You are on page 1of 24

THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT

1. Giống nhau:
- Đều cùng là VHDGVN : tính truyền miệng, tính dị bản, tính tập thể.
VD: Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng đều thuộc thể loại VHDG và được truyền miệng từ người này sang
người khác, từ đời này sang đời khác; từ đó mà có nhiều dị bản ra đời (câu chuyện được thêm bớt). Tính tập thể
chủ yếu trong việc sử dụng, lưu hành; ở đó diễn ra 2 quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm.
- Yếu tố kì ảo:
+ Thần thoại: Việc Âu Cơ sinh ra 1 bọc trứng nở ra 100 người con.
+ Truyền thuyết: Sự ra của Thánh Gióng và chi tiết Thánh Gióng biết nói sao khi nghe tin vua chiếu cáo cần
người tài giúp nước và việc Thánh Gióng vụt cao lớn vạm vỡ sau 3 ngày và đánh tan quân xâm lược nước nhà.
2. Khác nhau
Tiêu chí Thần Thoại Truyền Thuyết
1. Khái niệm - Là truyện kể về các vị thần, các nhân vật - Là truyện kể về các nhân vật và sự kiện
anh hùng – thần thánh. lịch sử có thật.
2. Mục đích sáng - Giải thích hiện tượng thiên nhiên. - Ca ngợi anh hùng trong quá khứ của dân
tác - Nguồn gốc của thế giới và đời sống con tộc.
người. - Phản ánh tâm nguyện của nhân dân,
VD: lý giải về hiện tương thủy triều qua những bài học kinh nghiệm trong công
tác phẩm Sơn Tinh Thủy Tinh cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
VD: Thánh Gióng, Hai Bà Trưng...
3. Đặc trưng thể - Hướng về tự nhiên, nhiên nhiên. - Tính chất thời đại anh hùng
loại VD: Thần Trụ trời, Hậu Nghệ... VD: An Dương Vương...
- Sự kiện lịch sử.
Vd: Lê Lợi...
4. Nội dung - Giải thích nguồn gốc vũ trụ và tự nhiên. - Ca ngợi chiến công chinh phục thiên
VD: Thần trụ trời người Việt, Ông Chống nhiên, xây dựng nền văn hiến buổi đầu dân
trời người Mường... tộc. VD: Mai An Tiêm...
- Phản ánh ước mơ sống hòa hợp với tự - Đề cao tinh thần yêu nước chống giặc
nhiên, chinh phục tự nhiên của người xưa. ngoại xâm của dân tộc. VD: Thánh
VD: Lạc Long Quân và Âu Cơ – ước mơ Gióng...
mưa thuận gió hòa của nhân dân. Hậu - Về danh nhân văn hóa và nghi lễ, lễ hội.
Nghệ bắn rơi Mặt trời – chinh phục tự VD: Lý Thái Tổ,...
nhiên.
- Giải thích nguồn gốc loài người và các
hiện tượng xã hội. VD: Mười hai bà mụ,
Ông ngâu bà ngâu – mưa dằm tháng 7 bằng
câu chuyện tình chung thủy.
5. Nghệ thuật

a. Nhân vật: Thần linh – Hình tượng các thần được mô Nhân vật lịch sử, có tên, gốc gác, lý lịch
tả lớn lao, kỳ vĩ, vừa phóng khoáng vừa tương đối rõ ràng gắn với địa phương hay
mạnh mẽ; tâm lý không quá phức tạp; hành thời đại.
động vô tư, khách quan; sức khỏe và tài VD: Tài bơi lặn của Yết Kiêu được giải
năng phi thường. Nhân vật có chức năng và thích là do ông nuốt được nhúm lông đuôi
nhiệm vụ được định sẵn. VD: Hình tượng của đôi trâu thần từ dưới nước lên...
thần Gió với cái quạt trong tay.
Kết cấu ngắn gọn đơn giản. Đi từ đầu đến cuối.
b. Cốt truyện và
kết cấu
Không xác định Xác định tương đối, cụ thể hơn. VD: núi
c. Thời gian Sóc Sơn ( Thánh Gióng)...
Không gian vũ trụ rộng lớn. Có 3 không Không gian chiến trường, không gian lịch
d. Không gian gian chia thành 3 cõi: cõi trời, cõi đất và sử - xã hội.
cõi nước.

Không rõ ràng ( Thần sẽ về đâu hay đi đâu Còn mãi trong lòng người dân (thông qua
e. Kết thúc cũng không biết được) hình ảnh đền thờ các anh hùng dân tộc, tín
ngưỡng...- Dấu vết của nhân vật anh hùng).

THẦN THOẠI VÀ CỔ TÍCH


1. Giống nhau:
- Đều là VHDGVN: tính truyền miệng, tính dị bản, tính tập thể.
VD: Sơn Tinh Thủy Tinh và Thạch Sanh Lý Thông đều thuộc thể loại VHDG và được truyền miệng từ người
này sang người khác, từ đời này sang đời khác; từ đó mà có nhiều dị bản ra đời (câu chuyện được thêm bớt).
Tính tập thể chủ yếu trong việc sử dụng, lưu hành; ở đó diễn ra 2 quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm.
- Yếu tố kì ảo:
+ Thần thoại: Việc Âu Cơ sinh ra 1 bọc trứng nở ra 100 người con.
+ Cổ tích: Sự biến hóa của cô Tấm thành chim vàng anh, khung cửi, quả thị trong truyện Tấm Cám.
- Những dấu vết được lưu lại đời sau.
2. Khác nhau:
Tiêu chí Thần Thoại Cổ Tích
1. Khái niệm - Là truyện kể về các vị thần, các nhân vật - Là truyện kể về một số nhân vật như
anh hùng – thần thánh. dũng sĩ, người nghèo khổ, bất hạnh, chàng
ngốc...
2. Hoàn cảnh - Xã hội chưa phân chia giai cấp. - Xã hội đã phân chia giai cấp.
3. Mục đích - Giải thích hiện tượng thiên nhiên. - Kinh nghiệm sống, quan niệm đạo đức, lí
- Nguồn gốc của thế giới và đời sống con tưởng và mơ ước của nhân dân lao động.
người. VD: Thạch Sanh
VD: lý giải về hiện tương thủy triều qua
tác phẩm Sơn Tinh Thủy Tinh
4. Nội dung - Giải thích nguồn gốc vũ trụ và tự nhiên. - Phản ánh hiện thực cuộc sống của người
VD: Thần trụ trời người Việt, Ông Chống xưa. VD: Sự tích hòn Vọng Phu, Sự tích
trời người Mường... con dã tràng...
- Phản ánh ước mơ sống hòa hợp với tự - Phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội.
nhiên, chinh phục tự nhiên của người xưa. VD: Cây khế, Sọ Dừa, Tấm Cám...
VD: Lạc Long Quân và Âu Cơ – ước mơ - Ước mơ của nhân dân về một cuộc sống
mưa thuận gió hòa của nhân dân. Hậu tốt đẹp và công bằng. VD: Thạch Sanh...
Nghệ bắn rơi Mặt trời – chinh phục tự - Ca ngợi tình cảm đạo đức xã hội theo
nhiên. quan điểm nhân dân. VD: Của thiên trả địa,
- Giải thích nguồn gốc loài người và các Sự tích Trầu Cau...
hiện tượng xã hội. VD: Mười hai bà mụ,
Ông ngâu bà ngâu – mưa dằm tháng 7 bằng
câu chuyện tình chung thủy.
5. Nghệ thuật
a. Nhân vật Thần linh – Hình tượng các thần được mô Nhân vật là con người hoặc con vật.
tả lớn lao, kỳ vĩ, vừa phóng khoáng vừa Nhân vật phân thành 2 tuyến đối lập theo
mạnh mẽ; tâm lý không quá phức tạp; hành quan điểm đạo đức: Thiện – Ác.
động vô tư, khách quan; sức khỏe và tài
năng phi thường. Nhân vật có chức năng và VD: Thạch Sanh – Lý Thông.
nhiệm vụ được định sẵn. VD: Hình tượng
thần Gió với cái quạt trong tay.
Kết cấu ngắn gọn đơn giản.
b. Cốt truyện và Cốt truyện bao gồm: mở đầu, thắt nút, phát
kết cấu triển, đỉnh điểm, kết thúc, vĩ thanh.
Không xác định
c. Thời gian Không xác định. Thời gian nghệ thuật: hiện
Không gian vũ trụ rộng lớn. Có 3 không thực và kì ảo.
d. Không gian gian chia thành 3 cõi: cõi trời, cõi đất và Không gian hiện thực (không gian trần thế)
cõi nước. và không gian kì ảo (cõi Trời, cõi Tiên, cõi
Phật, cõi Nước, cõi âm)
e. Kết thúc Không rõ ràng ( Thần sẽ về đâu hay đi đâu
cũng không biết được) Kết thúc có hậu: Thạch Sanh, Cây tre trăm
đốt, Tấm Cám...
Kết thúc không có hậu: Sự tích Trầu Cau,
Sự tích con dã tràng...

TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH


1. Giống nhau:
- Đều là VHDGVN: tính truyền miệng, tính dị bản, tính tập thể.
VD: Thánh Gióng và Tấm Cám đều thuộc thể loại VHDG và được truyền miệng từ người này sang người khác,
từ đời này sang đời khác; từ đó mà có nhiều dị bản ra đời (câu chuyện được thêm bớt). Tính tập thể chủ yếu
trong việc sử dụng, lưu hành; ở đó diễn ra 2 quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm.
- Yếu tố kì ảo:
+ Truyền thuyết: Sự ra của Thánh Gióng và chi tiết Thánh Gióng biết nói sao khi nghe tin vua chiếu cáo cần
người tài giúp nước và việc Thánh Gióng vụt cao lớn vạm vỡ sau 3 ngày và đánh tan quân xâm lược nước nhà.
+ Cổ tích: Sự biến hóa của cô Tấm thành chim vàng anh, khung cửi, quả thị trong truyện Tấm Cám.
- Là truyện kể về quá khứ, để lại những dấu vết được lưu lại đời sau (thông qua những di tích, chứng tích).
2. Khác nhau:
Tiêu chí Truyền thuyết Cổ tích
1. Khái niệm - Là truyện kể về các nhân vật và sự kiện - Là truyện kể về một số nhân vật như
lịch sử có thật. dũng sĩ, người nghèo khổ, bất hạnh,
chàng ngốc...
2. Mục đích sáng tác - Ca ngợi anh hùng trong quá khứ của dân - Kinh nghiệm sống, quan niệm đạo đức,
tộc. lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao
- Phản ánh tâm nguyện của nhân dân, động.
những bài học kinh nghiệm trong công VD: Thạch Sanh
cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc.
VD: Thánh Gióng, Hai Bà Trưng...
3. Nguồn gốc - Gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo - Xã hội phân chia giai cấp.
vệ Tổ Quốc.
4. Đặc trưng - Tính chất thời đại anh hùng - Phản ánh thực tại.
VD: An Dương Vương... VD: Tấm Cám...
- Sự kiện lịch sử. - Lưu giữ giá trị văn hóa.
Vd: Lê Lợi... VD: Sự tích bánh chưng bánh dày, Sự
tích Táo Quân...
5. Nội dung - Ca ngợi chiến công chinh phục thiên - Phản ánh hiện thực cuộc sống của
nhiên, xây dựng nền văn hiến buổi đầu người xưa. VD: Sự tích hòn Vọng Phu,
dân tộc. VD: Mai An Tiêm... Sự tích con dã tràng...
- Đề cao tinh thần yêu nước chống giặc - Phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã
ngoại xâm của dân tộc. VD: Thánh hội. VD: Cây khế, Sọ Dừa, Tấm Cám...
Gióng... - Ước mơ của nhân dân về một cuộc sống
- Về danh nhân văn hóa và nghi lễ, lễ hội. tốt đẹp và công bằng. VD: Thạch Sanh...
VD: Lý Thái Tổ,... - Ca ngợi tình cảm đạo đức xã hội theo
quan điểm nhân dân. VD: Của thiên trả
địa, Sự tích Trầu Cau...
6. Nghệ thuật
a. Nhân vật Nhân vật lịch sử, có tên, gốc gác, lý lịch Nhân vật là con người hoặc con vật.
tương đối rõ ràng gắn với địa phương hay Nhân vật phân thành 2 tuyến đối lập theo
thời đại. quan điểm đạo đức: Thiện – Ác.
VD: Tài bơi lặn của Yết Kiêu được giải
thích là do ông nuốt được nhúm lông đuôi VD: Thạch Sanh – Lý Thông.
của đôi trâu thần từ dưới nước lên...

Đi từ đầu đến cuối.


b. Cốt truyện và kết Cốt truyện bao gồm: mở đầu, thắt nút,
cấu. phát triển, đỉnh điểm, kết thúc, vĩ thanh.

Xác định tương đối, cụ thể hơn. VD: núi Không xác định. Thời gian nghệ thuật:
c. Thời gian Sóc Sơn ( Thánh Gióng)... hiện thực và kì ảo.
Không gian chiến trường, không gian lịch Không gian hiện thực (không gian trần
d. Không gian sử - xã hội. thế) và không gian kì ảo (cõi Trời, cõi
Tiên, cõi Phật, cõi Nước, cõi âm)

Kết thúc có hậu: Thạch Sanh, Cây tre


Còn mãi trong lòng người dân (thông qua trăm đốt, Tấm Cám...
e. Kết thúc
hình ảnh đền thờ các anh hùng dân tộc, tín Kết thúc không có hậu: Sự tích Trầu Cau,
ngưỡng...- Dấu vết của nhân vật anh Sự tích con dã tràng...
hùng).

TRUYỆN NGỤ NGÔN VÀ TRUYỆN CƯỜI


- Giống nhau:
Truyện ngụ ngôn thường chế giễu, phê phán những hành động, cách ứng xử trái với diều truyện muôn răn dạy
người ta. Vì thế truyện ngụ ngôn cũng như truyện cười, cũng gây cười.

- Cả hai đều thuộc bộ phận Văn học dân gian và cùng nhóm "truyện dân gian". 
- Cả hai đều có cấu tạo ngắn gọn, mang nghĩa hàm ẩn .

