You are on page 1of 4

Từ bao đời nay, người phụ nữ có vai trò vô cùng quan trọng đối với gia đình.

“ Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”- câu tục ngữ này luôn đúng trong mọi
thời đại. Dù theo thời gian, những quan niệm về chuẩn mực của người phụ
nữ có nhiều thay đổi thì phụ nữ vẫn là người thắp lửa trong gia đình, vẫn là
người có tác động đặc biệt quan trọng đối với mỗi thành viên trong gia đình,
nhất là đối với con cái. Từ xưa, việc chăm lo gia đình, nuôi dạy con cái đã là
thiên chức của người mẹ. Điều đó không hề thay đổi theo tiến trình lịch sử.
Ai đã từng làm mẹ sẽ cảm nhận sâu sắc về tình yêu thương, sự nhọc nhằn, hy
sinh, tảo tần nuôi con khôn lớn của người mẹ. Mẹ là người mang nặng đẻ đau
và nuôi con khôn lớn nên người. Chín tháng mười ngày nuôi dưỡng những
bào thai, khi con mẹ cất tiếng khóc chào đời dù đang trong cơn đau đớn để
cho con ra đời nhưng mẹ vẫn mỉm cười hạnh phúc. Không quản ngày đêm,
mẹ chăm lo cho con từng miếng ăn giấc ngủ. Mẹ không chỉ là người nội trợ
tài ba mà còn là người luôn lạm lụng cần mẫn để chăm lo cho con cái. Dù xã
hội ngày nay luôn đề cao tinh thần bình đẳng, nhưng hầu hết trong các gia
đình, người mẹ vẫn là người vất vả hơn bao giờ hết. Mẹ chăm con, dọn dẹp
công việc nhà cửa, làm ấm căn bếp mỗi sớm mai.... thiếu vắng mẹ là cả thế
giới của ta đảo lộn vì không biết mọi thứ đang nơi đâu. Trong vai trò kết nối,
mẹ còn giúp các thành viên trong gia đình luôn gắn kết, yêu thương nhau.
Chính vì thế, ảnh hưởng của người mẹ đối với việc giáo dục con cái cũng
thay đổi theo chiều hướng tích cực.Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “
Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia
đình càng tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt nhân cho tốt” Con cái
chính là tấm gương phản ánh thực trạng đạo đức, nếp sống mỗi gia đình, của
việc giáo dục con cái của những bậc làm cha, làm mẹ. Xã hội phát triển khi
có những gia đình tốt, những công dân tốt. Hạt nhân đó chính là thành quả do
những người cha, người mẹ gây dựng nên. Đặc biệt, bàn tay người mẹ chăm
sóc, gieo trồng cho những hạt giống đó được đâm chồi, nảy lộc và tỏa sáng.
Ai đó đã từng nói rằng: “Tất cả mọi sự bí ẩn của thế giới này đều không thể sánh nổi với
sự bí ẩn của người phụ nữ”. Người phụ nữ trong xã hội từ xưa cho đến nay đều đóng
một vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên không phải ai lúc nào vai trò ấy cũng được
công nhận, ta có thể thấy được điều ấy qua hình ảnh người phụ nữ xưa và nay. Trong xã
hội xưa, khi mà đất nước ta còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Nho giáo bắt nguồn từ
Trung Quốc. Họ không những không được tôn trọng mà còn phải chịu đựng nhiều lễ
giáo phong kiến khắt khe. Dù sống trong gia đình quyền quý hay nghèo hèn, họ đều
không được quyết định cuộc đời của bản thân mà phải tuân theo “tam tòng, tứ đức”. Về
“tam tòng” đó là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử còn tứ đức gồm có
công, dung, ngôn và hạnh. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” cũng ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi người, thậm chí còn ảnh hưởng cho đến tận ngày hôm nay. Người phụ nữ
không được phép học hành, đặt chân đến những nơi tôn nghiêm hay tự do yêu đương,
kết hôn mà phải theo sự sắp xếp “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Một khi bước vào cuộc
sống hôn nhân, người phụ nữ chỉ có thể toàn tâm toàn sức lo cho gia đình, nghe theo
mọi quyết định của người chồng và không hề có tiếng nói. Không những thế họ còn phải
chịu kiếp chồng chung. Trong xã hội hôm nay, vai trò và vị thế của người phụ nữ đã
thay đổi. Họ không chỉ đóng góp mỗi vai trò nội trợ trong gia đình nữa mà còn có vai trò
quan trọng khi tham gia vào liều lĩnh vực xã hội góp phần xây dựng nền kinh tế, xã hội
hiện đại ngày nay quyền của người phụ nữ đã được nâng cao họ được xã hội bảo vệ
không chỉ riêng tính mạng và còn về tinh thần. Ngày nay lời ăn tiếng nói của người phụ
nữ cũng có sức ảnh hưởng hơn. Họ không phải lúc nào cũng ăn nói trong một khuôn
phép thưa bẩm, dạ vâng. Người phụ nữ được học tập để mở mang trí thức, được tiếp cận
với sự hiện đại của khoa học kĩ thuật, được tự do yêu đương và lựa chọn người mình
muốn chung sống, tuân theo chế độ một vợ một chồng. Dù sống trong xã hội nào, người
phụ nữ vẫn có một vai trò quan trọng. Họ xứng đáng nhận được sự yêu thương, bảo vệ.
2 câu kết
Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.
bài Thương vợ ngắn gọn Bài thơ “Thương vợ” không chỉ thể hiện tình thương, sự trân
trọng của nhà thơ Trần Tế Xương với sự tần tảo, hi sinh của bà Tú mà còn là lời tự giễu,
chê trách chính bản thân nhà thơ khi thân nam nhi nhưng lại chẳng thể hoàn thành trách
nhiệm với gia đình mà mãi lận đận với con đường công danh, mang đến gánh nặng cho
đôi vai gầy yếu của vợ. Sinh sống trong xã hội nửa tây nửa ta, công danh có thể mua
bằng tiền thì những con người dẫu tài năng như Trần Tế Xương cũng phải lận đận lên
