You are on page 1of 8

Án lệ Miranda và “quyền được biết quyền của mình”

http://thietlasam.blogspot.com/2014/11/an-le-miranda-va-quyen-uoc-biet-
quyen.html
Truy cập lần cuối: 15h54, 11/6/2012

Sau hai tiếng đồng hồ thẩm vấn, gã đàn ông gục đầu chịu thua. Cảnh sát rời phòng
hỏi cung với bản lời khai và nhận tội có chữ ký tay của hắn. Nhưng chẳng một ai
trong phòng thẩm vấn khi ấy – cả điều tra viên lẫn nghi can – biết rằng, hai tiếng
đồng hồ đó sẽ mở ra một cuộc chiến pháp lý kéo dài về một vấn đề rất nhạy cảm và
gây tranh cãi, đó là các quyền của bị cáo, trong đó có “quyền được biết quyền của
mình”.

Nghe còn có vẻ “vô lý” và gây “phiền nhiễu” hơn cả quyền im lặng, đó là quyền
được biết quyền của mình. Nó là một trong những quyền của người bị bắt, bị tạm
giữ, chưa xét xử. Trong lịch sử tư pháp nước Mỹ, có một vụ án rất nổi tiếng liên
quan đến quyền này, trong đó một kẻ phạm tội hiếp dâm từng suýt thoát được mức
án 30 năm tù chỉ vì lý do “không được cho biết quyền của mình”.

Bị bắt sau khi gây án 10 ngày


Rạng sáng ngày chủ nhật, 3/3/1963, trên đường đi bộ từ trạm xe buýt về nhà, một
thiếu nữ 17-18 tuổi (sau này được gọi bằng cái tên giả là Lois Ann Jameson”) ở
Phoenix, bang Arizona, bị một gã đàn ông bịt miệng, lôi tuột vào xe hơi, trói vào
ghế sau của xe, rồi chở đi một nơi khác cưỡng hiếp. Sau đó y lái xe quay lại chỗ cũ
và quẳng cô gái xuống đó.

Được biết chuyện, gia đình nạn nhân lập tức báo cảnh sát và cảnh sát cũng đến làm
việc ngay lúc 2h sáng. Dựa theo những mô tả của nạn nhân về chiếc xe (màu xanh
1
lá cây, đầy mùi nhựa thông, phía sau ghế trước có quấn một sợi dây thừng) và thủ
phạm (người gốc châu Mỹ Latin, khoảng 27-28 tuổi, nước da sậm màu, tóc xoăn,
cao khoảng 1m80), một tuần sau, điều tra viên Carroll Cooley thuộc Sở Cảnh sát
Phoenix đã dần dần có được manh mối về nghi phạm: Một người đàn ông tên là
Ernesto Miranda, sinh năm 1941, có tiền án trộm cắp, cố ý hành hung và cưỡng
hiếp, từng bị bắt 6 lần, đi tù 4 lần.

Thứ tư, ngày 13/3/1963, Ernesto Miranda bị hai điều tra viên Carroll Cooley và
Wilfred Young mời về đồn thẩm vấn. Tại đây, sau một cuộc thẩm vấn, họ đưa
Miranda vào đứng bên cạnh ba người đàn ông gốc châu Mỹ Latin khác xấp xỉ nhau
về chiều cao và cân nặng, để nạn nhân bí mật nhận diện. Do vụ cưỡng hiếp xảy ra
trong đêm tối nên cô gái Lois Ann Jameson không thật nhớ mặt thủ phạm, chỉ nói
rằng kẻ mang số 1 trông giống cái gã đêm đó.

Ernesto Miranda (bìa trái) đang xếp hàng cùng ba người đàn ông

2
khác cho nạn nhân nhận diện. Ảnh: AZCentral.

Sau đấy, Cooley và Young đưa Miranda vào một căn phòng có lẽ rất đáng sợ đối
với bất kỳ ai đang bị cáo buộc phạm tội. Theo nhà lịch sử hiến pháp Liva Baker ghi
lại, đây là “một khu vực biệt lập, không có luật sư, không nhân chứng, không thiết
bị ghi âm”. Hai điều tra viên nói với Miranda rằng anh ta đã bị nhận diện (thật ra
thì không hẳn như vậy, Lois Ann Jameson chỉ nói là Miranda “trông giống” thủ
phạm thôi). Rồi họ đưa cô gái vào phòng. Nhìn thấy cô, Miranda có vẻ choáng
váng. Cô gái nghe Miranda trả lời thẩm vấn, về sau cô xác nhận với cảnh sát rằng
giọng anh ta giống giọng kẻ đã cưỡng hiếp cô đêm 2/3, rạng sáng 3/3.