- Khác nhau:

Tiêu chí Truyện cười Truyện ngụ ngôn

1. Khái niệm - Dùng yếu tố gây cười , thú vị , kết - Mượn hình ảnh, lời nói, hành
thúc bất ngờ.  động,... của loài vật để ngụ ý chỉ
con người 

- Có mục đích : cười cợt, mỉa mai,


2.Mục đích châm biếm những thói hư tật xấu, - Có mục đích giáo dục, khuyên
những quan niệm cổ hủ, ...của con răn, hướng con người tới cái chân,
người trong xã hội cũ thiện, mỹ,...
3. Nội dung

4. Nghệ thuật

CÁC GIÁ TRỊ NHÂN VĂN VÀ THẨM MỸ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN DÂN GIAN
THẦN THOẠI
- Đề cao con người ( tự hào hồn nhiên về nguồn gốc con người, đề cao sức lao động của con người).
- Thể hiện ước mơ, khát vọng của con người ( Ước mơ có cuộc sống nhẹ nhàng, no đủ; ước mơ giải phóng con
người khỏi sự chi phối của tự nhiên, chiến thắng tự nhiên..)
- Thể hiện trí tưởng tượng phóng khoáng, hồn nhiên và thơ mộng của con người nguyên thủy...
- Tạo nên những hình tượng thần mang nét nguyên sơ của sự sáng tạo nghệ thuật, vừa hồn nhiên, mộc mạc, vừa
kì lạ, kì vĩ và đầy lãng mạn...

TRUYỀN THUYẾT
- Đề cao sức mạnh và phẩm chất đẹp đẽ của con người (ý chí chinh phục tự nhiên, tinh thần chống giặc ngoại
xâm cứu nước, phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng)
- Thể hiện tình cảm, nguyện vọng của nhân dân: yêu chuộng hòa bình, khát vọng giải phóng, ngưỡng mộ, ngợi
ca những con người tài cao, đức độ...
- Yếu tố tưởng tượng, kì ảo; nhân vật mang vẻ đẹp lí tưởng, phi thường, giọng điệu hùng tráng, trang trọng.
CỔ TÍCH
- Đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người: trung thực, tốt bụng, hiếu thảo...
- Gửi gắm ước mơ, khát vọng: ước mơ về sự hoàn thiện con người, ước mơ về sự đổi đời, ước mơ hạnh phúc,
ước mơ về lẽ công bằng...
- Tạo những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ:
+ Yếu tố kì ảo, trí tưởng tượng nay bổng, diệu kì tạo nên chất thơ, lãng mạn,..
+ Tạo những hình tượng có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc: cô Tấm, Thạch Saqnh, Trầu cau, Hòn Vọng Phu...
Truyện cổ tích Việt Nam được xem là món ăn tinh thần của biết bao nhiêu lứa tuổi, bao nhiêu thế hệ. Hơn
bất cứ thể loại truyện dân gian nào, truyện cổ tích luôn khẳng định được vị trí của mình trong lòng người đọc,
để lại biết bao nhiêu dư âm không chỉ ấn tượng về mặt hình thức mà còn đặc sắc về mặt nội dung mà truyện
truyền tải.
Có ý kiến cho rằng: ''Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ lớn. Giá trị thẩm mĩ của văn học dân gian thể hiện ở
nhiều phương diện. Đó là kiểu tư duy nghệ thuật có sức tưởng tượng kì diệu, hồn nhiên và một quan niệm nghệ
thuật, lấy sự đề cao cái chân, cái thiện, cái đẹp làm gốc rễ.” Trên thực tế, giá trị thẩm mỹ của văn học dân gian
nói chung và truyện cổ tích nói riêng chính là giá trị làm đẹp cho cuộc sống, làm đẹp cho văn học VN. Tác giả
dân gian bằng năng lực của mình đã đưa cái đẹp vào tác phẩm một cách nghệ thuật, giúp người đọc vừa cảm
nhận được cái đẹp cuộc đời vừa cảm nhận được cái đẹp của chính nhân vật trong câu truyện. Giá trị thẩm mĩ có
thể đem đến cho con người những rung động trước cái đẹp (cái đẹp cuộc sống), những vẻ đẹp muôn hình, muôn
vẻ của cuộc đời (thiên nhiên, đất nước, cuộc đời, lịch sử...). Giá trị thẩm mĩ còn đi sâu miêu tả vẻ đẹp con người
(ngoại hình, nội tâm, tư tưởng, tình cảm, những hành động, lời nói...) từ đó có thể phát hiện ra vẻ đẹp của những
vật rất nhỏ bé, bình thường và cả vẻ đẹp đồ sộ, kì vĩ. Hình thức đẹp của truyện (kết cấu, ngôn ngữ...) cũng chính
là một nội dung quan trọng của giá trị thẩm mĩ. Một trong những yếu tố làm nên sự đặc sắc cho tính thẩm mĩ
của truyện cổ tích chính là sử dụng các yếu tố thần kỳ một cách phong phú, sinh động để cụ thể hóa ước mơ,
nguyện vọng của nhân dân lao động. Chính nhờ sự xuất hiện của những yếu tố này làm cho thế giới cổ tích trở
nên li kì, hấp dẫn, thơ mộng, lãng mạn hơn.
Truyện cổ tích Việt Nam thể hiện một cách giản dị, mộc mạc những triết lí nhân văn sâu sắc và được gửi gắm
qua những câu truyện kể của bà, của mẹ và được người dân truyền từ đời này qua đời khác. Thông qua những
câu truyện đó ta thấy được những tư tưởng, quan điểm, triết lý của người Việt về con người, cuộc sống, mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội. Những triết lý giản dị của truyện cổ tích không chỉ đem lại niềm
vui, tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống mà còn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân sinh quan
tích cực cho thế hệ trẻ hiện nay. Ý nghĩa nhân văn của truyện cổ tích chứa đựng hệ giá trị văn hóa, nhân văn cốt
lõi của dân tộc. Qua đó, Truyện cổ tích đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người như: đức tính trung thực
(Thạch sanh; Cây khế...), sống nhân hậu, thương người (Sự tích con khỉ; Tấm Cám…), sống tự lập (Sự tích dưa
hấu, Sự tích bánh chưng, bánh dày...), sống khoan dung độ lượng (Sọ dừa, Thạch sanh…).... Trong truyện cổ
tích, mảng đề tài ca ngợi lối sống trọng tình nghĩa gần như chiếm vị trí chủ đạo. Truyện cổ tích luôn nhắc nhở
con người sống có tình nghĩa, có trước sau. Ý nghĩa nhân văn trong truyện cổ tích Việt Nam có ý nghĩa quan
trọng đối với việc rèn luyện bản thân của mỗi con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nó khuyên con người biết
sống nhân nghĩa, yêu lao động và lạc quan trước cuộc đời. Đây cũng chính là lý do mà trong hầu hết truyện cổ
tích Việt Nam cái thiện đều thắng cái ác, chính thắng tà, người làm việc ác thì phải chịu đền tội, người hiền lành
lương thiện được hưởng hạnh phúc dài lâu. Mặc dù đây không hẳn là điều sẽ diễn ra trong thực tế cuộc sống của
chúng ta nhưng triết lý này đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả, hướng thế hệ trẻ đến những điều tốt đẹp,
xây dựng niềm tin, ước mơ cao đẹp, trong sáng về cuộc sống.
CA DAO DÂN CA

1. Mở bài
Giới thiệu về ca dao dân ca: 

+ Trong ca dao dân ca phản ánh những tình cảm tốt đẹp giữa con người và cả quê hương, đất nước.

