You are on page 1of 41

Bảng nội dung

Bản quyền
Giới thiệu
Mở đầu cuộc chiến của 2 giai cấp cuối cùng
PHẦN MỘT ĂN & UỐNG
Chƣơng một: Biện pháp trả đũa
Chƣơng hai: Khó khăn về sức khỏe.
Chƣơng ba: Ngƣời anh em họ tốt.
Chƣơng bốn: ảnh hƣởng của H2O
Chƣơng năm: Bảo vệ thận
Chƣơng sáu: Tàu ngầm màu vàng
Chƣơng bảy: Moonchild
PHẦN HAI – ĐÁ & THỦY TINH
Chƣơng tám: Đá cho sự sống
PHẦN BA – TẮM & XÔNG HƠI
Chƣơng chín: Triều đại của Poseidon
LỜI TỔNG KẾT CHO CHIẾN THẮNG CỦA CON NGƢỜI
Sổ tay Giải độc Chemtrail
Ngƣời bạn Peloponnesian

Bản quyền: Dimitrios Alexopoulos


( Ngƣời bạn Peloponnesian) 2012
Nội dung
Đoạn mở đầu …………………………………………

PHẦN MỘT- ĂN & UỐNG

Chƣơng 1 – Biện pháp trả đũa ……………….

Chƣơng 2 – Khó khăn về sức khỏe … ……………..

Chƣơng 3 - Ngƣời anh em họ tốt …………………

Chƣơng 4 -Ảnh hƣởng của H2O +Mg …………………

Chƣơng 5 - Bảo vệ thận ……………

Chƣơng 6 -Yellow submarine……………….

Chƣơng 7 -Moonchild…………………………

PHẦN HAI - ĐÁ & THỦY TINH

Chƣơng 8 – Đá cho sự sống …………………….

PHẦN BA- TẮM & XÔNG HƠI

Chƣơng 9 – Triều đại của Poseidon ………………….

Lời kết cho chiến thắng của con ngƣời ………….


Hƣớng dẫn

Thông tin sau đây về các kỹ thuật giải độc chemtrail (vệt hóa chất) dựa trên kiến thức
thực tế và kiến thức ứng dụng thu đƣợc từ nhiều nam giới và phụ nữ làm việc trong lĩnh
vực dịch vụ bí mật.
Bản thân tôi đã có cơ hội áp dụng những phƣơng pháp này để tạo ra kết quả vƣợt trội
về sức khỏe và tinh thần của mình.
Thông tin này không phải là lời khuyên y tế hoặc bất kỳ loại hƣớng dẫn trị liệu nào.
Mở đầu cuộc chiến của hai giai cấp cuối cùng

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô và Mỹ đã nỗ lực thực sự để phát triển và áp dụng
một số vũ khí phi hạt nhân khó tin nhất.
Mục tiêu tại thời điểm đó đã rõ ràng - kẻ thù - bất kể là gì thì cũng nên bị tiêu diệt bất cứ lúc
nào.
Sự đa dạng của các loại vũ khí này trải dài rộng lớn từ các tia laser tinh vi và thử nghiệm
LSD cho đến các kỹ thuật thao túng huyền bí kỳ lạ, thần giao cách cảm và kiểm soát tâm trí.

Lƣợng kiến thức mà cả hai cƣờng quốc trên thế giới thu đƣợc từ cuộc đua đó không hề nhỏ.
Sau đó bức tƣờng Berlin sụp đổ và kẻ thù không còn rõ ràng.
Cuộc chiến giành quyền thống trị thế giới chỉ mới bắt đầu nhƣng kẻ thù lần này là bạn - công
dân bình dị của bang, công dân đó vẫn luôn hy vọng vào một tƣơng lai tốt đẹp hơn.
Những ngƣời chơi quyền lực quan trọng trên thế giới giờ đây ngày càng quyết tâm đặt bạn và
gia đình bạn vào tình trạng nô lệ nhƣ thời hiện đại để cuối cùng họ đạt đƣợc mục tiêu tối thƣợng
là thống trị và thao túng hoàn toàn mọi thứ và mọi ngƣời.

Vậy những ngƣời này là ai?


Các nghi phạm thông thƣờng, nhân viên N.W.O (chú thích dịch giả: New World Order – Trật
tự Thế giới Mới), ba bên, tổ chức bilderberg, các bankster (chú thích dịch giả: nhân viên ngân
hàng và nhà đầu tƣ có hoạt động phi pháp), v.v.
Họ cho rằng dân số quá đông đang bóp nghẹt địa cầu và hấp thụ tài nguyên của trái đất nhanh
đến mức sẽ không còn một hành tinh bền vững nào trong vài năm nữa.
Thật là một trò đùa - thật là đạo đức giả.
Vì vậy, chúng ta quá đông và những ngƣời này đã quyết định tàn ác là giảm số lƣợng.
Nhƣng nhƣ nhiều ngƣời trong số các bạn đã biết, để giết một con vật thì tốt hơn hết là hãy
khiến nó sụp đổ để nó có thể đứng chết một cách dễ dàng và không có phản ứng.

Họ nghĩ ra kế hoạch - đầu tiên biến con ngƣời thành những thây ma thông qua các loại
vaccin chứa chất độc thủy ngân và thực phẩm đầy hóa chất, sau đó tiến đến làm ô nhiễm không
khí và loại bỏ họ một cách lặng lẽ.
Tự hỏi làm thế nào mà bệnh ung thƣ thần kinh và chứng thở hụt hơi lại lây lan nhanh nhƣ
vậy trong thời đại của chúng ta?
Làm thế nào mà việc thức dậy buổi sáng dƣờng nhƣ rất khó khăn?
Nhận thấy đau đầu, chóng mặt và cảm giác mất trí suốt cả ngày?
Trong khi theo kế hoạch thì phƣơng pháp này xảy ra nhiều ngày mỗi tháng.
Chemtrails của những chiếc máy bay quân sự (?) Dân sự (?) kỳ lạ rải quanh cổ chúng ta
những khoáng chất chết ngƣời nhƣ Nhôm và Bari dễ dàng hấp thụ nhƣng cực kỳ khó trục xuất
khỏi cơ thể.

Chắc chắn là khó khăn nhƣng không phải là không thể, có nhiều cách để loại bỏ chúng khỏi
hệ thống của chúng ta - cuốn sách này sẽ chỉ ra cách thức.
Thế kỷ mới này bắt đầu với một kiểu chiến tranh mới - không phải dân sự hay thông thƣờng
theo bất kỳ cách nào khác, chắc chắn là tàn bạo vô nhân đạo và chính xác hơn - một cuộc tàn sát
toàn cầu.
Chỉ có điều lần này Adolph (chú thích dịch giả: Adolph Hitler) không phải là kẻ lừa đảo
theo chủ nghĩa cực đoan với những vấn đề nghiêm trọng về tâm thần và cuộc chiến đang diễn ra
giữa chúng ta và họ.
Đây là cuộc đấu tranh của những Ngƣời sống sót giữa hai giai cấp – một giai cấp với số
lƣợng rất ít và hàng tỷ ngƣời trong chúng ta.
Lost chỉ là tên một bộ phim truyền hình dài tập (chú thích dịch giả: LOST – MẤT TÍCH –
phim truyền hình Mỹ) - đừng mất tích .

Hãy tận hƣởng.


PHẦN MỘT: ĂN & UỐNG

Chƣơng một

Biện pháp đối phó


Hƣớng dẫn này đề cập đến nhiều cách khác nhau để thải ra khỏi cơ thể các chất độc mà các
chemtrail đã cung cấp cho chúng ta.
Khi một yếu tố độc hại xâm nhập vào cơ thể sẽ bắt đầu một cuộc chạy đua giữa các cơ quan
nội tạng để giữ sức khỏe - cơ thể con ngƣời có một hệ thống tự nhiên để loại bỏ tất cả các chất
độc thông thƣờng.
Chức năng tƣơng tự cũng áp dụng cho những chất độc lạ thƣờng hơn.
Nhƣng trong trƣờng hợp này, cơ thể chúng ta thƣờng thất bại trong dài hạn.

Do thành phần tổng hợp nên nhôm và bari là những đối thủ khó bị loại vì cơ thể của chúng
ta không nhận ra chúng là kẻ thù tiềm tàng và do đó không loại bỏ chúng.
Giống nhƣ một ngƣời mù đã bị kẻ xâm nhập tấn công.
Nếu anh ấy có con dao, thì anh ấy cũng hầu nhƣ không thể làm gì, nhƣng nếu có khẩu súng
ngắn với máy dò chuyển động cảm biến thì sao?
Có các loại thảo mộc và các vật dụng nấu ăn hàng ngày có thể thực hiện công việc này mà
không có tác dụng phụ.
Có những bồn tắm và cách sử dụng nƣớc có thể có cùng tác dụng.
Có những nam châm đá tự nhiên giúp loại bỏ phản ứng nhầm lẫn giữa các tế bào cơ thể và
các khoáng chất độc hại mà cuối cùng dẫn đến ung thƣ.

Một vài lời về tôi:


Nhà báo và nhà nghiên cứu có quan tâm ở nhiều nơi rất tức giận với cảm giác rằng tôi là một
nạn nhân có khả năng bị giết bởi chính phủ và các cơ quan đen tối nhƣ một món đồ chơi nhỏ.
Cách đây vài năm, tôi đã đƣa tin về vấn đề tổng thống Ukraine bị đầu độc Viktor Yushch
enko với khuôn mặt thực sự rối tung.
Giá mà bạn có thể nhìn và nghe từ các nhân viên của ông ấy và những ngƣời dân bình thƣờng
rằng ông ấy có nụ cƣời tƣơi tắn và hiền lành nhƣ thế nào trƣớc khi trở thành mục tiêu của những
kẻ lừa đảo toàn cầu.
Nhƣng ông ấy đã rất mạnh mẽ và may mắn là chất độc đã xâm nhập vào cơ thể nhƣng may
mắn là không có thiệt hại nào không thể phục hồi.

Ngƣời Nga đƣợc huy động với tƣ cách là đồng minh Putin cử các nhà khoa học giỏi nhất của
mình đến để kiểm tra và cố gắng áp dụng đúng loại thuốc giải độc, sau tất cả những gì chúng ta
biết trong lịch sử rằng từ thời Liên bang Xô Viết và do đó, họ đã phát triển chuyên môn cao nhất
về lĩnh vực này.
Với sự hợp tác của một trung tâm giải độc nổi tiếng ở Áo, từng bƣớc họ đã đảo ngƣợc quá
trình nhiễm độc và tổng thống Yushch enko đã đƣợc cứu sống.
Một lần nữa, vài năm sau, Yasser Arafat đã bị đầu độc bởi nguyên tố hạt nhân poloni và chết
ngay sau khi tiếp xúc với nó. Hơn 50 bác sĩ quân y và dân y khám cho ông mà không có kết quả
khả quan về nguyên nhân gây ra căn bệnh kỳ lạ, không có kết quả gì.

Tại Kiev, tôi đã gặp gỡ, thực hiện và vẫn giữ gìn đƣợc những mối liên hệ rất mạnh mẽ và
hữu ích, một số ngƣời trong lĩnh vực tình báo và an ninh, những ngƣời khác trong lĩnh vực chính
trị và truyền thông đại chúng.
Trong một cuộc họp thông thƣờng sau bữa tối trong một câu lạc bộ đồ uống, một thiếu tá
trong cục an ninh nội bộ Ukraine đã đƣa vấn đề chemtrail vào cuộc thảo luận của chúng tôi.
Đối với các đồng nghiệp ngƣời Mỹ của tôi, họ nói vấn đề này đã đƣợc biết đến nhƣng hơi
nhàm chán "không có tiêu đề chính".
Tôi đã yêu cầu làm rõ chúng là gì.

chemtrail theo Đạo luật Bảo vệ Không gian năm 2001'


Là ……
QUỐC HỘI lần 107

Phiên thứ nhất

H. R. 2977

Để duy trì việc sử dụng không gian theo cách hợp tác, hòa bình vì lợi ích của tất cả nhân loại
bằng cách cấm vĩnh viễn việc Hoa Kỳ đặt vũ khí trong không gian và yêu cầu Tổng thống hành
động để thông qua và thực hiện hiệp ƣớc thế giới cấm vũ khí trong không gian.

TẠI HẠ VIỆN

Ngày 2 tháng 10, 2001

Ông KUCINICH giới thiệu dự luật sau đây; mà đã đƣợc gọi đến Ủy ban Khoa học, và ngoài
các Ủy ban về Dịch vụ Vũ trang và Quan hệ Quốc tế, trong một khoảng thời gian do Ngƣời phát
ngôn xác định sau đó, trong từng trƣờng hợp để xem xét các điều khoản nhƣ vậy thuộc thẩm
quyền của ủy ban liên quan

DỰ LUẬT
Để duy trì việc sử dụng không gian hợp tác hòa bình vì lợi ích của tất cả nhân loại bằng cách cấm vĩnh viễn việc Hoa
Kỳ đặt vũ khí trong không gian và yêu cầu Tổng thống hành động để thông qua và thực hiện hiệp ƣớc thế giới cấm vũ khí
trong không gian.

