You are on page 1of 158

Cóp nhặt và sưu tầm

Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu 2

Vợ Nhặt - Kim Lân 15

Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài 31

Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân 58

Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường 76

Hồn Trương Ba da Hàng thịt - Lưu Quang Vũ 92

Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành 110

Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh 116

Việt Bắc - Tố Hữu 118

Tây Tiến - Quang Dũng 128

Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm 132

Sóng - Xuân Quỳnh 151

1
Cóp nhặt và sưu tầm

Chiế c thuyền ngoà i xa - Nguyễn Minh Châu

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn Liên hệ mở rộng


chứng
Nhân vật 1.Khái quát nhân - Nhân vật kể chuyện xưng “tôi” Liên hệ Phùng với Vũ Như Tô
Phùng vật - Là người dẫn dắt câu chuyện trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
- Là lăng kính của nhà văn trong việc soi chiếu, tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”
- Câu chuyện nghịch lý và vỡ lẽ của anh bắt đầu khi anh nhận nhiệm vụ đi
thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù, để
xuất bản trong bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng
phòng
- Phùng trở về vùng biển miền Trung - cũng là chiến trường xưa nơi anh
chiến đấu -> sau nhiều ngày “phục kích” -> chụp được bức ảnh thuyền
đánh cá thu lưới vào buổi bình minh -> bao triết lý về nghệ thuật và cuộc
đời hiện lên rõ ràng và sâu sắc

2.Một trái tim nghệ - Một người nghệ sĩ tâm huyết với nghề: Dẫn dắt, lý giải: Nghệ sĩ là
sĩ tâm huyết, trân ● Dốc lòng, dốc sức “mai phục” -> bắt được khoảnh khắc đẹp, không những người có trái tim nhạy
trọng, thăng hoa nề hà, ngần ngại cảm nhất, tinh tế nhất và
với cái đẹp ➔ Người nghệ sĩ yêu cái đẹp, tận tụy với nghề, luôn làm việc với cũng đắm say, thiết tha với cái
đẹp

2
Cóp nhặt và sưu tầm

tâm thái nghiêm túc, cống hiến và dành tâm huyết trọn vẹn với nhất.
nghề
- Một người nghệ sĩ trân trọng, thăng hoa với cái đẹp: Nhà thơ người Pháp Charles
● Phát hiện ra “cảnh đắt trời cho”: cảnh chiếc thuyền ngoài xa đang kéo Baudelaire: “Mi xuống từ trời
lưới trong biển sớm mờ sương -> cảm xúc reo vui nhảy múa cao hay lên từ vực thẳm/Hỡi cái
● Anh cảm thấy như đó là “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” - đẹp!”
> cảm thấy “bối rối, trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào”
● Tâm hồn ngập tràn hạnh phúc, cõi lòng thanh sạch, trút bỏ
những lấm bẩn ngoài kia -> cái đẹp có khả năng thanh lọc tâm
hồn con người
● Đồng tình với quan điểm “cái đẹp chính là đạo đức”
● “Tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn
thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”

3.Một trái tim nghệ - Chứng kiến cảnh gã đàn ông đánh vợ -> bất bình Charlie Chaplin: “Cuộc đời là bi
sĩ nhạy cảm, gắn ● Kinh ngạc đến độ “vứt chiếc máy ảnh xuống chạy nhào tới” -> kịch khi quay cận cảnh, nhưng
bó với cuộc đời người nghệ sĩ có tấm lòng nhân ái, biết thương yêu, bênh vực bảo là hài kịch khi quay xa”
vệ con người -> đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật và nhận ra: Cái đẹp
không bao giờ là đạo đức Liên hệ với văn học: Trước
- Chứng kiến cảnh gã đàn ông đánh vợ lần hai -> lao đến và đánh gã đàn Cách mạng, quan điểm “nghệ
ông bạo lực thuật vị nhân sinh” và “nghệ
● Phùng muốn hành động để bảo vệ những người bị ức hiếp -> người thuật vị nghệ thuật” luôn được
nghệ sĩ biết gắn mình với đời sống, bất bình trước những hành động các nhà văn, nhà thơ quan tâm
vũ phu, tàn nhẫn của con người và bàn luận -> cái đẹp luôn cần
- Bất bình trước thái độ cam chịu của con người -> luôn muốn bảo vệ gắn bó với cuộc đời
cái thiện, xóa bỏ bất công, tàn nhẫn
● Ở tòa án huyện -> người đàn bà không chịu bỏ chồng -> thấy không
khí “trở nên ngột ngạt quá” -> bất bình trước sự cúi đầu, cam chịu
cái

3
Cóp nhặt và sưu tầm

xấu, cái ác

4.Người nghệ sĩ từng - Phùng từng có cái nhìn đơn giản, dễ dãi về con người và cuộc sống: Dẫn dắt: Một người nghệ sĩ
có những hạn chế ● Phùng đã có cái nhìn đơn giản, thiếu sâu sắc, ngây thơ về cuộc sống, chân chính phải là người ngụp
trong cách nhìn về NĐBHC lặn sâu vào từng vỉa tầng tâm
nhận cuộc sống và ● Phùng thiếu kinh nghiệm sống, Phùng không hiểu được: tư, tình cảm để hiểu thấu từng
con người đã nhận ★ cuộc sống của một người đàn bà hàng chài trên một con biến thiên nhỏ nhất trong tâm
thức và vỡ lẽ ra thuyền không có đàn ông hồn con người, từ đó đưa vào
những oái oăm của ★ một người mẹ sẽ phải gánh vác, chăm lo cho “đặng một sấp tác phẩm. Bằng khả năng quan
cuộc đời con nhà nào cũng trên dưới chục đứa” như thê nào nếu không sát, thấu hiểu, khát khao “tìm
có người cha hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
★ vị xương rồng luộc chấm muối tâm hồn con người”, nhà văn
★ những ngày biển động NMC đã miêu tả quá trình
➔ Bạo lực gia đình là một hệ quả, không phải nguyên chuyển biến nhận thức của
nhân gốc rễ nhân vật Phùng thật sâu sắc…
➔ Phùng không thể nào giải quyết triệt để vấn đề
● Phùng đã có cái nhìn định kiến với người đàn ông: “Lão ta hồi trước “Cuộc đời dài lắm, để đi hết
bảy nhăm có đi lính Ngụy không” -> với Phùng, chỉ có những kẻ được cuộc đời, con người phải
quay lưng lại với đất nước mới không có tình người trải qua biết bao những khoảnh
➔ cái nhìn thiển cận, đầy sự quy chụp khắc tỉnh táo và cả si mê” (Cuộc
- Phùng từng thất bại, bất lực trong việc giải phóng con người khỏi bạo đời dài lắm - Chu Lai)
lực gia đình
● Phùng nỗ lực giúp nđbhc thoát khỏi khổ đau bất hạnh -> nhưng chỉ là Văn học 1945 - 1975, khi đề cập
những hành động bộc phát, không mang lại kết quả lâu dài đến số phận con người -> nhà
● Phùng và Đẩu cố gắng giải quyết giúp nđbhc bằng cách dựa vào văn đề cao khả năng vượt qua
luật pháp, mong muốn chị bỏ chồng -> vẫn chưa thể giải thoát con nghịch cảnh, tìm thấy hạnh
người khỏi nghèo đói, bế tắc và túng quẫn phúc, thường nói về sự vận
- Phùng đã có sự biến chuyển nhận thức về cuộc sống và con người: động theo chiều hướng tích cực,

4
Cóp nhặt và sưu tầm

● Phùng nhận thức rõ hơn hiện thực đời sống trái ngang, chứa đầy từng bước vượt lên hoàn cảnh,
nghịch lý mà con người ta phải chấp nhận để tồn tại. Cuộc sống hồi sinh tâm hồn -> Nguyễn
phong phú, phức tạp, nhiều mảng màu Minh Châu nói về những nghịch
● Phùng phát hiện vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn và thấu hiểu lý như một sự tồn tại hiển nhiên
hơn cuộc sống của người đàn bà hàng chài trong đời sống con người
● Phùng nhận ra nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời

Nhân vật 1. Hoàn cảnh, lai - Lai lịch: Dẫn dắt về tấm lòng của nhà
người lịch, ngoại hình ● Tác giả gọi nhân vật là “người đàn bà”, “mụ” -> không có tên gọi cụ văn: “Nhà văn tồn tại ở trên đời
đàn bà thể -> gợi lên thân phận bé nhỏ của người lao động thời hậu chiến - để làm công việc giống như kẻ
hàng > tăng tính khái quát nâng giấc cho những người
chài - Hoàn cảnh: cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác
● Xuất thân trong một gia đình khá giả ở phố, sau đó có mang với hoặc số phận đen đủi dồn con
một người con trai hàng chài và bén duyên, trở thành vợ chồng người ta đến chân tường, những
- Ngoại hình: con người cả tâm hồn và thể
● Người đàn bà hiện lên dưới ngòi bút tả thực của Nguyễn Minh Châu xác bị đọa đày đến ê chề, hoàn
★ “trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của toàn mất hết lòng tin vào con
người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét người và cuộc đời, để bênh vực
thô kệch” cho những con người không có
★ “Mụ rỗ mặt” ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết
★ “Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt mà chơi - Nguyễn Minh Châu)
và dường như đang buồn ngủ” -> mệt mỏi, cạn kiệt về sức
khỏe Giọt nước mắt của người đàn bà
➔ Đường nét thô mộc -> hé mở một phần cuộc đời hàng chài: “Tôi nghĩ nếu vẽ một
lam lũ, vất vả, dự cảm cho một số phận truân biểu tượng của nghề viết mà tôi
chuyên đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình
2. Số phận éo le, bất
hạnh: nạn nhân của ảnh của giọt nước mắt…tôi
- Nạn nhân của đói nghèo luôn ao ước những trang viết
đói nghèo và bạo
● Tuy đất nước đã thoát khỏi xiềng xích nô lệ, bóc lột, áp lực của mình có được sự rung cảm
lực gia đình
nhưng trong cuộc sống của người dân, đói nghèo vẫn hiện hữu như
★ Trên chiếc thuyền nhỏ lênh đênh, cả gia đình nđbc phải chen

