You are on page 1of 26

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT


***

THẢO LUẬN MÔN HỌC


MÔN TỔNG QUAN DU LỊCH

Tên đề tài:

NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẢI TRÍ VÀ DU LỊCH

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Lê Cát Vi


Mã Lớp học phần: 222TM2401
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 7

TP Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2023

1
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ

Mức độ
STT Họ và tên MSSV Phân công nhiệm vụ
hoàn thành

01 Cao Tuyết Ngân K214150974 Nội dung + Thuyết trình 100%

02 Võ Nguyễn Ái My K214152121 Nội dung + Thuyết trình 100%

03 Trương Thị Hiền Diệu K214150966 Nội dung + Thuyết trình 100%

04 Hoàng Hà Phương K214150977 Nội dung + PPT 100%

05 Đinh Phương Thảo K214152129 Nội dung + PPT 100%

2
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 4


I. Tổng quan về ngành du lịch giải trí .............................................................................. 4
1.1. Khái niệm .................................................................................................................. 4
1.2. Lịch sử hình thành ..................................................................................................... 4
1.3. Đặc điểm .................................................................................................................... 5
1.4. Phân loại .................................................................................................................... 6
II. Thực trạng của ngành du lịch giải trí ......................................................................... 6
2.1. Trên thế giới............................................................................................................... 7
2.1.1. Trước Covid ........................................................................................................ 7
2.1.2. Trong Covid ...................................................................................................... 10
2.1.3. Sau Covid .......................................................................................................... 12
2.2. Tại Việt Nam............................................................................................................ 13
2.2.1. Thành tựu trước Covid. .................................................................................... 13
2.2.2. Trong Covid ...................................................................................................... 16
2.2.3. Sau Covid .......................................................................................................... 19
2.2.4. Thách thức trong việc phát triển du lịch giải trí ................................................ 21
2.2.5. Giải pháp ........................................................................................................... 23
III/ Tổng kết ...................................................................................................................... 24
DANH MỤC THAM KHẢO........................................................................................... 25

3
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch giải trí đã trở thành xu hướng phát triển của các quốc gia trên thế giới, thu hút
một lượng lớn khách trong và ngoài nước, tạo ra nhiều cơ hội hơn trong việc tăng trưởng du
lịch, phát triển kinh tế của một quốc gia, cung cấp việc làm và đáp ứng nhu cầu kinh doanh,
tiêu dùng và vui chơi giải trí của người dân. Hiện nay, ở Việt Nam, lĩnh vực này đang nhận
được sự quan tâm của chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế trong việc khai thác, quy hoạch và phát triển khiến cho du lịch giải trí của nước ta
chưa thật sự gây ấn tượng với khách du lịch trong và ngoài nước.

I. Tổng quan về ngành du lịch giải trí


1.1. Khái niệm
Du lịch giải trí (Leisure travel) là việc những người đi du lịch với nhu cầu thư giãn,
nghỉ ngơi, giải trí, thay đổi để phục hồi sức khỏe (thể chất và tinh thần) sau những thời gian
làm việc căng thẳng, mệt mỏi hay muốn thoát khỏi những thói quen trong cuộc sống thường
ngày của họ.

Các loại hình du lịch giải trí nổi bật: thường là các công viên giải trí, khu du lịch, khu
trung tâm thương mại, khu phức hợp giải trí, ...
1.2. Lịch sử hình thành
Ngành du lịch giải trí là một trong những loại hình của ngành du lịch. Vì vậy lịch sử
hình thành của ngành du lịch và du lịch giải trí gần như là giống nhau.

Nói về lịch sử hình thành của du lịch thì du lịch đã xuất hiện trước công nguyên. Nhưng
thời điểm này từ “du lịch” hay còn gọi là khái niệm “du lịch” chưa ra đời thay vào đó chỉ là
“chuyến đi thông thường”. Đa phần là những người giàu có; đi tham quan các công trình kiến
trúc; nghệ thuật; học ngoại ngữ; thưởng thức các ẩm thực ngon lạ, khám phá văn hóa. Những
người đầu tiên bắt đầu đi du lịch một cách đúng nghĩa, chắc chắn bạn sẽ không ngạc nhiên,
đó là người La Mã cổ đại. Vào thời kì này, người La Mã rất giàu có họ thường chuyển tới biệt
thự của họ vào mùa hè. Mục đích chính của chuyến đi hoàn toàn là để giải trí như nhảy múa,
hát hò, đánh bạc và săn bắn. Đây là những cơ sở ban đầu hình thành nên ngành du lịch giải
trí.

Du lịch hiện đại bắt đầu xuất hiện

Vào thế kỷ 18 tại các nước Châu Âu đã xuất hiện các tốp, đội, nhóm tổ chức cùng nhau
đi chơi; thăm bạn bè qua các quốc gia khác, học ngoại ngữ, văn hóa nghệ thuật… và như thế
trào lưu này đã phát triển rất mạnh, thúc đẩy khái niệm “du lịch” ra đời.

4
Từ đây du lịch đã phát triển và thu hút nhiều người quan tâm, nhanh chóng trở thành
một hướng kinh doanh rất tiềm năng.

Đầu thế kỉ 19, nhờ thành quả của cách mạng công nghiệp, quá trình đô thị hoá, sự phát
triển về kinh tế và sự gia tăng thời gian nghỉ, được hưởng lương... du lịch giải trí bắt đầu phát
triển nhanh và trở nên phổ biến đối với cả những người dân thường. Cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh đã tạo ra tầng lớp có thu nhập cao, có đủ khả năng để thực hiện các chuyến du
lịch nghỉ ngơi giải trí. Hơn nữa, thời gian rảnh rỗi để đi du lịch tăng lên nhờ có quy định tăng
lương, giảm giờ làm việc, tăng thời gian nghỉ ngơi, đặc biệt là việc quy định ngày nghỉ được
hưởng lương. Mặt khác, những thành tựu khoa học và công nghệ, đặc biệt là phát minh về
máy hơi nước đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải. Sự xuất hiện các
loại phương tiện vận chuyển chuyên chở được nhiều người, tốc độ cao và giá rẻ như tàu hoả,
tàu thuỷ đã thúc đẩy du lịch giải trí phát triển khá nhanh.

Từ những năm 1950 đến 1970, du lịch giải trí trở thành một phần của văn hoá tiêu dùng,
với sự phát triển của các khu nghỉ mát, khu du lịch và các khu vui chơi giải trí. Các địa điểm
du lịch nổi tiếng như Disneyland và Las Vegas đã trở thành những điểm đến hấp dẫn đối với
du khách từ khắp nơi trên thế giới.

Trong những năm 1980 và 1990, sự phát triển của công nghệ và internet đã thay đổi
hoàn toàn cách thức du lịch giải trí diễn ra. Du khách có thể đặt phòng khách sạn, vé máy bay
và tham quan trực tuyến thông qua internet. Các ứng dụng di động và trang web du lịch cũng
đã giúp cho việc tìm kiếm thông tin về các địa điểm du lịch trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

Hiện nay, du lịch giải trí là một ngành công nghiệp lớn và phát triển với rất nhiều địa
điểm du lịch hấp dẫn trên khắp thế giới. Du khách có thể tham gia vào các hoạt động giải trí
như đi bộ đường dài, trượt tuyết, lướt sóng, đi săn, câu cá, đua xe, đua ngựa, tham quan các
công viên giải trí, các khu vui chơi.
1.3. Đặc điểm

Rất phong phú về loại hình.

Có thể diễn ra trong thời gian ngắn nhưng lại có thể tranh thủ vào bất cứ lúc nào.

Trở thành một nhu cầu bức thiết, hiện tượng xã hội phổ biến đối với các thành phố lớn,
khu công nghiệp tập trung đông dân cư.

Đặc điểm quan trọng của hoạt động vui chơi giải trí hiện đại là tính chất giải trí đối lập
nhau tức là người ta tìm đến môi trường đối lập với họ sống và làm việc. Du lịch giải trí phù

5
hợp với những người đi du lịch mới mục đích thư giãn, đam mê trải nghiệm các loại hình giải
trí, ưa thích sự sôi động, náo nhiệt.