Đƣợc thông qua bởi Thƣợng viện và Hạ viện của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trong
Quốc hội đã nhóm họp,

Phần 1. Tựa đề ngắn.

Đạo luật này có thể đƣợc coi là `` Đạo luật bảo tồn không gian năm 2001 ''.

Phần 2. Khẳng định lại chính sách bảo tồn hòa bình trong không gian.
Quốc hội khẳng định lại chính sách đƣợc thể hiện trong mục 102 (a) của Đạo luật
Hàng không và Vũ trụ Quốc gia năm 1958 (42 USC 2451 (a)), nêu rõ `` chính sách của
Hoa Kỳ rằng các hoạt động trong không gian phải đƣợc dành cho các mục đích hòa bình.
vì lợi ích của cả nhân loại. '.

Phần 3. Lệnh cấm vĩnh viễn khi đƣa vũ khí vào không gian.
Tổng thống sẽ -
(1) thực hiện lệnh cấm vĩnh viễn đối với việc Hoa Kỳ đặt vũ khí trên không
gian và loại bỏ khỏi không gian bất kỳ loại vũ khí nào hiện có trên không gian của
Hoa Kỳ; và
(2) Ngay lập tức ra lệnh chấm dứt vĩnh viễn hoạt động nghiên cứu và phát
triển, thử nghiệm, chế tạo, sản xuất và triển khai tất cả các loại vũ khí và thành
phần của chúng trên không gian của Hoa Kỳ.

Phần 4. Thỏa thuận thế giới về việc cấm vũ khí không gian.
Tổng thống sẽ chỉ đạo các đại diện của Hoa Kỳ tại Liên hợp quốc và các tổ chức quốc
tế khác ngay lập tức tiến tới đàm phán, thông qua và thực hiện một hiệp định thế giới cấm
vũ khí trên không gian.

Phần 5. Báo cáo


Tổng thống sẽ đệ trình Quốc hội không muộn hơn 90 ngày sau ngày ban hành Đạo
luật này và cứ sau 90 ngày, một báo cáo về--

(1) Việc thực hiện lệnh cấm vĩnh viễn đối với vũ khí trên không gian theo yêu
cầu của phần 3; và
(2) Tiến trình đàm phán, thông qua và thực hiện thỏa thuận đƣợc mô tả trong
phần 4.

Phần 6. Cấm các hoạt động vũ khí trên không gian

Không điều gì trong Đạo luật này có thể đƣợc hiểu là cấm sử dụng quỹ cho--

(1) Khám phá không gian;


(2) Nghiên cứu và phát triển không gian;
(3) Thử nghiệm, chế tạo hoặc sản xuất không liên quan đến vũ khí hoặc hệ
thống trên không gian; hoặc
(4) Các hoạt động dân sự, thƣơng mại hoặc quốc phòng (bao gồm thông tin
liên lạc, điều hƣớng, giám sát, trinh sát, cảnh báo sớm hoặc viễn thám) không liên
quan đến vũ khí hoặc hệ thống trên không gian.

Phần 7. Định nghĩa

Trong Đạo luật này:


(1) Thuật ngữ `` không gian '' có nghĩa là tất cả không gian mở rộng lên từ độ
cao hơn 60 km so với bề mặt trái đất và bất kỳ thiên thể nào trong không gian đó.
(2) (A) Thuật ngữ `` vũ khí '' và `` hệ thống vũ khí '' có nghĩa là một thiết bị có
khả năng thực hiện bất kỳ điều nào sau đây:

(i) Làm hỏng hoặc phá hủy một vật thể (cho dù ở ngoài không gian,
trong khí quyển hay trên trái đất) bằng cách--

(I) bắn một hoặc nhiều viên đạn để va chạm với vật thể đó;
(II) Kích nổ một hoặc nhiều thiết bị nổ ở gần đối tƣợng đó;
(III) hƣớng một nguồn năng lƣợng (bao gồm năng lƣợng phân
tử hoặc nguyên tử, chùm hạt tiểu nguyên tử, bức xạ điện từ,
plasma, hoặc bức xạ năng lƣợng tần số cực thấp (ELF) hoặc tần số
cực thấp (ULF)) vào đối tƣợng đó; hoặc
(IV) Bất kỳ phƣơng tiện nào khác chƣa đƣợc công nhận hoặc
chƣa đƣợc phát triển.
(ii) Gây chết ngƣời hoặc thƣơng tích, hoặc gây tổn hại hoặc hủy
hoại con ngƣời (hoặc đời sống sinh học, sức khỏe cơ thể, sức khỏe tâm
thần hoặc thể chất và kinh tế của một ngƣời) -

(I) thông qua việc sử dụng bất kỳ phƣơng tiện nào đƣợc mô tả
trong khoản (i) hoặc điểm (B);
(II) thông qua việc sử dụng các hệ thống trên đất liền, trên biển
hoặc trên không gian bằng cách sử dụng bức xạ, điện từ, điện tử,
âm thanh, tia laser hoặc các năng lƣợng khác hƣớng vào từng cá
nhân hoặc nhóm đối tƣợng nhằm mục đích chiến tranh thông tin,
quản lý tâm trạng , hoặc kiểm soát tâm trí của những ngƣời
hoặc quần thể đó; hoặc
(III) Bằng cách tống các tác nhân hóa học hoặc sinh học
trong vùng lân cận của một ngƣời.

(B) Các thuật ngữ nhƣ vậy bao gồm các hệ thống vũ khí kỳ lạ nhƣ--

(I) Vũ khí điện tử, tâm thần, hoặc thông tin;


(ii) chemtrails;
(iii) Hệ thống vũ khí tần số cực thấp tầm cao;
(iv) Vũ khí plasma, điện từ, âm thanh hoặc siêu âm;
(v) Hệ thống vũ khí laser;
(vi) Các loại vũ khí chiến lƣợc, kịch bản, chiến thuật, hoặc vũ khí
ngoài trái đất; và
(vii) Khí hậu môi trƣờng sinh học hóa học hoặc vũ khí kiến tạo

(C) Thuật ngữ `` hệ thống vũ khí kỳ lạ '' bao gồm vũ khí đƣợc thiết kế để phá
hủy không gian hoặc hệ sinh thái tự nhiên (chẳng hạn nhƣ tầng điện ly và tầng
trên) hoặc các hệ thống khí hậu, thời tiết và kiến tạo với mục đích gây sát thƣơng
hoặc hủy diệt đối với một quần thể hoặc khu vực mục tiêu trên trái đất hoặc trong
không gian.

Không nên nhầm lẫn Chemtrail với Contrail bình thƣờng mà máy bay phản lực để lại khi chúng
bay cao trên bầu trời. Contrail chỉ đơn giản là những vệt nƣớc nhỏ giọt hoặc tinh thể băng có thể nhìn
thấy đƣợc và biến mất khá nhanh, trong khi những chemtrail do máy bay phản lực để lại không biến
mất. Chemtrail có thể tồn tại trên bầu trời trong nhiều giờ. Thông thƣờng, các máy bay phản lực bay
ngang qua bầu trời với các chemtrail cuối cùng lan rộng ra, tạo ra một đám mây mù có thể chắn một
phần mặt trời. Khi điều này xảy ra, ngƣời ta có thể quan sát những thay đổi thời tiết thực tế do các
chemtrail mang lại.

Vì vậy, về cơ bản chemtrail là một hệ thống vũ khí sinh hóa độc hại đƣợc thiết kế để
phá hoại dần hệ thống thần kinh và miễn dịch của con ngƣời để các bộ điều khiển ƣu tú
toàn cầu biến chúng ta thành nô lệ kiểu zombie (thây ma).

Sau đó, đi chơi với những ngƣời này là cơ hội để tôi hiểu làm thế nào một ngƣời có thể giải
độc cơ thể của mình khỏi các chất độc ảnh hƣởng chầm chậm, xét cho cùng thì đó là bằng cách
sử dụng các loại thảo mộc và phƣơng pháp tắm mà nhiều nạn nhân của các vụ cố tình đầu độc
vẫn sống khỏe mạnh.
Tôi đã hỏi những ngƣời liên hệ rằng liệu những biện pháp khắc phục này có thích hợp cho
chemtrail không?

Câu trả lời đã rõ ràng


"Hãy nghĩ đi, bạn của tôi. Nếu liệu pháp này thành công đối với những chất độc cực kỳ gây
chết ngƣời thì tác động của nó đối với những chất độc ít nghiêm trọng hơn có thể là gì?"
Tôi quay lại với một câu hỏi về việc liệu có bất kỳ xét nghiệm nào để xác nhận điều này
không?
“Hãy hỏi ngƣời Mỹ» . “Họ biết rõ”. Ngƣời liên hệ của tôi nói với một cảm giác trớ trêu mà
khi đó tôi không hiểu.

Nghĩa là gì? Tôi đáp lại.

“Trong chiến tranh Việt Nam, họ đã nỗ lực nghiêm túc để đo lƣờng hậu quả của chất độc và
tìm ra một quy trình <<dọn sạch>> khả thi để phun chất độc chống lại dân thƣờng bất kể hàm
lƣợng của mỗi lần phun vì đồng thời nhiều GI (chú thích của dịch giả: GI – biệt danh của lính
Mỹ) cũng là nạn nhân chịu ảnh hƣởng phụ.

“Vì vậy, họ đã thử kết hợp nhiều loại thuốc, thực phẩm bổ sung, vitamin, hóa trị, v.v ... đã
diễn ra một số cải thiện, sau đó là chữa khỏi cho một tỷ lệ khiêm tốn của bệnh nhân.
Đồng thời trong bức màn sắt (chú thích dịch giả: bức màn sắt: là một biên giới vật lý lẫn tư
tưởng mang tính biểu tượng chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng rẽ từ cuối Thế chiến II vào
năm 1945 đến cuối cuộc Chiến tranh lạnh vào năm 1991), các nhà khoa học từ Đông Đức đã
phát triển một liệu pháp truyền thống với chi phí thấp hơn cho các nạn nhân bị đầu độc do điệp
viên, chính xác hơn là gián điệp STACI.

Từ thời Hitler, ngƣời Đức đã biết rằng một số họ thực vật nhất định tạo ra kết quả vƣợt trội
trong việc chống ngộ độc. Họ cũng có Kiến thức về một nhóm đá từ tính có khả năng tƣơng tác
rất thú vị với các khoáng chất nguy hiểm và đẩy chúng ra khỏi hệ thống cơ thể ''.
Đặt cƣợc bây giờ là tìm tên của các yếu tố chống oxy hóa này.
Phải mất một lúc nhƣng Dám làm thì sẽ Thắng và cuối cùng tôi đã tìm ra chúng với một số
trợ giúp tiền mặt!
Chƣơng hai

Khó khăn về sức khỏe.

Scotland về cơ bản là một vùng đất bạc màu nhƣng lại có một loài cây quốc huy mà thoạt
nhìn đã thấy không hợp với vai trò của nó. Loài cây này khắc nghiệt, gây khó chịu với những
chiếc gai đáng sợ và vẻ ngoài kém cỏi thực sự xấu xí.
Nhƣng bạn đọc của tôi ơi, đó có lẽ là loại thảo mộc hữu ích nhất trên thế giới!
Cây kế sữa - công cụ tái tạo và giải độc không chỉ chữa bệnh mà còn là loại thảo mộc duy
nhất giúp ích cho cơ quan sinh sản!

Hơn nữa, một số nghiên cứu khoa học đã đƣa ra kết luận rằng loài cây này giúp ích cho các
cơ quan cơ bản khác nhƣ tim và thận!