5
Cóp nhặt và sưu tầm

chúc nhau mà sống -> không gian chật hẹp, tù túng -> bóp những giọt nước mắt.”
nghẹt từng khoảnh khắc sum họp, đầm ấm (Nguyễn Ngọc Tư)
★ Những ngày biển động “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây
xương rồng luộc chấm muối” -> xương rồng luộc chấm muối là Nguyễn Minh Châu đã chiêm
món ăn tạm bợ khi con người ta lâm vào cảnh đói nghèo cùng nghiệm sâu sắc rằng “chiến
cực tranh không chỉ có chiến công,
- Nạn nhân của bạo lực gia đình không chỉ có anh hùng và quả
● Bị chồng đánh liên tiếp trong một thời gian dài “ba ngày một trận cảm mà còn một phần chìm
nhẹ, năm ngày một trận nặng” khuất bao nỗi đa đoan của con
● Chị phải chịu những trận đòn tàn bạo từ người chồng mà chị yêu người, của cuộc đời, biết bao sự
thương “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút hi sinh mất mát, dang dở chia
trong người ra một chiếc thắt lưng của lính Ngụy ngày xưa, có vẻ như lìa... vẫn phải dằn lòng lại”.
những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão Chính vì thế sau năm 1975
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp những sáng tác của ông mang
vào lưng người đàn bà” đến cái mới trong cách nhìn
➔ Bạo lực gia đình đã khiến chị rơi vào vòng quay đầy đời, nhìn người và đặc biệt là
rẫy những đau khổ, bất hạnh của số phận những số phận con người mới
với những bi kịch và mất mát
3.Sự im lặng, nhẫn - Khi bị chồng đánh đập dã man, chị “không hề kêu lên một tiếng, không chống thời hậu chiến. Nếu Quỳ trong
nhục, thái độ cam trả, cũng không tìm cách chạy trốn” -> dù đau đớn trong trái tim và thể xác trong “Người đàn bà trên
chịu nhưng chị đã bình tĩnh để đón nhận đòn roi, vì chị đã quá quen với những chuyến tàu tốc hành” đau đớn
giày vò này trong bi kịch khi những điều
- Chánh án khuyên bỏ chồng “đừng bắt con bỏ nó” mình mong muốn trái ngược
- Nhưng khi thằng bé Phác đánh lại cha -> Chị lại khóc vì những điều bấy với thực tế thì người đàn bà
lâu nay mình cam chịu, nhẫn nhục để bảo vệ nay lại đổ vỡ hàng chài lại chật vật trước
➔ Chị cam chịu, nhẫn nhịn vì con những khốn khó của cuộc sống

4.Vẻ đẹp của - Tình mẫu tử được chị ý thức như một thiên tính tự nhiên của người phụ nữ
tình mẫu tử “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn

6
Cóp nhặt và sưu tầm

nên phải gánh lấy cái khổ”


- Chị có một triết lý sống cao cả: sống vì con “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống vì con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được” -> Chị không
bỏ chồng vì chị cần một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để
cùng chị làm ăn nuôi nấng các con
- Khi thấy thằng bé Phác đánh trả lại cha -> đau đớn, hổ thẹn vì làm tổn
thương tâm hồn thơ dại của con “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm
thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa cảm thấy xấu hổ, nhục nhã”. Nỗi đau ấy còn
hiện lên qua hành động “ôm chầm lấy”, “chắp tay vái lấy vái để”
- Những phút giây hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời chị là “khi nhìn đàn
con tôi chúng nó được ăn no” -> hạnh phúc của chị đều bắt nguồn từ niềm
vui của con -> sẵn sàng đánh đổi và hy sinh tất cả
➔ Đằng sau hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa kiên cường
giữa phong ba là một người phụ nữ, một người mẹ
Việt Nam đang chèo chống cho mái ấm gia đình, cho
những đứa con được ăn no, ngủ yên mà không khổ sở
vì đói khát, nghèo nàn

5.Vẻ đẹp nhân - Chị luôn biết ơn người đàn ông đã trở thành trụ cột cùng chị chèo lái con
hậu, bao dung, vị thuyền cuộc đời, vì đã lấy chị và cho chị một gia đình
tha, thấu hiểu và - Bằng tình thương, chị sẵn sàng nhận lỗi về phía mình, xem mình là căn
cảm thông cho nguyên dẫn đến sự khốn khổ của chồng:
chồng ● “Cái lỗi chính là đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền
lại chật”
● “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”
- Qua góc nhìn của người đàn bà, lão chồng từng là “anh con trai cục tính
nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” -> Chị hiểu rằng chính cuộc
sống mưu sinh đã khiến chồng trở thành người đàn ông thô bạo, tàn nhẫn
- Hai lần cầu xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt

7
Cóp nhặt và sưu tầm

con bỏ nó” -> tấm lòng bao dung vô bờ bến

6. Từng trải, - Ban đầu ở tòa án huyện, cả cử chỉ và lời nói của chị đều toát ra vẻ khép
thấu hiểu lẽ đời nép, nhưng sau khi đã nhận ra được lòng tốt của Phùng và Đẩu -> thay đổi
cách xưng hô “con” -> “chị”, “quý tòa” -> “các chú”, thay đổi giọng điệu,
ngôn ngữ “mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ
khác”
- Thể hiện giọng điệu sắc sảo, phong thái chững chạc từng trải “để lộ ra cái vẻ
sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôiʼ
- Sự cảm thông và sẻ chia, giải thích để Phùng và Đẩu hiểu được thế nào
là khó khăn của một con thuyền thiếu bóng đàn ông, chị đưa ra những lý
lẽ hợp lý và thuyết phục:
● “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn. Cho
nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó
nhọc”
● “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế
nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn
ông”
● “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần một người đàn ông
để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một
sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”
➔ Lời giãi bày giản dị mà sâu xa đã giúp chị được thấu
hiểu -> thay đổi cách nhìn nhận của Phùng và Đẩu

➔ Người đàn bà hàng chài có sự sắc sảo, hiểu biết, thấu


hiểu lẽ đời nhưng không bộc lộ, biểu hiện ở bên
ngoài mà được cất giữ, giấu kín ở bên trong
Hai phát 1.Phát hiện 1 - Đó là cảnh con thuyền đang ẩn hiện trong biển sớm mù sương: mũi thuyền
hiện của in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng có pha chút màu hồng
nghệ sĩ hồng; bóng dáng con người hài hòa cùng cảnh vật, ánh sáng đường nét đều

8
Cóp nhặt và sưu tầm

Phùng hài hòa và đẹp…. Đó là cảnh “đắt” trời cho, một kiệt tác của tạo hóa với vẻ
đẹp đơn giản mà hoàn mĩ. Nó khiến người nghệ sĩ bối rối, xúc động, thăng
hoa trong niềm hạnh phúc của sự sáng tạo

2. Phát hiện 2 - Là bức tranh sinh hoạt nhức nhối của 1 gia đình hàng chài: gã chồng điên Liên hệ nhân vật Tam trong
cuồng đánh vợ như đánh kẻ thù (lão lập tức trở lên hùng hổ, trút cơn giận truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ”
như lửa cháy, dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà; nghiến của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: vì
răng ken két, nguyền rủa đau đớn…), một cảnh tượng man rợ, phi đạo đức nỗi đau mất con mà Tam
thường xuyên uống rượu, chửi
➔ Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống; lời vu vơ, tủi thân bất ngờ, và châm
văn giản dị đã góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm lửa đốt nhà như một thói quen.
Đổ vỡ, thất vọng, cảm thấy cuộc
3. Đánh giá chung - Hai đoạn văn đã cho thấy những phát hiện độc đáo của Phùng: một cảnh đời mình vô nghĩa, anh ta chỉ
tượng hoàn mĩ và một cảnh tượng phi lí, vô đạo đức. Cả hai phát hiện đều còn tìm thấy niềm vui trong
xoay quanh con thuyền và gia đình hàng chài. Đó là 2 mặt của một vấn đề: những đám cháy rực rỡ và
hình thức và bản chất. Nhìn bên ngoài, từ xa thì đẹp, thơ mộng. Khi đến gần những đống tro tàn còn sót lại.
thì cái xấu, cái ác được phô bày. Căn nhà bị đốt cháy rừng rực
- Qua đó nhà văn muốn nhắn nhủ: đừng nên nhầm lần giữa hình thức với như ảo ảnh huy hoàng, tráng lệ,
bản chất; cuộc đời không xuôi chiều mà luôn chứa những nghịch lí, cần một tuyệt phẩm khởi sinh từ tro
phải thận trọng khám phá bằng cái nhìn đa chiều tàn rực rỡ. Tam đốt nhà như
- Qua 2 đoạn văn, người đọc nhận ra khuynh hướng sáng tác của một sự cố gắng vô vọng, cố
Nguyễn Minh Châu sau 1975: quan tâm tới thế sự, trở về với đời thường gắng kiếm tìm ý nghĩa cho một
để khám phá ra những mảng tối những góc khuất của cuộc đời…đó là cuộc đời vốn chẳng thể có ý
những đóng góp to lớn của vị khai quốc công thần cho triều đại văn học nghĩa gì. Bởi thế, trong đám
mới. cháy, “trong mắt Tam chỉ có đám
cháy rực rỡ”, “Tam say đắm, tê
mê ngắm chúng cho đến khi
những cái lưỡi đó khát thèm liếm
láp đến mẩu gỗ cuối cùng”