1.4. Phân loại

Du lịch giải trí là loại hình du lịch nhằm mang đến những trải nghiệm giải trí, thư giãn,
giải trí và khám phá cho du khách. Theo cách phân loại chung, du lịch giải trí có thể được
phân loại thành các loại sau:

Du lịch nghỉ dưỡng: Đặc điểm chung của du lịch nghỉ dưỡng là các dịch vụ lưu trú rất
được chú trọng về tiện nghi, an toàn và có đầy đủ dịch vụ tận phòng. Đồng thời du khách có
thể dễ dàng tham gia các hoạt động giải trí và trải nghiệm thú vị ở ngay gần nơi ở. Nhằm mang
lại trải nghiệm thư giãn, giải trí cho du khách, thường đi kèm với các hoạt động thể thao, giải
trí như chơi golf, tắm biển, spa,…

Du lịch mạo hiểm: Loại hình du lịch này chủ yếu liên quan đến các hoạt động thể thao
mạo hiểm, các trò chơi cảm giác mạnh chẳng hạn như leo núi, đi bộ đường dài bắn cung, lướt
ván, lặn biển, nhảy dù, chèo thuyền, khinh khí cầu…

Du lịch chủ đề: Là dạng du lịch theo chủ đề cụ thể như đi tham quan các công viên
giải trí, khu vui chơi, sở thú, thủy cung; tham quan khu trưng bày đồ chơi, điện ảnh; …

Du lịch văn hóa: Đây là loại du lịch lôi cuốn “sự di chuyển của con người từ khu vực
mà họ sinh sống thường ngày đến với các điểm hấp dẫn văn hóa, với mục đích thu thập thông
tin và trải nghiệm mới để đáp ứng nhu cầu văn hóa của họ”. Người đi du lịch có tham gia các
hoạt động, lễ hội văn hóa như: Lễ hội cồng chiêng Tây nguyên, Hội Lim ở Bắc Ninh, Lễ hội
Đền Hùng ở Phú Thọ, Nhã nhạc cung đình Huế…

Nói chung, du lịch văn hóa giúp du khách có những trải nghiệm về các nền văn hóa và
giá trị truyền thống khác nhau. Mục đích du lịch thường bao gồm cả việc tham dự vào các lễ
hội văn hóa.

Du lịch sinh thái: Là loại hình du lịch giúp khách du lịch có được những trải nghiệm
gần gũi với thiên nhiên.

Các loại hình khác: Casino, mua sắm, âm nhạc, ẩm thực, trò chơi điện tử,…

Tùy vào mục đích và mong muốn của mỗi du khách, họ có thể chọn cho mình loại hình
du lịch giải trí phù hợp để tận hưởng kỳ nghỉ của mình.

II. Thực trạng của ngành du lịch giải trí

6
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Trước Covid
Dựa trên số liệu báo cáo của các điểm đến trên toàn cầu, Tổ chức Du lịch thế giới
(UNWTO) ước tính lượng khách du lịch quốc tế (inbound) năm 2018 đạt 1,403 tỷ lượt, tăng
khoảng 75 triệu lượt so với năm 2017 (tăng trưởng 5,6%). Du lịch thế giới đã cán đích trước
2 năm so với mức dự báo dài hạn của UNWTO. Năm 2010, UNWTO đã đưa ra dự báo đến
năm 2020, lượng khách du lịch quốc tế toàn cầu sẽ đạt mức 1,4 tỷ lượt.

Tổ chức Du lịch thế giới cho hay, năm 2018, châu Á và Thái Bình Dương đã đón 345,1
triệu lượt khách quốc tế, tăng 6,5% so với năm 2017, chiếm ¼ tổng lượng khách quốc tế của
toàn cầu.

Trong đó, khu vực Đông Nam Á dẫn đầu khu vực về tăng trưởng khách quốc tế đến với
7,9%. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch thế giới, trong năm 2018, phần lớn các điểm đến ở
Đông Nam Á đều duy trì tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ.

Thái Lan đứng đầu trong khu vực và vượt trội so với các nước khác, duy trì tăng trưởng
ổn định thêm khoảng 2,7 - 2,9 triệu lượt khách/năm trong 3 năm qua.

Ma-lai-xi-a ở vị trí thứ 2 nhưng chững lại, không tăng trưởng trong 3 năm gần đây.

Việt Nam rút dần khoảng cách, bám sát In-đô-nê-xi-a và Xin-ga-po...

Những thị trường nguồn hàng đầu về chi tiêu du lịch ra nước ngoài.

Trong số 10 thị trường nguồn lớn nhất thế giới, tốc độ tăng trưởng cao nhất về chi tiêu
du lịch ra nước ngoài năm 2019 thuộc về Pháp (+10,5%), xếp sau là Ý (+7%) và Mỹ (+ 5.5%).

Theo Vietnamtourism
7
Dù giảm 3.8% so với với năm trước, Trung Quốc vẫn tiếp tục là thị trường có chi tiêu
du lịch ra nước ngoài lớn nhất với 262,1 tỷ USD trong năm 2019. Mỹ đứng ở vị trí thứ hai với
184,2 tỷ USD, tăng 5,6% so với năm 2018, điều này cho thấy nhu cầu đi du lịch nước ngoài
của người dân Mỹ vẫn khá cao.

Theo Statista

Trong đó, vui chơi giải trí là một động cơ lớn thúc đẩy du khách tham gia vào các hoạt
động du lịch, là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn lớn cho các chương trình du lịch. Các hoạt động
vui chơi giải trí giúp du khách có được cảm giác sảng khoái, phấn khích và vui vẻ trên suốt
chuyến đi. Đây là hoạt động có sức lôi cuốn, hấp dẫn giúp kéo dài thêm thời gian lưu trú của
du khách tại điểm du lịch, đem lại doanh thu lớn cho các nhà kinh doanh trực tiếp dịch vụ vui
chơi giải trí và cả những nhà kinh doanh gián tiếp. Chính vì vậy sự có mặt của hoạt động vui
chơi giải trí trong hoạt động du lịch nói chung là hết sức cần thiết.

Ở những nước có nền công nghiệp phát triển và trình độ phát triển kinh tế cao như Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Pháp... nhu cầu vui chơi giải trí là một yếu tố không thể thiếu đối với những
người đi du lịch. Kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy mức chi tiêu cho nhu cầu vui chơi giải
trí đối với du khách Hoa Kỳ chiếm đến 10% tổng thời gian và 20 - 25% tổng chi phí chuyển
đi. Khách du lịch Nhật chi tiêu về giải trí chiếm trên dưới 35% nhưng về thời gian chỉ chiếm
5 - 8% tổng quỹ thời gian của một chuyển du lịch. Du khách Đức và Pháp có mức chỉ tiêu về
thời gian và chi phí cho các dịch vụ vui chơi giải trí khoảng 20%. Tuy nhiên, cũng có nhiều
trường hợp việc chi tiêu cho vui chơi giải trí của khách du lịch là không giới hạn.

8
Từ những thông số trên, có thể nhận thấy vị trí quan trọng của các hoạt động vui chơi
giải trí trong nội dung một chương trình du lịch. Đây là một hoạt động chiếm tỷ phần khá lớn
trong cơ cấu hoạt động du lịch, bởi nó không chỉ đem lại sự thoải mái cho du khách mà còn
có thể mang đến cho các nhà đầu tư du lịch một nguồn lợi nhuận khổng lồ.

Xuất phát từ tầm quan trọng trong việc tạo nên sức hút du lịch mà nhiều nước trên thế
giới đã rất chú trọng đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí hay công viên chủ đề (theme
park) như: Disneyland ở California (Mỹ), các công viên nước ở Tokyo (Nhật Bản), khu
Sentosa Park ở Singapore, Lotte World (Hàn Quốc) ... Mục đích của việc xây dựng những
công trình này là đều nhằm thỏa mãn ngày càng nhiều các nhu cầu đa dạng và khác biệt của
các đối tượng du khách khác nhau. Trên thực tế, những công trình này đã hoạt động rất có
hiệu quả, trở thành những địa chỉ quen thuộc và nổi tiếng đối với du khách, là nơi để du khách
có cơ hội chi tiền hay lưu trú dài ngày và thu về nguồn lợi khổng lồ hàng năm cho ngành du
lịch.

Cụ thể, quy mô thị trường kỳ nghỉ công viên chủ đề (Theme Park) toàn cầu được định
giá 47,2 tỷ USD năm 2018 và ước tính đạt 74,7 tỷ USD năm 2026.

Tại Singapore, theo phân tích của Tổng cục Du lịch nước này, khách du lịch quốc tế
đến Singapore đã không tiếc tiền chi tiêu vào đa dạng loại hình dịch vụ. Trong đó dịch vụ vui
chơi, giải trí, tham quan chiếm đến 22%, thu về gần 1,6 tỷ USD doanh thu. Riêng trong năm
2019, Resorts World Sentosa, quần thể tích hợp đầy đủ các dịch vụ lưu trú nghỉ dưỡng, vui
chơi giải trí, mua sắm hàng đầu Singapore, đã đạt doanh thu du lịch ấn tượng là 2,5 tỷ USD,
lợi nhuận ròng là 689 triệu USD. Lượng khách đến vui chơi tại công viên chủ đề Universal
Studios nằm trong quần thể đã vượt 18 ngàn khách/ngày, doanh thu tăng 10% đạt 167,1 triệu
USD. Từ sức hút của công viên chủ đề, kéo theo đó là công suất phòng khách sạn đạt tỉ lệ lấp
đầy 94% với doanh thu 507,4 triệu USD, tăng 17%.

Sức hấp dẫn của mô hình Công viên chủ đề còn được chứng minh với sự thành công
của Lotte World (Hàn Quốc). Nơi này đã thu hút 7,3 triệu du khách mỗi năm. Walt Disney
Park ghi nhận mức doanh thu từ hoạt động vui chơi giải trí tăng 6% từ 24,7 tỷ USD năm 2018
lên 26,2 tỷ USD 2019.