Tên thực vật của cây kế sữa là Silybum marianum (L.). Cây kế sữa còn đƣợc gọi là cây kế
thánh, cây kế Đức Mẹ, cây kế Mary, cây kế Quý bà, cây kế Thánh Mary, cây atisô hoang dã,
Mariendistel (tiếng Đức), và Chardon-Marie (tiếng Pháp). Loại cây này là cây bản địa của Châu
Âu nhƣng cũng có thể đƣợc tìm thấy ở Hoa Kỳ và Nam Mỹ. Theo truyền thống, lá đƣợc sử dụng
trong món salad, và quả đƣợc rang nhƣ một chất thay thế cà phê. Hạt của cây kế sữa là bộ phận
làm thuốc của cây. Thành phần hoạt tính chính của cây kế sữa là silymarin mặc dù cây kế sữa có
lịch sử lâu đời đƣợc sử dụng để điều trị các bệnh về gan và mật, mãi đến năm 1968, silymarin
mới đƣợc phân lập từ hạt của cây, và ngƣời ta đề xuất rằng silymarin có thể làm nguyên liệu hoạt
tính. Silymarin sau đó đƣợc xác định là một flavonolignan bao gồm bốn hợp chất có cấu trúc
tƣơng tự nhau: silybin, isosilybin, silydianin và silychristin. Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu vai
trò của silibinin trong điều trị viêm gan và xơ gan. Hầu hết các nghiên cứu đã điều tra hợp chất
silymarin cô lập hoặc silybin đồng phân hoạt động mạnh nhất của nó, chứ không phải cây thảo
dƣợc ở dạng nguyên vẹn.
Silymarin đƣợc biết đến nhiều nhất với các tác dụng có chủ đích trên gan. Trong các nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm, silymarin đã đƣợc phát hiện có tác dụng ổn định màng tế bào, do đó
ngăn cản các chất hóa học độc hại xâm nhập vào tế bào. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
cũng đã chứng minh rằng silymarin kích thích sự tổng hợp và hoạt động của các enzym chịu
trách nhiệm giải độc và thể hiện các đặc tính chống oxy hóa. Cụ thể, silymarin đã đƣợc chứng
minh là có khả năng kích thích con đƣờng glutathione S-transferase và làm thay đổi nồng độ nội
bào của glutathione (một chất chống oxy hóa mạnh). Silymarin cũng đã đƣợc chứng minh là vô
hiệu hóa một loạt các gốc tự do.
Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm đƣợc tiến hành bằng cách sử dụng các dòng tế bào
ung thƣ đã gợi ý rằng silibinin tăng cƣờng hiệu quả của cisplatin và doxorubicin chống lại các tế
bào ung thƣ buồng trứng và ung thƣ vú. Silybin dƣờng nhƣ có tác dụng chống ung thƣ trực tiếp
chống lại các tế bào khối u tuyến tiền liệt, vú và ectocervica l. Silybin cũng có thể ảnh hƣởng đến
chu kỳ tế bào trong tế bào ung thƣ bằng cách làm chậm sự phát triển của tế bào, nhƣ đã chứng
minh ở các dòng tế bào ung thƣ tuyến tiền liệt. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm sử dụng
các dòng tế bào bệnh bạch cầu cho thấy silybin không kích thích sự phát triển của các tế bào
bệnh bạch cầu.
Lịch sử
Cây kế sữa đã đƣợc sử dụng trong hơn 2.000 năm, chủ yếu để điều trị rối loạn chức năng
gan. Việc sử dụng cây kế sữa đƣợc báo cáo lâu đời nhất là của Dioscorides, ông đã đề xuất loại
thảo mộc này nhƣ một phƣơng pháp điều trị vết rắn cắn. Pliny the Elder (23–79 sau Công
nguyên) đã báo cáo rằng nƣớc ép của cây trộn với mật ong có tác dụng “loại bỏ mật”. Vào thời
trung cổ, cây kế sữa đƣợc tôn sùng nhƣ một loại thuốc giải độc tố cho gan. Nhà thảo dƣợc học
ngƣời Anh Culpepper đã báo cáo rằng nó có hiệu quả để làm giảm nhẹ các tắc nghẽn ở gan. Vào
năm 1898, các bác sĩ chiết trung Felter và Lloyd tuyên bố rằng loại thảo mộc này rất tốt để điều
trị tắc nghẽn gan, lá lách và thận. Ngƣời Mỹ bản địa sử dụng cây kế sữa để điều trị mụn nhọt và
các bệnh ngoài da khác. Các nhà vi lƣợng đồng căn đã sử dụng các chế phẩm từ hạt để điều trị
bệnh vàng da, sỏi mật, viêm phúc mạc, xuất huyết, viêm phế quản và giãn tĩnh mạch. Ủy ban E
của Đức (chú thích dịch giả: ban cố vấn khoa học của Viện Thuốc và Thiết bị Y tế Liên bang)
khuyến nghị sử dụng cây kế sữa cho các trƣờng hợp khó tiêu, tổn thƣơng gan do độc tố, xơ gan
và nhƣ một liệu pháp hỗ trợ cho các tình trạng gan viêm mãn tính.
Một số nghiên cứu đã điều tra tác động của silymarin hoặc silybin trong bối cảnh không có
ung thƣ. Những nghiên cứu này đã kiểm tra silymarin hoặc silybin:

 Trong tế bào gan và thận động vật khỏe mạnh.


 Dự phòng chống lại các hóa chất độc hại. (bao gồm cả chemtrail)
 Kích thích con đƣờng giải độc (nồng độ và hoạt động của enzym).
 Đối với đặc tính chống oxy hóa.
Silymarin hoặc silybin cũng đã đƣợc nghiên cứu trong các mô hình ung thƣ. Tác dụng của
silymarin và / hoặc silybin đã đƣợc nghiên cứu trên các tế bào ung thƣ tuyến tiền liệt, vú, gan,
đại tràng, buồng trứng, u lympho bào mô và các tế bào bệnh bạch cầu. Trong các mô hình khối u
động vật, thì đã nghiên cứu ung thƣ lƣỡi, ung thƣ da, ung thƣ bàng quang và ung thƣ biểu mô
tuyến của đại tràng và ruột non. Những nghiên cứu này đã kiểm tra khả năng của silymarin hoặc
silibinin trong việc:

 Giảm thiểu độc tính liên quan đến các tác nhân hóa trị
 Tăng cƣờng hiệu quả của các tác nhân hóa trị .
 Ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ung thƣ và ức chế sự hình thành
khối u hoặc ức chế khối u phát triển.

Mặc dù nhiều nghiên cứu trong số này đã tạo ra những kết quả đáng khích lệ, nhƣng không
có phát hiện nào đƣợc nhân rộng trong các thử nghiệm lâm sàng trên ngƣời.

Dữ liệu trong phòng thí nghiệm cho thấy silymarin và silybin bảo vệ gan khỏi bị tổn
thƣơng do các hóa chất độc hại gây ra. Các nghiên cứu trên động vật đã phát hiện ra rằng các
tế bào gan đƣợc điều trị bằng silybin và sau đó tiếp xúc với chất độc không bị tổn thƣơng hoặc
chết tế bào giống nhƣ các tế bào gan không đƣợc điều trị bằng silybin. Phát hiện này cho thấy
silybin có thể ngăn chặn độc tố xâm nhập vào tế bào hoặc xuất độc tố ra khỏi tế bào một cách
hiệu quả trƣớc khi xảy ra tổn thƣơng. Ngoài ra, điều này có thể liên quan đến tác dụng của
silymarin đối với hệ thống giải độc. Dữ liệu in vitro cho thấy silybin kích thích và / hoặc ức chế
con đƣờng giải độc giai đoạn I trong tế bào gan ngƣời đƣợc điều trị bằng silybin. Tuy nhiên, tác
dụng này phụ thuộc vào liều lƣợng và các mức độ này không thể đạt đƣợc về mặt sinh lý với các
khuyến cáo về liều lƣợng hiện tại của nhà sản xuất.
Silymarin và silybin cũng đã đƣợc tìm thấy giúp đẩy nhanh quá trình tái tạo tế bào trong
gan thông qua việc kích thích các tiền chất để tổng hợp DNA và tăng cƣờng sản xuất các enzym
tế bào cần thiết để tổng hợp DNA. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy
silymarin và silybin là những chất chống oxy hóa mạnh. Silymarin đã đƣợc chứng minh là làm
giảm căng thẳng oxy hóa trong các tế bào đƣợc điều trị bằng các hợp chất có khả năng oxy hóa.
Silymarin cũng đã đƣợc nghiên cứu nhƣ là một tác nhân hỗ trợ có thể làm giảm một số độc
tính liên quan đến các tác nhân hóa trị liệu. Silybin và silychristin có tác dụng bảo vệ tế bào thận
khỉ tiếp xúc với vincristin và đặc biệt là hóa trị cisplatin. Sử dụng Silybin (200 mg / kg thể trọng)
với cisplatin ở chuột đã làm giảm đáng kể các biện pháp gây độc cho thận. Đã quan sát thấy
giảm đáng kể tình trạng sụt cân, phục hồi nhanh hơn các biện pháp đo độ thẩm thấu trong nƣớc
tiểu, và giảm sự gia tăng hoạt động của alanin aminopeptidase trong nƣớc tiểu ([AAP], một dấu
hiệu nhiễm độc thận). Silybin không ảnh hƣởng đến việc bài tiết magiê (CỰC QUAN
TRỌNG XEM CHƢƠNG BỐN) hoặc chức năng cầu thận. Sử dụng Silybin (2 g / kg thể trọng)
ở chuột dùng cisplatin ngăn ngừa giảm độ thanh thải creatinin, tăng nồng độ urê huyết tƣơng và
tăng AAP niệu. Không quan sát thấy ảnh hƣởng đến sự bài tiết magiê. Silybin không can thiệp
vào tác dụng chống ung thƣ của cisplatin hoặc ifosfamide trong các khối u tế bào mầm. Trong
các thí nghiệm với các dòng tế bào ung thƣ buồng trứng và ung thƣ vú, silybin làm tăng tác dụng
của cisplatin và doxorubicin. IdB 1,016, một dạng silybin liên kết với phức hợp phospholipid,
đƣợc tìm thấy để tăng cƣờng hoạt động của cisplatin chống lại tế bào ung thƣ buồng trứng
A2780 nhƣng không có tác dụng riêng. Silybin làm tăng nhạy cảm với hóa trị liệu của tế bào ung
thƣ tuyến tiền liệt DU 145, vốn thƣờng kháng với hóa trị liệu.
Các nghiên cứu cũng đã điều tra tác động của silymarin đối với việc khởi phát và thúc đẩy
khối u. Silymarin dƣờng nhƣ có tác dụng ngăn ngừa ung thƣ thông qua việc gây nhiễu loạn trong
chu kỳ tế bào, làm thay đổi tín hiệu tế bào gây tăng sinh tế bào, ảnh hƣởng đến sự hình thành
mạch hoặc thông qua các đặc tính chống viêm của nó. Những phát hiện này đã đƣợc hỗ trợ trên
các dòng tế bào biểu bì ở ngƣời, vú, cổ tử cung, buồng trứng, gan, bệnh bạch cầu và u nang
epidermoid. Một cuộc điều tra về tác dụng của silymarin đối với bệnh ung thƣ da không phải tế
bào biểu mô tuyến B do tia cực tím gây ra ở chuột cho thấy điều trị silymarin làm giảm đáng kể
tỷ lệ khối u (P <0,003), tính đa dạng của khối u (P <.0001) và khối lƣợng khối u (P <.0001 ).
Những phát hiện này cho thấy rằng silymarin đóng một vai trò nổi bật trong việc giảm các tế bào
ung thƣ và ngăn ngừa sự hình thành của các tế bào ung thƣ. Một số nghiên cứu đã tìm hiểu cơ
chế mà silymarin có thể ảnh hƣởng đến sự thúc đẩy khối u trong các mô hình khối u trên da
chuột. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng silymarin làm giảm quá trình sao mã các chất chỉ báo
sự thúc đẩy và hoạt động của khối u, ức chế sự phiên mã của các chất kích thích khối u, kích
thích các hoạt động chống oxy hóa, can thiệp vào tín hiệu tế bào, ức chế các hành động viêm và
điều chỉnh việc điều hòa chu kỳ tế bào.
Cách sử dụng

Trƣớc hết, trong trƣờng hợp của chúng tôi, mặc dù có nhiều sản phẩm cây kế sữa đáng tin
cậy, nhƣng chúng tôi chủ yếu đề cập đến việc sử dụng dầu ăn silibu smarianum (không phải tinh
dầu) trong hai đến sáu tháng đầu tiên tùy thuộc vào mức độ ngộ độc (bắt nguồn từ tần suất thuốc
xịt) tiếp theo là một số bữa ăn atisô hàng tuần cho phần còn lại của lịch trình.
Chƣơng trình dƣới đây dành cho hoạt động phun xịt ở mức trung bình từ ba đến bốn lần mỗi
tuần trong khoảng thời gian hai tháng.

Tuần đầu tiên


Hàng ngày uống một thìa súp mỗi sáng thứ hai.

Tuần thứ hai tới thứ sáu

Một thìa súp ba lần mỗi tuần (tách biệt không cùng nhau)

Tuần thứ bảy tới tuần thứ mƣời một

Thông thƣờng, ba thìa cà phê mỗi tuần là đủ.