9
Cóp nhặt và sưu tầm

Đoạn kết 1. Giá trị của tấm - Là một bức ảnh rất nghệ thuật – một cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích “Nhà thơ như con ong biến
ảnh đối với công mà có lẽ đời nghệ sĩ khó có thể gặp lần hai. trăm hoa thành mật ngọt
chúng - Tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy, góp phần nâng cao uy tín cho Một giọt mật thành đòi
tác giả của tấm ảnh “trưởng phòng rất bằng lòng”; tấm ảnh có giá trị nghệ vạn chuyến ong bay”
thuật cao, được mọi người yêu thích, “được treo rất nhiều nơi nhất là các gia (Ong và mật - Chế Lan Viên)
đình sành nghệ thuật”. Không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không Như con ong cần mẫn, tận tụy
những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. bay khắp vạn nẻo đời tìm kiếm
➔ Sự đánh giá cao của công chúng về tấm ảnh xứng đáng với công sức mà chất mật ngọt say mê, nhà văn
Phùng đã bỏ ra sau nhiều ngày “phục kích”. Nhưng, công chúng họ chỉ là sống sâu ngụp lặn ở mảnh đất
những người yêu nghệ thuật một cách thuần túy, chỉ cảm nhận cái đẹp đời sống muôn hình vạn trạng
bên ngoài của tấm ảnh, của nghệ thuật để hứng “giọt đời” chắp bút
viết, biến nó thành giọt tinh
2. Tấm ảnh qua - Khác với công chúng, anh – tác giả của bức ảnh không nhìn nhận một cách khôi, chất tinh túy
cảm nhận của hời hợt mà luôn băn khoăn, day dứt, nghĩ suy, trăn trở về bức ảnh: “ngắm
Phùng kĩ”, “nhìn lâu hơn”.
- Mỗi lần nhìn kĩ vào tấm ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy hiện lên “cái màu
hồng hồng của ánh sương mai”: đó là chất thơ, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc
đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật.
- Nhìn lâu hơn anh thấy hình ảnh “người đàn bà hàng chài đang bước ra khỏi
tấm ảnh”. Đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, của sự thật cuộc đời
● Nỗi ám ảnh về người đàn bà hàng chài từ ngoại hình đến số phận
“cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm”
● Đằng sau vẻ lấm láp của đời thường, ở chị hiện lên vẻ đẹp tâm
hồn: giàu lòng thương con, giàu đức hi sinh, vị tha, từng trải, sâu
sắc, và thấu hiểu lẽ đời.
● Hình ảnh “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân chị dẫm lên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là biểu hiện của dòng
chảy

10
Cóp nhặt và sưu tầm

cuộc sống, số phận của nhân vật trở thành một trong những mảnh
ghép “không ai nhớ mặt đặt tên” của xã hội.
➔ Hình ảnh người đàn bà làng chài đó chính là một hình ảnh rất thực tế về
con người Việt Nam sau chiến tranh: đói nghèo, khổ cực, lam lũ
➔ Nhận thức của Phùng rất sâu sắc, rõ rệt về thực trạng cuộc sống con
người, đồng thời thể hiện những trăn trở về một giải pháp để thay
đổi cuộc sống ấy

Vế phân 1.Nhận xét quan - Nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con
hóa niệm về nghệ thuật người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp
của nhà văn Nguyễn phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực.
Minh Châu Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận; phải dũng cảm nhìn
thẳng vào hiện thực.
- Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm
thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp
đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn
đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình
lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.

2.Nhận xét về cách - Qua sự thể hiện của nhà văn, chiếc thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong
nhìn nhận cuộc sống sương mù bồng bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên trong nó lại
và con người của nhà bộc lộ những cái thật xấu xí của cảnh bạo lực gia đình. Và trong cuộc sống
văn bất hạnh, trong vẻ xấu xí thô kệch của người đàn bà khốn khổ kia vẫn ánh
lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho dù đó là những nét đẹp
của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng có và không nên có của
người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Cuộc sống đa diện, nhiều chiều, con
người có những nỗi niềm sâu kín bên trong, có những vẻ đẹp khuất lấp bên

11
Cóp nhặt và sưu tầm

trong, làm sao có thể hiểu một cách đơn giản, dễ dãi được?

- Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi
để hướng đến cách nhìn nhận con người và cuộc sống ở góc nhìn đa chiều,
hướng sự quan tâm đến số phận cá nhân con người – nhất là con người lao
động vất vả, lam lũ sau chiến tranh.

- Sau chiến tranh, cuộc sống con người vẫn còn nhiều những khó khăn, gian
khổ: Cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi vậy, nhà văn
đã đặt ra vấn đề cần thiết là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt
đẹp hơn.

- Chính từ cái nhìn đầy chất nhân văn ấy, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm bức
thông điệp đến người nghệ sĩ: Người nghệ sĩ - theo nhà văn - phải đào sâu,
phải nhìn cuộc đời bằng đôi mắt toàn diện, phải thấy được những góc khuất
của cuộc đời. Nghệ thuật chân chính không thể chỉ dừng lại ở sự phản ánh
vẻ đẹp bề ngoài của cuộc sống, nhìn cuộc sống từ cái nhìn ngoài xa, hời hợt.

3.Nhận xét về quan - Đoạn trích [..] là phát hiện của nghệ sĩ Phùng về bức tranh cuộc sống gai
niệm của nhà văn góc, sần sùi, đối lập hẳn với bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ được miêu tả
về mối quan hệ giữa ở đoạn văn trước đó. Sự phát hiện những nghịch lí ấy giúp Phùng nhận
nghệ thuật và cuộc thức rõ hơn mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc đời. Giữa
sống nghệ thuật và cuộc đời có mối quan hệ song hành: Nghệ thuật bắt nguồn
từ cuộc đời, và cuộc đời là hiện thực phong phú khơi nguồn cho cảm hứng
nghệ thuật. "Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con
người".

- Từ nhận thức ấy, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm bức thông điệp đến
người nghệ sĩ: Người nghệ sĩ - theo nhà văn - phải đào sâu, phải nhìn cuộc
đời

12
Cóp nhặt và sưu tầm

bằng đôi mắt toàn diện, phải thấy được những góc khuất của cuộc đời.
Chiếc thuyền trong sương sớm đẹp vì nó là viễn ảnh, được nhìn từ xa. Nó
có thể thanh lọc tâm hồn người nghệ sĩ, khơi dậy những xúc cảm đẹp đẽ.
Nhưng khi đến gần, cũng chính từ chiếc thuyền ấy lại là cảnh bạo lực gia
đình phi đạo đức, phi thẩm mỹ. Nghệ thuật đích thực, người nghệ sĩ chân
chính không thể chỉ dừng lại ở sự phản ánh vẻ đẹp bề ngoài của cuộc sống,
nhìn cuộc sống từ cái nhìn ngoài xa, hời hợt. Giá trị nhân văn trong tác
phẩm này đã thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật tiến bộ đó của
nhà văn Nguyễn Minh Châu

4. Nhận xét về tình - Quan tâm, thấu hiểu, sẻ chia sâu sắc với nỗi bất hạnh, đi tìm vẻ đẹp khuất
cảm nhân đạo mà lấp trong tâm hồn người phụ nữ
nhà văn dành cho
nhân vật của mình - Phê phán, lên án hành động vũ phu của một người chồng bạo hành gia đình

- Khát khao hạnh phúc bình dị đến với người dân lao động trong xã hội

5. Nhận xét nghệ - Điểm nhìn trần thuật sắc sảo -> lời kể chuyện khách quan, chân thực, giàu
thuật khắc họa sức thuyết phục
nhân vật (Phùng)
- Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo -> phù hợp với việc thể hiện tính cách nhân vật

- Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua cách tạo tình huống nhận
thức, mang tính khám phá, phát hiện -> thay đổi trong nhận thức, suy
ngẫm -> cách nhìn đời, hiểu sâu thêm về tính cách người đàn bà, Phác,
Đẩu, chính mình

6. Triết lý nhân sinh - Bước ra khỏi chiến tranh, cuộc sống con người chưa hẳn đã bình an. Cuộc
chiến với đói nghèo, thất học cũng cực kì cam go, khó khăn không kém cuộc

13
Cóp nhặt và sưu tầm

chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Đây là một bài toán cần phải giải
quyết.

- Cái nhìn một chiều bao giờ cũng dễ gây ra phán xét phiến diện. Bởi vậy,
muốn hiểu một vấn đề, một con người, chúng ta phải xem xét kĩ lưỡng
vấn đề, con người ấy.