Sự thành công của các công viên chủ đề trên thế giới với mức doanh thu, lợi nhuận
khổng lồ không ngừng tăng lên mỗi năm. Có thể khẳng định quốc gia nào sở hữu mô hình giải
trí này sẽ nắm trong tay cơ hội bứt phá du lịch một cách ngoạn mục.

Ngoài ra còn có các loại hình giải trí khác được ưa chuộng và phát triển mạnh mẽ
trên thế giới:

 Casino: Đây là một loại hình giải trí còn kém phát triển đối với người Việt Nam, nhưng
9
trên thế giới, đây lại là một ngành công nghiệp kiếm về lợi nhuận khủng và thu hút một
lượng lớn khách du lịch ghé thăm. Những nơi tiêu biểu có thể kể đến là thành phố như
Las Vegas (Mỹ), nơi được mệnh danh là thiên đường giải trí thế giới, hay Macau (Trung
Quốc), Malaysia, Campuchia…
 Phát triển mạnh mẽ dịch vụ giải trí về đêm, thành công trong việc biến các khu chợ địa
phương thành một địa điểm mang tính đặc trưng, bản địa, sầm uất và nhộn nhịp nằm
trong danh sách phải đến của du khách trong và ngoài nước muốn tìm hiểu về văn hóa
và bản sắc như: chợ đêm phố Temple (Hong Kong), chợ Chatuchak (Thái Lan), Chợ
cá Tsukiji (Tokyo)…, cùng với các khu trung tâm mua sắm hiện đại như:
Shinsegae Centum City (Hàn Quốc), King of Prussia Mall (Hoa Kỳ), Siam Paragon
(Thái Lan), thu hút số lượng đông đảo khách du lịch đến vui chơi, mang lại nguồn thu
khủng từ chi tiêu của khách trong và ngoài nước.
2.1.2. Trong Covid
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) cho biết, năm 2021, đại dịch COVID-19 dự kiến
sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu khoảng 2,4 nghìn tỷ USD do sự sụp đổ của ngành du
lịch quốc tế.

Theo Báo cáo của Liên hiệp quốc, lượng khách du lịch quốc tế đã giảm khoảng 1 tỷ
lượt, tương đương giảm 73% trong năm 2020, trong khi trong quý đầu tiên của năm 2021,
mức giảm đã là 88%. Các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là Đông Bắc Á, Đông Nam Á,
Châu Đại Dương, Bắc Phi và Nam Á; trong khi những khu vực bị ảnh hưởng ít hơn là Bắc
Mỹ, Tây Âu và Caribe.

Các nước đều nỗ lực đẩy mạnh chiến dịch tiêm vaccine ngừa COVID-19 – coi đây là
tấm vé thông hành để khởi động lại ngành du lịch. Cùng với đó, những xu hướng mới trong
du lịch cũng xuất hiện để thích ứng và phù hợp với tình hình dịch bệnh nay.

Xu hướng du lịch thời đại dịch

Nếu như trước đại dịch, khách du lịch chỉ cần “xách ba lô lên và đi” bất kể điểm đến là
ở trong nước hay ở nước ngoài, thì hiện nay, khách du lịch cần trải qua các thủ tục kiểm tra y
tế. Theo đó, giấy chứng nhận tiêm vaccine, khẩu trang, … sẽ là những vật dụng không thể
thiếu mà khách du lịch cần mang theo trong một thời gian dài, khi mà dịch bệnh vẫn diễn biến
phức tạp.

Du lịch không chạm – xu hướng tất yếu để hạn chế sự tiếp xúc, ngăn ngừa dịch bệnh.
Từ những khuyến cáo của cơ quan y tế, du lịch không chạm trở thành xu hướng hot hiện nay
và trong tương lai không xa. Không chạm khi đi du lịch không chỉ là hạn chế tiếp xúc giữa
người với người, giữa con người với các vật dụng, bề mặt mà còn là trải nghiệm du lịch với

10
các thiết bị và công nghệ tự động hóa. Trước đây, các loại giấy tờ thông hành được trao tay
khi làm thủ tục, kiểm tra, kiểm soát... Điều này khiến mọi người phải xếp hàng chờ đợi và gia
tăng nguy cơ lây nhiễm. Nhưng với du lịch thời COVID-19, mọi quy trình tại quầy làm thủ
tục, quầy lễ tân sẽ được tự động hóa. Trên máy bay, tại các điểm đến du lịch, tại các nhà hàng,
khách sạn cung ứng dụng nhiều thiết bị không chạm hiện đại như vòi nước cảm ứng; cửa đóng/
mở tự động… Tất cả sẽ giúp hoạt động du lịch trở nên an toàn và tiện lợi hơn rất nhiều.

Du lịch nội địa và gần nhà -Đây là xu hướng nổi bật trong bối cảnh việc đi lại giữa các
nước vẫn có nhiều quy định khắt khe. Theo UNWTO, trong năm 2021, tín hiệu tích cực về du
lịch nội địa đang diễn ra ở nhiều thị trường, với việc người dân có xu hướng đi du lịch gần địa
điểm cư trú. Sự lên ngôi của du lịch nội địa sẽ thúc đẩy nhu cầu về các hoạt động ngoài trời,
gần gũi với thiên thiên và du lịch nông thôn. Các chuyên gia cũng đề cập tới sự nổi lên của xu
hướng “du lịch chậm” và du lịch cộng đồng, hướng tới những trải nghiệm chân thực, trách
nhiệm và bền vững.

Trong tình hình này, những hoạt động vui chơi giải trí thông thường, loại hình thường
thu hút đông người, dường như không còn hấp dẫn và là lựa chọn ưu tiên của nhiều người khi
đi du lịch.

Theo Statista

Trong năm 2020, năm mà dịch bệnh bùng nổ mạnh mẽ nhất đã ghi nhận doanh thu của
các khu vui chơi giải trí sụt giảm một cách nghiêm trọng. Năm 2021, nhiều nơi trên thế giới
đã áp dụng nhiều chính sách bình thường mới, khuyến khích thương mại và du lịch, từ đây thì
11
doanh thu của các công viên giải trí này có tăng trở lại nhưng vẫn là con số rất thấp, chỉ bằng
khoảng 1/2 so với thời điểm trước dịch.

Không chỉ bị thụt giảm vì doanh thu mà hàng loạt các khu vui chơi giải trí, bảo tàng, sở
thú phải đóng cửa vì diễn biến phức tạp của dịch bệnh ở thời điểm đó. Đơn cử là vào năm
2020, hàng loạt các công viên Disneyland tại nhiều nơi trên thế giới như California, Tokyo,
Thượng Hải… phải dừng hoạt động do số ca lây nhiễm tăng quá nhanh.

Rõ ràng, những khó khăn đối với ngành du lịch toàn cầu vẫn còn chồng chất, kéo theo
sự suy giảm của các dịch vụ vui chơi, giải trí đi kèm. Không như những ngành khác khi vẫn
có thể hoạt động trong mùa dịch. Những hoạt động vui chơi giải trí vì có đặc thù là đông đúc
náo nhiệt nên hoàn toàn bị tê liệt khi dịch COVID-19 xảy ra. Vì vậy có thể khẳng định đây là
một trong những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi COVID-19.
2.1.3. Sau Covid
Bất chấp những thách thức còn tồn tại do ảnh hưởng của dịch COVID-19, ngành du
lịch toàn cầu vẫn đang từng bước phục hồi dù vẫn chưa thể trở lại mức trước khi đại dịch bùng
phát.

Theo số liệu mới nhất do Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO) công
bố, hơn 900 triệu khách du lịch đã đi du lịch quốc tế vào năm 2022, gấp đôi con số được ghi
nhận vào năm 2021 mặc dù vẫn bằng 63% so với mức trước đại dịch năm 2019. Mọi khu vực
trên toàn cầu đều ghi nhận sự gia tăng đáng chú ý về số lượng khách du lịch quốc tế. Trong
đó, châu Âu và châu Mỹ là hai khu vực chứng kiến 'ngành công nghiệp không khói' tăng
trưởng mạnh mẽ nhất.

Xét trên toàn cầu, UNWTO cho biết có thêm 18 triệu lượt khách du lịch, tương đương
với tổng mức tăng được ghi nhận trong cả năm 2021. Năm 2019, doanh thu du lịch toàn cầu
đạt 1.480 tỷ USD, song vẫn giảm gần 66% vào thời điểm đại dịch bùng phát.

Tuy số liệu thống kê trong tháng 1 là minh chứng cho xu hướng phục hồi của ngành du
lịch bắt đầu từ năm 2021, song UNWTO nhấn mạnh rằng làn sóng lây lan dịch COVID-19 do
biến thể Omicron gây ra trong thời gian gần đây đã kìm hãm đà tăng trưởng của ngành. Lượng
khách du lịch quốc tế trong tháng 1 vẫn thấp hơn mức trước đại dịch đến 67%.