+ Chúng ta biết được nhưng câu ca dao, dân ca về tình cảm gia đình vô cùng ý nghĩa như tình cảm biết ơn của
con cái với cha mẹ, tình cảm của người con gái đi lấy chồng xa, tình cảm của con cháu đối với ông bà, tình cảm
anh em trong gia đình.

2. Thân bài
a. Trước hết ta thấy được tình cảm của con cái đối với công lao sinh dưỡng của cha mẹ:
              “Công cha như núi ngất trời

      Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông

               Núi cao biển rộng mênh mông

      Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”

- Qua bài ca dao, chúng ta có thể đoán được đây là lời hát ru của mẹ dành cho con. Lời hát ru ngọt ngào mà sâu
lắng để nói về công cha, nghĩa mẹ.

- Nội dung: Đây là lời của cha mẹ nói với con cái về công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái
và nhắc nhở phận làm con phải ghi nhớ công ơn sâu nặng đó.

+ Hai câu đầu: biện pháp so sánh được sử dụng nhuần nhuyễn. Công cha được ví với núi ngất trời, nghĩa mẹ
được ví như nước ở ngoài biển Đông. Hình ảnh núi ngất trời là một hình ảnh cao lớn, vững chãi và hình ảnh cao
lớn đó được ví như công lao của cha cũng tương ứng với trụ cột của người cha trong gia đình. Còn hình
ảnh nước ngoài biển Đông, nước ở ngoài biển Đông chảy trong trẻo, ngọt ngào, dào dạt và không bao giờ vơi
cạn cũng giống như tình mẹ.
-> Lối ví von so sánh “Công cha – núi ngất trời”, “Nghĩa mẹ – nước ở ngoài biển Đông”. Tác giả lấy cái vô
hình để so sánh cái hữu hình. Lấy cái mênh mông, vĩnh hằng vô hạn của trời đất, thiên nhiên để nói đến công
cha nghĩa mẹ qua đó, nổi bật ý nghĩa là ca ngợi công ơn to lớn của cha mẹ.

+ Hai câu cuối: câu thứ ba lặp lại hình ảnh núi cao và biển rộng và bài ca dao còn nhắc đến một khái niệm đó là
cù lao chín chữ. Cù lao chín chữ là nhắc nhở con người nhớ đến chín chữ cù lao, công sinh thành nuôi dưỡng
của cha mẹ đó là: sinh (đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú, cho ăn), trưởng (nuôi cho lớn), dục (dạy
dỗ), cố (trông nom, đoái hoài), phục (theo dõi để uốn nắn), phúc (che chở). Như vậy, chín chữ cù lao này đã
theo suốt những đứa con trong chặng đường đời để ghi nhớ về công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ
đối với con cái.
-> Thành ngữ “Cù lao chín chữ” chính là chỉ nỗi vất vả của cha mẹ, không thể đong đếm được.

=> Như vậy, bài ca dao đã gợi nhớ cho chúng ta về công cha và nghĩa mẹ là công ơn thiêng liêng với con người
và đồng thời nhắc nhở những người con phải có ý thức và đền đáp công ơn sinh thành nuôi dưỡng to lớn ấy.

b. Nỗi niềm của người con gái đi lấy chồng xa nhớ về mẹ, nhớ quê hương
 “Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”

- Câu ca dao nói về tình cảm của người con gái khi mà lấy chồng xa quê:

+ Thời gian: "chiều chiều" - từ láy gợi buồn và thời gian tuần hoàn, lặp lại.
+ Không gian: "ngõ sau" - vắng lặng, không gian rộng, gợi sự cô đơn.
+ Hành động: "đứng" - sự hướng vọng, không yên lòng.
=> Những từ ngữ chỉ không gian thời gian cụ thể để nói đến nỗi buồn nhớ của người con gái. Ai thấu được nỗi
nhớ của người con gái đi lấy chồng xa. “Chiều chiều” gợi khoảng thời gian, kéo dài, chiều chiều gợi nỗi buồn,
nỗi nhớ. Khoảng thời gian đó, người con gái “đứng ngõ sau” thì ngõ sau đấy càng vắng lặng, heo hút.

- Nỗi niềm: "ruột đau chín chiều " - "chín bề", nhiều bề: nỗi cô đơn làm dâu xứ lạ, nhớ thương cha mẹ, tê tái,
đau buồn không giúp đỡ được cha mẹ.
=> Người con gái đi lấy chồng xa quê chiều chiều ra đứng ngõ sau để nhớ về quê hương, nhớ về mẹ. Đây là nỗi
đau, buồn tủi của kẻ làm con khi phải xa cách cha mẹ, không đỡ đần chăm sóc được cha mẹ khi về già.

c. Tình cảm của con cháu đối với ông bà:


  “Ngó lên nuộc lạt mái nhà

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”

– Tình cảm của con cháu với ông bà của mình đó là một tình cảm huyết thống, thể hiện công lao to lớn của ông
bà khi xây dựng gia đình.

–  Cụm từ “Ngó lên” ý nói trông lên thể hiện sự tôn kính của con cháu với ông bà. Hình ảnh cụ thể thể hiện sự
gắn kết, kết nối tình cảm đó một cách bền chặt gắn bó nhất qua cụm từ “Nuộc lạt mái nhà”.

– Tình cảm thật sâu đậm qua cặp quan hệ từ so sánh “bao nhiêu- bấy nhiêu” gợi nỗi nhớ da diết của con cháu
đối với ông bà tổ tiên.

=> Qua câu ca dao, nhắc nhở con cháu, dù đi đâu làm gì cũng nên nhớ về ông bà, cha mẹ, huyết thống của gia
đình.

d. Tình cảm anh em ruột thịt trong gia đình


                “Anh em nào phải người xa
              Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân

                   Yêu nhau như thể tay chân

             Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”

- Nội dung: Nhắc nhở chúng ta anh em phải hòa thuận, phải biết đoàn kết, nương tựa vào nhau, thương yêu
nhau để cha mẹ vui lòng.

- Nghệ thuật: phép so sánh, điệp ngữ.

- Tình cảm anh em trong gia đình là tình cảm không bao giờ có thể tách rời, mất đi được. Vì họ cùng một mẹ
sinh ra, cùng được cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ từ khi còn cất tiếng khóc oe oe cho đến khi trưởng thành và mãi
về sau. Vậy nên, tình cảm đó được diễn tả một cạnh cụ thể:

+  Lời khẳng định anh em không phải người xa lạ gì. Bởi cùng chung máu thịt. Nhưng chữ “cùng, chung,
một” để diễn tả anh em là hai mà như là một, cùng một cha mẹ, cùng chung sống trong một gia đình, được cha
mẹ nuôi dưỡng.
+ Sử dụng hình ảnh tay, chân là những bộ phận rất quan trọng, luôn gắn liền với cơ thể, có quan hệ mật thiết với
nhau để nói đến sự bền chặt của tình cảm anh em trong một gia đình,

+ Lấy tay, chân để so sánh ví với tình anh em để thể hiện tình cảm anh hem trong gia đình gắn bó thân thiết như
chân với tay, không thể xa rời mà phải biết nương tựa nhau.