Hàng năm

Sau liệu pháp cơ bản này, cơ thể của bạn sẽ đƣợc làm sạch hoàn toàn khỏi tất cả các chất độc
đã hấp thụ trong suốt những năm qua nhƣng bạn cũng có thể tiêu thụ một hoặc hai thìa súp mỗi
tháng để bảo vệ sức khỏe trong suốt cả năm.

Nhƣng trong những giai đoạn hoạt động chemtrail hàng loạt, sau khi họ ngừng uống một
thìa cà phê hàng ngày trong tuần bởi vì phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh, phải không?

Lƣu ý quan trọng

Vui lòng trong tuần đầu tiên không uống các sản phẩm có caffeine và dừa, kể cả thức uống
loại cola với mức tiêu thụ vừa phải trong tháng đầu tiên tiếp theo – thoải mái trong thời gian còn
lại của đợt điều trị.
Chƣơng ba

Ngƣời anh em họ tốt

Ngƣời anh em họ của Sylibum marianum – Atisô, là lựa chọn tốt để làm các món giải
độc tốt cho sức khỏe.

Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Atisô có chứa một trong những chất chống oxy hóa
flavonoid vƣợt trội với hàm lƣợng cao nhất. http://www.ars.usda.gov/nutrientdata
Lịch sử và Truyền thuyết về Atisô
Theo truyền thuyết Aegean và đƣợc nhà thơ Quintus Horatius Flaccus ca ngợi trong bài
hát, atisô đầu tiên là một cô gái trẻ đáng yêu sống trên đảo Zinari. Một ngày nọ, thần Dớt
đến thăm anh trai Poseidon, khi anh ấy nổi lên từ biển, anh đã theo dõi một ngƣời phụ nữ
phàm trần trẻ đẹp. Cô ấy không có vẻ sợ hãi trƣớc sự hiện diện của một vị thần, và thần Dớt
đã nắm bắt cơ hội để quyến rũ cô ấy. Thần rất hài lòng với cô gái, tên là Cynara, đến nỗi
quyết định phong cô làm nữ thần, để cô có thể đến gần nhà mình trên đỉnh Olympia. Cynara
đồng ý với việc phong nữ thần, và thần Dớt dự đoán những cuộc hẹn hò sắp tới, bất cứ khi
nào vợ ông là Hera vắng nhà. Tuy nhiên, Cynara sớm nhớ mẹ và ngày càng nhớ nhà. Cô lẻn
trở lại thế giới của ngƣời phàm trong một chuyến thăm ngắn ngủi. Sau khi cô trở về, thần
Dớt đã phát hiện ra hành vi không giống nữ thần này. Quá tức giận, ông ném cô trở lại trái
đất và biến cô thành một loại cây mà chúng ta biết đến với cái tên atisô.
Nguồn gốc atisô có từ thời nhà triết học và nhà tự nhiên học ngƣời Hy Lạp,
Theophrastus (371-287 TCN), ông đã viết rằng loài cây này đƣợc trồng ở Ý và Sicily.

Pedanius Dioscorides (40-90 A.D.), một bác sĩ ngƣời Hy Lạp ở Anazarbus, Cilicia ở thế
kỷ 1 sau Công nguyên, đã viết về atisô vào thời Chúa Jesus. Trong khi đi du lịch với tƣ cách
là bác sĩ phẫu thuật với quân đội La Mã của Hoàng đế Nero, ông đã thu thập thông tin về
các phƣơng pháp chữa bệnh của thời kỳ đó và viết một tác phẩm về The Greek Herbal of
Dioscorides. Ban đầu đƣợc viết bằng tiếng Hy Lạp, thảo dƣợc Dioscorides sau đó đƣợc dịch
sang tiếng Latinh là De Materia Medica. Nó vẫn là cây thuốc có uy quyền trong hơn 1500
năm.
Ngƣời Hy Lạp và La Mã cổ đại coi atisô là một món ngon và là một loại thuốc kích
thích tình dục. Ở Hy Lạp cổ đại, atisô đƣợc cho là có hiệu quả trong việc đảm bảo sinh con
trai.
Vào năm 77 sau Công Nguyên, nhà tự nhiên học La Mã Caius Plinius Secundus, đƣợc
gọi là Pliny the Elder (23–79 sau Công Nguyên), đã gọi atisô là "một trong những quái vật
của trái đất." Rõ ràng là ông và các đồng nghiệp rất thích ăn chúng. Những ngƣời La Mã
giàu có rất thích atisô đƣợc chế biến trong mật ong và giấm, nêm với thì là, để món ăn này
có thể dùng đƣợc quanh năm.
Bắt đầu từ khoảng năm 800 sau Công nguyên, ngƣời Moor Bắc Phi bắt đầu trồng atisô ở
khu vực Granada, Tây Ban Nha, và một nhóm ngƣời Ả Rập khác, ngƣời Saracens, trồng
atisô ở Sicily. Điều này có thể giải thích tại sao từ atisô trong tiếng Anh có nguồn gốc từ
tiếng Ả Rập, "al’qarshuf" chứ không phải từ tiếng Latinh, "cynara.". Trong khoảng thời gian
từ năm 800 đến năm 1500, rất có thể atisô đã đƣợc cải tiến và biến đổi, có lẽ trong các khu
vƣờn của tu viện, thành loài cây mà chúng ta sẽ nhận ra ngày nay.
Atisô đƣợc trồng lần đầu tiên tại Naples vào khoảng giữa thế kỷ 15 và dần dần lan sang
các khu vực khác của châu Âu. Sau khi Rome thất thủ, atisô trở nên khan hiếm nhƣng lại
nổi lên trong thời kỳ Phục hƣng vào năm 1466 khi gia đình Strozzi mang chúng từ Florence
đến Naples.
Những năm 1500 - Vào thế kỷ 16, Catherine de Medici (1519-1589), kết hôn với Vua Henry
II (1519-1559), của Pháp khi mới 14 tuổi, được cho là đã làm cho atisô nổi tiếng. Bà được
cho là đã giới thiệu chúng đến Pháp khi kết hôn với Vua Henry II vào giữa thế kỷ 16. Bà
được trích dẫn nói: "Nếu ai trong chúng ta đã ăn atisô, chúng ta sẽ bị đuổi ra ngoài đường.
Ngày nay phụ nữ trẻ tiến bộ hơn những trang giấy ở tòa án."
Ông Pierre, Biên niên sử, de L'Estoile, trong Tạp chí ngày 19 tháng 6 năm 1576 nói về
dịp đám cƣới của Hầu tƣớc de Lomenie và Mlle de Martigues, "Thái hậu đã ăn nhiều đến
mức tưởng rằng bà sẽ chết, và rất ốm yếu vì bị tiêu chảy. Họ nói rằng đó là do ăn quá nhiều
bông atisô, mào và thận của gà trống, những thứ mà bà ấy rất thích. "
Từ " Book of Nature " của Tiến sĩ Bartolomeo Boldo năm 1576, "nó có đặc điểm ... kích
thích nhục dục cho cả nam và nữ; đối với phụ nữ, khiến họ trở nên ham muốn hơn và giúp
những người đàn ông đang bị ì ạch trong những vấn đề này. "
Những năm 1600 - Booke of Cookery của Martha Washington chứa một công thức từ
thế kỷ 17 mang tên "Cách làm bánh Hartichoak."
Những năm 1800 - Những người Pháp nhập cư đã mang atisô đến Hoa Kỳ vào năm
1806 khi họ định cư ở Lãnh thổ Louisiana. Nhưng mặc dù những cánh đồng atisô thương
mại đầu tiên được phát triển ở Louisiana, nhưng đến năm 1940, chúng đã biến mất một
cách bí ẩn. Sau đó, chúng đã được thực dân Pháp trồng ở Louisiana và người Tây Ban Nha
ở California trong khu vực Monterey trong suốt những năm 1800 sau đó.
Johann Wolfgang Goethe (1749-1832), nhà thơ và nhà viết kịch, đã đã tránh xa atisô.
Trong cuốn sách Du hành qua Ý, Goethe nói, "Những người nông dân ăn cây kế", một thực
tế mà ông không bao giờ áp dụng.
Thế kỷ 20 - Năm 1922, Andrew Molera, một chủ đất ở Thung lũng Salinas của Hạt
Monterey, California, ngay phía nam San Francisco, quyết định cho nông dân Ý thuê mảnh
đất trƣớc đây dành để trồng củ dền mà ông ấy khuyến khích thử trồng rau " mới ". Lý do của
ông là kinh tế vì atisô đƣợc bán với giá cao và nông dân có thể trả cho Molera gấp ba lần
những gì công ty đƣờng đã làm trên cùng một mảnh đất.
Vào đầu thế kỷ 20, Fannie Farmer đã lƣu ý trong ấn bản thứ chín của cuốn sách nấu ăn
của mình rằng atisô California đƣợc bán ở Boston với giá 30 đến 40 xu mỗi bông.
Vào những năm 1920, Ciro Terranova "Whitey" (1889-1938), một thành viên của mafia
và đƣợc biết đến với biệt danh "Vua atisô", bắt đầu độc quyền thị trƣờng atisô bằng cách
mua tất cả sản phẩm đƣợc vận chuyển đến New York từ California với giá 6 đô la một
thùng. Ông đã thành lập một công ty sản xuất và bán lại atisô với lợi nhuận từ 30 đến 40%.
Ông không chỉ khủng bố các nhà phân phối và thƣơng nhân sản xuất, mà ông còn thậm chí
còn phát động một cuộc tấn công vào các cánh đồng atisô từ Montara đến Pescadero, dùng
dao rựa chặt cây trong đêm khuya. Những cuộc "chiến tranh atisô" này đã khiến Thị trƣởng
hay New York, Fiorello La Guardia, tuyên bố "việc bán, trƣng bày và sở hữu" atisô ở New
York là bất hợp pháp. Thị trƣởng La Guardia công khai thừa nhận rằng bản thân rất thích
loại rau này và chỉ sau một tuần, ông đã dỡ bỏ lệnh cấm.
Atisô chứa các chất dinh dƣỡng thực vật (“phytonutrients - fight-o-nutrients”), hoặc các
hợp chất thực vật có đặc tính chống oxy hóa và tăng cƣờng sức khỏe con ngƣời. Một số
chất chống oxy hóa loại polyphenol mạnh nhất đƣợc tìm thấy trong Atisô, một vài trong
số đó đƣợc đánh dấu dƣới đây:

Quercetin
Một flavonoid hoạt động nhƣ một chất chống ung thƣ và chất chống oxy hóa để bảo vệ
chống lại bệnh ung thƣ và bệnh tim.

Anthocyanins

Các sắc tố màu trong Atisô có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc một số bệnh ung thƣ,
sức khỏe đƣờng tiết niệu, chức năng trí nhớ và lão hóa khỏe mạnh.

Axit gallic

Một chất chống oxy hóa cũng đƣợc tìm thấy trong rƣợu vang đỏ và trà đen. Nó đã đƣợc
chứng minh là có khả năng ức chế sự tăng sinh tế bào trong các tế bào ung thƣ tuyến tiền liệt.

Luteolin và Cynarin

Chất chống oxy hóa polyphenol có thể làm giảm mức cholesterol. Atisô chứa cyanarin, cũng
có thể giúp tái tạo mô gan.

Axit Caffeic và Axit Chlorogenic

Chứa các đặc tính chống ung thƣ, kháng khuẩn, chống LDL (cholesterol xấu) và kháng vi-
rút

Silymarin

Chất chống oxy hóa này hỗ trợ gan trong việc tái tạo mô tăng trƣởng (xem cây kế sữa).
Chƣơng bốn

Ảnh hƣởng của H2O

Lịch sử

Tất cả những gì bạn biết về nó đó là chất lỏng quan trọng nhất trong tự nhiên, cũng là chất
khử độc chính của chúng ta. Nhiều hình thức thủy liệu pháp khác nhau đã đƣợc ghi nhận trong
các nền văn minh Ai Cập, Ba Tƣ, Hy Lạp và La Mã cổ đại. Hoàng gia Ai Cập tắm bằng tinh dầu
và hoa, trong khi ngƣời La Mã có nhà tắm công cộng chung cho công dân. Ngƣời Iran phân loại
nƣớc spa theo tác dụng đối với tình trạng bệnh tật. Hippocrates quy định tắm trong nƣớc suối để
chữa bệnh. Các nền văn hóa khác ghi nhận lịch sử lâu đời của thủy liệu pháp bao gồm Trung
Quốc và Nhật Bản, nền văn hóa này tập trung chủ yếu xung quanh các suối nƣớc nóng của Nhật
Bản, hay (onsen). Nhiều lịch sử nhƣ vậy có trƣớc Nhà tắm công cộng La Mã.