xuống với thi cử, công danh. Ông đã từng nhiều lần thể hiện nỗi cay đắng với nghiệp
công danh đầy trắc trở của bản thân “Thi không ăn ớt thế mà cay” hay “Đau quá đòn
hằn rát hơn lửa bỏng”. Mãi theo đuổi con đường công danh, lí tưởng lớn của cuộc đời
mà Tú Xương đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia
đình, mọi gánh nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú.
Để lo cho gia đình, chồng con bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc
buôn bán nhiều bon chen, xô bồ “quanh năm buôn bán ở mom sông” cùng với gánh
nặng gia đình đổ lên đôi vai gầy yếu “nuôi đủ năm con với một chồng”. Tác giả Tú
Xương đã tự chế giễu bản thân khi đặt mình ngang hàng với bốn đứa con thơ. Ông đã tự
giễu sự vô dụng của bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng, cảm thương với cái vất
bả, lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”. Tuy gánh trên vai mọi gánh
nặng nhưng bà Tú không hề than vãn, trách móc số phận mà chấp nhận toàn bộ gian khó
về mình chỉ mong mang đến cuộc sống lo đủ cho chồng con. Càng thấu hiểu với nỗi khổ
của bà Tú bao nhiêu thì tác giả Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu. Bằng ngôn ngữ
đời thường, tác giả Tế Xương đã lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo đã mang đến bao
thử thách khắc nghiệt của con người. Cũng chính xã hội ấy đã khiến Tú Xương mãi lận
đận với con đường thi cử mà trở thành kẻ vô dụng mang gánh nặng đến cho vợ con. Lời
chửi của Tế Xương gợi liên tưởng đến lời chửi đầy chua chát của Hồ Xuân Hương trước
cảnh chung chồng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Năm thì mười họa hay chăng
chớ Một tháng đôi lần có cũng không” Vì mải theo đuổi nghiệp công danh, Tế Xương
trở thành người chồng hờ hững, tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự
thiếu xót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận
mình là người chồng hờ hững “có chồng hờ hững cũng như không”. Hai câu thơ cuối
của bài thơ đã thể hiện được nỗi bất bình của nhà thơ Tế Xương đối với cuộc đời bạc
bẽo, tự giễu bản thân khi chưa hoàn thành được trách nhiệm với gia đình, thân làm nam
nhi nhưng lại để vợ bươn chải với cuộc sống lam lũ vất vả. Bài thơ cũng thể hiện được
tấm lòng đáng trân trọng của con người đầy tình nghĩa của Tế Xương.
Hai câu cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương, đích xác nghe giống một câu
"chửi", "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không". "Cha mẹ" ở đây
không phải có ý trách móc gì phụ mẫu, chẳng qua là Tú Xương thương vợ khổ cực quá,
ông tức cho cái thói đời nhiễu nhương rối loạn, không cho nổi ông một con đường công
danh sáng lạn, không để ông vung hết cái tài của mình, mà bấy nhiêu lâu thi thố cũng
chẳng ăn ai, vẫn chỉ một kiếp tú tài bé con. Giá như thời buổi Nho học còn thịnh, cỡ tú
tài cũng khấm khá, cũng có thể gõ đầu vài lớp trẻ, thế nhưng đời bạc, phận cũng bạc
theo ông lại sinh ra đúng cái buổi Tây, Ta trà trộn làm bát nháo đi cái nề nếp văn hóa lâu
đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy tàn, Nho học suy tàn, những bậc trí thức đương
thời cũng chán chường lui về chốn thôn quê, không màng thế sự, bởi khi ấy đạo đức xã
hội xuống cấp, đồi bại, nhân cách con người biến dạng, họ sẵn sàng vứt bỏ liêm sỉ, đạo
đức chà đạp lên nhau mà chuộc lợi, ăn sung mặc sướng. Còn những người có tâm, có tài
như Tú Xương lại phải chịu cái kiếp để bọn ô hợp đè đầu cưỡi cổ, phải chịu cảnh lực bất
tòng tâm. Thử hỏi có thể không uất ức, không buông một tiếng chửi cái "thói đời ăn ở
bạc" được hay không? Mãi theo đuổi con đường công danh của cuộc đời mà Tú Xương
đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình, mọi gánh
nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú. Để lo cho gia
đình, chồng con bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc buôn bán nhiều
bon chen, xô bồ “quanh năm buôn bán ở mom sông” cùng với gánh nặng gia đình đổ lên
đôi vai gầy yếu “nuôi đủ năm con với một chồng” Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một
cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình, dẫu
rằng ông không cho bà được một cuộc sống ấm no, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn
trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực để bà
Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật ngưỡng mộ. . Lời chửi của
Tế Xương gợi liên tưởng đến lời chửi đầy chua chát của Hồ Xuân Hương trước cảnh
chung chồng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không” Vì mải theo đuổi nghiệp công danh, Tế Xương trở
thành người chồng hờ hững, tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự thiếu
xót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận mình
là người chồng hờ hững “có chồng hờ hững cũng như không”. Hai câu thơ cuối là những
lời tâm huyết tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen
bạc, là lời tự trách đầy chua xót, cay đắng của ông với chính bản thân, với cả những đức
ông chồng tệ hại, vô dụng, để vợ phải vất vả cực nhọc cả cuộc đời.

You might also like