=> Bài ca dao cũng nhắc nhở anh em trong gia đình phải hòa thuận để cha mẹ vui lòng, biết thương yêu, đùm
bọc nhau “Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”.

3. Kết bài
- Tóm lại giá trị nội dung và nghệ thuật:

+ Nội dung: tình cảm gia đình là một tình cảm thiêng liêng của mỗi người, những câu ca dao về gia đình khiến
chúng ta thêm yêu, thêm trân quý tổ ấm của mình hơn.
+ Nghệ thuật:

 Thể thơ dân tộc lục bát gần gũi, quen thuộc.
 Cách ví von, so sánh.
 Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày.
 Ngôn ngữ không theo hình thức đối đáp mà chỉ là lời nhắn nhủ, tâm tình.
 - Cảm nhận của bản thân: Bài ca dao, dân ca về tình cảm gia đình đã cho chúng ta những bài học lời nhắc nhở
bổ ích đối với ông bà, cha mẹ, anh em trong gia đình. Những tình cảm đó thật thiêng liêng và đáng trân trọng
giữ gìn. Chúng ta nên ghi nhớ những câu ca dao này để luôn nhắc nhở, tình cảm gia đình phải luôn được gìn giữ
và bảo tồn.
Bài mẫu

Đã từ bao đời nay ca dao dân ca luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của nhân dân lao động, thể hiện rõ nét
những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, đời sống lao động của nhân dân. Và đặc biệt hơn cả, dù chỉ là những câu
hát, câu nói truyền miệng nhưng nó lại mang theo mình những giá trị nhân văn, đạo đức sâu sắc, góp phần giáo
dục, răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Đặc biệt khi là nói về tình cảm gia đình có rất
nhiều bài ca dao hay, ví như một bài ca dao nói về ơn nghĩa cha mẹ:

"Công cha như núi ngất trời


Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi"
        Với thể lục bát quen thuộc bài ca dao trên mang âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng tựa như lời ru ngọt ngào
của người mẹ trẻ, người mẹ thủ thỉ với đứa con những lời thật ngọt ngào, đó chính là câu ca dao xưa thật là xưa,
là lời cha ông bao đời truyền lại. Mẹ nhẹ nhàng ru con vào giấc ngủ, cũng nâng bước chân con chập chững vào
đời bằng những bài học đạo đức thật sâu sắc và ý nghĩa. Thứ đầu tiên mẹ dạy con chẳng phải là những vần ê, a
mà là đạo lý làm người, nghe thật kỳ lạ phải không, thế nhưng ai bảo con không hiểu, con vốn đã học từ trong
bụng mẹ rồi ấy.
        Trong lời mẹ hát, con biết được rằng cha yêu thương con cũng chẳng kém gì mẹ, "Công cha như núi ngất
trời", mẹ sinh con ra, cha ngày vất vả cực nhọc lao động để nuôi con khôn lớn, một đời dài như vậy cha dành
phân nửa cho con, tình cảm ấy dẫu có là núi cao cũng chưa hẳn sánh bằng. Cũng như cha, mẹ mang nặng đẻ đau
con chín tháng mười ngày, sinh con ra trong khó nhọc, chăm bẵm con từng ngày, có lẽ trên đời này chẳng còn
một ai thương con hơn mẹ nữa. Sự hy sinh, tấm lòng cao cả của mẹ chắc phải lấy "nước ngoài biển Đông" mới
có thể đong đếm hết được. "Cù lao chín chữ" tức là nói về công lao của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái
thành người, vất vả khốn khổ nhiều bề nhiều bận.
        Người ta ví trồng người cũng như trồng cây vậy, nhưng nếu như trồng một cái cây chỉ cần chú ý "Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống", thì nuôi con còn vất vả cực nhọc hơn gấp bội, bởi đó là một quá trình dài
đằng đẵng có khi là đi hết cả cuộc đời, lòng cha mẹ vẫn không thôi bận tâm về con cái. Nếu để liệt kê "cù lao
chín chữ", thì nuôi con bắt đầu bằng chữ sinh, sau là chữ cúc, nghĩa là dạy con tập đi, tập đứng, rồi phủ, vuốt
ve, làm cho con cảm nhận được tình yêu thương của cha mẹ, lại súc là cho con bú nguồn sữa ngọt ngào, cho con
ăn những thứ tốt nhất. Sau đó là trưởng, nuôi lớn con, rồi lại dục, dạy dỗ cho con nên người, trong suốt quá
trình bậc cha mẹ lúc nào cũng phải cố, đoái hoài, trông nom kỹ lưỡng, sợ con có bề gì. Con đã có suy nghĩ,
nhận thức lại vẫn phải phục, theo dõi tính tình, để uốn nắn cho kịp, rồi vẫn phải phúc, che chở, đỡ đần khi con
có chuyện.
        Nói tóm lại rằng phận làm cha mẹ, đặc biệt là trong văn hóa phương Đông, dường như đó là nỗi vất vả cả
đời, nhưng cũng là hạnh phúc cả đời của bậc làm cha làm mẹ, đối với cha mẹ con cái là món quà, là điều tuyệt
vời nhất thế gian, trong mắt họ con cái luôn bé bỏng, cần được chở che, chăm sóc.
        Thế nên tình cha, tình mẹ vốn bao la biển trời, phận là con cái, lớn lên dưới vòng tay yêu thương của cha
mẹ, dẫu gia cảnh bần hàn hay sung túc thì mỗi một con người vẫn phải ghi lòng tạc dạ công ơn sinh dưỡng của
cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, phải hết sức tôn kính, yêu thương cha mẹ của mình, đừng dại
dột làm kẻ bất hiếu, đó là những gì mà bài ca dao muốn truyền đạt cho chúng ta.
        Bài ca dao tuy chỉ vỏn vẹn 4 câu, nhưng chứa đựng những nội dung vô cùng sâu sắc về tình cảm gia đình,
răn dạy mỗi con người cần phải ghi nhớ công ơn cha mẹ, đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Bài ca dao sử dụng thể lục
bát truyền thống, âm điệu nhẹ nhàng như lời ru của mẹ, dùng các so sánh liên tưởng đặc sắc, có tầm vóc to lớn
nhằm đề cao công ơn của cha mẹ.

VĂN HỌC VIẾT

Cây dừa
Cây dừa xanh toả nhiều tàu,

Dang tay đón gió, gật đầu gội trăng.

Thân dừa bạc phếch tháng năm,

Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.

Đêm hè hoa nở cùng sao,

Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.

Ai mang nước ngọt, nước lành,

Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa.

Tiếng dừa làm dịu nắng trưa,

Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo.

Trời trong đầy tiếng rì rào,

Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra.

Đứng cạnh trời đất bao la

Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi.

Trần Đăng Khoa

Nội dung: Bài thơ miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp của cây dừa – một loài cây gắn bó với con người, đất nước Việt
Nam.