Vào giữa thế kỷ 19, phƣơng pháp water cure - chữa bệnh bằng nước hồi sinh mạnh mẽ ở
Châu Âu, Vƣơng quốc Anh và Hoa Kỳ. Trong thời gian này, thuật ngữ chữa bệnh bằng nước
đƣợc sử dụng đồng nghĩa với hydropathy – phép chữa bệnh bằng nước, thuật ngữ này đƣợc biết
đến vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, việc sử dụng nƣớc để chữa bệnh có trƣớc khi
đƣợc phổ biến trở lại này. Việc sử dụng nó đã đƣợc ghi nhận trong các nền văn minh Ai Cập, Hy
Lạp và La Mã cổ đại. Vào thế kỷ 19, một cuộc phục hƣng phổ biến theo sau việc áp dụng thủy
liệu pháp vào khoảng năm 1829, bởi Vincent Priessnitz, một nông dân ở Áo. Thời kỳ phục hƣng
này đƣợc tiếp tục bởi những ngƣời khác nhƣ Thuyền trƣởng R. T. Claridge, ông đã đƣa thủy liệu
pháp vào nƣớc Anh vào đầu những năm 1840 thông qua các bài viết và bài giảng.

Các hình thức thủy trị liệu phổ biến khác bao gồm liệu pháp nƣớc biển của Richard Russell,
phiên bản đƣơng đại của nó là liệu pháp nƣớc biển (thalassotherapy). Tuy nhiên, phƣơng pháp
này chƣa bao giờ đƣợc biết đến hoặc đƣợc bán trên thị trƣờng nhƣ là phƣơng pháp chữa bệnh
bằng nƣớc theo nghĩa đã trở thành đồng nghĩa với hydropathy, ngày nay là hydrotherapy (thủy trị
liệu). Thay vào đó, Russell đã đƣợc ghi nhận là đã đóng một vai trò nào đó, cùng với các phong
trào xã hội rộng lớn hơn, trong "cơn hƣng cảm bên bờ biển của nửa sau thế kỷ mƣời tám", bản
thân nó đã có ý nghĩa nhất định, với một số hoạt động gợi nhắc đến spa hiện đại ngày nay.
Thực vậy, ở châu Âu, việc áp dụng nƣớc trong điều trị sốt và các bệnh khác, kể từ thế kỷ
XVII, đã đƣợc nhiều cây viết về sức khỏe liên tục thúc đẩy. Vào thế kỷ thứ mƣời tám, đi đến các
vùng biển đã trở thành một thú tiêu khiển thời thƣợng đối với các tầng lớp giàu có, họ đã tìm đến
các khu nghỉ dƣỡng trên khắp nƣớc Anh và châu Âu để chữa bệnh ăn uống quá mức. Về cơ bản,
liệu pháp điều trị trong thời kỳ hoàng kim của spa ở Anh bao gồm cảm nhận và sự chan hòa: đi
dạo, tắm và ngâm mình lặp đi lặp lại trong nƣớc khoáng có mùi hôi.
Bản thân phong trào spa đã trở nên đặc biệt phổ biến trong thế kỷ 19 khi các spa chăm sóc
sức khỏe dành cho việc “chữa bệnh” là những cơ sở y tế nổi tiếng dành cho tầng lớp thƣợng lƣu,
đặc biệt là những ngƣời mắc bệnh mãn tính hoặc kéo dài.
Những ngƣời hành nghề chữa bệnh bằng nƣớc từ các bác sĩ có trình độ chuyên môn đến
những ngƣời đam mê tự học. Ví dụ, một phƣơng pháp chữa bệnh bằng nƣớc nổi tiếng ở Malvern,
Worcestershire đã đƣợc Tiến sĩ James Gully bắt đầu vào năm 1842 bằng cách sử dụng nƣớc
Malvern. Những bệnh nhân nổi tiếng của Gully bao gồm Charles Darwin, Charles Dickens,
Thomas Carlyle, Florence Nightingale, Lord Tennyson và Samuel Wilberforce.
Một hình thức trị liệu bằng nƣớc đƣợc một số ngƣời ủng hộ thuốc thay thế tán thành là uống
một lƣợng nƣớc vào ruột khi thức dậy để 'làm sạch ruột'. Một lít đến một lít rƣỡi là lƣợng phổ
biến đƣợc uống vào. Liệu pháp nƣớc này, còn đƣợc gọi là Liệu pháp nƣớc của Ấn Độ, Trung
Quốc hoặc Nhật Bản, đƣợc khẳng định là có nhiều lợi ích cho sức khỏe; hoặc ít nhất là không có
- tác dụng phụ. Những ngƣời ủng hộ liệu pháp nƣớc cho rằng việc áp dụng liệu pháp nƣớc lúc
đầu sẽ khiến bạn đi tiêu nhiều lần cho đến khi cơ thể thích nghi với lƣợng chất lỏng tăng lên.
Mặc dù uống khoảng một lít nƣớc rƣỡi thƣờng đƣợc coi là vô hại, nhƣng uống quá nhiều
nƣớc có thể dẫn đến nhiễm độc nƣớc, một tình trạng sức khỏe khẩn cấp và nguy hiểm.
Trƣớc Thế chiến thứ hai, nhiều hình thức thủy trị liệu khác nhau đã đƣợc sử dụng để điều trị
chứng nghiện rƣợu và ngày nay nó đƣợc sử dụng trong y học thay thế. Ví dụ, văn bản cơ bản của
nghiên cứu về Ngƣời nghiện rƣợu Ẩn danh, Alcoholics Anonymous, báo cáo rằng A.A. ngƣời
đồng sáng lập Bill Wilson đã đƣợc điều trị bằng thủy liệu pháp vì chứng nghiện rƣợu vào đầu
những năm 1930.
Thủy trị liệu bao gồm một loạt các phƣơng pháp và kỹ thuật, nhiều phƣơng pháp trong số đó
sử dụng nƣớc nhƣ một phƣơng tiện hỗ trợ cho các phản ứng điều hòa nhiệt để trị liệu, trong khi
vẫn chƣa hiểu rõ các cơ chế sinh lý ban đầu, và các lợi ích điều trị đã đƣợc công nhận từ lâu,
ngay cả khi lý do về lợi ích điều trị vẫn còn tranh cãi . Ví dụ, vào tháng 11 năm 1881, Tạp chí Y
khoa Anh lƣu ý rằng thủy trị liệu là một ví dụ cụ thể, hay "ca bệnh điển hình", của các nguyên tắc
chung về nhiệt động lực học. Đó là, "ứng dụng của nhiệt và lạnh nói chung", nhƣ nó áp dụng cho
sinh lý học, qua trung gian là thủy trị liệu. Năm 1883, một nhà văn khác đã tuyên bố "Xét cho
cùng, thủy trị liệu tức là một phƣơng pháp điều trị bằng nƣớc, mà nƣớc là phƣơng tiện truyền
nhiệt và lạnh cho cơ thể". Do đó, "các tác nhân hoạt tính trong điều trị (là) nhiệt và lạnh", trong
đó nƣớc chỉ là phƣơng tiện, và không phải là phƣơng tiện duy nhất ".
Cách sử dụng

Chỉ cần uống 2 đến 3 lít nƣớc mỗi ngày trong giai đoạn chemtrail.
Luôn chọn uống nƣớc có độ tinh khiết cao nhất và đủ hàm lƣợng khoáng chất, đặc biệt là
giàu Magie.

Tại sao?

Bởi vì Magiê là một chất giải độc cơ thể hàng đầu và bảo vệ hệ thống thần kinh của chúng ta
- hệ thống này bị nhắm mục tiêu và lạm dụng một cách tàn bạo bởi các khoáng chất chemtrail
độc hại. Magiê đƣợc cơ thể sử dụng cho tất cả các con đƣờng giải độc và cần thiết để trung
hòa các chất độc, trung hòa tình trạng quá chua phát sinh trong cơ thể và để bảo vệ khỏi
các kim loại nặng. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của
các hóa chất nhân tạo xung quanh mình. Glutathione, một chất chống oxy hóa thƣờng đƣợc cơ
thể sản xuất và là chất khử độc của thủy ngân, chì và asen trong số những chất khác, cần magiê
để tổng hợp. Tình trạng thiếu hụt magiê làm tăng quá trình tạo gốc tự do trong cơ thể và gây mất
glutathione, điều này không thể chấp nhận đƣợc vì glutathione giúp bảo vệ cơ thể chống lại tác
hại do hút thuốc lá, tiếp xúc với bức xạ, hóa trị ung thƣ và các chất độc nhƣ rƣợu và tất cả những
thứ khác .

Khi cơ thể chúng ta đƣợc cung cấp đầy đủ magiê (và cân bằng với các khoáng chất thiết yếu
khác), chúng ta sẽ đƣợc bảo vệ khỏi tình trạng lắng đọng kim loại nặng và khỏi sự phát triển của
các bệnh liên quan đến thần kinh. Nghiên cứu chỉ ra rằng lƣợng magiê dồi dào sẽ bảo vệ tế
bào não khỏi tác hại của nhôm, berili, cadmium, chì, thủy ngân và niken (chemtrails).
Chúng ta cũng biết rằng lƣợng magiê trong não thấp góp phần làm lắng đọng các kim loại nặng
trong não báo trƣớc bệnh Parkinson và bệnh Alzheimer. Dƣờng nhƣ các kim loại cạnh tranh với
magiê để xâm nhập vào các tế bào não. Nếu lƣợng magiê thấp, thì kim loại sẽ tiếp cận dễ dàng
hơn nhiều.

Thần mặt trời

Một cách tuyệt vời để lọc nƣớc máy trở nên tinh khiết là cho nó vào chai thủy tinh và để
chúng ra ngoài ánh sáng mặt trời từ hai đến ba giờ. Bằng cách đó, bạn đã loại bỏ tất cả các hóa
chất không cần thiết nhƣ florua. Một số <<chuyên gia>> lập luận rằng tốt hơn là sử dụng chai
nhựa PVC cho quy trình này! Xin lỗi các bạn, điều đó là sai! Ánh nắng mặt trời sẽ làm tăng thêm
các chất độc trong nƣớc do vải nhựa (plastic fabric) tạo ra nhắm tới hoạt động của thận.
Chƣơng năm

Bảo vệ thận

Chỉ đứng sau gan - thận - là cơ quan giải độc loại A. Thật không may trong quá trình giải
độc, chúng đã rất nỗ lực để làm cơ thể bạn nên đôi khi cần dự phòng bằng thảo dƣợc để khỏe
mạnh.

Cần tây và những lợi ích sức khỏe của nó đã đƣợc biết đến trong nhiều thế kỷ. Trong thời
cổ đại, nó cũng đƣợc coi là một loại dƣợc liệu để điều trị nhiều loại bệnh tật. Vào đầu thời Trung
Cổ, nƣớc ép cần tây đƣợc sử dụng để chữa các bệnh nhƣ sỏi mật, táo bón, các vấn đề về kinh
nguyệt và các rối loạn sức khỏe của gan và túi mật.
… Nƣớc ép cần tây rất bổ dƣỡng và rất giàu nƣớc. Bởi vì cực kỳ kiềm hóa, nên nó cân bằng
độ PH của cơ thể, điều này cần thiết cho sức khỏe tốt. Tất cả các bộ phận của cần tây đều chứa
nhiều khoáng chất, vitamin và chất dinh dƣỡng. Lá cần tây chứa nhiều vitamin A, trong khi thân
cây là một nguồn tuyệt vời của vitamin B1, B2, B6 và C và đậm đặc kali, axit folic, canxi,
magiê, sắt, phốt pho, natri và các axit amin thiết yếu.

Siêu thực phẩm này cũng chứa nồng độ hormone thực vật quan trọng và các loại tinh dầu
chữa bệnh tạo nên mùi đặc trƣng của cần tây. Những loại dầu này giúp điều hòa hệ thần kinh và
rất êm dịu.

Natri có trong cần tây ở dạng hòa tan và hữu cơ (sống), rất cần thiết cho cơ thể. Muối hữu cơ
cho phép cơ thể sử dụng các chất dinh dƣỡng khác đƣợc đƣa vào cơ thể. Mọi tế bào trong cơ thể
chúng ta thƣờng xuyên đƣợc tắm trong dung dịch muối, và nếu nồng độ muối không cân bằng,
thì tình trạng mất nƣớc sẽ xảy ra. Đây là lý do tại sao nƣớc ép cần tây là thức uống bù nƣớc hoàn
hảo cho các vận động viên.

Nguồn vitamin C - Cần tây rất giàu vitamin C, một chất chống oxy hóa rất quan trọng và
tăng cƣờng hệ thống miễn dịch.