Trong khi đó, các nước Nam Mỹ và vùng Caribbe với những bãi biển du lịch đang trở
thành những điểm đến hấp dẫn thu hút du khách quốc tế. Trong đó, các nước Costa Rica, Cộng
hòa Dominica, Aruba và Jamaica nằm trong số 20 điểm đến nổi tiếng nhất, thậm chí còn có
sức hút mạnh mẽ hơn so với thời kỳ trước đại dịch.

Ngành du lịch tại khu vực Trung Đông cũng đang phục hồi tương đối mạnh mẽ, với
12
lượng du khách tăng 89% so với năm 2021. Châu Phi cũng không nằm ngoài xu hướng này
khi ghi nhận lượng khách du lịch tăng 51%.

Điều đáng ngạc nhiên là khu vực châu Á-Thái Bình Dương lại ghi nhận lượng du khách
sụt giảm, do một số quốc gia vẫn đóng cửa biên giới. Lượng du khách quốc tế của khu vực
này trong tháng 1 giảm 93% so với mức trước đại dịch.

Mặc dù ngành du lịch tại hầu hết các khu vực trên thế giới vẫn chưa thể phục hồi về
mức trước đại dịch, song công ty phân tích du lịch Forward Keys vẫn kỳ vọng “ngành công
nghiệp không khói” trên toàn cầu sẽ khởi sắc hơn.

Hiện nhiều quốc gia và khu vực đã đưa ra các biện pháp khuyến khích để khôi phục
ngành du lịch, các công ty liên quan đến du lịch cũng đang nỗ lực thiết kế và phát triển các
sản phẩm du lịch có thể đáp ứng nhu cầu của du khách trong tình hình mới.

Ngành dịch vụ giải nói riêng cũng đã có những bước phục hồi đáng kể sau đại dịch khi
mọi hoạt động trở lại bình thường. Các công viên giải trí đồng, điểm tham quan, đồng loạt mở
cửa trở lại và thu hút được lượng du khách đáng kể.

Minh chứng là sau một mùa dịch khó khăn, năm 2022 Disneyland đã có bước trở lại
ngoạn mục khi Giám đốc điều hành Disney, Bob Chapek đã thông báo rằng tổng doanh thu
của công viên giải trí - Disneyland đạt 21,5 tỷ USD, tăng 26% so với năm trước. Lợi nhuận
hoạt động của các công viên giải trí đã tăng 50% trong quý hai lên 3,6 tỷ USD. Các quan chức
cho biết số người tham dự công viên vào "nhiều ngày" đã vượt quá mức của năm 2019, trước
đại dịch Covid-19.

Nhưng nằm ngoài làn sóng phục hồi đó, các sòng bài trên thế giới lại khá ảm đạm. Các
thành phố được mệnh danh là “Thủ phủ casino thế giới” như Las Vegas hay Macau nay không
còn nhộn nhịp như thời điểm trước dịch COVID-19 mà lại khá vắng vẻ. Có lẽ sau 3 năm dịch
bệnh, không còn quá nhiều người còn đủ tài chính để có thể tham gia vào loại hình giải trí xa
xỉ và tốn kém này.
2.2. Tại Việt Nam
2.2.1. Thành tựu trước Covid.
Du lịch Việt Nam 2018 có nhiều nền tảng để phát triển mạnh mẽ. Năm 2018 là năm thứ
hai triển khai hiện thực hóa những chính sách mạnh mẽ của Nghị quyết TW8 xác định Du lịch
là nền kinh tế mũi nhọn. Năm 2018, Luật Du lịch 2017 bắt đầu có hiệu lực. Với một hành lang
thông thoáng, Luật Du lịch đã mở ra cơ hội thuận lợi và có nhiều bứt phá đối với ngành du
lịch Việt Nam.

Không phải đợi lâu để nghị quyết TW 18 đạt được hiệu quả, năm 2019, du lịch Việt
13
Nam đã đạt kỳ tích “vàng” tăng trưởng. Trong năm đó, ngành Du lịch Việt Nam đạt được
nhiều kết quả rất quan trọng. Toàn ngành đã đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng 16,2%
so với năm 2018), phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt khoảng 720.000 tỷ đồng.
Với kết quả này, Việt Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du
lịch nhanh nhất thế giới.

Có thể khẳng định, năm 2019 là năm rất thành công của du lịch Việt Nam, không chỉ
thể hiện ở các con số thống kê về lượng khách du lịch quốc tế, nội địa, tổng thu mà còn là các
danh hiệu mà du lịch Việt Nam đạt. Trong đó phải kể đến các giải thưởng như “Điểm đến
hàng đầu châu Á”, “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”, “Điểm đến Golf tốt nhất thế giới
2019” …

Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam được trao tặng danh hiệu “Điểm đến di sản hàng đầu
thế giới năm 2019”. Việt Nam có nền ẩm thực đa dạng, phong phú, hấp dẫn trải dài khắp các
vùng miền. Các món ăn Việt Nam dù đã được du khách quốc tế đánh giá cao nhưng năm 2019
là lần đầu tiên ẩm thực Việt được vinh danh “Điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á”. Giải
thưởng này mở cho Việt Nam hướng đi quảng bá, xúc tiến ẩm thực và di sản để thu hút bạn
bè quốc tế.

Năm 2019 đánh dấu chỉ số năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam liên tục được cải
thiện trong bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Trong 3 lần xếp hạng (2 năm/
lần), du lịch Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 75/141 nền kinh tế (năm 2015) lên vị trí 63/140
vào năm 2019.

Riêng với ngành dịch vụ giải trí, Việt Nam cũng đã đạt được một số thành tựu nhất
định, góp phần đưa cái tên VN nổi bật hơn trên bản đồ du lịch thế giới, cụ thể:

 Du lịch giải trí VN bắt đầu định hình và phát triển với sự ra đời của nhiều thương hiệu
lớn: Vinpearl, Sun World ở phân khúc cấp cao, ở phân khúc bình dân có Đầm Sen,
Suối Tiên, Đại Nam, Khu du lịch Trăm Trứng, Công viên nước Hồ Tây.

 Theo thống kê ước tính từ Hiệp hội Lữ hành cho thấy, trước khi COVID-19 xảy ra,
khoảng 10 triệu người Việt đi du lịch nước ngoài mỗi năm, với tốc độ tăng trưởng
khoảng 20%. Theo các chuyên gia, những chương trình du lịch ở các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thái Lan... thu hút du khách quốc tế bởi lịch trình tham quan khám phá hấp
dẫn tại các công viên chủ đề. Có nhiều công viên đón hàng triệu lượt khách mỗi năm,
tỷ lệ khách quay lại lớn, mang lại nguồn thu không nhỏ cho kinh tế. Xét về ưu thế, Việt
Nam là quốc gia thuộc vùng vĩ độ ấm áp quanh năm, vị trí địa lý thuận lợi, thiên nhiên
tươi đẹp, bờ biển trải dài, nhiều khu thắng cảnh nổi tiếng. Ngoài ra, nước ta còn có lợi
thế về giá lao động rẻ, chất lượng phục vụ cao và là vùng đất lý tưởng để xây dựng và
14
phát triển vui chơi giải trí. "Trong tương lai, vui chơi giải trí có thể sẽ là ngành công
nghiệp tỷ đô và trở thành mũi nhọn kinh tế của nền du lịch", một chuyên gia nhận định.

 Một ví dụ điển hình là Sun World Ba Na Hills - quần thể du lịch nghỉ dưỡng kết hợp
vui chơi giải trí được mệnh danh là “chốn bồng lai tiên cảnh”. Đến đây du khách có thể
vui chơi, giải trí với hơn 100 trò chơi giải trí, vận động dành cho cả gia đình tại Fantasy
Park. Trải nghiệm không gian mua sắm đa dạng, phong phú với hàng chục quầy lưu
niệm tập trung tại các nhà ga và khu phố French Village cũng như có cơ hội được trải
nghiệm đa giác quan tại rạp chiếu phim 4D hiện đại. Bên cạnh đó, hàng năm tại Ba Na
Hills diễn ra rất nhiều sự kiện, lễ hội trải dài từ đầu năm đến cuối năm với không khí
vui nhộn tạo cảm giác thoải mái cho du khách.