- Liên hệ: Yêu quý những cảnh đẹp của Tổ quốc Việt Nam.
Phân tích bài thơ "Cây dừa" của Trần Đăng Khoa
Bài thơ "Cây dừa" của Trần Đăng Khoa trong tập "Góc sân và khoảng trời" được sáng tác khi tác giả mới chỉ 9
tuổi. Cây dừa là biểu tượng quen thuộc với mọi người Việt Nam, vì bất cứ khi nào đi đến vùng quê nào cũng có
thể thấy những rặng dừa cao trước trời xanh. Mặc dù đã quen thuộc đến như vậy, tác phẩm của Trần Đăng Khoa
vẫn tạo được sự mới mẻ, độc đáo, ngộ nghĩnh và đáng yêu. Để tạo ra các miêu tả sống động và chi tiết như vậy,
tác giả đã quan sát cảnh vật với tấm lòng chân thành và đam mê.
Tác giả đã tạo nên hình ảnh cây dừa vô cùng sống động, hiển thị rõ từng bộ phận của cây, từ gốc đến ngọn.
Không có bất kỳ vị trí nào trên cây dừa mà tác giả không thể tìm thấy những liên tưởng độc đáo và thú vị.
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh
Ai mang nước ngọt, nước lành
Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa
Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra…
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
Bên cạnh đó, tác giả đã khéo léo mô tả cây dừa như một người bạn thân thiết. Điển hình như tâm hồn hào sảng,
phóng khoáng và yêu thiên nhiên, kết nối với vũ trụ bao la.
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Bằng cách nhân hóa, tác giả đã mô tả cây dừa như một con người với những động tác mềm mại như "dang tay",
"gật đầu". Ngoài ra, tác giả sử dụng phép đăng đối một cách chính xác, ví dụ như động từ đối với động từ
("dang" và "gật"), danh từ đối với danh từ ("tay" và "đầu"), và "gió" đối với "trăng".
Đặc biệt, cây dừa còn được Trần Đăng Khoa nhân hóa như một người bạn thân thiết, đan xen giữa hình ảnh một
người trẻ tuổi phóng khoáng và một người lao động cần cù. Từ "bạc phếch" đã tạo ra một màu sắc tháng năm,
với hình ảnh của người lao động lam lũ dầm mưa dãi nắng, nhưng vẫn tràn đầy sức sống. 
Đồng thời, quả dừa được ví như đàn lợn con, mang đến một liên tưởng độc đáo và thú vị. Bài thơ thể hiện một
tuổi thơ hiếu động, ngộ nghĩnh và duyên dáng. Quả dừa lại được liên tưởng đến hũ rượu đeo quanh cổ dừa,
mang đến hình ảnh ngọt ngào và thú vị.
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao…
Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa.
Nhờ khả năng quan sát tuyệt vời của mình, Trần Đăng Khoa đã truyền tải được những cảm xúc tuyệt vời từ
thiên nhiên vào những tác phẩm của mình. Hình ảnh đẹp lung linh của cây dừa vào đêm với bông hoa dừa nở
rực rỡ và ánh sao lấp lánh tỏa sáng trên bầu trời tạo nên một bức tranh vô cùng đẹp mắt. Còn vào ban ngày, cậu
bé này đã thấy cây dừa như một cô gái thướt tha chải tóc dịu dàng bên những áng mây xanh bồng bềnh. Những
hình ảnh này đều mang lại cho người đọc một cảm giác gần gũi và thân thiết với thiên nhiên.
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh
Trong bài thơ, hình ảnh cây dừa được miêu tả với sự tôn trọng và ngưỡng mộ của tác giả. Những cánh lá dài và
thẳng đứng của cây dừa tạo nên một hình ảnh bề thế, vững chãi, đầy sức mạnh. Trần Đăng Khoa sử dụng từ ngữ
mượt mà, tươi sáng để thể hiện sự vươn lên của cây dừa, gợi lên cảm giác tự tin và sự ung dung của một người
lính cầm chắc tay súng.
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi.
Trong bài thơ "Cây dừa" của Trần Đăng Khoa, sự độc đáo không chỉ nằm ở việc so sánh cây dừa với nhiều hình
ảnh khác trong cuộc sống. Mà còn ở cách tác giả miêu tả cây dừa để tái hiện phong cảnh yên bình, giản đơn của
một làng quê Việt Nam với nắng, gió và trăng sao. Khi đó, cây dừa chính là hình ảnh gắn kết với thế giới thiên
nhiên xung quanh, như làn gió, ánh trăng hay mây xanh, và "tiếng dừa" còn có thể xua tan nắng hè oi bức.
Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra. 
Trong văn học và đời sống Việt Nam, hình ảnh những rặng dừa bao quanh, tạo ra cảm giác yên bình cho làng
quê đã trở nên quen thuộc. Và nhà thơ Trần Đăng Khoa, với tình yêu sâu sắc dành cho quê hương và thiên
nhiên, đã khắc họa lại hình ảnh đó qua bài thơ "Cây dừa".
Tác phẩm "Cây dừa" của Trần Đăng Khoa được sáng tác khi tác giả còn nhỏ. Tuy nhiên, thông qua bài thơ này,
ta có thể nhận thấy sự đam mê của một con người không chỉ đối với thiên nhiên và quê hương, mà còn có khả
năng quan sát sâu sắc, hiểu biết về văn hóa và tâm hồn con người Việt Nam. Với Trần Đăng Khoa, cây dừa là
biểu tượng của sự tốt đẹp của người Việt: hào phóng, thân thiện, nhân hậu, yêu bạn bè, chịu khó, yêu quê
hương, can đảm và kiên cường.

Một mái nhà chung


Mái nhà của chim
Lợp nghìn lá biếc
Mái nhà của cá
Sóng xanh rập rình.
 
Mái nhà của em
Nghiêng giàn gấc đỏ
Mái nhà của bạn
Hoa giấy lợp hồng.
 
Mái nhà của dím
Sâu trong lòng đất
Mái nhà của ốc
Tròn vo bên mình.
 
Mọi mái nhà riêng
Có mái nhà chung
Là bầu trời xanh
Xanh đến vô cùng.
 
Mọi mái nhà riêng
Có mái nhà chung
 Rực rỡ vòm cao
Bảy sắc cầu vồng.
 