7.Tình huống nhận - Giới thiệu khái quát tình huống


thức ● Khái niệm tình huống: là những thời khắc đặc biệt trong đời sống mà
ở đó các nhân vật thể hiện rõ bản chất trong các mối quan hệ giữa
các nhân vật với hoàn cảnh.
● Tình huống đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tác
phẩm.
- Phân tích tình huống nhận thức
● Tình huống làm thay đổi nhận thức con người nghệ sĩ Phùng đang ở
trong giây phút thăng hoa của cảm xúc vì phát hiện ra “cảnh đắt trời
cho”.
● Cảnh một chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương và
một cảnh tượng phi thẩm mĩ (một người đàn bà xấu xí mệt mỏi; một
gã đàn ông to lớn, độc dữ) phi nhân tính (gã chồng đánh đập người
vợ một cách thô bạo; đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha). Trước
cảnh tượng ấy người nghệ sĩ trào lên một cảm xúc ngỡ ngàng từ đó
anh đã có một cách nhìn đời khác hẳn → Đây là tình huống độc đáo,
mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tình huống bất ngờ,
chứa đựng những nghịch lí của đời sống (cộng với câu chuyện của
người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện) đã khiến cho Phùng thay
đổi nhận thức về cuộc sống:
○ Thấy rõ những ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu
sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu

14
Cóp nhặt và sưu tầm

thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm
chính mình.
○ Thấy rõ nghệ thuật phải gắn chặt với đời sống. Chiếc thuyền
nghệ thuật mang vẻ đẹp huyền ảo thì ngoài xa, nhưng sự thật
cuộc đời và vì cuộc đời. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc
đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc
đời. Tình huống nhận thức trong “Chiếc thuyền ngoài xa” vì
thế như một gợi ý về yêu cầu đối với nghệ sĩ: phải biết rút
ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với đời sống. Người nghệ
sĩ nếu đã có tình yêu sâu nặng với con người, phải biết trung
thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực cho dù hiện thực ấy
có khắc nghiệt đến đâu chăng nữa.
➔ Qua tình huống nhận thức trong truyện, tác giả gửi gắm thông điệp:
không được đơn giản, dễ dãi trong cách nhìn cuộc sống, con người mà
phải có một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự
sau

Vợ Nhặ t - Kim Lâ n

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Bối cảnh - Nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi dân ta rên xiết dưới ách Pháp, Nhật. Văn chương là một sản phẩm tinh
nạn đói thần tinh tế thể hiện tài năng và
năm Ất - Cái đói tràn về xóm ngụ cư tồi tàn gây nên hậu quả thê thảm: người chết tâm huyết của người nghệ sĩ. Tuy
Dậu thây nằm còng queo bên đường, người sống chỉ còn là những cái bóng dật nhiên, việc tác giả được thừa
dờ lặng lẽ như những bóng ma. Đó là quang cảnh chung. Miêu tả cụ thể, nhận là một nghệ sĩ thực sự chưa
truyện cho thấy một người đàn bà đói đến gần chết (gầy xọp đi, khuôn mặt bao giờ là điều dễ dàng. Bàn về

15
Cóp nhặt và sưu tầm

xám xịt) và một gia đình phải ăn thứ cám đắng chát, nghẹn bứ. vấn đề này, nhà văn Pháp La
Bơ-ruy-e nhận định: “Khi một tác
- Không khí tối tăm, ảm đạm, thê lương trùm lên làng xóm: phẩm nâng cao tinh thần ta lên
● Mở đầu câu chuyện là thời gian, không gian mỗi lúc một tối hơn và gợi cho ta những tình cảm
(Bắt đầu là “mỗi chiều, chạng vạng mặt người”, rồi “bóng chiều nhá cao quý và can đảm, không cần
nhem", rồi “cảnh sầm lại” và cuối cùng là “tối om”). tìm một nguyên tắc nào để đánh
● Cảnh nên vợ nên chồng cũng thảm thương, tội nghiệp: giá nó nữa: Đó là một cuốn sách
★ Bốn bát bánh đúc - thứ bánh bình dân, rẻ tiền — coi như là hay và do một nghệ sĩ viết ra”
lễ ăn hỏi (Nhớ lại: bát cháo hành “lễ cưới'' để thị Nở - Chí
Phèo thành vợ chồng). “Đó là thần viết, thần mượn
★ “Lễ đưa dâu” âm thầm trong cảnh chiều heo hút không một tay người để viết nên những
ánh đèn, lửa; chỉ có tiếng quạ gào thê thiết. trang sách bất hủ”
★ Cho đến buổi tối hạnh phúc đầu tiên ở nhà - coi như đêm tân
hôn của Tràng và người vợ nhặt - cũng diễn ra trong tiếng hờ “Nạn đói vô cùng khủng khiếp.
khóc người chết ngoài xóm và mùi khét lẹt đầy tử khí. Nó kéo dài cái chết khiến nạn
● Bản thân việc nhặt được vợ trong cảnh đói - chết như thế đã là nghịch nhân bị các cơn đói giày vò, đau
lý khác thường; rồi hạnh phúc của họ cũng buồn bã khác thường. khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người
Những chuyện “phi nhân loại” như thế gián tiếp tố cáo bọn thống trị thân chết mà không cứu được,
dồn đẩy nhân dân ta vào cảnh thảm sầu (Ý tố cáo này rõ hơn qua biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà
tiếng trống thúc thuế dồn dập và lời bà mẹ Tràng: “Đằng thì nó bắt không thoát được. Muốn tìm cái
giồng đay. Đằng thì nó bắt đóng thuế”). sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê
hương, mồ mả tổ tiên ra đi,
mong sao được cứu sống, nhưng
rồi lại chết gục ở đầu đường xó
chợ” (GS. Văn Tạo và GS. Furuta
Moto)
Nhân vật 1.Tràng là người đàn - Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái Văn học là “hàng triệu câu
Tràng ông thô kệch lưng to rộng như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, chuyện được viết ra dưới vòm trời
hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của này” (Nguyễn Ngọc Tư), là hàng
hắn

16
Cóp nhặt và sưu tầm

lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… triệu cảm xúc được gìn giữ và
nuôi dưỡng trong trái tim của
- Tính khí lại thất thường: Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con mỗi người thưởng thức. Và lạ
đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên thay, trong gió sương của
trong bến. Hắn có cái tật vừa đi vừa tủm tỉm cười. Nhiều lúc, hắn cứ phải cuộc đời, người đọc lại dừng
ngửa mặt lên cười hềnh hệnh. bên những trang viết “Vợ
nhặt” để cảm nhận trọn vẹn…
2.Tràng là người dân - Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
lao động nghèo, - Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang “Cái khổ làm héo một phần
“nhặt” được vợ trong mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. lớn những tính tình tươi đẹp
thời buổi đói khát - Hoàn cảnh xuất thân: khó lấy được vợ. của người ta” (Nam Cao)
- Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên
“nhặt” được vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn “Một người đau chân có lúc nào
ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi quên được cái chân đau của
“nên vợ, nên chồng”: mình để nghĩ đến một cái gì khác
● Lần gặp thứ nhất: đâu? Khi người ta khổ quá thì
★ Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt người ta chẳng còn nghĩ đến ai
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc được nữa”
mắt cười tít nữa.
★ Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một
người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
● Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ:
★ Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
★ Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng
sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc.
★ Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng
trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị
bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt

17
Cóp nhặt và sưu tầm

bụng và cởi mở.


★ Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng
hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng
thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng
cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”

3.Niềm hạnh phúc - Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: tâm trạng của anh hôm nay phớn
của Tràng khi có phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn
vợ đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì
xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt
cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người Tràng đã có vợ.
- Tràng khi đưa vợ về đến nhà:
● Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có
người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông
ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên.
● Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình
“Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để
còn ra mắt cô vợ nhặt.
● Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ
câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải
kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
➔ Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng
của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ
cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh
phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói
đang tung lưới bủa vây.

4.Tâm trạng của - Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. “Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Tràng trong - Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: Trong vườn thơm ngát của hồn
buổi

18
Cóp nhặt và sưu tầm

sáng ngày hôm sau ● nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ tôi”
● mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra (Xuân Diệu)
sân hong
● hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước Trong thiên truyện “Chí Phèo”
đầy ăm ắp của Nam Cao, ta cũng từng bắt
➔ Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng gặp những ước mơ giản đơn và
đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị. bình dị đến nao lòng trong một
- Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, “con quỷ dữ”. Chí mơ về một gia
đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập đình, một mái nhà ấm êm, hắn
trong lòng. bỗng dưng cảm thấy sợ cô độc
- Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn
bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
- Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một
gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây
giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng
cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem
sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung
lưới bủa vây.
- Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì
cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn
người đói đi trên đê Sộp
● gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ
đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng
xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc
lập tự do cho dân tộc.
● Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một
niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm
hồn

19
Cóp nhặt và sưu tầm

Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.


➔ Tràng là một người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở
(giữa lúc đói anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ), luôn khát
khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc.

Nhân vật 1.Thị là nạn nhân - Cái tên cũng không có, ngoại hình tiều tụy, xác xơ vì đói “hôm nay thị
người vợ của nạn đói rách quá…con mắt”.
nhặt - Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện
là một không gian tối sầm vì đói khát.
- Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái
nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không
gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của
chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm
trên dáng hình và tính cách của chị:
● Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm
trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác
đấy”
● Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra,
gầy… Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà
xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong
cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: “Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền
thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là
khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
- Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những
người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức
hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con
người.
● Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như
là để thách thức với số phận.

20
Cóp nhặt và sưu tầm

● Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng


theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì
về anh ta.
● Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc
cả đời mình.
➔ Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của
thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự
sống mãnh liệt.

2.Miêu tả nhân vật - Thị bước sau Tràng chừng 3 – 4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng “Lấy nhau vì nghĩa vì tình
thị, Kim Lân không che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã Đói no không ngả, rách
chú trọng nhiều đến ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận lành không nghiêng”
diễn biến tâm trạng - Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở
bên trong mà Kim dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. “Trong cái điêu tàn và rữa nát,
Lân chú ý nhiều đến - Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật trong sự bủa vây của cái chết,
hành động. Sâu đáng thương. sự sống vẫn không ngừng trỗi
thẳm trong thị vẫn - Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm dậy, vươn lên. Từ thoi thóp, leo
khao khát một mái khát khao mái ấm gia đình thực sự. lét, có lúc mãnh liệt như có phép
ấm gia đình và ● Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người màu” (Trần Thị Thanh Nga)
niềm tin ở tương lai vợ trong gia đình.
● Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn,
đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực,
mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

4.Hình tượng chị vợ - Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân
nhặt thể hiện rất rõ Pháp. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và
tư tưởng nhân đạo biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
của Kim Lân - Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn
nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn
sống

21
Cóp nhặt và sưu tầm

ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo
khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua
những thử thách khắc nghiệt.
➔ Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói. Những xô đẩy dữ dội
của hoàn cảnh đã khiến “thị” chao chát, thô tục và chấp
nhận làm “vợ nhặt”. Sâu thẳm trong con người này vẫn
khao khát một mái ấm. “Thị” là một người hoàn toàn khác
khi trở thành người vợ trong gia đình.