 Ngoài ra hoạt động dịch vụ về đêm ngày càng mở rộng. Một số khu vực phục vụ ban
đêm được hình thành. Phố đi bộ khu vực hồ Hoàn Kiếm và chợ đêm phố cổ là địa điểm
hấp dẫn đông đảo người dân và du khách đến Hà Nội. Vài năm trước chỉ là Hàng Đào-
Đồng Xuân chợ đêm với các gian hàng phục vụ người dân và du khách mua sắm hay
phố bia Tạ Hiện. Sau đó khu vực phố đi bộ ngày càng được mở rộng, bao quanh khu
vực hồ Hoàn Kiếm với thời gian mở cửa dài hơn, nhiều sự kiện văn hóa và chương
trình nghệ thuật thu hút đông đảo người dân và du khách đến chơi. Quận Hoàn Kiếm
cũng đang phối hợp với các doanh nghiệp du lịch xây dựng du lịch về đêm với các
chương trình như tham quan di tích lịch sử, khám phá ẩm thực đêm, thưởng thức biểu
diễn nghệ thuật. Nhờ đó, kể từ khi triển khai dịch vụ ban đêm, quận Hoàn Kiếm đã ghi
nhận một lượng đáng kể lượng khách du lịch đến địa bàn tăng hơn 2,5 lần trong 5 năm.
Tại TP.HCM, phố đi bộ Bùi Viện là địa điểm quen thuộc của du khách khi đến thăm
thành phố. Đây cũng là điểm đến của nhiều người dân thành phố vào dịp cuối tuần.
Gần 200 hộ kinh doanh các nhà hàng, khách sạn ... mỗi năm đóng góp hàng tỷ đồng
cho ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế. Thành phố Hồ Chí Minh còn có nhiều tụ
điểm kinh doanh về đêm khác tập trung vào ẩm thực, cà phê, biểu diễn nghệ thuật, quán
bar, vũ trường. Sản phẩm du lịch về đêm tại thành phố Hồ Chí Minh là đa dạng, trong
đó có loại hình du lịch gắn với văn hóa đô thị về đêm khám phá phố phường và thưởng
thức ẩm thực, các sản phẩm du lịch gắn với đường sông Sài Gòn, xem biểu diễn nghệ
thuật tại sân khấu kịch, múa rối nước, ca nhạc và điện ảnh. Ngoài Hà Nội và TP.HCM,
các thành phố khác cũng bắt đầu tổ chức đêm hội, theo số liệu thống kê từ Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, có hơn 20 chợ đêm đang hoạt động ở nhiều các tỉnh ở Việt Nam, chủ yếu là
các thành phố lớn và các điểm du lịch như Sapa, Đà Nẵng, Đà Lạt, Phú Quốc…

 Bên cạnh đó, Việt Nam cũng dần quan tâm đến phát triển ngành công nghiệp vui chơi
giải trí có thưởng, loại hình vui chơi giải trí được tận dụng rất thành công ở Las Vegas,
Macau, Malaysia, Campuchia... Dù Casino là một ngành dịch vụ đặc biệt và rất nhạy
15
cảm về mặt xã hội song lại hứa hẹn một nguồn thu rất lớn. Hơn nữa, trong thực tế thì
nhiều người Việt Nam vẫn ra nước ngoài chơi casino mặc dù bị ngăn cấm. Nhưng kể
từ năm 2017, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực vui chơi có
thưởng được hoàn chỉnh ở cấp Nghị định của Chính phủ, theo đó, ba loại hình vui chơi
có thưởng được phép kinh doanh gồm: Đặt cược, casino và trò chơi điện tử có thưởng.
Đến nay, đã có 8 doanh nghiệp kinh doanh casino, 61 điểm kinh doanh TCĐTCT và
một doanh nghiệp kinh doanh đặt cược đua chó được cấp phép và đi vào hoạt động với
tổng doanh thu năm 2019 đạt trên 19 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước gần 4,9
nghìn tỷ đồng. Năm 2021 tổng doanh thu đạt 1.548 tỷ đồng, trong đó Phú Quốc chiếm
39%. Trong 6 tháng năm 2022, kinh doanh casino khởi sắc hơn, tổng doanh thu đạt hơn
971 tỷ đồng.Với sự phát triển này, từ nay người Việt có thể tham gia vào loại hình giải
trí này một cách hợp pháp và dễ dàng, nhà nước vừa có thể quản lý vừa tạo nguồn thu
lớn, vừa tránh “chảy máu ngoại tệ” ra nước ngoài đồng thời tạo điều kiện phát triển các
dịch vụ đi kèm với casino, đặc biệt là dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí khác, qua đó
giúp cho quy mô du lịch nội địa phát triển, tăng thêm lượng khách và doanh thu cho
ngành du lịch nước nhà.
2.2.2. Trong Covid
Tháng 01/2020, lần đầu Việt Nam đón được hai triệu khách quốc tế trong một tháng.
Thế nhưng, từ tháng 02/2020, dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới đã ngay lập tức ảnh hưởng
nghiêm trọng đến ngành du lịch. Ngành du lịch nói chung và du lịch giải trí nói riêng phải đối
mặt với những khó khăn chưa từng xảy ra trước đó. Kể từ tháng 3/2020, Việt Nam ngừng hoạt
động đón khách quốc tế, chỉ còn hoạt động du lịch trong nước. Nhưng thị trường du lịch trong
nước cũng bị ảnh hưởng bởi các đợt giãn cách xã hội khi dịch bùng phát. Trong nước, dù dịch
COVID-19 nhanh chóng được khống chế tốt, Việt Nam trở thành điểm sáng về an toàn phòng
dịch trên toàn thế giới nhưng ngành du lịch không tránh khỏi những tổn thất nặng nề.

Du lịch thất thu khoảng 23 tỷ USD do lượng khách quốc tế đến Việt Nam giảm 80%
(so với năm 2019), lượng khách trong nước cũng giảm gần 50%… Các dịch vụ vui chơi giải
trí phải đóng cửa, ngừng hoạt động để thực hiện chỉ thị giãn cách xã hội. Mặt khác, các đợt
giãn cách xã hội vì dịch COVID-19 cũng là "thời gian nghỉ cần thiết" để ngành du lịch nhìn
lại những hạn chế, tìm cơ hội trong thách thức và có các giải pháp phát triển bền vững trong
giai đoạn mới.

Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), khoảng 40 - 60% lao động ngành
du lịch bị mất việc làm hoặc cắt giảm ngày công; khoảng 95% doanh nghiệp lữ hành quốc tế
ngừng hoạt động; nhiều khách sạn phải đóng cửa, công suất sử dụng phòng có thời điểm chỉ
đạt từ 10 - 15%. Các khu vui chơi giải trí trước đây vốn đông đúc nhộn nhịp cũng cũng thất thu
khi phải tạm đóng cửa do lệnh phong tỏa của nhà nước.

16
Một trường hợp sụt giảm doanh thu của một mô hình giải trí tại Việt Nam do ảnh hưởng
của dịch bệnh COVID-19 là Công viên nước Đầm Sen. Trong năm 2020, tổng doanh thu thuần
Công viên nước Đầm Sen ghi nhận được là gần 99 tỷ đồng, thấp hơn 57% so với kế hoạch cả
năm và giảm 58% so với số thực thu năm 2019 liền trước. Trong đó, doanh thu từ hoạt động
kinh doanh chính chỉ đạt trên 84 tỷ đồng, giảm tương ứng 62% so với năm trước và thấp hơn
61% so với kế hoạch.

Theo đánh giá của lãnh đạo công viên, năm 2020, Đầm Sen chịu rất nhiều khó khăn do
hệ lụy từ dịch COVID-19 bùng phát 2 đợt. Việc dịch bùng phát đợt 2 cũng đã dập tắt hy vọng
hồi phục trong đợt kinh doanh hè của toàn công viên. Bên cạnh đó, sự dè dặt của khách hàng
khi đến nơi đông người cũng ảnh hưởng đến các dịch vụ và hoạt động vui chơi giải trí tại
TP.HCM và công viên nói riêng.

Theo Zingnews

Trong năm 2020, lượng khách đến công viên là 467.975 người, chỉ đạt 36% kế hoạch
và tương đương 36% lượng khách thực tế đón năm trước. Lượng khách sụt giảm gần 2/3 nói
17
trên là nguyên nhân chính khiến doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính của công viên giảm
hơn 60% so với năm trước và kế hoạch cả năm.

Với mức doanh thu giảm mạnh, Công viên nước Đầm Sen thu về khoản lợi nhuận trước
thuế 48 tỷ đồng cả năm, giảm tương ứng 60% so với năm 2019 và mới hoàn thành gần 42%
kế hoạch năm. Lợi nhuận ròng sau khi trừ thuế Thu nhập doanh nghiệp là 41 tỷ đồng, giảm
57%.

Đây là mức lợi nhuận thấp nhất mà Đầm Sen ghi nhận được trong hơn 10 năm trở lại
đây. Lần gần nhất công viên có lợi nhuận ròng dưới 40 tỷ đồng đã diễn ra từ năm 2010.

Ðánh giá lại nội lực trong thời kỳ COVID-19

Mức độ tàn phá ngoài sức tưởng tượng của dịch COVID-19 khiến ngành du lịch giải trí
Việt Nam phải đánh giá lại, tư duy lại cách làm du lịch trong bối cảnh dịch còn diễn biến phức
tạp. Du lịch giải trí Việt Nam chuyển hướng tập trung khai thác thị trường khách trong nước
ở trạng thái "bình thường mới", với yêu cầu tiên quyết là phải bảo đảm an toàn phòng, chống
dịch cho các sản phẩm du lịch, đảm bảo an toàn cho du khách. Nhưng ngành du lịch cũng phải
tính xa hơn để đón đầu khách quốc tế, với những sản phẩm mới, phù hợp ngay khi đủ điều
kiện mở lại hoạt động đón khách quốc tế.