Sau khi cảnh sát đưa cô gái ra, một trong hai điều tra viên hỏi Miranda:
- Có đúng cô ấy không?
- Đúng – Miranda đáp.

Ngay lúc đó, hai điều tra viên hỏi tiếp rằng Miranda có chịu nhận tội không. Vừa
sợ, vừa hoang mang, mệt mỏi, Miranda chấp thuận.

Vậy là chỉ sau hai tiếng đồng hồ “làm việc”, Miranda đã phải ký vào một văn bản
nhận tội hiếp dâm, trong đó anh ta ghi rõ: “Dưới đây tôi xin thề rằng các lời khai
của tôi là tự nguyện, do tôi tự quyết, không bị đe dọa, không bị bức cung, không
được hứa hẹn miễn trách, và tôi hoàn toàn ý thức được về các quyền của mình,
cũng như hiểu rằng mọi lời khai của tôi có thể được sử dụng để chống lại tôi”.

Nhưng chẳng một ai trong phòng thẩm vấn khi ấy – cả điều tra viên lẫn nghi can –
biết rằng, hai tiếng đồng hồ đó sẽ mở ra một cuộc chiến pháp lý kéo dài về một vấn

3
đề rất nhạy cảm và gây tranh cãi, đó là các quyền của bị cáo, trong đó có “quyền
được biết quyền của mình”.

Cuộc chiến dai dẳng


Mấu chốt của vấn đề là, Miranda chưa từng được thông báo đầy đủ về các quyền
mà anh ta có. Cụ thể là, trước khi cảnh sát đưa cho anh ta tờ khai để anh ta tự viết
những lời nhận tội của mình (như đã khai nhận), anh ta đã không hề được thông
báo về quyền im lặng, cũng không được cho biết là mọi lời khai của anh ta trong
quá trình thẩm vấn có thể được sử dụng làm bằng chứng chống lại anh ta. Bản thân
là người nghèo, Miranda không có tiền thuê luật sư, nên vào ngày 15/3/1963, tại
phiên điều trần (hearing) đầu tiên trong đó bị cáo nhận thông báo về cáo buộc đối
với mình, tòa đã chỉ định cho anh ta một vị luật sư già, Alvin Moore, 73 tuổi.

Tại phiên tòa, khi công tố viên đưa tờ khai nhận tội của Miranda ra làm bằng
chứng, luật sư Alvin Moore lập luận: Vì Miranda không được cho biết về quyền
của anh ta, cho nên, bản nhận tội kia không hoàn toàn là tự nguyện. Bởi vậy, nó
mất hiệu lực.

Lập luận của luật sư bị bác và Miranda bị kết án 20 năm tù vì tội bắt cóc, 30 năm
tội tù vì tội hiếp dâm. Luật sư chống án lên Tòa Tối cao bang Arizona, vẫn với lập
luận rằng Miranda không tự nguyện nhận tội, sử dụng lời khai của anh ta là sai.
Tòa tuyên y án.

Vụ việc tiếp tục được đưa lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ (còn gọi là Tối cao Pháp
viện Hoa Kỳ) vào tháng 6/1965. Do luật sư Alvin Moore không đủ sức khỏe tham
gia tiếp, một luật sư hình sự khác là John F. Lynn và đồng sự John P. Frank tình

4
nguyện bào chữa cho Miranda theo đề nghị của tổ chức Liên đoàn Tự do Dân sự
Hoa Kỳ (ACLU).

Luật sư John Flynn (trái) đang trao đổi với Ernesto Miranda tại tòa
án. Ảnh: Arizone Republic.

Quan điểm của “phe đa số” trong Tòa án Tối cao Hoa Kỳ được Chánh án Earl
Warren tuyên đọc, cho rằng cuộc thẩm vấn của cảnh sát đối với Miranda trong lúc
đang tạm giữ anh ta, có tính chất cưỡng ép, bức cung. Trong khi đó, căn cứ vào Tu
Chính Án Số 5 (về việc tự khai báo có hại cho mình) và Tu Chính Án Số 6 (về
quyền có luật sư) của Hiến pháp Mỹ, thì mọi lời khai của nghi phạm khi không có
ý thức về quyền của mình đều không được chấp nhận.

Chánh án Earl Warren phát biểu:

5
“Trước khi bị thẩm vấn, người bị tạm giam phải được thông báo rõ ràng rằng anh
ta có quyền im lặng và bất kỳ điều gì anh ta nói đều sẽ được sử dụng làm bằng
chứng chống lại anh ta trước tòa. Anh ta phải được thông báo rõ ràng rằng anh ta
có quyền tham vấn luật sư và quyền được có luật sư ở bên cạnh trong suốt quá
trình thẩm vấn, và nếu anh ta là người nghèo thì sẽ có một luật sư được chỉ định để
đại diện cho anh ta”.