• Siêu thực phẩm Detox - Cần tây đƣợc khuyến khích sử dụng trong hầu hết các kế
hoạch ăn kiêng detox nhƣ một chất tẩy rửa để thêm vào công thức nƣớc ép. Nó có đặc
tính làm sạch tuyệt vời giúp hỗ trợ tiêu hóa, điều tiết chất lỏng trong cơ thể bằng cách
hoạt động nhƣ một chất lợi tiểu và hạn chế cảm giác thèm ngọt.
• Ngăn ngừa ung thƣ - Các nghiên cứu phát hiện ra rằng cần tây có chứa ít nhất tám
hợp chất giúp ngăn chặn tế bào ung thƣ lây lan. Một số hợp chất đƣợc gọi là acetylenics
đã đƣợc chứng minh là có thể ngăn chặn sự phát triển của các tế bào khối u. Cần tây chứa
các hợp chất khác đƣợc gọi là axit phonolic ngăn chặn hoạt động của các chất tƣơng tự
nhƣ hormone gọi là prostaglandin, chất này khuyến khích sự phát triển của các tế bào
khối u. Coumarins, một chất dinh dƣỡng thực vật khác trong cần tây giúp ngăn chặn các
gốc tự do gây hại cho tế bào và ngăn ngừa sự hình thành và phát triển của bệnh ung thƣ
đại tràng và dạ dày.
• Giảm Cholesterol - Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng chỉ ra rằng butyl
phthalide, một chất hóa học trong cần tây, có thể giúp giảm cholesterol LDL (có hại).
Cần tây cũng giúp tăng tiết axit mật giúp loại bỏ cholesterol ra khỏi cơ thể.
• Cải thiện tiêu hóa - Cần tây là một loại thuốc nhuận tràng tự nhiên giúp giảm táo
bón. Các chất dinh dƣỡng đặc biệt trong chất xơ đƣợc giải phóng trong quá trình ép để hỗ
trợ nhu động ruột.
• Lợi tiểu - Kali và natri trong nƣớc ép cần tây là những chất điều chỉnh chất lỏng
cơ thể mạnh mẽ, kích thích sản xuất nƣớc tiểu để giúp cơ thể loại bỏ chất lỏng dƣ thừa.
• Chống viêm - Chất polyacetylene trong cần tây có tác dụng giảm đau tuyệt vời đối
với tất cả các chứng viêm bao gồm viêm khớp dạng thấp, viêm xƣơng khớp, bệnh gút,
hen suyễn và viêm phế quản. Một nghiên cứu cho thấy rằng một chất dinh dƣỡng thực vật
mạnh mẽ khác đƣợc gọi là luteolin ngăn chặn con đƣờng viêm nhiễm trong não. Luteolin
cũng ức chế việc sản xuất dƣ thừa TNF-alpha, nguyên nhân trực tiếp gây viêm.
• Hạ huyết áp - Y học Trung Quốc từ lâu đã công nhận tiềm năng của Cần tây trong
việc giảm huyết áp cao. Các nghiên cứu cho thấy uống nƣớc ép cần tây mỗi ngày trong
vòng 1 tuần có thể giúp hạ huyết áp đáng kể. Một hợp chất đƣợc gọi là phtalides giúp thƣ
giãn các cơ xung quanh động mạch, làm giãn mạch và cho phép máu lƣu thông thuận lợi.
Pthalides cũng làm giảm các hormone căng thẳng, một trong những tác động của chúng
là làm cho các mạch máu co lại.
• Mất ngủ - Nƣớc ép cần tây đƣợc cho là có tác dụng làm dịu hệ thống thần kinh, có
lợi cho chứng mất ngủ. Mức magiê cao của cần tây giúp mọi ngƣời thƣ giãn vào một giấc
ngủ nhẹ nhàng và thƣ thái.
• Giảm cân - Uống nƣớc ép cần tây thƣờng xuyên trong ngày là cách giảm cảm giác
thèm ăn tự nhiên phổ biến. Ăn nhẹ với cần tây trong ngày sẽ giúp bạn no lâu mà không
nạp thêm calo.
• Loại bỏ và ngăn ngừa sỏi - Nƣớc ép cần tây rất tốt để làm sạch độc tố khỏi cơ thể
và là một phƣơng thuốc tự nhiên tốt để làm tan và thải sỏi tiết niệu và SỎI mật. Uống nó
thƣờng xuyên sẽ giúp ngăn sỏi hình thành trở lại.
• Tăng ham muốn tình dục - Nƣớc ép cần tây có lợi để tăng ham muốn tình dục mà
không gây kích thích không kiểm soát đƣợc nhƣ một số loại dƣợc phẩm.

Cách sử dụng

Đơn giản thêm nó vào salad


Chƣơng sáu

Yellow submarine

Chanh là chất tiêu diệt ung thƣ mạnh hơn 10.000 lần so với bất kỳ phƣơng pháp hóa trị nào.
Nguồn thông tin này thật hấp dẫn: nó đến từ một trong những nhà sản xuất thuốc lớn nhất thế
giới, cho biết sau hơn 20 thử nghiệm trong phòng thí nghiệm kể từ năm 1970, các chất chiết xuất
từ chanh cho thấy: có khả năng tiêu diệt các tế bào ác tính trong 12 bệnh ung thƣ, bao gồm cả đại
tràng, vú, tuyến tiền liệt, phổi và tuyến tụy ... Các hợp chất của loài cây này cho thấy hiệu quả tốt
hơn 10.000 lần so với sản phẩm Adriamycin, một loại thuốc hóa trị liệu thƣờng đƣợc sử dụng
trên thế giới, làm chậm sự phát triển của tế bào ung thƣ. Và điều đáng kinh ngạc hơn nữa: liệu
pháp chiết xuất từ chanh này không chỉ tiêu diệt các tế bào ung thƣ ác tính mà còn không ảnh
hƣởng đến các tế bào khỏe mạnh

Cách sử dụng

Uống nƣớc chanh từ một đến ba quả chanh theo chu kỳ - không thêm đƣờng hoặc muối –
Tôi nhắc lại: không bao giờ!
Đặc biệt pha muối với chanh rất nguy hiểm cho máu, thậm chí có thể gây ung thƣ máu.

Also for smokers , overweight persons and every potential heart patient drink half a cup daily
with lemon juice (one lemon) a soup spoon of honey and garlic ( Real one not powder or
supplement) for a period up to three months .Your arteries will be open and circulated as new.

Ngoài ra, đối với những ngƣời hút thuốc, những ngƣời thừa cân và mọi bệnh nhân tim tiềm
ẩn uống nửa cốc nƣớc chanh mỗi ngày (một quả chanh), một thìa súp mật ong và tỏi (tỏi thật,
không phải dạng bột hoặc thực phẩm bổ sung) trong thời gian lên đến ba tháng. Động mạch của
bạn sẽ mở và lƣu thông nhƣ mới.
Chƣơng bảy

Moonchild

Selen (tiếng Hy Lạp σελήνη selene nghĩa là "Mặt trăng") đƣợc phát hiện vào năm 1817 bởi
Jöns Jakob Berzelius và Johan Gottlieb Gahn

Sau đó, Selen đã đƣợc thông báo y tế vì tính độc hại của nó đối với con ngƣời làm việc trong
các ngành công nghiệp. Selen cũng đƣợc công nhận là một độc tố quan trọng trong thú y, đƣợc
tìm thấy trong các động vật ăn thực vật có hàm lƣợng selen cao. Năm 1954, những gợi ý đầu tiên
về các chức năng sinh học cụ thể của Selen đã đƣợc phát hiện ở vi sinh vật. Tính chất thiết yếu
của nó đối với sự sống của động vật có vú đƣợc phát hiện vào năm 1957. Vào những năm 1970,
nó đƣợc chứng minh là có mặt trong hai bộ enzym độc lập. Tiếp theo là việc phát hiện ra
selenocysteine trong protein. Trong những năm 1980, ngƣời ta đã chỉ ra rằng selenocysteine
đƣợc mã hóa bởi codon UGA. Cơ chế giải mã đƣợc thực hiện đầu tiên ở vi khuẩn và sau đó ở
động vật có vú.
SELEN ĐỂ BẢO VỆ CHẤT CHỐNG OXY HÓA

Các chất chống oxy hóa nhƣ Vitamin E, Vitamin C và Co-Enzyme Q10 trung hòa các gốc tự
do bằng cách trở thành các gốc tự do ít gây hại hơn những gốc mà chúng vô hiệu hóa. Nhƣng các
dạng gốc tự do của chất chống oxy hóa phải đƣợc tái tạo hoặc chúng không thể tiếp tục trở thành
chất chống oxy hóa hiệu quả, và thậm chí có thể gây hại.

Hệ thống chống oxy hóa glutathione và thioredoxin có chức năng tái tạo các chất chống oxy
hóa khác trong khi chính chúng cung cấp khả năng bảo vệ chống oxy hóa chính trong giai đoạn
nƣớc của cơ thể. Glutathione peroxidase và thioredoxin reductase là hai loại enzym chống oxy
hóa tự nhiên có chứa Selen và phụ thuộc vào hoạt động của Selen cho chức năng chống oxy hóa.

Cả hệ thống glutathione và thioredoxin đều tăng cƣờng hoạt động chống oxy hóa của chính
chúng bằng cách tạo ra các enzym chống oxy hóa tự nhiên khác. Bổ sung Selenite và selen
omethionine đã đƣợc chứng minh là làm giảm đáng kể tổn thƣơng DNA do oxy hóa (hình thành
8-OHdG) do bức xạ tia cực tím.

Năm 1989, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ đã thiết lập Nhu cầu Dinh dƣơng Khuyến
nghị hàng ngày (RDA) cho Selen dựa trên việc tối đa hóa hoạt động peroxidase của glutathione
trong huyết tƣơng [HỘI ĐỒNG NGHIÊN CỨU QUỐC GIA: NHU CẦU DINH DƢỠNG
KHUYẾN NGHỊ; Phiên bản thứ 10; Washington, D.C., Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia,
1989]. Đƣa ra mức cho phép thận trọng phù hợp với trọng lƣợng cơ thể và đảm bảo an toàn, 70
m g / ngày đối với nam giới trƣởng thành và 55 m g / ngày đối với phụ nữ trƣởng thành đã đƣợc
thiết lập nhƣ là RDA cho Selen.

SELEN VÀ UNG THƢ


Năm 1996, TẠP CHÍ CỦA HIỆP HỘI Y TẾ MỸ đã công bố kết quả của một thử nghiệm
phòng ngừa ung thƣ đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dƣợc dựa trên Selen
200 μ g / ngày hoặc giả dƣợc cho 1.312 bệnh nhân trong giai đoạn trung bình là 4,5 năm. Nghiên
cứu báo cáo giảm 50% tổng tỷ lệ mắc ung thƣ cũng nhƣ giảm 63% ung thƣ tuyến tiền liệt, giảm
58% ung thƣ đại trực tràng và giảm 48% ung thƣ phổi. Chỉ 6 trong số 1.312 đối tƣợng có nồng
độ Selen trong máu thấp hơn mức có thể đạt đƣợc theo RDA trƣớc khi bổ sung. Nghiên cứu này
không chỉ bác bỏ mạnh mẽ tuyên bố rằng thực phẩm chức năng không mang lại lợi ích gì, mà tác
dụng của nó mạnh đến mức bất cứ ai lặp lại tuyên bố đó sẽ đƣợc xem là phi đạo đức. Sau khi
xem xét kỹ lƣỡng dữ liệu, chỉ có bằng chứng giảm ung thƣ tuyến tiền liệt đƣợc chấp nhận là có ý
nghĩa thống kê (giảm 42% ung thƣ tuyến tiền liệt). Dữ liệu vẫn cho thấy tổng tỷ lệ tử vong do
ung thƣ giảm là 51%.

Selen có nhiều tác dụng chống ung thƣ đến nỗi rất khó xác định tác dụng nào chiếm ƣu thế.
Selen ảnh hƣởng đến stress oxy hóa, methyl hóa DNA, sửa chữa DNA, viêm nhiễm, quá trình
apoptosis, tăng sinh tế bào, chuyển hóa chất gây ung thƣ, sản xuất hormone, tạo mạch và chức
năng miễn dịch.
Ung thƣ bắt đầu với đột biến DNA, methyl hóa DNA không ổn định hoặc kiểm soát chu kỳ
tế bào bị lỗi. DNA thƣờng đƣợc bảo vệ khỏi các chất gây ung thƣ bởi các nhóm methyl, nhƣng
sự thiếu hụt Selen (giống nhƣ thiếu axit folic) có thể dẫn đến tình trạng giảm methyl hóa DNA và
do đó gây phá hủy và đột biến DNA. Selen cũng thúc đẩy hoạt động của protein p53, chất
thƣờng đƣợc gọi là "ngƣời giám hộ của bộ gen". Hơn một nửa số trƣờng hợp ung thƣ có
protein p53 bị lỗi. Khi DNA bị hƣ hỏng, p53 hoặc sẽ kích thích sửa chữa DNA hoặc sẽ khiến các
tế bào tự hủy (apoptosis) nếu tổn thƣơng DNA không thể sửa chữa đƣợc. Hệ thống khử độc tố
thioredoxin thúc đẩy cảm ứng p53 của các enzym sửa chữa DNA. Các tế bào tiếp xúc với
selenomethionie đã cho thấy hoạt động của p53 tăng gấp 3 lần.

