Professional Documents
Culture Documents
2017 - 2018
ĐỀ BÀI: Phân tích cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng trong bài Tây Tiến
của Quang Dũng.
Bài viết tham khảo
Tây Tiến (1948) là bài thơ tiêu biểu nhất của đời thơ Quang Dũng, đồng thời cũng
là một thành tựu đáng ghi nhớ của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Là sản phẩm của
một hồn thơ trẻ trung, phóng khoáng, hơn nữa nội dung lại nói về một thời gian nan mà
hào hùng của lịch sử dân tộc, thật dễ hiểu khi bài thơ có hai nét đặc sắc cơ bản bao trùm
là cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng.
Một tác phẩm có cảm hứng lãng mạn bay bổng là tác phẩm mà ở đó những cảm
xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện với cường độ mạnh, trí tưởng tượng được phát
huy hết mức, những cái phi thường tuyệt mĩ được tô đậm và thủ pháp đối lập được sử
dụng một cách rộng rãi, thường xuyên.
Tây Tiến quả là một tác phẩm hết sức lãng mạn. Điều dễ nhận thấy trước tiên là độ
sâu, độ mạnh trong cảm xúc của nó. Cả bài được bao bọc trong một nỗi nhớ ăm ắp, nồng
nàn, vừa xoáy sâu, vừa lan tỏa. Không có nỗi nhớ đó thì chắc chắn không có cả bản thân
bài thơ, bởi tất cả những điều được nói tới trong bài đều thuộc về quá khứ, giờ đây nhờ kí
ức, nhờ nỗi nhớ mà sống dậy. Không phải tình cờ mà từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần trong
bài và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà thoạt đầu tên của tác phẩm gồm ba chữ: Nhớ Tây
Tiến. Mở đầu bài thơ, tác giả đã viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hai câu này đã nói lên rất rõ niềm thôi thúc bên trong khiến tác giả đã viết nên
Tây Tiến. Chính nỗi “nhớ chơi vơi” chứ không phải cái gì khác đã dẫn ngòi bút của tác
giả đi miên man trong thế giới thơ. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là nỗi nhớ vừa có vẻ xa
xôi, vời vợi lại vừa có vẻ gần gũi, lửng lơ, ám ảnh hoài không cho người ta được yên,
buộc người ta phải đắm chìm trong hoài niệm.
Như mọi bài thơ thấm đẫm cảm hứng lãng mạn khác, bài thơ Tây Tiến chứa đựng
nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho độc giả. Đối tượng miêu tả ở đây có thật nhiều nét
phi thường. Hãy đọc một đoạn tả dốc trong bài:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Dốc cứ cao lên, cao mãi hút mắt nhìn để rồi đổ gập xuốn, sâu dường như vô cùng
tận. Ta tưởng như gặp lại mảnh núi non hiểm trở, hùng vĩ, đầy thách thức từng được thi
hào Lí Bạch nói tới trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó): “Thục đạo chi nan, nan ư
thướng thanh thiên” (Đường Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh). Dốc đã thế, mưa
cũng mịt mùng bủa vây tứ phía khiến cho trong mắt của các chiến sĩ đang hành quân,
những ngôi nhà sàn như đang trôi bồng bềnh trong biển nước. Cái dữ dội của thiên nhiên
Tây Bắc còn được tô đậm trong hai câu có âm điệu hết sức mạnh mẽ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Thật là một cuộc “diễu võ dương oai” đầy ngoạn mục của núi rừng, khiến cho
những kẻ yếu bóng vía có thể run lên vì sợ hãi.
Những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không phải chỉ thuần những
cảnh ghê gớm như thế. Đã bao lần nó phô ra vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, say đắm của mình
trước con mắt háo hức quan sát của người lính chiến:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Đúng là một vẻ đẹp quá đỗi nguyên sơ, thanh khiết, gợi cảm đến nao lòng. Những
bông lau xám bạc phất phơ bên bờ suối, những cánh hoa rừng chòng chành, “đong đưa”
trên dòng nước lũ như giấu trong mình cả một câu chuyện cổ tích về núi rừng miền Tây
mà ta chưa có điều kiện khám phá hết được.
Việc miêu tả những nét độc đáo khác thường của thiên nhiên là một trong những
điều kiện quan trọng tạo nên cảm hứng lãng mạn cho bài thơ. Cảm hứng lãng mạn đó còn
được đẩy lên một mức nữa khi tác giả đi sâu khám phá bản tính lãng mạn, mộng mơ của
những người lính Tây Tiến. Thật ra thì tất cả những câu nói về vẻ đẹp của thiên nhiên
Tây Bắc đã dẫn ra trên kia đều đã bao hàm ý khẳng định chất thi nhân của các anh “bộ
đội Cụ Hồ”. Trên đường hành quân, họ chưa một lần bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn những vẻ
đẹp hiếm thấy trong đời. Mắt nhìn dốc cao, đầu gội trong mưa lớn, tai nghe tiếng thác
thét gầm, cả sinh mạnh đối diện cùng thú dữ, chừng ấy trải nghiệm đã khiến cho máu
phiêu lưu trong họ bị kích thích mạnh. Còn khi được sống với cảnh “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”, với cảnh “chiều sương” nơi Châu Mộc, chắc chắn họ cảm thấy nỗi niềm
thơ thức dậy dạt dào. Chẳng thế mà giữa những ngày gian khổ, họ vẫn hào hứng tổ chức
những đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt. Trong cái đêm vui đó, những “dáng hồng” sơn
cước đã làm họ ngất ngây say:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Lãng mạn đến mức ấy, quả khó ai hơn được!