Do Miranda không được cho biết về những quyền đó (quyền im lặng, quyền có
luật sư), cho nên biên bản nhận tội của anh ta trở thành vô giá trị.

5 trên 9 thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ nhất trí với quan điểm này. Vậy là
phán quyết của các tòa án cấp bang bị hủy. Thậm chí phe đa số còn nêu rõ, nếu
nghi phạm được biết các quyền của mình và thực thi các quyền đó thì:

 Nếu nghi phạm tuyên bố anh ta muốn im lặng, cảnh sát phải ngừng thẩm
vấn;
 Nếu nghi phạm đòi quyền có luật sư, cảnh sát phải ngừng thẩm vấn, chờ đến
khi luật sư có mặt. Lúc đó, nghi phạm phải có quyền làm việc riêng với luật sư,
tham vấn luật sư, và sau đó nếu cảnh sát tiếp tục thẩm vấn thì nghi phạm phải có
luật sư hiện diện bên cạnh.

Phe thiểu số cho rằng phe đa số cường điệu hóa chuyện bức cung, và họ cũng dự
báo: Nếu được cho biết quyền của mình thì nghi phạm nào cũng sẽ đòi có luật sư
và cảnh sát sẽ rất khó buộc được nghi phạm khai nhận điều gì.

Mặc dù vậy, phán quyết trước đó của Tòa Tối cao bang Arizona vẫn bị lật ngược.

6
Nói chung cách trình bày câu từ có thể khác đi nhưng nội dung của “Thông báo
Miranda” thường đi theo công thức chung sau: “Anh có quyền im lặng; mọi điều
anh nói đều có thể bị sử dụng làm bằng chứng chống lại anh trước tòa án do luật
định. Anh có quyền tham vấn luật sư, và có quyền được có luật sư hiện diện trong
quá trình thẩm vấn; nếu anh không đủ tiền chi trả cho luật sư thì sẽ có một luật sư
được chỉ định bào chữa cho anh, nếu anh muốn”.

Đoạn kết
Sau phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, Tòa án bang Arizona phải xử lại
Miranda. Bản nhận tội của Miranda không được đưa ra làm bằng chứng nữa. Tuy
thế cuối cùng anh ta vẫn bị kết tội như cũ và lĩnh án 20-30 năm tù cho hai tội bắt
cóc và hiếp dâm, tổng hợp hình phạt là 30 năm tù.

Năm 1972, Miranda được tha sớm. Sau đó, anh ta còn nhiều lần phạm tội này tội
khác. Cuối cùng, vào ngày 31/1/1976, anh ta bị đâm chết trong một cuộc ẩu đả
trong quán bar ở Phoenix, Arizona.

Dù sao đi nữa, cái tên Miranda cũng đi vào lịch sử tư pháp, khi mà từ câu chuyện
của anh ta, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ ra phán quyết rằng mọi bị can, bị cáo trong các
vụ án hình sự đều phải được thông báo về các quyền của mình, trong đó có quyền
im lặng và quyền được có luật sư. Thông báo đó được gọi bằng cái tên “thông báo
Miranda”.

Ủy ban Luật gia Quốc tế (ICJ), trong một cẩm nang về giám sát việc xét xử trong
tố tụng hình sự, định nghĩa về quyền được biết quyền của mình như sau: “Ai bị bắt
giữ cũng đều có quyền được thông tin, bằng thứ ngôn ngữ họ hiểu được, về quyền
của họ (a) được có đại diện pháp lý; (b) được bác sĩ khám và trị bệnh; (c) thông
7
báo cho người thân hoặc bạn bè về việc mình bị bắt; (d) liên lạc hoặc thông báo
cho cơ quan lãnh sự (trong trường hợp họ là công dân nước ngoài) hoặc một tổ
chức quốc tế có thẩm quyền (trong trường hợp họ là người tị nạn, người vô tổ quốc
hoặc đang được sự bảo vệ của một tổ chức liên chính phủ nào đó); và (e) được
hướng dẫn thông tin về cách làm thế nào để tận dụng những quyền đó”.

Đoan Trang

Theo Luật Khoa tạp chí

Lược dịch từ “Chương I, vụ án Miranda và bang Arizona, Các phán quyết của Tòa
án Tối cao. New York: Chelsea House Publishers, 2007″ và Wikipedia (mục từ
“Earnesto Miranda”).

You might also like