SELEN VÀ MIỄN DỊCH

Bệnh nhân AIDS thiếu Selen có nguy cơ tử vong do các nguyên nhân liên quan đến HIV cao
hơn gần 20 lần so với bệnh nhân có đầy đủ Selen. Tình trạng thiếu hụt Selen làm tăng độc lực
nhiễm virus bằng cách gây ra nhiều phản ứng miễn dịch gây viêm.

Nguyên nhân chính gây tử vong không do tim mạch ở các bệnh viện Mỹ là nhiễm trùng
huyết do nhiễm trùng, dẫn đến hơn 100.000 ca tử vong mỗi năm ở Mỹ. Hai phần ba số trƣờng
hợp đó xảy ra ở những bệnh nhân đã nhập viện vì các bệnh lý khác. Selen không chỉ bảo vệ
chống lại nhiễm trùng huyết bằng cách tăng cƣờng hệ thống miễn dịch, mà nó hoạt động trực
tiếp chống lại lipopolysaccharide (LPS) của vi khuẩn, một phân tử lớn góp phần đáng kể vào sốc
nhiễm khuẩn (tử vong do nhiễm trùng vi khuẩn). Suy đa tạng, nguyên nhân tử vong hàng đầu tại
các khoa hồi sức cấp cứu, thƣờng do nhiễm trùng huyết toàn thân. Ngƣời cao tuổi lo lắng về
nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện cũng nên coi việc bổ sung Selen nhƣ một phần của biện pháp bảo
vệ chống lại bệnh cúm.

Cách sử dụng

Uống bổ sung Selen 100mg mỗi ngày trong 3 tháng, sau đó 200mg định kỳ là đủ.
Trƣờng hợp ngoại lệ ở trên đề cập đến bệnh nhân HIV + hoặc AIDS – bạn phải dùng hàng
ngày 200 đến 400mg trong khoảng một năm thì sẽ thấy kết quả tuyệt vời.

Mặc dù vậy, tốt hơn là tiêu thụ thực phẩm bổ sung selen trực tiếp không kết hợp cùng
vitamin C vì vita C phá hủy một phần của Selen.
PHẦN HAI – ĐÁ & TINH THỂ

Chƣơng tám

Đá vì sự sống

Một số viên đá có tác dụng giống nhƣ vật chữa lành cơ thể bằng từ tính.
Nhóm đá quan trọng nhất trong số này là Tourmalines.
Chúng rất phổ biến và đƣợc chấp nhận là vật có đặc tính chữa bệnh đến nỗi ở Nhật Bản, một
quốc gia đặc biệt nhạy cảm trong các vấn đề về chất lƣợng cuộc sống, miếng dán bàn chân
Tourmaline đƣợc sử dụng rộng rãi để giải độc cơ thể.
Ngoài ra, ở Châu Âu, một phƣơng pháp điều trị hàng ngày hoàn toàn mới là chuyển động -
áo khoác từ tính sinh học đƣợc gắn thêm nam châm Tourmaline đƣợc chứng minh là cực kỳ hữu
ích trong nhiều tình trạng y tế bao gồm thải độc cơ thể.

Chúng có nhiều dạng màu sắc và thuộc tính khác nhau nhƣng đặc điểm chính là khả năng cân
bằng năng lƣợng cơ thể và buộc các chất độc nguy hiểm phải chiết xuất ra khỏi cơ thể.
Hoặc ở dạng đá mỏ đơn giản ban đầu hoặc nhƣ ngƣời bạn đồng hành á tinh, chúng có khả
năng chữa lành rất khả quan. Đá quý Tourmaline là một loại đá khoáng bán quý (semi-precious
mineral stone) nổi tiếng với khả năng đáng kinh ngạc giúp hỗ trợ quá trình giải độc của cơ thể
con ngƣời. Nó là một trong nhiều khoáng chất có khả năng phát ra các ion âm và tia hồng ngoại
xa.

Từ tourmaline có nguồn gốc từ cụm từ Singhalese "tura mali", có nghĩa là "đá pha trộn với
màu sắc rực rỡ." Từ màu đỏ tƣơi đến màu xanh mòng két, màu xanh lá cây đến màu vàng rực rỡ,
và thậm chí cả màu đen, loại đá chữa bệnh mạnh mẽ này đƣợc biết là có thể thay đổi màu sắc
dƣới các dạng ánh sáng khác nhau. Một số ngƣời nói rằng không có hai viên đá tourmalines nào
có cùng màu giống hệt nhau, và vì lý do này, nó đã đƣợc lịch sử tôn sùng nhƣ một loại đá "ma
thuật" có khả năng bảo vệ bất cứ ai đeo nó.

Đá quý tourmaline có khả năng kỳ lạ trở thành nguồn điện tích của chính nó, vì nó vừa là
nhiệt điện, vừa là áp điện. Khi viên đá quý bị đặt dƣới áp suất lớn hơn hoặc khi nó đƣợc làm
nóng hoặc làm lạnh đột ngột, nó sẽ tạo ra một điện tích có khả năng phát ra sóng hồng ngoại và
các ion âm. Ngày nay, một thực tế nổi tiếng là đá quý tourmaline có thể hỗ trợ trơn tru quá trình
giải độc của cơ thể.¹

Lợi ích sức khỏe của đá quý Tourmaline


Các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ mắc bệnh mãn tính gia tăng có liên quan trực tiếp đến tình
trạng tràn ngập chất độc trong cơ thể. Đá quý Tourmaline đƣợc biết đến là loại đá có tác dụng hỗ
trợ giải tỏa căng thẳng, tăng cƣờng tinh thần tỉnh táo, cải thiện tuần hoàn và tăng cƣờng hệ thống
miễn dịch. Nó là một tác nhân mạnh mẽ để giảm các bệnh liên quan đến độc tố.

Hơn nữa, tourmaline có tác dụng giải độc, làm sạch hệ thần kinh, cũng nhƣ các cơ quan và
mô của cơ thể. Nó đã đƣợc chứng minh là hữu ích để cải thiện tuần hoàn, giảm căng thẳng, cải
thiện sự tỉnh táo của não và kích hoạt hệ thống miễn dịch. Loại đá quý đầy màu sắc này có tác
dụng làm ổn định thần kinh, do khả năng tự sinh nhiệt của nó. Khả năng tự tạo ra sự thay đổi
điện này khiến nó trở thành một trong những khoáng chất duy nhất có thể phát ra nhiệt hồng
ngoại xa, cũng nhƣ các ion âm.

Sự thật gây sốc


Nghiên cứu sơ bộ bằng cách sử dụng đá quý tourmaline trên động vật và thực vật cho thấy đá
quý có tác dụng kích hoạt sự trao đổi chất của động vật và thực vật.

Tại sao chúng ta quan tâm đến một khoáng chất có thể phát ra Tia hồng ngoại xa và
các ion âm?

Tia hồng ngoại xa và các ion âm nhẹ nhàng chữa lành, làm dịu, kích thích và giải độc cơ thể
vật lý, cũng nhƣ tinh thần. Tia hồng ngoại xa là sóng năng lƣợng vô hình có khả năng xuyên qua
tất cả các lớp của cơ thể con ngƣời, đi sâu vào các vùng bên trong nhất của mô, cơ và xƣơng.

Chúng cũng rất nhẹ nhàng làm tăng lƣu lƣợng máu bằng cách mở rộng các mao mạch mang
máu, do đó thúc đẩy quá trình oxy hóa và tái tạo máu, giải độc sâu giúp cải thiện chức năng của
tất cả các cơ quan chính phụ thuộc vào máu để cung cấp năng lƣợng. Quá trình giải độc này nằm
ở tầng sâu nhất, cho phép hòa tan các chất độc tiềm ẩn trong máu.

Các ion âm cũng vô cùng quan trọng trong việc xác định tâm trạng. Hoạt động của sóng vỗ
mạnh tạo ra các ion không khí âm và chúng ta cũng nhận thấy ngay lập tức sau những cơn mƣa
giông mùa xuân khi mọi ngƣời cho biết tâm trạng nhẹ nhàng hơn. Hơn nữa, các nghiên cứu của
Đại học Columbia về chứng trầm cảm vào mùa đông đã chỉ ra rằng chứng trầm cảm có thể
thuyên giảm nhiều nhờ máy phát ion âm vì nó có thể tăng cƣờng tác dụng thuốc chống trầm cảm
mà không có tác dụng phụ tiêu cực. Các ion này làm tăng lƣu lƣợng oxy đến não, tăng cƣờng
nhận thức và năng lƣợng tinh thần.

Nhiều vận động viên chuyên nghiệp đã báo cáo những cải thiện hiệu suất tuyệt vời sau khi sử
dụng đá quý trị liệu, chẳng hạn nhƣ tourmaline. Nhà vô địch bơi lội thế giới Olympic Thụy Điển,
Glen Christiansen, đƣợc cho là đã nói rằng, "Chiếc vòng cổ tourmaline xanh lá cây mang lại cho
tôi rất nhiều sức mạnh và giúp tôi hồi phục nhanh hơn sau những buổi tập luyện chăm chỉ."
"Thật kỳ lạ," cô ấy cũng nói thêm, "nó mang lại cho tôi nhiều hứng thú và sức mạnh tình dục
hơn."
Loại đá quý này đã đƣợc báo cáo là thực sự có khả năng tăng cƣờng năng lƣợng tình dục ở
nam giới, vì nó làm tăng lƣu lƣợng máu và tuần hoàn trong cơ thể. Đá quý cũng đƣợc cho là giúp
xoa dịu cảm xúc, tăng cƣờng sinh lực và khí lực ở cả nam và nữ.
Đá quý Tourmaline Tốt Cho Bạn Nhƣ Thế Nào?

Các tia hồng ngoại xa mà Tourmaline phát ra tạo ra sự cộng hƣởng trong cơ thể giống nhƣ
trong nƣớc. Điều này có tác dụng làm dịu thần kinh. Ba phần tƣ cơ thể con ngƣời đƣợc cấu tạo
bởi nƣớc, hình thức hấp thụ cộng hƣởng này làm gia tăng sức sống trong các mô sống, nâng cao
mức năng lƣợng và tăng quá trình trao đổi chất.
Đá quý Tourmaline có thể giúp giảm nhiều bệnh liên quan đến độc tố
Dƣới đây chỉ là một số tác dụng mạnh mẽ của Tourmaline:

Giải độc
Hỗ trợ giảm béo
Giảm khả năng giữ nƣớc
Cải thiện lƣu thông máu
Loại bỏ chất thải không cần thiết
Giúp làm sạch gan và thận
Giúp chữa lành các rối loạn về da
Giảm các vấn đề về cảm xúc nhƣ lo lắng và trầm cảm
Giảm các bệnh cấp tính và mãn tính
Hỗ trợ loại bỏ kim loại nặng, chất độc và vật chất gây ung thƣ khỏi cơ thể chúng ta
(Chemtrail)
Làm giảm axit lactic và axit béo tự do.
Lịch sử Tourmaline
Tourmaline đƣợc biết đến qua nhiều thế kỷ với cái tên schrol. Tinh thể mang màu sắc đƣợc
nhập khẩu từ Sri Lanka vào đầu thế kỷ 18. Vào thời trung cổ, tourmaline đƣợc cho là có thể chữa
lành các rối loạn về thể chất và tinh thần cũng nhƣ ngăn ngừa cái chết. Nó đƣợc sử dụng nhƣ một
loại đá quý trong hơn 2.000 năm. Ngoài việc sử dụng nhƣ một loại đá quý, tourmaline đƣợc sử
dụng trong các thiết bị áp suất vì đặc tính áp điện của nó. Nó đã đƣợc sử dụng trong thiết bị đo
âm sâu và các thiết bị khác để phát hiện và đo lƣờng sự thay đổi của áp suất. Các tinh thể đầy
màu sắc của tourmaline có tính lƣỡng sắc rất mạnh, tức là chúng có màu khác khi nhìn theo
hƣớng của các trục khác nhau.

