Professional Documents
Culture Documents
Thảo luận chương 7
Thảo luận chương 7
Nhận định
1. Cá nhân có thể ủy quyền cho chủ thể khác khởi kiện thay mình.
Nhận định sai.
CSPL: điểm a, khoản 2, điều 189 BLTTDS 2015 thì cá nhân có đầy đủ năng lực hành
vi tố tụng dân sự chỉ được nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Cá nhân
không được uỷ quyền cho người khác ký đơn khởi kiện mà chỉ được uỷ quyền nộp
đơn khởi kiện. Cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ vào cuối đơn. Nghĩa là cá nhân
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự khi làm đơn khởi kiện thì thông tin của
người khởi kiện phải ghi đầy đủ thông tin của cá nhân đó. Vì vậy, cá nhân không thể
uỷ quyền cho chủ thể khác khởi kiện thay mình.
2. Tranh chấp ly hôn chưa được hòa giải tiền tố tụng thì Tòa án phải trả lại đơn
khởi kiện.
Nhận định sai
CSPL: Khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015; Điều 3 Nghị quyết 04/2017; Điều 52
LHNGĐ năm 2014.
Theo quy định tại Điều 52 LHNGĐ, khi vợ hoặc chồng đơn phương yêu cầu ly hôn,
Nhà nước khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở. Theo đó, thủ tục hòa giải không phải là
điều kiện để khởi kiện nên tranh chấp ly hôn dù chưa được hòa giải tiền tố tụng sẽ
không là căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 192
BLTTDS. (chỉ mang tính chất khuyến khích chứ không bắt buộc)
3. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có thể bị kháng nghị
giám đốc thẩm.
Nhận định đúng
CSPL: Khoản 2 Điều 213 BLTTDS 2015
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hành vi chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án xem xét lại những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, khi có căn cứ theo quy định của pháp luật về phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
4. Đương sự có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm.
Nhận định sai.
CSPL: Khoản 4 Điều 70, Điều 243, 244 BLTTDS 2015.
Mặc dù tại khoản 4 Điều 70 BLTTDS 2015 có quy định về quyền thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự, tuy nhiên tại Điều 243, thủ tục chỉ bắt đầu khi chủ toạ phiên toà
hỏi đương sự về các yêu cầu trên. Do đó, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu không thể
diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà chỉ có thể yêu cầu trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm.
5. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải phải
có mặt tất cả các đương sự.
Nhận định sai.
Việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là bắt
buộc tuy nhiên trong một số trường hợp Thẩm phán không tiến hành mở phiên hoà
giải đối với những yêu cầu đòi bồi thường vì lí do gây thiệt hại đến tài sản nhà nước.
Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái với
đạo đức xã hội (Điều 206 BLTTDS). Hoặc những vụ án không tiến hành hoà giải được
do: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần
thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, đương sự không thể tham gia hoà giải được vì lí do
chính đáng, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án li hôn là người mất năng lực hành
vi dân sự, một trong các đương sự không tiến hành hoà giải (Điều 207 BLTTDS).
Phiên hoà giải giữa các đương sự có thể sẽ không được diễn ra nhưng phiên họp kiểm
tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải được Thẩm phán tổ chức.
Trả lời:
a. Căn cứ điểm a khoản 1, Điều 214 BLTTDS, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án khi đương sự là cá nhân ông Ph đã chết mà chưa có cá
nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông. Cũng tại khoản 2 điều này,
trong vòng 03 ngày Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự khởi kiện và
viện kiểm sát cùng cấp.
Căn cứ Điều 215 BLTTDS, Tòa án không xóa tên vụ án dân sự này mà ghi chú
vào sổ thụ lý số và ngày tháng năm quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Tiền tạm ứng án phí, lệ phí được gửi tại kho bạc nhà nước và sẽ được xử lý khi
Tòa án tiếp tục xử lý vụ án dân sự. Trong thời gian tạm đình chỉ, Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án vẫn có trách nhiệm giải quyết vụ án.
Nếu không có ai kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Ph sau khi ông chết
thì căn cứ điểm a khoản 1, Điều 217 BLTTDS, Tòa án ra quyết định đình chỉ
vụ án.
Cũng tại khoản 3 điều này, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa
tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo
cho bà Th và bà K nếu có yêu cầu, sao chụp trước khi trả làm cơ sở giải quyết
khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu. Gửi quyết định cho đương sự và viện kiểm
sát cùng cấp.
Căn cứ khoản 2 Điều 218 BLTTDS, vì trường hợp đình chỉ vụ án này là đương
sự ông Ph chết được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 217, do đó tiền tạm ứng
án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước.
Căn cứ Điều 219 BLTTDS, thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ
giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa là Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án. Do đó, trong trường hợp ông Ph chết trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm, người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ giải
quyết vụ án là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án này.
b. Căn cứ khoản 1 Điều 207 BLTTDS, bà K đã vắng mặt lần thứ 2, đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ, không có lý do chính đáng, dù không có đơn đề nghị không
tiến hành hòa giải nhưng vụ án dân sự này trở thành vụ án dân sự không tiến
hành hòa giải được.
