý thức của mỗi cá nhân.

149
77. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng pháp luật, liên hệ
thực tiễn Việt Nam.
- Quản lí XH bằng PL đòi hỏi phải quan tâm công tác XDPL. Hoạt động XDPL là một
trong những hoạt động cơ bản của NN nhằm “đưa” ý chí của lực lượng cầm quyền lên
thành PL. Do đó, XDPL là quá trình dựa trên sự nhận thức đầy đủ về nhu cầu của đời sống
thực tiến, đặc điểm của QHXH và mục đích điều chỉnh đối vs QHXH đó.
- Ý thức pháp luật là tiền đề trực tiế p cho hoạt động xây dựng pháp luật,
cụ thể là cho hoạt động soạn thảo, xây dựng đề án, dự thảo văn bản pháp
luật; là yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định đối với nội dung của văn bản
pháp luật. Vai trò của ý thức PL:
* Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách PL và các yêu
cầu của việc điều chính PL.
* Nâng cao khả năng thực hiện việc quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh
PL và xác định các chuẩn mực pháp lí phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực
tế.
* Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL đúng quy trình kĩ
thuật pháp lí, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn
nhau trên thực tế.
* Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hóa PL đặc biệt hoạt
động pháp điển QPPL trên thực tế.
Ví dụ, nếu ý thức pháp luật của các nhà làm luật - những người trực
tiếp soạn thảo ban hành pháp luật đúng đắn thì họ sẽ cho ra đời những văn
bản pháp luật có chất lượng, phù hợp cuộc sống. Trong trường hợp ngược lại
- sẽ cho ra đời văn bản pháp luật sai, không kh ách quan, không phù hợp cuộc
sống, không khả thi... Những năm gần đây, do ý thức p háp luật của các nhà
làm luật được nâng cao (thể hiện ở trình độ lý luận, tư duy pháp lý và tình
cảm thái độ của họ về pháp luật) nên nhìn chung đã cho ra đời những văn
150
bản pháp luật có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống; tiêu biểu
như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự mới năm 1999, Luật Doanh nghiệp.....
Tuy vậy, vẫn còn nhiều quy định pháp luật bất cập , lạc hậu, chưa
phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của các qu an hệ xã hội. Như trong
lĩnh vực kinh doanh, pháp luật về cạnh tranh còn thiếu; ph áp luật về giáo
dục, đào tạo còn nhiều bất cập, thường xuyên thay đổi....nhiều khi rơi vào
tình trạng: vừa thừa, vừa thiếu pháp luật; hoặc luật khó hiểu, hiểu thế nào
cũng được, hoặc quy định quá chung chung....
Trong xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật c ủa người dân cũng có ý
nghĩa quan trọng, bởi vì họ là những người được tham gia góp ý kiến xây
dựng pháp luật. Nếu ý thức pháp luật của họ tốt họ sẽ có những đóng góp ý
kiến đúng đắn, có chất lượn g hoặc ngược lại, nếu ý thức pháp luật của họ
thấp, sai lệch..., việc góp ý kiến của họ sẽ không có chất lượng, thậm chí có
khi phản tác dụng.

78. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật, liên hệ
bản thân.
Việc thực hiện PL một cách chủ động, đúng đắn trước hết phụ thuộc vào sự hiểu biế PL
và thái độ pháp lí của chủ thế. Khi chủ thể hiểu được nội dung của các QPPL tức là thấy
được những điều mà PL cho phép, bắt buộc hoặc ngăn cấm gắn kiền với những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định. Muốn thực hiện PL tốt cần phải hiểu biết PL, đòi hỏi chủ thể phải tự
tạo lập tiền đề, nền tảng ý thức PL đúng đắn, tích cực để chủ động xác lập những hành vi
trong giới hạn được PL quy định.
Hình thành một lối sống theo PL trước hết và quan trọng nhất là ý thức PL của mỗi
người. Vai trò của ý thức PL trong việc xây dựng lối sống theo PL thể hiện thông qua việc:
+ Tiếp nhận chọn lọc lối sống công nghiệp, hiện đại phù hợp với bản sắc dân tộc; hiểu biết
tôn trong và sử dụng PL làm thước đo khi tham gia QH và các hoạt động pháp lí.
151
+ Loại trừ lối sống theo đại đức, phong tục tập quán… Hạn chế, xóa bỏ các quan niệm,
phong tục, tập quán lạc hậu cản trở, làm giảm thiểu tính hiệu quả thực thi PL, phủ nhận các
giá trị pháp lí tích cực.
+ Ko khoan nhượng đối với hiện tượng VPPL; tích cực đấu tranh chống VPPL dựa trên
nguyên tắc pháp chế thống nhất và sự công bằng, bình đẳng về trách nhiệm đối với XH.

79. Phân tích khái niệm giáo dục pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của việc giáo
dục pháp luật.
1. Khái niệm:
- GDPL là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới
nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp lí nhất định để từ đó
có ý thức đúng đắn về PL, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của PL.
2. Mục đích:
Có ba mục đích chính:
a. GDPL nhằm nâng cao khả năng nhận thức pháp lí, sự hiểu biết PL, hình thành tri
thức PL cần thiết cho các chủ thể (với tính cách là đối tượng nhận thức hay là đối tượng
giáo dục). Đây là mục đích hàng đầu của GDPL bởi lẽ sự hiểu biết PL có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm sự phát triển của tư duy pháp lí, định hướng các hành vi của chủ thể
trên thực tế.
b. GDPL nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với PL. Để hình
hành lòng tin và đem lại thái độ đúng đắn, tích cực đối với PL ở mỗi người cần phải giải
quyết nhiều vấn đề có liên quan, trong đó GDPL là hoạt động cơ bản. Cần GD tình cảm
công bằng, khoan dung, ý thức trách nhiệm, thái độ ko khoan nhượng trước các hành vi
VPPL và thái độ tôn trọng pháp luật, pháp chế.
c. GDPL nhằm hình thành thói quen xử sự theo PL với động cơ tích cực. Mục đích của
GDPL ko chỉ cung cấp những kiến thức lí luận hoặc các quy định PL cụ thể mà quan trọng
hơn là tạo lập được thói quen xử sự theo PL ở mỗi loại chủ thể trong XH.
152
Ý nghĩa của việc giáo dục pháp luật:
- Có những thái độ cơ đúng đắn trong thực hiện pháp luật
- Khi có được niềm tin vào trong pháp luật thì sẽ giúp cho chủ thể có thêm lòng tin
vào chủ chương đường lối của nhà nước
- Tạo nên xã hội văn minh tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền
80. Phân tích các biện pháp cơ bản để nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện
nay.
Các biện pháp cơ để nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay:
- Hoàn thiện pháp luật
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật
- Áp dụng pháp luật đúng đắn, hợp lí
- Giáo dục nâng cao ý thức pháp luật:
• Giáo dục trong nhà nước: đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
thực hiện pháp luật chính quy, bài bản
• Giáo dục pháp luật thông qua phương tiện đại chúng
• Giáo dục thông qua hoạt động hành pháp, tư pháp, lập pháp
• Thông qua hoạt động của cơ quan chuyên trách
• Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lí
• Thông qua các cuộc thi về pháp luật
• Giáo dục trong nhà trường
• ….
- Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách đông
đảo vào hoạt động xây dựng pháp luật
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật

153

You might also like