Nhân vật Nhà văn Kim Lân tâm sự: “Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện
bà cụ Tứ ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản
chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được
Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi
nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

1. Diễn biến tâm - Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu,
trạng của bà cụ nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường
Tứ ● Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng
sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con
trai bà, mà lại chào bà bằng u.
● Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà
nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải.
● Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức
điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin
rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận
dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
- Bà lão cúi đầu nín lặng
● đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là
cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến.

22
Cóp nhặt và sưu tầm

● Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn
với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai
mình.
- Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình
● “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi,
còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng
thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu.
● Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới
ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết
bao thương xót, tủi buồn.
- Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn
hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của
người cùng giới, cùng là phụ nữ.
● Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các
con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà
như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng,
lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt.
★ Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không
còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên
phận.
★ Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm
lòng những số phận tội nghiệp.
★ Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm
của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua
khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
● Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật
bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh
phúc thực tại của hai con.

23
Cóp nhặt và sưu tầm

★ Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp


nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là,
cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà.
★ Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời
mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu,
thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống
ròng ròng.
- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi
các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước
● Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm
xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn
nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
● Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một
lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn
nước và món chính là chè khoán
- Ăn cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ
con – những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để
vượt qua thực tại
● Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau.
● Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ
có đàn gà cho mà xem.
● Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền
Trung mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân
xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và
hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả
trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “Chớ than phận khó ai ơi. Còn da
lông mọc, còn chồi nảy cây”.
- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng

24
Cóp nhặt và sưu tầm

chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với
thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt
giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được
qua được đâu các con ạ”. Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua
những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
- Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ
– người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói
nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong
lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống
trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
➔ Bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con,
một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu
lòng vị tha, một con người lạc quan, có niềm tin vào tương
lai, hạnh phúc tươi sáng. Bà đã thắp sáng niềm tin vào
tương lai cho con và dâu của mình.

Vế phân 1.Nhận xét về giá trị - Xây dựng tình huống nhặt vợ của nhân vật Tràng, tác phẩm "Vợ Nhặt"
hóa hiện thực trong tác (hoặc đoạn văn) đã phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước
phẩm "Vợ Nhặt" cách mạng tháng Tám - nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến bao người
phải chịu cảnh sổ sở. Người chết như "ngả rạ", "ba, bốn cái thây nằm còng
queo bên đường", người sống mặt hốc hác u tối "đi lại dật dờ như những
bóng ma", "xanh xám như những bóng ma". Không gian thê lương, não nuột
với những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Hiện thực thê
thảm ấy còn hiện lên qua mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi,
mùi khét của những đống rấm. Không gian xóm ngụ cư không khác biệt
nhiều với nghĩa địa.

- Đặc biệt, không gian năm đói đã tạo thành khung cảnh nền để Kim Lân kể
lại câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của Tràng. Câu chuyện bi hài
được

25
Cóp nhặt và sưu tầm

miêu tả trong truyện (đoạn văn trên) góp phần hoàn chỉnh bức tranh
chân thực về tình cảnh thảm khốc của người nông dân: Vì đói quá mà chị
vợ nhặt đã phải đánh đổi cả lòng tự trọng để được ăn, để theo không người
đàn ông xa lạ; vì nghèo mà bà cụ Tứ phải dằn vặt bởi không lo nổi dăm ba
mâm cho đám cưới của con; vì khổ mà bữa cơm mừng dâu mới chỉ toàn
cháo loãng, ăn với muối và món chè khoán đắng chát thực ra chỉ là cháo
cám...
2.Nhận xét về giá trị - Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số
nhân đạo phận cùng khổ của người nông dân nghèo Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám mà còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của
tình người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã diễn tả thành công sự
đổi thay trong tâm trạng của nhân vật Tràng: Từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh
phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm trở thành người đàn ông trưởng thành,
có trách nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức
mạnh của khát vọng hạnh phúc.. có thể biến những điều không thể thành
có thể, biến đau khổ thành ngọt ngào. Xây dựng hình tượng nhân vật Tràng,
nhà văn đã thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc
của con người để từ đó khẳng định: Dù trong tình huống bi thảm tới đâu,
dù kề bên cái chết, con người vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh
sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho
ra người. Đây cũng chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

3.Nhận xét về sự - Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn,
chuyển biến của táo bạo và liều lĩnh, chủ động làm quen và "liếc mắt cười tít" với Tràng
nhân vật người vợ ngay trong lần gặp đầu tiên. Thậm chí lần gặp thứ hai, thị còn "sầm sập
nhặt (trước và sau chạy tới", "sưng sỉa nói" và lại còn "đứng cong cớn" trước mặt Tràng, chủ
khi làm vợ Tràng) động đòi ăn, trơ trẽn biền đùa làm thật để theo không Tràng.

- Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của

26
Cóp nhặt và sưu tầm

mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Thị bẽn lẽn đi
cạnh Tràng, lễ phép chào hỏi mẹ chồng, thị còn dậy sớm, quét tước, dọn
dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết
lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền,
một cô dâu thảo. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị tỏ ra là một phụ nữ
am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang
người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính thị đã làm cho niềm hy vọng của
mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

- Miêu tả sự thay đổi của nhân vật Thị, Kim Lân đã thể hiện được sự trân
trọng và niềm tin vào những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người, đó là
những vẻ đẹp mà nạn đói không thể nào hủy diệt được. Chính điều đó đã
tạo nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngòi bút Kim Lân.

4.Nhận xét về vẻ đẹp - Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung không chỉ giàu giá trị hiện thực
của khát vọng, vẻ mà còn giàu giá trị nhân đạo. Xây dựng tình huống nhặt vợ của Tràng, đoạn
đẹp của tình người văn nói lên tình cảnh thê thảm của người nông dân trong cảnh đói, gián tiếp
tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy con người đến tình cảnh
phải bán rẻ cả nhân phẩm để được sống. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện
sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cũng
như vẻ đẹp của tình người trong nạn đói. Dưới sự thể hiện của ngòi bút giàu
lòng nhân ái Kim Lân, ta thấy sự túng đói quay quắt, hoàn cảnh khốn khổ
không làm con người từ bỏ lòng yêu thương, nhân hậu, không ngăn cản
được con người hy vọng vào cuộc sống, hy vọng vào hạnh phúc ngày mai.
Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình
người đẹp đẽ, để hướng đến sự sống, hạnh phúc và ngày mai tươi sáng hơn.

- Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn nhân vật, Kim Lân đã đem
đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

27
Cóp nhặt và sưu tầm

5. Nhận xét về vẻ - Chiều sâu tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ đã nói lên những phẩm chất tốt đẹp
đẹp của nhân vật bà của người mẹ này. Đó là tình mẫu tử cao cả, thiêng liêng, đặc biệt là lòng
cụ Tứ thương người như thể thương thân, lòng nhân hậu, vị tha và nghị lực sống
phi thường.

- Trước hết, đó là vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, bao dung. Lòng bà luôn
chan chứa tình yêu thương dành cho các con, bà có những ứng xử chân
thành, đầy tình nghĩa đối với cả con trai và con dâu. Người mẹ nghèo khổ
ấy đã không vì cái đói, cái cực của kiếp người tha hương cầu thực mà chai
sạn tâm hồn, dửng dưng, vô cảm với tình cảnh khốn cùng của người khác.
Bà đã vượt qua những nghi lễ thông thường, đồng ý cho người đàn bà xa lạ
làm con dâu mình và còn thấy thương xót, thấu hiểu cho hoàn cảnh của
người đàn bà ấy.

- Chẳng những thế, người mẹ ấy dù trong mọi hoàn cảnh dù khắc nghiệt
nhất, đáng buồn tủi nhất vẫn cố gắng xua tan những buồn lo để vui sống,
khơi lên ngọn lửa niềm tin và hi vọng cho con cái, trở thành chỗ dựa tinh
thần vững chãi cho các con. Đây chính là điều khiến ta bất ngờ nhất khi đọc
truyện. Bởi trong ba nhân vật, người hi vong vào tương lai nhiều hơn cả là
bà cụ Tứ. Điều ấy tưởng như trái với quy luật tâm lí người đời từng tổng
kết: Tuổi trẻ hay hướng đến tương lai còn người già hay nhìn về quá khứ.
Vậy mà người mẹ già lọng khọng gần đất xa trời này lại là người sống cho
con và cũng hi vọng cho con.

6. Nhận xét về nét - Vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ đã thể hiện chiều sâu giá trị nhân văn của tác
đặc sắc trong phẩm: Cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói
ngòi bút miêu tả riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng đến tương lai, vẫn
tâm lí nhân vật khát khao một mái ấm gia đình, vẫn gắn bó bao bọc lẫn nhau bằng tình
thương,

28
Cóp nhặt và sưu tầm

lòng nhân ái.

- Miêu tả diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong tình huống anh con trai
nhặt được vợ, Kim Lân đã khẳng định biệt tài phân tích tâm lí nhân vật một
cách chân thật và sâu sắc, cảm động. Ngòi bút của nhà văn đã len lỏi, lách
sâu vào những nét tâm lí vô cùng đơn giản, tinh tế của người mẹ nông dân
nghèo từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau khi Tràng có vợ.

- Nhà văn không miêu tả sự phát triển tâm lí của nhân vật theo đường thẳng,
mà là những trạng thái phức tạp, gấp khúc. Ông cũng không chỉ khắc họa
tâm trạng ấy thông qua hành động, lời lẽ, cử chỉ bền ngoài mà còn nhập
thân vào nhân vật. Nhờ vậy, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên chân thực hơn, phù
hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng
trải và giàu tình yêu thương.