Trong các tác phẩm được viết theo cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối lập thường
rất được chú ý khai thác. Bài Tây Tiến cũng nằm trong thông lệ đó. Sự đối lập ở đây có
nhiều cấp độ, trước hết là đối lập về hình ảnh. Ta có thể thấy rõ điều này qua các đoạn
của bài thơ. Ở đoạn một, ngòi bút tác giả nghiêng về miêu tả sự hào hùng, dữ dội của
thiên nhiên, còn ở đoạn hai, nét thơ mộng của nó được ưu tiên nhấn mạnh. Cũng có khi,
sự đối lập đó được thể hiện trong hai câu liền kề nhau:
2 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (093.97.98.727)
TÀI LIỆU THAM KHẢO MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN LÀM VĂN NĂM HỌC
2017 - 2018
anh về đất” đã cực tả những thiếu thốn khó tưởng tượng nổi của đoàn quân Tây Tiến.
Một chiến sĩ hi sinh, nhiều khi đồng đội không tìm nổi một mảnh chiếu để liệm xác.
Mặc dù thường đề cập những chuyện đau buồn, bài thơ Tây Tiến vẫn không đưa
đến cho ta cảm xúc bi lụy. Đọc tác phẩm, chúng ta thường thấy có một cái gì đó mạnh mẽ
và to lớn cứ dâng lên choáng ngợp lòng mình, khiến ta trở nên trầm tĩnh hơn, cứng cỏi
hơn. Cái gốc của vấn đề là ở chỗ: một mặt bản thân Quang Dũng nói về mất mát với thái
độ chấp nhận mạnh mẽ mà kiên quyết, mặc khác, nhà thơ rất chú ý nêu lên các chi tiết về
nghị lực sống vô tận cũng như chất trượng phu của những người chiến sĩ. Ví như hai câu
nói về cái chết đã dẫn ra ở trên. Cái chết ấy một mặt gợi lên niềm xót thương, mặt khác,
gợi sự kính trọng, ngưỡng mộ. Quang Dũng đã rất có ý thức nhấn mạnh tư thế người
chiến sĩ lúc hi sinh. Các anh hi sinh ngay trên đường hành quân, trong lúc làm nhiệm vụ.
Sức lực đã tàn và vẫn bước, đến khi không bước được nữa thì gục lên súng mũ và ra đi –
một sự ra đi quá đỗi nhẹ nhàng như việc đắm mình vào giấc ngủ. Mấy từ “bỏ quên đời”
được dùng rất sáng tạo đã góp phần chuyển biến âm hưởng câu thơ từ “bi” sang “tráng”.
Hãy đọc tiếp những câu thơ có lối diễn tả khác thường này nữa.
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nói bi thì cũng thật là bi mà nói tráng thì cũng thật là tráng.
Ai chẳng hiểu cái sự “không mọc tóc” kia là hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng khi
tác giả viết “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” thì ta lại có cảm tưởng rằng đoàn binh ấy
không thèm mọc tóc, rằng họ chủ động như vậy (ý của Chu Văn Sơn). Tiếp theo, khi tác
giả đặt cụm từ “dữ oai hùm” bên cạnh cụm từ “Quân xanh màu lá” thì âm điệu toàn bộ
câu thơ không còn bi ai nữa mà trở nên cứng cỏi lạ thường. Vũ Quần Phương đã từng
khen Quang Dũng “tả lính ốm mà không thấy lính yếu” – điều đó thật chí lí! Cần phải nói
ngay rằng sở dĩ nhà thơ chọn cách diễn tả đó là bởi vì trong thực tế những người lính Tây
Tiến vốn có cốt cách trượng phu khá rõ. Dù cuộc sống có gian nan thế nào, họ vẫn giữ
được sự bình thản, yên tĩnh của tâm hồn. Trong giấc mơ, hình ảnh những kiều nữ chốn đô
thành thỉnh thoảng vẫn cứ hiện lên, tiếp thêm nguồn sinh lực mới cho họ. Từ ngày ra đi,
họ đã xác định được những gian khổ của đời lính chiến, đã chấp nhận nó, xem nó như sự
thử thách đối với chí làm trai. Đến lúc hi sinh, nỗi hận lớn nhất của họ là việc lớn chưa
thành. Có lẽ trong tiếng “gầm” của dòng sông Mã đổ về xuôi có tiếng “gầm” của nỗi hận
đó. Chính nó đã được trời đất chứng kiến, cảm thông và nâng lên một tầm vóc mới khiến
chúng ta phải kính cẩn nghiêng mình.
Có thể thấy thêm ở bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dùng rất nhiều từ Hán
Việt trang trọng, cổ kính như “đoàn binh”, “biên cương”, “viễn xứ”, “độc hành”,… Việc
4 GV: LÊ DUY TÂN – TRƯỜNG THPT GIA ĐỊNH (093.97.98.727)
TÀI LIỆU THAM KHẢO MÔN NGỮ VĂN 12 – PHẦN LÀM VĂN NĂM HỌC
2017 - 2018
dùng từ ngữ như vậy đã góp phần đắc lực thể hiện tráng khí và chất chinh phu hào hùng
của những người lính cũng có nghĩa là nó có tác dụng làm tăng thêm âm hưởng bi tráng
cho tác phẩm.
Nửa thế kỉ đã trôi qua từng ngày bài thơ Tây Tiến ra đời. Đã có nhiều vấn đề,
nhiều sự việc bị phôi pha cùng năm tháng, nhưng bài thơ Tây Tiến vẫn còn đó, sừng sững
như một tượng đài bất tử về những người lính vô danh thời chống Pháp. Với cảm hứng
lãng mạn và âm hưởng bi tráng của mình, bài thơ luôn làm sống dậy trong ta kí ức về một
thời kì lịch sử không được phép quên, không thể nào quên.