Trong tình hình khó khăn chống đỡ dịch COVID-19, vấn đề hợp tác, liên kết du lịch
được các địa phương chú trọng, chia sẻ thực chất hơn, trở thành giải pháp quan trọng để tăng
lượng khách du lịch trong nước. Tăng cường liên kết vùng, liên kết địa phương, liên kết ngành,
doanh nghiệp; chú trọng nâng cao chất lượng, sản phẩm du lịch, bảo đảm an toàn cho du
khách... là những giải pháp trọng tâm. Các địa phương đã trao đổi với nhau để xác định những
sản phẩm đặc trưng, phù hợp, hấp dẫn của từng vùng, tránh việc cạnh tranh bằng các sản phẩm
giống nhau hoặc gây xung đột. Việc hợp tác liên kết phát triển du lịch giữa thành phố Hồ Chí
Minh và tám tỉnh Tây Bắc mở rộng năm 2020 với chủ đề "Liên kết phát triển bền vững" là
một điển hình. Trước đó, thành phố Hồ Chí Minh đã có các hoạt động liên kết du lịch rất hiệu
quả với 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và năm tỉnh vùng Ðông Nam Bộ.

Ðiều quan trọng không kém là việc cơ cấu lại sản phẩm, tạo ra sản phẩm du lịch giải trí
mới lạ, độc đáo. Kinh nghiệm của hai đợt kích cầu du lịch trong nước vừa qua là tập trung đẩy
mạnh xúc tiến điểm đến, nhất là những điểm đến mới và kết nối các điểm đến để tạo ra những
sản phẩm mới lạ, độc đáo, hấp dẫn. Với du khách, quan trọng nhất là có nhiều sản phẩm mới
lạ, độc đáo, hấp dẫn, bởi giờ đây chỉ còn tua đi du lịch trong nước, có nhiều sự lựa chọn nên
khắt khe hơn. Khi đưa ra các sản phẩm mới, các doanh nghiệp du lịch đồng thời cam kết về
hoãn, hủy, đổi tour, dịch vụ... linh hoạt để du khách yên tâm rằng, họ luôn được bảo đảm
quyền lợi trong mọi tình huống. Ðây cũng là bước sáng tạo của các doanh nghiệp du lịch Việt
Nam trong trạng thái “bình thường mới”.
18
Tìm thời cơ trong thách thức

Thực hiện mục tiêu kép "vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phát triển kinh tế, xã
hội", trong đó, mục tiêu trước mắt là đề xuất các giải pháp cụ thể, khả thi để nhanh chóng phục
hồi du lịch nội địa và sẵn sàng mở cửa thị trường quốc tế khi điều kiện cho phép, là mục tiêu
căn cốt của du lịch Việt Nam.

Tại Hội nghị toàn quốc về du lịch năm 2020 với chủ đề "Liên kết, hành động và phát
triển" (tổ chức tại Quảng Nam cuối tháng 11/2020), đại diện Chính phủ, các bộ, ngành, địa
phương và các doanh nghiệp du lịch lớn đã cùng bàn thảo, đề xuất giải pháp nhằm vực dậy du
lịch Việt Nam sau dịch. Giải pháp trước mắt và ngắn hạn mà các doanh nghiệp đề xuất với
Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương là tiếp tục có chính sách hỗ trợ ngành du lịch và
doanh nghiệp du lịch vượt qua khó khăn trong bối cảnh dịch bệnh.

Bên cạnh đó, các nhóm giải pháp căn cơ và lâu dài cũng được bàn thảo, đề xuất. Trong
các giải pháp này, Bộ VHTTDL cho rằng, chuyển đổi số trong phát triển du lịch, nhất là trong
quản lý, kinh doanh, trong nghiên cứu thị trường, trong tiếp thị và bán sản phẩm du lịch là yêu
cầu mang tính chất sống còn. Do đó, Bộ đề xuất Chính phủ để được giao chủ trì xây dựng Ðề
án tổng thể về chuyển đổi số trong ngành du lịch đến năm 2030.
2.2.3. Sau Covid
Du lịch nội địa phục hồi và tăng trưởng sau đại dịch

Sau hơn hai năm ngưng trệ, kể từ khi mở cửa trở lại (ngày 15/3/2022), du lịch Việt Nam
đã trở lại ấn tượng, nhanh chóng gặt hái kết quả khả quan. Hoạt động du lịch nội địa đã sôi
động ngay từ những ngày đầu năm 2022. Chỉ tiêu đặt ra cho năm 2022 là 60 triệu lượt khách
nhưng kết quả năm 2022 đã đạt hơn 101 triệu lượt khách, tăng 68,8% so với chỉ tiêu và tăng
19% so với mức kỷ lục 85 triệu lượt khách đã đạt được vào năm 2019. Sự tăng trưởng vượt
bậc của lượng khách du lịch nội địa không chỉ góp phần quan trọng vào tổng thu từ khách du
lịch trong năm 2022 (ước đạt 495 nghìn tỷ đồng, tăng 2,75 lần so với năm 2021) mà còn thể
hiện sức bật mạnh mẽ, tiềm năng và dư địa phát triển của du lịch nội địa.

Trái ngược với tình hình sôi động của du lịch trong nước, thị trường khách quốc tế gặp
nhiều khó khăn khi chỉ có 3,66 triệu lượt khách trong năm 2022 (trong khi mục tiêu là 5 triệu
lượt). Nguyên nhân chính là do hầu hết các thị trường khách quốc tế quan trọng nhất, gồm
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), … chưa mở cửa hoàn toàn hay
vẫn hạn chế công dân du lịch ra nước ngoài trong hầu hết cả năm 2022. Thêm vào đó là tác
động từ cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo dài đã khiến thị trường khách quan trọng khác là
Nga và khu vực Đông Âu hầu như không có; sự cạnh tranh gay gắt từ những điểm đến trong
cùng khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia với những chính sách thông thoáng về thị

19
thực, ưu đãi, khuyến mại, … càng khiến cho Du lịch Việt Nam năm 2022 gặp khó trong thu
hút khách quốc tế.

Nhưng trong đầu năm 2023 đã có những dấu hiệu đáng mừng khi chỉ mới 2 tháng đầu
năm, Việt Nam đã đón 1,8 triệu lượt khách quốc tế, đạt gần 25% mục tiêu đề ra của năm là 8
triệu lượt. Dấu hiệu này cho ta hy vọng về sự khởi sắc của du lịch Việt Nam trong năm 2023.

Dù ảnh hưởng đại dịch, ngành du lịch Việt Nam vẫn tăng trưởng ấn tượng. Hàng loạt
địa phương liên tục “tung” ra các chương trình kích cầu nhằm thu hút du khách. Theo thống
kê, từ tháng 5/2022, lượng khách quốc tế tăng, tuy chưa nhiều nhưng là tín hiệu rất tích cực.
Ông Đinh Việt Sơn, Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam cho rằng, việc phục hồi ngành
hàng không là yếu tố then chốt để thúc đẩy phát triển du lịch. Cùng với việc mở cửa hoàn toàn
các đường bay quốc tế đi - đến Việt Nam từ 15/3, việc dỡ bỏ yêu cầu về xét nghiệm COVID-
19 đối với người nhập cảnh từ 15/5, ngành Hàng không dự kiến năm 2022 đạt 70-80 triệu lượt
khách. Trong đó, khách quốc tế xấp xỉ 10 triệu lượt và khách nội địa đạt 60-70 triệu lượt.

Các hoạt động giải trí cũng dần quay trở lại và phát triển vượt bậc sau thời gian dài đình
trệ vì COVID-19:

 Sôi động những lễ hội, các tour du lịch mới ở các địa phương. Sau thời gian dài im ắng
vì dịch bệnh, rất nhiều chương trình kích cầu được các địa phương liên tục "tung" ra.
Phía Bắc có Festival "Tinh hoa Tây Bắc - Hương sắc Lào Cai" diễn ra từ ngày 5-
8/8/2022 tại Sa Pa. Ngày hội Văn hoá Thể thao Du lịch các dân tộc vùng Tây Bắc lần
thứ XV diễn ra từ ngày 2- 4/11/2022 tại Việt Trì, Phú Thọ. Ngày hội Văn hóa dân tộc
Dao toàn quốc lần thứ II từ 6-8/10/2022 tại Thái Nguyên…

 Miền Trung: Lễ hội Dù lượn Nha Trang và các sự kiện "Nha Trang Chào hè 2022" của
Khánh Hòa. Hàng loạt sự kiện văn hóa nằm trong chuỗi sự kiện hưởng ứng Tuần lễ
Festival Huế 2022 được tổ chức.