Khi đó, căn cứ khoản 2 Điều 208 luật này, Thẩm phán tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa
giải.
Sau đó, căn cứ điều 16 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP, Tòa án lập biên bản về
việc không tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Bài tập 2: Ngày 15/4/2020, vợ chồng ông Bình và bà Hòa có vay của bà Thu số
tiền 600.000.000 đồng và hẹn đến ngày 14/10/2020 sẽ trả đủ. Khi vay, hai bên
thống nhất vợ chồng ông Bình, bà Hòa thế chấp cho bà một Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CH 869716 đứng tên ông Bình và bà Hòa, đất tọa lạc tại
Quận 12, TP. Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp ngày 11/4/2017. Do
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên ông Bình, bà Hòa không buôn bán được,
không trả nợ cho bà Thu theo đúng thời gian đã hẹn. Nay bà Thu yêu cầu ông
Bình, bà Hòa phải trả cho bà một lần số tiền 600.000.000 đồng, nếu ông Bình, bà
Hòa không có khả năng trả nợ thì giao thửa đất đã thế chấp cho bà để trừ hết nợ.
a. Giả sử sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà Thu, Tòa án trả lại đơn khởi
kiện vì lý do tranh chấp chưa được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh
chấp. Nhận xét về quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
Khoản 2 Điều 202 Luật đất đai 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh
chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh
chấp để hòa giải.”
Theo đó, khi xảy ra tranh chấp đất đai, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp tự
hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ở cơ sở (thông qua hòa giải
viên).
Trường hợp các bên tranh chấp không hòa giải được thì phải hòa giải bắt buộc tại
UBND cấp xã nơi có đất nếu muốn khởi kiện hoặc đề nghị UBND cấp huyện, cấp tỉnh
giải quyết.
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP có quy định:
Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật
đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
=> Ở trường hợp này, tranh chấp của bà Thu và vợ chồng ông Bình bà Hòa là tranh
chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được đưa ra để
thế chấp cho giao dịch vay tiền nên sẽ thuộc trường hợp 2 “tranh chấp khác liên quan
đến quyền sử dụng đất”. Vì vậy, quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án là không
đúng quy định.
b. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải,
ông Bình và bà Hòa đều thống nhất có nợ của bà Thu 600.000.000 đồng và cam
kết sẽ trả cho bà Thu trong vòng 02 tháng kể từ khi bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật. Ông bà không đồng ý giao đất để trừ nợ vì đây là nhà
đất duy nhất của ông bà để ông bà và các con sinh sống. Nêu hướng giải quyết
của Tòa án trong trường hợp này.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 91: “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối
với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Nên ông Bình, bà Hòa không
đồng ý giao đất để trừ nợ cho bà Thu thì phải thể hiện bằng văn bản và phải cung cấp
tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để chứng minh nhà đất đó là nơi duy nhất của ông bà và
các con sinh sống là sự thật và là lý do chính đáng để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình theo Khoản 1 Điều 91.
Như vậy, Tòa án mới có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà mà đồng ý
với yêu cầu trên để bảo vệ quyền, lợi ích của hai bên đương sự.
- CSPL: Khoản 1, 2 Điều 91 BLTTDS 2015
Có thể thấy, mục đích của phiên họp kiểm tra là nhằm bảo đảm mọi chứng cứ đều
được công khai (trừ trường hợp không được phép công khai) trong quá trình tố tụng;
Phiên hòa giải là để các bên thương lượng, thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp . Từ
đó, chúng ta thấy được rằng mục đích của phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải chỉ
nhằm đảm bảo mọi chứng cứ được công khai và nhằm để các bên thương lượng, thỏa
thuận giải quyết tranh chấp.
Căn cứ vào tình huống, có thể thấy bà Thu khởi kiện với nội dung “ông Bình, bà Hòa
phải trả cho bà một lần số tiền 600.000.000 đồng, nếu hai người không có khả năng
trả nợ thì giao thửa đất đã thế chấp cho bà để trừ hết nợ” và tại phiên họp kiểm tra và
phiên hòa giải bên bị kiện thể hiện với nội dung “thống nhất có nợ của bà Thu
600.000.000 đồng và cam kết sẽ trả cho bà Thu trong vòng 02 tháng kể từ khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ông bà không đồng ý giao đất để trừ nợ
vì đây là nhà đất duy nhất của ông bà để ông bà và các con sinh sống”. Qua đó, có thể
thấy, các bên không thể thương lượng, thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất.
Như vậy, Tòa án có thể căn cứ vào việc các bên không thể hòa giải, từ đó ghi nhận vào
biên bản hòa giải theo Điều 211 BLTTDS và Thẩm phán sẽ đưa vụ án dân sự ra xét
xử.
4. Từ các phân tích trên, tóm tắt về các vấn đề pháp lý trong vụ án.
Vấn đề pháp lý phát sinh trong vụ án là xác định ý kiến của bị đơn có phải là yêu
cầu phản tố theo quy định tại Điều 200 BLTTDS.
NẾU NG KHỞI KIỆN kh bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán thì thẩm
phán sẽ trả lại đơn khởi kiện
Nếu nội dung đơn khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án thì thẩm
phán sẽ trả đơn khởi kiện