Màu Tourmaline
Đá quý Tourmaline có nhiều màu sắc nhƣ xanh lam, vàng, hồng, đỏ, đen, xanh lục và trong
suốt. Màu sắc có thể đƣợc gọi là đặc tính dễ phân biệt nhất của Tourmaline. Do có nhiều màu sắc
nên nó đƣợc đặt tên theo nhiều cách khác nhau. Một số có thể kể đến nhƣ Tourmaline đỏ nhƣ
Ruby. Đây đƣợc gọi là Rubelite. Và màu xanh lục bảo nhƣ màu của Tourmaline, đƣợc gọi là
Green Tourmaline. Paraiba là một biến thể khác của Tourmaline sở hữu màu lục lam nhạt.
Canary Tourmaline dùng để chỉ Tourmaline màu vàng. Chính sự đa dạng và sự kết hợp của màu
sắc đã làm cho loại đá quý này trở thành một loại đá yêu thích của cả thƣơng nhân cũng nhƣ các
nhà khoa học. Màu xanh lục là từ sắt, crom và vanadi, màu hồng từ mangan. Một số tinh thể có
màu hồng ở một đầu và màu xanh lục ở đầu kia.

Các loại Tourmaline

Thƣờng có ba loại tourmaline, đƣợc phân biệt bởi sự chiếm ƣu thế của một số nguyên tố. Các
nguyên tố có thể kể đến nhƣ tourmaline sắt có màu đen, tourmaline magiê có màu nâu,
tourmaline alkali, có thể có màu hồng tức là rubellite, xanh lục, tức là ngọc lục bảo Brazil, hoặc
không màu, tức là achroite.

Hai loại quan trọng nhất để giải độc chemtrail là Tourmaline đen và Dƣa hấu. Đƣợc coi
là viên đá tiếp đất, đá tourmaline đen có hiệu quả nhất trong việc điều khiển các trƣờng năng
lƣợng. Nó có khả năng tạo ra một mạch nối đất nơi trái đất dịch chuyển năng lƣợng. Nó điều
chỉnh năng lƣợng theo những cách mà mọi ngƣời có thể đƣợc bảo vệ khỏi cảm giác căng thẳng
và tiêu cực. Do đó, nó tạo ra một dạng năng lƣợng hỗ trợ di chuyển trƣờng năng lƣợng của trái
đất phù hợp với tất cả những thay đổi tinh tế hiện tại. Trong số các thuộc tính phổ biến của
tourmaline đen, phổ biến nhất phải kể đến khả năng thúc đẩy quá trình thanh lọc etheric. Nó
cung cấp cho ngƣời đeo một liều lƣợng làm sạch sảng khoái cho trƣờng auric từ tất cả các chiều
của cơ thể etheric. Công dụng làm sạch nhƣ vậy giúp cải thiện đáng kể trạng thái thể chất và tinh
thần của một ngƣời.
Cách sử dụng

May mắn thay, bạn không cần phải tốn nhiều tiền mà chỉ cần mua một viên đá cỡ hạt đậu
phộng hoặc lớn hơn (kích thƣớc tùy thuộc vào sở thích) và mang theo bên mình đặc biệt là trong
khi ngủ.
Đầu tiên, rửa sạch và để nó ráo nƣớc dƣới ánh nắng mặt trời trong vài giờ và nhờ đó, đá của
bạn đã đƣợc sạc lại - lặp lại điều đó sáu tháng một lần.
Để có kết quả tốt hơn, hãy sử dụng đá để làm nhẫn hoặc vòng cổ BẠC.
Bạc tăng cƣờng khả năng của Tourmaline nhƣ một chất lọc tự nhiên.
Pha lê là sự lựa chọn tuyệt vời trong nhà để ngôi nhà đƣợc bảo vệ tốt, chỉ cần sử dụng chúng
làm đồ trang trí.
PHẦN BA – TẮM & XÔNG HƠI
Chƣơng chín

Triều đại của Poseidon

Trên khắp thế giới, các nền văn minh khác nhau ở các thời đại khác nhau và các khu vực
khác nhau đều biết và vẫn đánh giá cao tầm quan trọng cực kỳ cao của việc sử dụng nƣớc bên
ngoài nhƣ chất khử độc.
Nƣớc là lựa chọn điều trị cho nhiều tình trạng của y học thông thƣờng, đặc biệt là ở Nga và
Nhật Bản.
Tắm thời Hy Lạp và La Mã

Một số mô tả sớm nhất về phong tục tắm của phƣơng Tây đến từ Hy Lạp. Ngƣời Hy Lạp bắt
đầu chế độ tắm tạo nền tảng cho các quy trình spa hiện đại. Những ngƣời Aegean này sử dụng
bồn tắm nhỏ, bồn rửa mặt và bồn ngâm chân để vệ sinh cá nhân. Những phát hiện sớm nhất là
những bồn tắm trong khu phức hợp cung điện ở Knossos, Crete, và những bồn tắm bằng thạch
cao sang trọng đƣợc khai quật ở Akrotiri, Santorini; cả hai đều có niên đại từ giữa thiên niên kỷ
thứ 2 trƣớc Công nguyên. Họ thiết lập các phòng tắm công cộng và vòi hoa sen trong khu phức
hợp thể dục để thƣ giãn và vệ sinh cá nhân. Thần thoại Hy Lạp kể rằng một số suối tự nhiên hoặc
hồ thủy triều đã đƣợc các vị thần ban phƣớc để chữa bệnh. Xung quanh những hồ nƣớc thiêng
liêng này, ngƣời Hy Lạp đã thiết lập các cơ sở tắm cho những ngƣời mong muốn đƣợc chữa
bệnh. Những ngƣời ủng hộ để lại lễ vật cho các vị thần để chữa bệnh tại những địa điểm này và
tự tắm với hy vọng có thể chữa khỏi bệnh.

Ngƣời Sparta đã phát triển một bồn tắm hơi nguyên thủy. Tại Serangeum, thời kỳ đầu Hy
Lạp (balneum - nhà tắm, dịch nôm na), các buồng tắm đƣợc khoét sâu vào sƣờn đồi mà từ đó có
suối nƣớc nóng. Một loạt các hốc khoét vào tảng đá phía trên các buồng chứa quần áo của những
ngƣời tắm. Một trong những buồng tắm có sàn khảm trang trí mô tả một ngƣời lái xe và cỗ xe
đƣợc kéo bởi bốn con ngựa, một ngƣời phụ nữ có hai con chó theo sau, và một con cá heo bên
dƣới. Do đó, những ngƣời Hy Lạp đầu tiên đã sử dụng các đặc điểm tự nhiên, nhƣng mở rộng
chúng và thêm các tiện nghi của riêng họ, chẳng hạn nhƣ đồ trang trí và kệ. Trong nền văn minh
Hy Lạp sau này, nhà tắm thƣờng đƣợc xây dựng kết hợp với các sân tập thể thao.

Ngƣời La Mã đã mô phỏng nhiều phong tục tắm của ngƣời Hy Lạp. Ngƣời La Mã đã vƣợt
qua ngƣời Hy Lạp về quy mô và độ phức tạp của phòng tắm. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố:
quy mô và dân số lớn hơn của các thành phố La Mã, tính sẵn có của nƣớc sinh hoạt sau khi xây
dựng các hệ thống dẫn nƣớc và việc phát minh ra xi măng, giúp việc xây dựng các dinh thự lớn
trở nên dễ dàng hơn, an toàn hơn và rẻ hơn. Nhƣ ở Hy Lạp, nhà tắm La Mã đã trở thành một
trung tâm tiêu điểm cho hoạt động xã hội và giải trí. Khi Đế chế La Mã mở rộng, ý tƣởng về nhà
tắm công cộng lan rộng đến tất cả các vùng của Địa Trung Hải và sang các khu vực của châu Âu
và Bắc Phi. Với việc xây dựng các hệ thống dẫn nƣớc, ngƣời La Mã không chỉ có đủ nƣớc cho
sinh hoạt, nông nghiệp và công nghiệp mà còn cho những mục đích nhàn nhã của mình. Các ống
dẫn nƣớc cung cấp nƣớc, sau đó nƣớc đƣợc đun nóng để sử dụng trong các bồn tắm. Ngày nay,
mức độ rộng lớn của nhà tắm La Mã đã đƣợc tiết lộ tại các tàn tích và trong các cuộc khai quật
khảo cổ học ở châu Âu, châu Phi và Trung Đông.

Ngƣời La Mã cũng phát triển các bồn tắm ở thuộc địa của họ, tận dụng các suối nƣớc nóng tự
nhiên ở Châu Âu để xây dựng các bồn tắm tại Aix và Vichy ở Pháp, Bath và Buxton ở Anh,
Aachen và Wiesbaden ở Đức, Baden, Áo và Aquincum ở Hungary, giữa các địa điểm khác.
Những phòng tắm này trở thành trung tâm cho các hoạt động giải trí và xã hội trong các cộng
đồng La Mã. Thƣ viện, giảng đƣờng, phòng tập thể dục và các khu vƣờn chính thức trở thành
một phần của một số khu phức hợp nhà tắm. Ngoài ra, ngƣời La Mã đã sử dụng nƣớc nóng để
giảm bớt chứng bệnh thấp khớp, viêm khớp và tình trạng sử đụng thức ăn và đồ uống quá mức.
Sự suy tàn của Đế chế La Mã ở phía tây, bắt đầu vào năm 337 sau Công nguyên sau cái chết của
Hoàng đế Constantine, dẫn đến việc các quân đoàn La Mã phải từ bỏ các tỉnh xa xôi và để ngƣời
dân địa phƣơng tiếp quản các nhà tắm.
Do đó, ngƣời La Mã đã nâng việc tắm rửa lên thành một nghệ thuật, và nhà tắm của họ phản
ánh những tiến bộ này. Ví dụ, việc rắm rửa ở La Mã bao gồm một nghi lễ phức tạp hơn nhiều so
với một thủ tục ngâm mình hoặc đổ mồ hôi đơn giản. Các phần khác nhau của nghi lễ tắm - cởi
quần áo, tắm, đổ mồ hôi, đƣợc mát-xa và nghỉ ngơi - bắt buộc phải có những căn phòng riêng
biệt mà ngƣời La Mã xây dựng để đáp ứng các chức năng đó. Việc phân biệt giới tính và bổ sung
các trò giải trí không liên quan trực tiếp đến việc tắm rửa cũng có tác động trực tiếp đến hình
dạng và hình thức của nhà tắm. Nghi thức tắm La Mã phức tạp và kiến trúc kết quả của nó đã
từng là mẫu mực cho các trang thiets bị nhà tắm của châu Âu và Mỹ sau này. Những không gian
vƣờn trang trọng và lối sắp xếp kiến trúc sang trọng ngang với những không gian của ngƣời La
Mã đã xuất hiện trở lại ở châu Âu vào cuối thế kỷ thứ mƣời tám. Một thế kỷ sau đó, các spa lớn
của Mỹ cũng bắt chƣớc theo.
Cách sử dụng

Hãy tắm nƣớc rất nóng (nóng nhƣ thế nào tùy bạn). Để nƣớc lên đến cổ của bạn (ngập sâu)
và để yên ít nhất 15 phút sau đó bạn sẽ thấy các chất độc thoát ra ngoài –nhƣng một lần nữa tôi
phải nhấn mạnh rằng nƣớc phải rất nóng.

Trong phòng tắm hơi và phòng xông hơi khô, hãy giữ nguyên ít nhất 10 phút trƣớc khi ra
ngoài tắm vòi sen để làm sạch các chất độc bám trên da và lặp lại động tác này từ hai đến ba lần

Thông báo quan trọng

Nếu bạn bị bất kỳ tình trạng sức khỏe nào có thể khiến bạn gặp vấn đề khi sử dụng các liệu
pháp tắm bồn, trƣớc tiên hãy hỏi bác sĩ để đƣợc hƣớng dẫn.
LỜI KẾT CHO CHIẾN THẮNG CỦA CON NGƢỜI

Nhƣ bạn có thể thấy một kho vũ khí lớn chống lại các chemtrail tồn tại và xuất hiện trƣớc
bạn.
Nguyên liệu nấu ăn hàng ngày, rau củ thông thƣờng, đá rẻ tiền và bồn tắm giải phóng đã tổ
chức phƣơng pháp này để bạn có thể giữ gìn sức khỏe trong cơ thể, tinh thần thoải mái và rất hài
lòng vì cuối cùng chính bạn đã chiến thắng trong cuộc chiến chống lại những con ngƣời đang
nhắm đến cuộc sống của mình.

Đừng quên thông báo cho ngƣời thân và bạn bè của bạn về phƣơng pháp này
Bạn nên biến chúng thành một món quà tuyệt vời từ trái tim mình.

Cảm ơn tất cả các bạn đã đọc cuốn sách này.

Chúc bạn sống lâu, khỏe mạnh và thịnh vƣợng.

Ngƣời bạn Peloponnesian - vùng Helida cổ đại - Hy Lạp tháng 8/2012.

You might also like