7.Nhận xét về nét - Ai đó đã nói rằng, tình huống truyện là linh hồn của tác phẩm. Đối với nghệ
độc đáo trong nghệ thuật truyện, xây dựng được một tình huống truyện độc đáo là một trong
thuật xây dựng những yếu tố then chốt tạo nên sức sống của tác phẩm ấy. Đoạn trích trên
tình huống truyện [..] dựng lên một tình huống vừa lạ, vừa éo le đã thể hiện những nét độc đáo
trong ngòi bút nghệ thuật Kim Lân.

- Trước hết, cái tài của Kim Lân là dựng được một tình huống lạ. Hiếm có
một tình huống nào lại "lạ" như tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng. Bởi
chuyện dựng vợ, gả chồng xưa nay vốn là chuyện hệ trong cuộc đời con
người, vậy mà Tràng lại lấy được vợ theo kiểu nhặt. Lạ bởi Tràng lại không
phải là người hào hoa, giàu có gì mà chỉ là anh phu xe nghèo, xấu, hơi ngốc
vậy mà Tràng lại có người theo không.

- Chính vì thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả

29
Cóp nhặt và sưu tầm

mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm
chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.

- Không chỉ dựng được tình huống lạ, Kim Lân còn tạo cho tình huống ấy
những khía cạnh éo le, bất ngờ. Éo le bởi giữa lúc đói khát, nuôi thân còn
chẳng xong vậy mà Tràng lại dám "đèo bòng", "rước cái của nợ đời ấy về". Có
vợ, nhưng chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự
sống. Chính vì tình huống éo le này mà mọi người không biết nên buồn hay
nên vui, hạnh phúc hay đau khổ..

- Dựng lên tình huống nhặt vợ độc đáo của nhân vật, Kim Lân đã nói lên
được rất nhiều những vấn đề tư tưởng sâu sắc của tác phẩm, cũng như miêu
tả rõ nét hơn chiều sâu tâm lí và vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.

8.Nhận xét về cách - Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ là minh chứng tiêu biểu thể hiện cách nhìn của
nhìn của nhà văn về nhà văn về cuộc đời người lao động theo chiều hướng tích cực: Đi từ bóng tối
người lao động vươn ra ánh sáng (khác với các tác phẩm hiện thực phê phán trước Cách mạng
tháng Tám). Điều đó thể hiện cái nhìn đầy nhân hậu, giàu tình yêu thương và lạc
quan của nhà văn đối với người lao động. Hiện thực của cuộc Cách mạng tháng
Tám - 1945 đã giúp nhà văn nhận ra khả năng cách mạng, khả năng đổi đời của
người nông dân, nên cách nhìn của nhà văn về người lao động cũng thay đổi.
Không còn những cái chết đau thương như lão Hạc, Chí phèo, bà cái Gái, không
còn đêm đen như mực như cái tiền đồ của chị Dậu.. những trang cuối cùng của
"Vợ nhặt" đã nhen nhóm lên ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Nhà văn tin vào sự
đổi đời của người nông dân, như tin vào câu nói dân gian trong lời cụ Tứ: "Ai giàu
ba họ, ai khó ba đời.."

30
Cóp nhặt và sưu tầm

Vợ chồ ng A Phủ - Tô Hoà i

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Nhân vật 1. Mị là một cô gái - Mị là cô gái H'Mông trẻ đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách “Nghệ thuật chỉ đạt đến
Mị trẻ xinh đẹp, yêu đầu buồng Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay đỉnh cao khi nó được chắt
(phẩm đời, có nhiều phẩm như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” lọc từ những nỗi đau đích
chất, chất tốt đẹp - Mị là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, thực của cuộc đời” (Lê Huy
tính con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” Bắc)
cách, - Cô yêu thích lao động, không ham giàu sang
hoàn ➔ Bản chất tốt đẹp, hứa hẹn một cuộc đời hạnh phúc. Vẻ đẹp chăm chỉ, cần cù, ham
cảnh) lao động của Mị - Liên hệ với
- Nhà nghèo: Vì món nợ truyền kiếp bố mẹ vay gia đình nhà thống lí Pá Việt Bắc - Tố Hữu: “Nhớ cô em
2. Số phận bi thương Tra nên Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ -> Mị là con nợ đồng thời cũng là gái hái măng một mình”, hay
của nhân vật Mị con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời trong “Chiều tối”, Hồ Chí Minh
- Danh nghĩa là con dâu thực chất là con ở từng trân trọng hình ảnh: “Cô
● Bị vắt kiệt sức lao động: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa em xóm núi xay ngô tối”
năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thi đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái
củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước Con người là trung tâm của mọi
thành sợi”, “Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn đứng gãi tác phẩm văn học, cho nên số
chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả phận con người, nhất là
đêm cả ngày”-> Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực những người phụ nữ đã trở
nhục mà Mị phải chịu đựng. thành nguồn cảm hứng vô tận
● Bị giam hãm về tinh thần (hủ tục): Bị giam cầm trong căn phòng cho các nghệ sĩ từ xưa đến
“kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông nay. Như đại thi hào Nga
ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”-> Sống Macxim Gorki từng có những
với trạng thái gần như đã chết. câu thơ tuyệt hay:
● Bị A Sử đối xử tàn nhẫn
“Trời không ánh sáng hoa nào

31
Cóp nhặt và sưu tầm

➔ Mị là nạn nhân của cường quyền, thần quyền-> số nở


phận cay đắng tủi nhục của người phụ nữ nông dân Dạ vắng yêu thương dạ những
miền núi dưới ách của thực dân phong kiến. Sống tăm sầu
tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông Đời không mẹ hiền, không
xuôi theo số phận. phụ nữ
Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu...”
3. Hình ảnh Mị trong - Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác: “Ai
đoạn văn mở ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi Số phận người phụ nữ cũng trở
đầu truyện quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt
- Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, những tác phẩm văn
nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười học Việt Nam qua các thời kỳ.
rượi”, không nói, không cười. Những bài ca dao than thân
➔ Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia trách phận là lời than thở vì
đình mà Mị đang ở. Hình ảnh ấy chỉ rằng Mị đã trải cuộc đời, cảnh ngộ khổ cực,
qua những tháng ngày cực khổ và cơ nhục biết chừng đắng cay, sự tự ý thức, sự
nào ở nhà thống lí; đồng thời báo hiệu một tương lai nhận thức rõ ràng của họ về sự
không bằng phẳng. Hình ảnh ấy là tấm gương phản nhỏ nhoi, thấp kém của mình
chiếu một số phận nhiều uẩn khúc và một bi kịch của trong xã hội lúc bấy giờ:
cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc. “Thân em như hạt mưa sa /
Hạt
4. Giá trị hiện thực - Miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân dưới ách thống trị vào đài các, hạt ra ruộng cày”.
trong đoạn trích: của bọn chúa đất miền núi và bọn thực dân Đó là thân phận một nàng Kiều
“Lần lần, mấy năm tài hoa nhưng bạc mệnh,
qua, mấy năm sau… ● Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực trong đoạn trích là thông qua người chinh phụ sống tủi hờn cô
Mị nghĩ rằng mình nhân vật Mị, Tô Hoài đã miêu tả chân thực số phận cùng khổ của đơn, cung nữ sắc nước hương
cứ chỉ ngồi trong cái người dân dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi và bọn thực trời nhưng bị vua ghẻ
lỗ vuông ấy mà dân phong kiến lạnh phải sống trong sự lạnh
trông ra, đến bao ★ Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo lùng... họ đều có điểm chung là
giờ chết thì thôi.” xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ bất hạnh, khổ đau và thậm
chí là bất lực, bế tắc, phó mặc

32
Cóp nhặt và sưu tầm

không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm cho số phận. Thế nhưng đến với
dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu nhưng các tác phẩm văn học
thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu hiện đại, đặc biệt là “Vợ chồng
và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về A Phủ”, ta sẽ thấy nhà văn đã
tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có thổi vào số phận ấy một
đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về luồng sinh khí mới.
nhà định ăn lá ngón tự tử.
➔ Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị
trước thần quyền và cường quyền, không
chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì
cha mà cô không đành lòng chết
★ Đến đoạn văn này thì ý thức phản kháng của Mị đã mất đi
“Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị
cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Sự
đày đọa về thể xác, áp chế về tinh thần đã khiến Mị tê liệt hoàn
toàn. Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, khổ
nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng
không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây
giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ
biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi” và“Con ngựa, con trâu làm
còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn
bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Cách
so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình
cũng là con ngựa) và so sánh không ngang bằng (Con ngựa,
con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng
nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả
ngày) nhằm tập trung phản ánh nỗi khổ, bị đọa đày về thể xác
của Mị. Cách so sánh ấy đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở
đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri,

33
Cóp nhặt và sưu tầm

giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một công cụ lao
động của nhà thống lí, không có chút quyền con người cơ bản
nào.
★ Sự đọa đày về thể xác ấy đã dẫn đến sự tê liệt về tinh thần.
Quen với cái khổ nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, trong
đầu chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc, mỗi năm,
mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái
thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ
bắp… Cách khắc họa nhân vật của Tô Hoài gây ấn tượng về
một con người bị tê liệt về xúc cảm, hành động như một cỗ
máy đã được lập trình sẵn, chỉ như đang tồn tại một cách
vô thức mà không hề sống với bất kì một trạng thái cảm
xúc sống động nào.
● Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu
lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục
chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần
phản kháng
★ “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa” -> mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ -> con
người tuyệt vọng
★ Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết
ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ
trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.
★ Chi tiết căn buồng Mị nằm: Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ
nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó
những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ
nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ mọi
buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian
theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi còn trẻ đó là căn buồng
kín đáo của

34
Cóp nhặt và sưu tầm

một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là
căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là căn buồng
đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười
ngày, khi nuôi con bế bồng với bao tin yêu, hi vọng… Tưởng
như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp nhưng
với Mị thì không. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ
vuông cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra
bên ngoài lúc nào cũng thấy “mờ mờ, trắng trắng không biết
là sương hay là nắng”. Người đọc có thể liên tưởng ngay đến
hình ảnh một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự
sống. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức sống
trong người con gái đầy xuân xanh

- Giá trị hiện thực của đoạn trích còn thể hiện ở tiếng nói tố cáo tội ác của
bọn thực dân phong kiến miền núi Tây Bắc
● Bọn thực dân phong kiến miền núi mà đại diện là gia đình thống lí
Pá tra đã lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột
sức lao động của người dân miền núi
★ Chúng dùng những hủ tục lạc hậu, thủ đoạn độc ác đày đọa
con người như cho người dân vay nặng lãi, dùng cách cúng
trình ma để hù dọa người dân để mỗi năm lãi càng thêm
nhiều.
★ Chúng biến trần gian thành địa ngục, chà đạp lên hạnh phúc,
tình yêu của con người. Mị chính là nạn nhân dưới sự áp chế
của chúng.
★ Không những đày đọa thể xác của Mị, chúng còn làm tê liệt ý
thức phản kháng, sống trong sự cam chịu, chấp nhận kiếp đời
làm dâu gạt nợ, nô lệ đầy tủi nhục.