Bạn ơi, ngước mắt
Ngước mắt lên trông
Bạn ơi, hãy hát
Hát câu cuối cùng :
Một mái nhà chung
Một mái nhà chung…
(Định Hải)
I. Mở bài
Vạn vật hiện hữu trên cuộc sống này đều có những ngôi nhà riêng, một cuộc sống riêng. Nhưng quy lại, tất cả
đều đang đứng dưới bầu trời xanh thẳm, đều có một mái nhà chung đó chính là bầu trời trong xanh kia, là trái
đất, là ngôi nhà của vạn vật. Bài thơ “Một mái nhà chung” của Định Hải đã khơi gợi, nhắc nhở con người chúng
ta về việc bảo vệ, giữ gìn ngôi nhà chung này.
II. Thân bài:
Luận điểm 1: 3 khổ đầu: Giới thiệu mái nhà của từng cá thể khácnhau.
- Bài thơ bắt đầu từ những mái nhà riêng: nhà của chim là “nghiền lá biếc”, là vòm cây xanh màu lá;
nhà của cá là “Song xanh rập rình” chỉ môi trường dưới nước, nơi đại dương sâu thẳm. Còn với dím thì nhà
chính là “sâu trong lòng đất”, tức là hang được đào sâu dưới lòng đất, nhà của ốc thì “tròn vo bên mình” - chiếc
vỏ tròn bao quanh thân ốc. Còn mái nhà của em “nghiêng giàn gấc đỏ” che nghiêng và mái nhà của bạn lại có
hoa giấy hồng trên đấy.
Ngôi nhà không chỉ là nơi sinh sống mà còn là vẻ đẹp gắn liền với đời sống riêng của mỗi loài. Vẻ đẹp ngôi
nhà của chim là màu xanh biếc của muôn ngàn lá hợp lại, khiến cho việc ra vào ẩn hiện thật biến hóa, đúng với
đời sống tự do của chim trời.
Ngôi nhà của cá là nước, mà là nước “rập rình”, luôn đùa giỡn vui vẻ với cá. Ngôi nhà của nhím lại đẹp ở vẻ
sâu tối, bí mật.
- Còn ngôi nhà của con người là vẻ riêng của mỗi nhà, có ngôinhà “nghiêng giàn gấc đỏ”, có ngôi nhà “hoa giấy
lợp hồng”.
- Điệp từ “mái nhà” được lặp lại ở ba khổ thơ đầu để chỉ rõ mái nhà ở đây là nơi cư trú của từng loài trong vũ
trụ. Tại sao lại coi đấy là “nhà”? Là vì liên tưởng đến ngôi nhà của con người, nơi con người ăn, ngủ, tránh
mưa, tránh nắng, đoàn tụ gia đình,… tức là phương tiện sống quan trọng bậc nhất của con người.
Ngôi nhà của các con vật có thể là môi trường thiên nhiên có sẵn (vòm cây, làn nước,…) hay do chúng tạo dựng
(hang đào trong lòng đất) mà nếu thiếu, chúng không thể nào sống nổi. Chuyển ý: Và tất cả những ngôi nhà ấy
đều được bao phủ bởi một mái nhà chung
Luận điểm 2: 2 khổ tiếp: Nói về mái nhà chung của muôn loài.
- Tất cả những ngôi nhà riêng ấy đều ở trên trái đất, dưới một bầu trời xanh. Ngôi nhà chung này mang vẻ đẹp
tráng lệ của vũ trụ:
Rực rỡ vòm cao
Bảy sắc cầu vồng
- Điệp từ “mọi mái nhà riêng/ Có mái nhà chung” ở trong bài thơ nhấn mạnh cho chúng ta hiểu rằng tất cả mọi
mái nhà riêng trên trái đất này, dù ở nơi đâu, dù trên cao hay dưới măt đất, dù trên những vòm cây xanh hay
dưới đại dương xanh thẳm thì tất cả đều ở trong một mái nhà chung là bầu trời xanh, là vòm trời bảy sắc cầu
vồng
Luận điểm 3: khổ cuối: Lời khuyên, nhắc nhở giữ gìn, bảo vệ mái nhà
chung.
- Ngôi nhà chung to lớn này cần được giữ gìn thât tốt thì mới có các ngôi nhà riêng. Cho nên điệp khúc câu hát
cuối cùng
Một mái nhà chung – Một mái nhà chung… – nhắc nhở mỗi chúng ta phải có trách nhiệm đối với môi trường
sống của tất cả các loài.
- Điệp từ “ một mái nhà chung” được lặp lại hai lần ở khổ thơ cuối nhằm nhấn mạnh cho chúng ta nhớ rằng mọi
loài trên trái đất đều có chung một mái nhà, và còn ngầm nhắc nhở chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ ngôi nhà
chung ấy, là môi trường, là không khí, là biển cả,…. Hãy sống thân ái với nhau và cùng góp sức giữ gìn bầu trời
chung, mái nhà chung để chúng không bị ô nhiom bởi khói bụi và các chất độc hại.

Đất nước
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Mùa thu nay khác rồi


Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là
người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi
độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.

Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể
hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa


Gió thổi mùa thu hương cốm mới”

Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương
cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn
đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà,
người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội


Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa
một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng
buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm
giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ
vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.

Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi
phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong
biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã
thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.

Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”,
“dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!

Cùng với việc thể hiện đất nước tươi đẹp trong mùa thu, Nguyễn Đình Thi còn khắc họa hình ảnh đất nước
trong chiến tranh. Đó là một đất nước kiên cường và bất khuất:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

Đất nước như có một sức sống bền bỉ. Đất nước anh dũng, kiên cường đã thành truyền thống, điều ấy khẳng
định qua cụm từ “chưa bao giờ khuất”. Mặt khác, những từ láy “đêm đêm”, “rì rầm” thể hiện sức sống tiềm ẩn,
sự tự cường trong lớp trầm tích ngàn năm.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm
xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về
đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ


                       (trích)
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

Nhịp chày nghiêng rất ngủ em nghiêng

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:


 

- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi

Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

Mai sau con lớn vung chày lún sân...

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ

Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng

- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi...

                                         NGUYỄN KHOA ĐIỀM


Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Lòng yêu nước thể hiện ở
mỗi bài mỗi khác, tùy theo cảm hứng của tác giả, song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ
quốc và nhân dân anh hùng.

      Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây Thừa Thiên gian khổ và ác liệt
thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã
ra đời.

      Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trên lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương
góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình
khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu
nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi. Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi


     Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.


Mẹ thương a-kay, mẹ thương...
Con mơ cho mẹ...
Mai sau con lớn...
      Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa
con và quê hương đất nước.
      Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi


Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
      Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ. Hai câu thơ sau miêu tả người
mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội


Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
      Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa
miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu
Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên
hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.

      Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự
vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công
việc giã gạo nặng nhọc và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc
mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi


Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
      Khi mẹ giã gạo, cu Tai vẫn ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên
má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ.

      Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng mẹ đung đưa làm
nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được
ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm
thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng.

      Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi


Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
      Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn
liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ
của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần


Mai sau con lớn vung chày lún sân...
      Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi
vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước,
cho dân.

      Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi


Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
      Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm
việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà
lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ
con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời
chống Mĩ.

      Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi
vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi


Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
      Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý
nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim
mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.

      Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi


Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi...
      Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc,
về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu.

      Nếu ở hai đoạn thơ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương
tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu con cùng đi đánh giặc:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi


Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
      Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm
điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng
xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.

      Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:

Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường


Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
      Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên
Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biết bao khó khăn vất vả,
nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.

      Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi


Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do...
      Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay..., Con mơ cho mẹ..., Mai sau con
lớn... đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực
và cũng thật lớn lao, kì diệu:
Mai sau con lớn vung chày lún sân...,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mai sau con lớn làm người Tự do...
      Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ
hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng
quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người
mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.

      Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông Mĩ cứu nước nhưng đến nay
nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình
yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác
Hồ và tình yêu đất nước.

      Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai
đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc,
chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta.
Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!

      Sau cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi
nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trẽn lưng mẹ,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ
miền núi vô danh.
NHỮNG CÁNH BUỒM
Hai cha con bước đi trên cát

Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh

Bóng cha dài lênh khênh

Bóng con tròn chắc nịch.

Sau trận mưa đêm rả rích

Cát càng mịn, biển càng trong

Cha dắt con đi dưới ánh mai hồng

Con bỗng lắc tay cha khẽ hỏi:

“Cha ơi!

Sao xa kia chỉ thấy nước thấy trời

Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”

Cha mỉm cười xoa đầu con nhỏ:

“Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa

Sẽ có cây, có cửa, có nhà,

Nhưng nơi đó cha chưa hề đi đến.”