 Miền Nam: Chương trình dù lượn thể thao ở An Giang; Lễ hội Bánh ở Cần Thơ; Lễ
hội Dừa Bến Tre…

 Các khu vui chơi giải trí, tham quan cũng trở lại mạnh mẽ sau dịch. Minh chứng là vào
dịp lễ 30/4 - 1/5 năm 2022, Sở Du lịch Khách Hòa ghi nhận tại khu vui chơi giải trí,
điểm tham quan cũng đón lượng khách đến rất đông. Cụ thể: Khu VinWonders Nha
Trang đón khoảng 30.000 lượt khách; khu du lịch Đảo khỉ và Suối Hoa Lan đón khoảng
6.000 lượt khách; khu du lịch nghỉ dưỡng khoáng nóng cao cấp Nha Trang - I Resort
đón khoảng 5.000 lượt khách; Trung tâm Suối khoáng nóng Tháp Bà đón khoảng 4.000
lượt khách.
20
 Đà Nẵng cũng không hề kém cạnh khi thành phố du lịch này cũng cũng phục hồi nhanh
sau covid-19. Cụ thể năm 2022, nhiều khu, điểm du lịch đón được lượng khách lớn
như: Khu du lịch Sun World Bà Nà Hills đón hơn 760.000 lượt khách, tăng gấp 4 lần
so với cùng kỳ năm 2021; Công viên suối khoáng nóng Núi Thần Tài đón hơn 210.000
lượt khách, tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2021; Di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn
đón hơn 150.000 lượt khách…; công suất buồng phòng bình quân vào dịp cuối tuần đạt
70-75%.

 Đặc Biệt, sau thời gian dài báo lỗ vì dịch bệnh, trong năm 2022, Thảo cầm viên
TP.HCM ghi nhận doanh thu cao kỷ lục khi thu về gần 145 tỷ đồng, gấp ba lần cùng
kỳ, đánh dấu mức cao nhất từ trước đến nay.

 Công viên nước đầm sen cũng không ngoại lệ khi cả năm 2022 đã đón gần 1,15 triệu
lượt khách, tăng gần 7 lần so với năm 2021. Doanh thu thuần đạt 232 tỷ đồng, cao gấp
hơn 9 lần năm 2021 và lãi sau thuế gần 108 tỷ đồng, cao hơn gấp 4 lần năm 2021. Điều
này tương đương mỗi ngày Đầm Sen bỏ túi mức lãi gần 300 triệu đồng. Đây cũng là
con số lợi nhuận vượt cả mức trước dịch.
2.2.4. Thách thức trong việc phát triển du lịch giải trí

 Nghịch lý của du lịch Việt Nam: mức chi tiêu của du khách tại Việt Nam so với tổng
lượng khách vẫn là sự chênh lệch lớn, chỉ bằng 1/2 -1/3 mức chi tiêu của du khách tại
Thái Lan, Singapore. Bên cạnh đó, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong nhiều năm
tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (chỉ từ 10% đến 40%). Một
trong những nguyên nhân được chỉ ra là sản phẩm du lịch chưa hấp dẫn, thiếu gắn kết,
các hoạt động giải trí, mua sắm, chăm sóc khách chưa đa dạng. Nói chung lại, Việt
Nam vẫn còn thiếu những địa điểm du lịch kết hợp vui chơi giải trí đẳng cấp để du
khách có cơ hội chi tiền hay lưu trú dài ngày.

 Chưa khắc phục được tình trạng tăng trưởng "nóng": sau dịch covid 19, thì trường du
lịch nội địa tăng trưởng vượt bậc. Lượng khách du lịch trong nước tăng lên kỷ lục song
hạ tầng còn hạn chế dẫn các khu vui chơi giải trí, địa điểm tham quan nổi bật như Bà
Nà hills, Phố cổ Hội An, VinWonders Phú Quốc, ... phải chịu cảnh quá tải, lượng phòng
khách sạn không đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khách đông, tình trạng chặt
chém về giá lại diễn ra ở nhiều địa phương: Hàng ăn tăng giá vô tội vạ ở nhiều điểm
thăm quan; Khách gửi xe ở Hội An bị "hét" giá cao; Taxi sân bay Tân Sơn Nhất bắt
chẹt khách.

 Du lịch Vui chơi giải trí là một lĩnh vực khó, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn song thời

21
gian thu hồi vốn lâu. Vì vậy mà ít có doanh nghiệp nào dám đầu tư mạnh tay vào mảng
dịch vụ vui chơi giải trí này. Hiện tại ở Việt Nam chỉ có 2 tập đoàn lớn là Vingroup và
Sungroup thực điện đầu tư các khu tổ hợp nghỉ dưỡng vui chơi giải trí cao cấp. Còn lại
thì đa phần là những khu du lịch với quy mô nhỏ, lẻ, thiếu sự đầu tư.

 Các dịch vụ về đêm ở Việt Nam còn khá đơn giản, không đa dạng, một màu và không
thể hiện được bản sắc đặc trưng của từng địa phương. Ở đây chủ yếu là các dịch vụ ăn
uống về đêm trong khi văn hóa, nghệ thuật và hoạt động vui chơi giải trí còn hạn chế.
Nó nhàm chán và kém hấp dẫn đối với khách du lịch và người dân.

 Có thể thấy rằng nền kinh tế ban đêm thực sự chưa tồn tại ở Việt Nam. Chợ đêm, phố
đi bộ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Quy mô còn nhỏ lẻ, tự phát, thiếu đồng
bộ. Hơn nữa, hầu hết các dịch vụ về đêm, trung tâm mua sắm ở Việt Nam đều hoạt
động có thời hạn, chỉ đến nửa đêm, chỉ một số quán bar và nhà hàng ở một số khu vực
mở cửa đến 2 giờ sáng. Nó không đủ để phát triển kinh tế ban đêm. (Thailand: phát
triển đa dạng những con phố “đèn đỏ” như Pattaya, Nana, Soi Cowboy, nơi luôn đông
đúc từ nửa đêm cho đến sáng sớm mỗi ngày. Tại Hà Nội, phố đi bộ chỉ mở cửa vào
cuối tuần và không có nhiều hoạt động giải trí cho người nước ngoài trong khi các quán
bar, vũ trường ở các phố Tây như Bùi Viện ở TP HCM hay Tạ Hiện ở Hà Nội phải
đóng cửa lúc 2 giờ sáng).

 Các chợ nổi tại Thái Lan được quy hoạch như một khu du lịch. Du khách vào chợ phải
mua vé, được thưởng thức nhiều chương trình giải trí, hoạt động mua sắm cũng diễn ra
nhộn nhịp. Ở Việt Nam du lịch tại các khu chợ nổi, chợ truyền thống bị bỏ ngỏ, thiếu
tính đặc trưng, chưa khai thác triệt để các hoạt động vui chơi giải trí đi kèm, còn mang
tính tự phát: du lịch tại chợ Cái Răng-một trong những chợ nổi lớn và sầm uất nhất
đồng bằng sông Cửu Long hiện sống nhờ "hơi tàn" của các hoạt động mua bán nông
sản. Nếu các thương hồ không còn họp chợ, du lịch cũng chấm dứt. Các thuyền chở
khách hoạt động tự phát, chèo kéo mua vé với đủ mức giá gây phản cảm cho khách du
lịch. Ngoài việc đi thuyền trên sông khám phá cảnh sông nước cũng như ăn uống, vẫn
còn thiếu những hoạt động, trải nghiệm thú vị để du khách có thể dành ít nhất nửa ngày
khám phá. Cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa không gian sông nước gắn liền với
những câu hát truyền thống đậm chất Nam Bộ như đờn ca tài tử để du khách có thể thư
giãn và thưởng thức đặc sắc của âm nhạc dân tộc. Ngoài ra có thể cho du khách tự mình
trải nghiệm những hoạt động sinh hoạt thường ngày của người dân bản địa.

 Chính sách quy hoạch không gian không thỏa đáng, nhiều cơ sở kinh doanh ban đêm
quá gần khu dân cư, có thể tạo ra những tác động tiêu cực đến an sinh xã hội, ô nhiễm
môi trường, và tiếng ồn.
22
 Thiếu các chính sách cụ thể, dài hạn trong việc thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế đêm. Một số các dịch vụ giải trí về đêm
tiềm năng như casino, karaoke, bar, vũ trường...quản lý quá chặt để hạn chế tác động
tiêu cực nhưng lại vô tình cản trở sự phát triển của hoạt động kinh tế về đêm.

 Cơ sở hạ tầng thương mại còn kém cạnh: So sánh với du lịch mua sắm, giải trí ở
singapore mặc dù là một quốc gia với diện tích nhỏ nhưng họ có những trung tâm mua
sắm, store, outlet sầm uất, lộng lẫy tập trung những thương hiệu xa xỉ trên thế giới, trở
thành một thiên đường cho những tín đồ đam mê mua sắm.
2.2.5. Giải pháp

Mức độ tàn phá ngoài sức tưởng tượng của dịch COVID-19 khiến ngành du lịch giải
trí nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung phải đánh giá lại, tư duy lại cách làm du
lịch. Du lịch giải trí Việt Nam chuyển hướng tập trung khai thác thị trường khách trong nước
ở trạng thái "bình thường mới", với yêu cầu tiên quyết là phải bảo đảm an toàn phòng, chống
dịch cho các sản phẩm du lịch, đảm bảo an toàn cho du khách.