35
Cóp nhặt và sưu tầm

Đêm 1.Giải thích “Sức “Sức sống tiềm tàngʼʼ là sức sống ẩn sâu kín trong tâm hồn con người, và chỉ
tình mùa sống tiềm tàng” bộc phát trong một điều kiện cụ thể nào đó. Ở nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng
xuân trong tâm hồn cô chính là lòng yêu đời, yêu cuộc sống, sự phản kháng, sự khát
khao vươn lên những điều tốt đẹp hơn nhằm thoát khỏi số phận đen tối của đời
mình
2.Tác động của - Cảnh sinh hoạt thể hiện phong tục ăn Tết của người Mèo “Về Tây Bắc khi mùa xuân
ngoại cảnh: Cảnh vừa tới
sinh hoạt của nhân ● Đoạn trích giúp chúng ta ít nhiều có thể hình dung về phong tục đón Ngắm hoa Ban nở trắng cả lưng
dân Tây Bắc Tết của người Mèo (HʼMông) đồi
★ Người Mèo không ăn Tết theo lịch mà đón Tết khi vụ mùa gặt Lửa bập bùng giữa rừng đêm mở
hái đã xong nên Tết là sự cộng hưởng của vẻ đẹp đất trời và hội
niềm vui thu hoạch mùa màng “Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ Điệu múa Xòe ai uốn lượn,
cứ ăn Tết thì gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào”. lả lơi…”
★ Họ ăn Tết khi “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt (Tây Bắc Hành - Trần Đức Phổ)
xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”.
➔ Phong tục ấy thể hiện rõ nhịp sống của con người
“hoà thuận” một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp “Hoa mơ nở khắp núi rừng
điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Đắm say sơn nữ ngập ngừng
● Vào dịp Tết người ta thường tập trung ở một không gian thoáng, bước chân
rộng, thường là mỏm đất phẳng ở đầu làng để thổi khèn, thổi sáo, Cảnh xuân tha thiết nồng nàn
đánh quay, ném còn và nhảy. Vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt, phong Tình xuân ấm áp chứa chan
tục miền núi trong ngày Tết của người Mèo, qua ngòi bút của Tô gọi mời”
Hoài, thực sự có sức say lòng người (Mùa xuân Tây Bắc - Axeng)
★ Trẻ con đầy vui sướng với những trò chơi ngày Tết “Đám trẻ đợi
Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”
★ Trai gái thì thổi khèn, thổi sáo tìm bạn yêu “Ngoài đầu núi
lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”
● Sự am hiểu về phong tục tập quán của người miền núi còn được
Tô Hoài thể hiện rõ khi nhà văn miêu tả cảnh ăn Tết trong gia đình

36
Cóp nhặt và sưu tầm

thống lí Pá Tra
★ “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung
quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống,
run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp
lửa”.
★ Nhìn ở góc độ phong tục, bên cạnh vui chơi thì người miền
núi còn có tục thờ cúng, ốp đồng và ăn cơm, uống rượu bên
bếp lửa.

- Tiếng sáo “Chi tiết nó giống như ngọn nến


thắp trong chiếc đèn ông sao
● Nhà văn Tô Hoài rất dụng công trong mô tả tiếng sáo bởi tiếng sáo của trẻ con chơi vào đêm Trung
mùa xuân được xem như linh hồn của đời sống tinh thần nhân thu. Ngọn nến nếu cháy to quá
dân vùng Tây Bắc “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ thì sẽ thiếu cháy mất cái đèn,
bạn đi chơi”. còn nếu ngọn nến quá bé thì
● Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi còn xa Mị tiếng sáo “lấp ló” đèn sẽ không được sáng” (Nhà
lúc ẩn lúc hiện ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ văn Nguyễn Thế Hùng)
hơn để có thể hiểu được lời của người đang thổi sáo. Giữa khung
cảnh thiên nhiên thơ mộng, quyến rũ và say mê, tiếng sáo làm nổi “Tiếng sáo kia quá tha thiết,
bật vẻ đẹp của con người Tây Bắc đa tình, nghệ sĩ: quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị
bay lên trên hoàn cảnh, nó là
Mày có con trai con gái rồi biểu tượng của niềm khát sống,
Mày đi làm nương khát khao yêu, ở đây còn là
Ta chưa có con trai con gái lòng khao khát tự do nữa” (Tô
Ta đi tìm người yêu Hoài)

● Mùa xuân là mùa của hò hẹn, mùa của tình yêu, của hạnh phúc và
tiếng sáo chính là tín hiệu báo hiệu rằng “Những đêm tình mùa
xuân đã tới”. Mùa xuân mới, đất trời, vạn vật bùng trỗi dậy của sức
sống mới và con người cũng bùng dậy những khát vọng yêu đương.

37
Cóp nhặt và sưu tầm

3.Diễn biến tâm - Tác động của tiếng sáo: Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người “Như một cây rừng héo úa tàn
trạng của Mị trong đang thổi” rụi, nhưng sâu trong mao
đêm tình mùa xuân mạch của thân, nhựa vẫn chảy
● Tiếng sáo gọi bạn thiết tha, bổi hổi khi Tết đến xuân về ấy như thầm. Vừa có cái gì chết mòn,
một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. chết mỏi đi, vừa có cái gì không
● Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô chịu chết hẳn” (Chu Văn Sơn)
Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi
sinh đằng sau thân xác giá băng:
★ Tâm hồn Mị tha thiết bổi hổi khi nghe tiếng sáo từ đầu núi
vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi
sáo.
★ Sau bao nhiêu ngày câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người
con dâu gạt nợ này đã khẽ hát, dù chỉ là nhẩm thầm. Mị nhẩm
thầm -> khẽ khàng nhắc lại theo sự hồi tưởng, thậm chí không
liền mạch, lúc nhớ lúc quên lời bài hát của người đang thổi.
★ Có lẽ trước đây Mị cũng đã từng thổi sáo hoặc hát bài này rồi.
Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại, lúc ẩn lúc hiện,
trong Mị đã thức dậy điều gì đó quen thuộc, lâu nay bị lãng
quên.

- Tác động của rượu: Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong Những hồi tưởng ấy cồn cào
cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”. thành men rượu trong lòng như
Xuân Diệu từng viết:
● Dịp Tết, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu “Ôi chén rượu ân tình
“Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng Từ bình minh sự sống
bát. Rồi Mị say”. Rót mãi tới vô cùng
★ Đó cũng không phải là cách uống của người thưởng xuân cũng Của cuộc đời lồng
không phải uống vì thèm rượu. Cách uống rượu của Mị là cách lộng”
(Chén nước - Xuân Diệu)

38
Cóp nhặt và sưu tầm

uống để giải sầu, uống rượu như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Liệu chén rượu mà Mị đã mượn
★ Sức chịu đựng của Mị là có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. để đi về những ký ức ngày xưa
Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức có “rót mãi đến vô cùng” để
mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không đưa Mị về với cuộc đời lồng
thể bởi bao áp chế đè nặng. lộng mà Mị đã có hay chăng?
➔ Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm Có lẽ câu trả lời vẫn luôn được
lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tô Hoài ấp ủ để người đọc hôm
nay mải miết đi tìm
- Mị ý thức về bản thân mình vẫn còn trẻ, ý thức về quyền được đi chơi
ngày Tết

● Sự hồi sinh trong tâm hồn đã dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả
vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật
★ Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng
sáo đang đang “văng vẳng gọi bạn đầu làng”, lòng Mị đang
sống về ngày trước, hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời
con gái.
★ Ngày ấy, Mị là người con gái xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, chỉ cần
một chiếc lá là “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo”. Ngày ấy, Mị có “biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm
thổi sáo đi theo Mị”
➔ Những hồi ức thanh xuân tươi đẹp ấy sống dậy cho
thấy Mị đã bắt đầu thức tỉnh, Mị đã ý thức được về sự
tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị không còn sống một
cách bất động, vô hồn ở nhà thống lí, sức sống mãnh
liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị và khát vọng
sống như ngọn lửa đã làm bừng sáng lại tâm hồn Mị
● Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi mà từ từ đi vào
trong buồng -> Mị bước theo tiếng gọi của sự giam cầm, cam chịu