Cha lại dắt con đi trên cát mịn

Ánh nắng chảy đầy vai,

Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời.

Con lại trỏ cánh buồm nói khẽ:

“Cha mượn cho con  cánh buồm trắng nhé,

Để con đi…”
Lời của con hay tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm?

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha gặp lại mình trong những ước mơ con.

HOÀNG TRUNG THÔNG

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm viết về tình cảm gia đình, nhiều hơn cả chính là những
tác phẩm viết về tình mẫu tử. Tình phụ tử cũng là tình cảm thiêng liêng không kém tình mẫu tử trong cuộc đời
của mỗi người, nhưng dường như có ít tác phẩm viết về nó hơn. Nổi bật trong những tác phẩm viết về tình phụ
tử chính là bài thơ Những cánh buồm của tác giả Hoàng Trung Thông được in trong tập thơ cùng tên, xuất bản
năm 1964. Bài thơ là cuộc trò chuyện khi dạo chơi trên biển của hai cha con, cuộc trò chuyện tâm tình nhưng lại
vô cùng ấm áp và mang tới nhiều thông điệp ý nghĩa. 

      Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nơi hai cha con đi dạo: 

"Hai cha con bước đi trên cát


Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh
Bóng cha dài lênh khênh
Bóng con tròn chắc nịch,
 

Sau trận mưa đêm rả rích


Cát càng mịn, biển càng trong
Cha dắt con đi dưới ánh mai hồng
Nghe con bước, lòng vui phơi phới."
      Cha dẫn con đi chơi ở một nơi thật đẹp làm sao! Đó là bờ biển với bãi cát rộng lớn và ánh mặt trời chiếu
lung linh biển xanh. Cảnh tượng đó thật lộng lẫy và trong trẻo. Hình ảnh hai cha con bắt đầu được nhà thơ
Hoàng Trung Thông khắc hoạ ở những câu thơ tiếp theo. Được ánh mặt trời chiếu vào, người cha cao lớn nay
có một chiếc bóng "dài lênh khênh", còn người con nhỏ bé lại có chiếc bóng "tròn chắc nịch". Hai chiếc bóng
đối lập với nhau tạo nên bức tranh cha con thật đáng yêu và ấm áp. Chiếc bóng không chỉ thể hiện độ tuổi bên
ngoài của hai cha con mà còn thể hiện cả độ tuổi tâm hồn, người cha là một người trưởng thành, với suy nghĩ
chín chắn còn người con vẫn còn nhỏ bé với suy nghĩ thơ ngây, trong sáng. Khung cảnh dạo chơi của hai cha
con trở nên thoáng đãng và yên bình hơn nhờ trận mưa đêm hôm trước, mưa đã khiến cho cát mịn, biển đã xanh
nay lại trong hơn. Ánh nắng sau cơn mưa có một màu hồng nhẹ dễ chịu và mộng mơ. Dắt con đi, nghe tiếng con
bước, người cha hạnh phúc trong lòng, niềm vui "phơi phới". Đây là niềm hạnh phúc của bậc cha mẹ khi thấy
con mình lớn khôn, khoẻ mạnh chơi đùa. Tình yêu của cha dành cho con đã ngập tràn trong không gian thiên
nhiên tươi đẹp.

      Người con vẫn là một đứa trẻ ngây thơ và trong sáng với những câu hỏi rất ngộ nghĩnh và dễ thương: 

Con bỗng lắc tay cha khẽ hỏi:


“Cha ơi, sao xa kia chỉ thấy nước thấy trời,
Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”
      Với câu hỏi ngây thơ tưởng chừng dễ trả lời của trẻ con thật ra lại là những câu hỏi khó trả lời nhất. Nhưng
người cha vẫn cố gắng giải thích cho con hiểu, để tâm hồn thơ ngây của con được bảo vệ và phát triển:

Cha mỉm cười xoa đầu con nhỏ:


“Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa,
Sẽ có cây, có cửa, có nhà
Vẫn là đất nước của ta
Ở nơi đó cha chưa hề đi đến.”
      Xung quanh trẻ em luôn là mười vạn câu hỏi vì sao. Người cha đã trả lời câu hỏi của con cách trung thực và
gợi mở cho con kĩ năng tự tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh. 

      Cha lại dắt tay đứa con nhỏ đang tò mò về thế giới đi tiếp bên bờ biển: 

“Cha lại dắt con đi trên cát mịn,


Ánh nắng chảy đầy vai
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời
Con lại trỏ cánh buồm xa hỏi khẽ:
“Cha mượn cho con cánh buồm trắng nhé,
Để con đi!”
      Ánh nắng giờ đây đã "chảy đầy vai" hai cha con. Đây là một hình ảnh miêu tả vô cùng thú vị của nhà thơ
Hoàng Trung Thông, ánh nắng lại có thể chảy ra như chất lỏng, lan xuống khắp vai người nó chiếu vào. Biện
pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã được Hoàng Trung thông sử dụng thật điêu luyện. Sau câu hỏi của con,
người cha "trầm ngâm" hướng ánh mắt ra đến cuối chân trời. Người cha đang suy nghĩ điều gì? Có lẽ là suy
nghĩ về đứa con thơ nay đã biết hỏi những câu hỏi phong phú và ý nghĩa, cha thấy con đang lớn lên từng ngày,
rồi một ngày kia, con cũng sẽ như cánh buồm đi đến những nơi xa để lập nghiệp và nhìn ngắm thế giới này.
Con lại chỉ vào cánh buồm và bảo cha mượn cánh buồm trắng như lời cha kể giúp con, để con đi. Lời nói vô tư,
hồn nhiên của con đã thể hiện sự ham học hỏi, khát khao được khám phá thế giới rộng lớn. Câu nói của con làm
cho cha nhớ về quá khứ: 

"Lời của con hay tiếng sóng thầm thì


Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con."
      Khi cha còn bé cũng như con, cũng ước ao được đi khắp muôn nơi, tận mắt nhìn ngắm mọi vật với đôi mắt
hiếu kỳ. Nhưng giờ cha đã có tuổi, cuộc sống bộn bề, gánh trên vai nhiều trách nhiệm, thế giới thì quá rộng lớn,
cha không có thời gian để khám phá hết mọi thứ chưa từng biết như hồi bé nữa. Nghe câu nói của con cùng với
tiếng sóng vỗ êm dịu như đang "thì thầm", người cha như tìm được chính mình ở nơi "xa thẳm" quá khứ. Hai
câu thơ cuối bài thơ thật ý nghĩa, nhờ tiếng ước mơ của con, người cha đã được gặp lại chính mình khi bằng
tuổi con. Đây cũng chính là sự kỳ vọng, gửi gắm của người cha tới con, mong con sẽ phát triển, hoàn thành ước
mơ của con cũng chính là ước mơ của mình.

      Bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông mang lại cảm giác thật nhẹ nhàng và yên bình cho
người đọc. Qua đó, thể hiện tình cha con sâu sắc và ước mơ muốn khám phá thế giới của trẻ thơ. Những ước mơ
ngây ngô đó sẽ góp phần làm nên một thế giới tươi đẹp cho trẻ thơ, chủ nhân tương lai của đất nước.

You might also like