 Cần mở rộng và đa dạng hóa các loại hình vui chơi, giải trí, từ giải trí nghệ thuật đến
mua sắm, liên kết đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ phù hợp với từng đối
tượng khách cụ thể và phân đoạn thị trường. Ngoài ra, các công ty lữ hành cần triển
khai và phát triển các dịch vụ du lịch vui chơi giải trí dựa trên văn hóa địa phương và
quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách du lịch.

 Trong quy hoạch xây dựng và phát triển, chính quyền nhà nước cần hoạch định cụ thể
các khu vực có thể tập trung phát triển kinh tế đêm. Kế hoạch phát triển có thể thực
hiện trên một hoặc một số lĩnh vực, sau đó đánh giá hiệu quả của phương án và hoàn
thiện trước khi mở rộng quy mô. Mỗi khu kinh tế đêm cần có đặc trưng riêng, tránh
trùng lặp, một màu, từ đó nó có thể thu hút cư dân và du khách. Có thể giao quyền quản
lý cho chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố, tùy theo tiềm năng và chiến lược
phát triển, từng khu vực sẽ triển khai, thiết lập các quy định và khuôn khổ cho việc phát
triển kinh tế đêm. Ngoài ra, các địa phương cần trao đổi với nhau để xác định những
sản phẩm đặc trưng, phù hợp, hấp dẫn của từng vùng, tránh việc cạnh tranh bằng các
sản phẩm giống nhau hoặc gây xung đột.

 Chính quyền cũng cần cho phép các hình thức biểu diễn nghệ thuật đường phố thiên về
nghệ thuật truyền thống bên cạnh việc kinh doanh hè phố. Việc triển khai nghệ thuật
đường phố và kinh doanh hè phố sẽ tạo nên sự đa dạng về các dịch vụ trải nghiệm ban
đêm cho khách vì thể hiện được cuộc sống của người dân. Đây là điểm đặc biệt mà các
nước châu Âu không có.
23
 Tập trung phát triển và hoàn thiện các chính sách và khung pháp lý liên quan đến hoạt
động kinh tế đêm, các quy định về lĩnh vực, sản phẩm ưu tiên, thời gian hoạt động, giấy
phép, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và hộ kinh doanh. Ví dụ, việc quản lý các
dịch vụ như karaoke, vũ trường, bar, có thể xem xét nới lỏng một số điều kiện để các
dịch vụ này phát triển.

 Đảm bảo an ninh: Vấn đề là tạo ra nhiều hơn những khu tập trung vui chơi như vậy
một cách bền vững và quản lý nó để không phát sinh các vấn đề tệ nạn.

 Ðiều quan trọng không kém là việc cơ cấu lại sản phẩm, tạo ra sản phẩm du lịch giải
trí mới lạ, độc đáo. Kinh nghiệm của hai đợt kích cầu du lịch trong nước vừa qua là tập
trung đẩy mạnh xúc tiến điểm đến, nhất là những điểm đến mới và kết nối các điểm
đến để tạo ra những sản phẩm mới lạ, độc đáo, hấp dẫn. Với du khách, quan trọng nhất
là có nhiều sản phẩm mới lạ, độc đáo, hấp dẫn, bởi giờ đây chỉ còn tua đi du lịch trong
nước, có nhiều sự lựa chọn nên khắt khe hơn. Khi đưa ra các sản phẩm mới, các doanh
nghiệp du lịch đồng thời cam kết về hoãn, hủy, đổi tour, dịch vụ... linh hoạt để du khách
yên tâm rằng, họ luôn được bảo đảm quyền lợi trong mọi tình huống. Ðây cũng là bước
sáng tạo của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong trạng.

III/ Tổng kết

Hoạt động vui chơi giải trí có đặc tính là những hoạt động vui vẻ, sôi nổi và linh hoạt
nên nó là yếu tố tinh thần quan trọng cho một chương trình du lịch. Một chương trình du lịch
có thể sẽ trở nên tẻ nhạt nếu thiếu đi những hoạt động vui chơi giải trí lý thủ. Như vậy có thể
nói hoạt động vui chơi giải trí như một thứ gia vị đặc sắc tăng thêm phần đậm đà cho món ăn
là các chương trình du lịch, tạo nên sự phong phú đa dạng các hoạt động của các chuyến đi,
tạo nên sức hút đối với khách du lịch.

Ngoài ra, khu vui chơi giải còn được xem là yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển
du lịch tại một điểm đến du lịch. Một ví dụ điển hình về sự so sánh nhịp độ phát triển du lịch
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, rõ ràng có thể thấy thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ
phát triển du lịch nhanh và mạnh mẽ hơn thủ đô Hà Nội, một phần chính là bởi du lịch thành
phố Hồ Chí Minh biết cách khai thác các hoạt động vui chơi giải trí một cách có hiệu quả và
hợp lý hơn.

Tóm lại, hoạt động vui chơi giải trí đóng vai trò không thể thiếu trong đời sống xã hội,
ngoài việc tạo ra điều kiện nghỉ ngơi, thư giãn, tái tạo sức lao động cho con người, vui chơi
giải trí còn góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch, tăng sức hấp dẫn của hoạt
động du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của khách, tăng doanh thu du lịch…

24
DANH MỤC THAM KHẢO

1. Tuyết Nhi (2020), Du lịch giải trí là gì? Các loại hình du lịch giải
trí, https://vietnambiz.vn/du-lich-giai-tri-la-gi-cac-loai-hinh-du-lich-giai-tri

2. Nguyễn Lê Hà Phương (2022), Tổng Hợp 17 Loại Hình Du Lịch Phổ Biến Nhất
Hiện Nay, https://trithuccongdong.net/du-lich-khach-san/tong-hop-cac-loai-hinh-du-
lich-pho-bien.html

3. Duy Tân Universuty ( 2021), “DU LỊCH QUA CÁC THỜI KỲ”, http://dtu-
hti.edu.vn/faculty-news/du-lich-qua-cac-thoi-ky-tax

4. Minaadmin ( 2021), “Du lịch có từ khi nào – nguồn gốc kinh doanh ngành du lịch”,
https://minahouse.com.vn/du-lich-co-tu-khi-nao

5. Hàn Ly ( 2020), “Thời trung cổ, con người đi du lịch như thế nào?”,
https://www.baogiaothong.vn/thoi-trung-co-con-nguoi-di-du-lich-nhu-the-nao-
d490383.html

6. Kiến Thức ( 2019), “Công viên Disneyland nổi tiếng thập niên 1950 trông như thế
nào?”, https://truyenhinhdulich.vn/diem-den/cong-vien-disneyland-noi-tieng-thap-
nien-1950-trong-nhu-the-nao-9098.html

7. Thường Ngọc ( 2013), “Las Vegas - Từ sa mạc hoang vắng thành thiên đường giải trí
xa hoa sầm uất”, https://cafef.vn/thi-truong/las-vegas-tu-sa-mac-hoang-vang-thanh-
thien-duong-giai-tri-xa-hoa-sam-uat-1881306071117412306.chn

8. Alphareal.vn, “Nhà đầu tư thu lợi khủng từ công viên chủ đề”,
https://alphareal.vn/nha-dau-tu-thu-loi-khung-tu-cong-vien-chu-
de/?fbclid=IwAR3QUpiFUjzvJOPBHDNvdzsHItNDrqDq4EpmkbaNrr5265HwvEBy
sfquBY4

9. TCTT (2019), “Những thị trường nguồn hàng đầu về chi tiêu du lịch ra nước ngoài
năm 2019”, https://vietnamtourism.gov.vn/post/31504.

10. Châu Tường ( 2022), Khánh Hòa đón 275.500 lượt khách trong dịp lễ 30/4 và 1/5,
https://www.nguoiduatin.vn/khanh-hoa-don-275500-luot-khach-trong-dip-le-304-va-
15-a551734.html

25
11. Minh Phương - Trường Quân (2020), Khai thác tiềm năng ngành vui chơi giải trí
bằng cách nào?, https://dangcongsan.vn/kinh-te/khai-thac-tiem-nang-nganh-vui-choi-
giai-tri-bang-cach-nao-557599.html

12. Tuoitre.vn (2022), “ Ngành du lịch toàn cầu vẫn chưa thể trở lại mức trước đại dịch
COVID-19, https://tuoitre.vn/nganh-du-lich-toan-cau-van-chua-the-tro-lai-muc-truoc-
dai-dich-covid-19-2022051310534005.htm

13. Quang Thắng ( 2021), “Công viên nước Đầm Sen lãi thấp nhất trong 10 năm”,
https://zingnews.vn/cong-vien-nuoc-dam-sen-lai-thap-nhat-trong-10-nam-
post1173400.html

14. Sơn Quỳnh ( 2021), “Công viên giải trí đòn bẩy cho ngành du lịch giải trí”,
https://vnexpress.net/cong-vien-giai-tri-don-bay-cho-nganh-du-lich-nghi-duong-
4360151.html

26

You might also like