39
Cóp nhặt và sưu tầm

● Tuy nhiên, tác động của ngoại cảnh đã làm thức dậy trong Mị nhận
thức về quá khứ tươi đẹp, về hiện tại vô cùng tàn nhẫn và hướng
về tương lai Cảm giác thôi thúc muốn du
★ Mị đi tìm những đêm tình ngày xuân, khứ hồi một thời tuổi xuân giữa đêm tình, muốn sống
trẻ: “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng lại những trẻ trung và tươi đẹp
như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị ngày trước:
muốn đi chơi” -> Khẳng định những biến đổi tích cực trong “Nào, hãy bước lẹ lên cỏ non
nhận thức, ý thức của Mị xanh mịn, Nếu đất đỏ vì sương
★ Mị so sánh mình với những người phụ nữ khác -> Mị tìm lấy mai văng lên gót, vòng nhạc nơi
lý chân còn lỏng lẻo, ngọc báu rơi
do để tiếp sức cho những mong muốn đang dần hồi sinh khỏi chuỗi đeo tay, cũng đừng
★ Kéo Mị lại thực tại lại chính là cuộc hôn nhân phi lý của mình, bận lòng, em ạ. Nào, hãy bước
một cuộc hôn nhân “không có lòng mà vẫn phải ở với nhau” lẹ lên cỏ non xanh mịn”
(Trích dẫn trong quyển “Thơ”
- Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại: - Tagore)
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không Ta tưởng như rằng những khát
buồn nhớ lại nữa”. Mị đã nhận ra cảnh khổ của mình. Ý thức tự tồn chớm khao trong lòng Mị đang thôi
đầu nảy nở nhưng hết sức mơ hồ thúc Mị “bước lên cỏ non
● Mị muốn chết để chấm dứt thân phận làm dâu đầy đắng cay, tủi nhục xanh mịn” của tuổi trẻ
● Thực tế mà cô từng chấp nhận nay bỗng trở nên vô lí, khó chấp nhận
“Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”
➔ Lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy, “ứa ra” chính là
biểu hiện cao nhất của sự phản kháng, lòng yêu sống
và ham sống
- Từ ý thức trong tâm hồn khi nghe tiếng sáo -> Mị đã có sự thay đổi
trong hành động
● Nhìn thấy A Sử, Mị không sợ, “Mị cũng không nói”
● Mị chủ động đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng”
● Mị quấn lại tóc, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, không

40
Cóp nhặt và sưu tầm

ngại ngần “rút thêm cái áo”


➔ Hành động dứt khoát đầy sức sống

- Mị muốn đi chơi, chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử vùi dập phũ phàng


● Bị đày đọa về thể xác
● Bị đày đọa về tinh thần
- Đối lập với bốn bức tường lạnh lẽo ngăn cách Mị với không gian sống
động ngoài kia là một tâm hồn trọn vẹn những vấn vương của tuổi trẻ.
Mị sống bằng tâm hồn
● Sức sống của Mị cuối cùng cũng lên tới đỉnh điểm: “Mị đứng im lặng,
như không biết mình đang bị trói…Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”
● Tâm hồn Mị như đang phiêu du với tiếng sáo ngoài kia, khát vọng
lớn đến mức dù bị giam hãm, trói buộc về thể xác nhưng Mị vẫn tìm
cách vượt ngục bằng tinh thần
● Tiếng chân ngựa đạp vào vách là biểu tượng cho cuộc sống thực
tại gợi nhắc về thân phận trâu ngựa của mình
● Mị thả hồn đi theo tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày
trước để tìm lại tuổi trẻ, tìm lại tình yêu và tìm lại hạnh phúc
● Những vòng đay siết chặt đã kéo cô về với thực tại, với số phận
đau khổ của mình

Đêm - Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và “Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho
mùa khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn những dòng nước mắt và biến
đông cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành nỗi thống khổ của nhân loại
sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và thành tiếng hát vô biên” (GS.
hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Đặng Tiến)
Hồng Ngài:
● Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng. Dòng nước mắt của A Phủ có

41
Cóp nhặt và sưu tầm

Bởi cái cảnh bắt người, đánh người ở nhà thống lí đâu có gì lạ. thể là sự tuyệt vọng, là lời vĩnh
● Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má biệt hay chất chứa trong đó là
đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và tiếng van xin khẩn thiết, là “hy
thương người. vọng sẻ chia” mà nhà thơ Giáng
● Thương mình, thương người, Mị nhận ra cái khổ của bản thân; đồng Vân từng viết:
thời cũng nhận rõ tội ác của cha con thống lí. “Tôi có một chút mặn mòi
● Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã dũng dũng cảm Để có khát vọng, để không
cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. nhạt nhẽo
➔ Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ Tôi thả tôi vào nước hy vọng
đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ sẻ chia
là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát Tụ vào tôi
khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực Giọt nước ngày một lớn
và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý
nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của Hãy thử soi vào tôi đi
người dân lao động Tây Bắc. Dù chỉ là một giọt nước mắt”
(Một giọt nước mắt - Giáng Vân)

Ngọn lửa vui cùng niềm vui của


con người, ngọn lửa buồn cùng
những nỗi buồn của họ “ngọn
lửa rộn ràng khi nhà có
khách”, im lìm ủ kín trong tro
nóng khi người đi vắng “Từ
ngày này qua ngày khác, hết
gộc củi này có gộc củi khác,
không khi nào bếp nguội. Bếp
chỉ nguội khi người không còn,
người bỏ cuộc đời người đi”
(Tôi đã trở về trên núi cao - Đỗ
Bích Thúy)

42
Cóp nhặt và sưu tầm

Mị - một cô gái người Mèo sẵn


sàng cứu người vì tình thương
và lòng can đảm giải phóng
chính mình. Đó là vẻ đẹp tác
động mạnh mẽ vào trái tim
người đọc, khiến ta càng thêm
trân quý sự vươn lên của Mị.
Có lẽ, cũng chính vẻ đẹp ấy sẽ
như vị thần vệ nữ sống mãi
trong lòng độc giả như nhà thơ
Lò Ngân Sủng từng định nghĩa:
“Nàng sinh ra lần thứ nhất: để
chết/Nàng sinh ra lần thứ hai -
để sống mãi” (Nàng). Mị vẫn có
thể xoay trong luân hồi sinh tử,
nhưng riêng với trang văn qua
bao dòng chảy thời gian, cô vẫn
luôn “sống mãi”, gửi gắm bao
kiên cường và mãnh liệt trong
sức sống cho mỗi người đọc
hôm nay

Các chi 1.Chi tiết tiếng sáo - Tiếng sáo đã gọi dậy một tâm hồn chai sạn. Hay nói cách khác, nhờ hình
tiết tượng tiếng sáo, nhà văn đã đi sâu vào để phát hiện sức sống tiềm tàng của
người con gái Mèo ấy. Đó là một sức sống mạnh mẽ, đầy những khát khao

- Tiếng sáo làm Mị thức dậy những ký ức xưa cũ, tiếng sáo là đại diện cho
miền nhớ tươi đẹp: Có biết bao người ngày đêm thổi sáo đi theo, cái thời
Mị

43
Cóp nhặt và sưu tầm

là một cô gái xinh đẹp, yêu tự do. Nhớ lại, Mi lại ứa nước mắt, mà tiếng sáo
lại lửng lơ bay ngoài đường, lúc này tiếng sáo như động lực, như thôi thúc
Mị, đây đưa Mị đến với những đêm tình mùa xuân

- Và tiếng sáo vẫn tiếp tục vang lên những giai điệu như tô đậm hơn những
khát khao bung toả, khát khao tự do, khát khao hạnh phúc của Mị mặc cho
những nút thắt của sợi dây đang siết chặt tấm thân Mị

- Tiếng sáo đã trở thành một điểm sáng nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng
mạn, đậm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đây cũng là một cung bậc tinh
tế trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút
Tô Hoài

Nhân vật 1.Số phận - Thuở nhỏ:


A Phủ ● Vốn là một đứa trẻ mồ côi.
● Khi làng đói đã đem A Phủ đi đổi lúa.
● Mười tuổi nhưng gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ
trèn lưu lạc đến Hồng Ngài.
- Lớn lên:
● A Phủ trở thành một chàng trai khoẻ mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết
đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”.
● Nhiều cô gái trong làng mê nhưng A Phủ không lấy được vợ vì A Phủ
không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, nghèo, làm thuê và tục lệ
cưới xin ngặt.
➔ Số phận bất hạnh, bi thảm, không may mắn.

2.Tính cách - Cuộc sống núi rừng hoang dã, cảnh làm thuê ở đợ cực nhọc, vất vả đã hun
đúc nên cá tính gan góc, mạnh mẽ và táo bạo của A Phủ

44
Cóp nhặt và sưu tầm

- Hành động đánh A Sử:


● “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi. A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi”. Một
người to lớn chạy vụt qua ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay
gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới,
nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”
➔ hàng loạt các dộng từ miêu tả dộng tác nhanh, gấp → cho
thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động
- Tính tình đơn giản, không nghĩ đến hậu quả khi đánh A Sử. Khi làm người
ở trừ nợ, làm phăng phăng mọi việc thống lí giao. Khi rừng đói, mải lo bẫy
nhím, để hổ vồ mất bò, A Phủ điểm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về,
mượn súng thống lí đi bắt hổ để đền bò. Kể cả khi lấy cọc và dây mây, rồi
đóng cọc để thống lí trói đứng mình, A Phủ vẫn thản nhiên.
- Lúc xử kiện:
● Bị bắt về nhà thống lí Pá Tra xử lí, bị đánh đập một cách tàn
nhẫn: Khi bị đánh: “im như đá”; bị trói:“mắt trừng trừng” → gan
góc chịu đựng.
- Về làm công gạt nợ:
● Trở thành con ở đời đời, kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra: “đốt
rừng, cày nương….”, ʻchăn bò” → phải làm việc quần quật không lúc
nghỉ ngơi
● Để hổ ăn mất bò nhưng không hề lo sợ, thản nhiên tin vào cái lý của
mình → A Phủ bị trói đứng suốt mấy ngày đêm.
● Được Mị giải thoát: khuỵ xuống (hợp lý) nhưng đã quật sức vùng
lên, chạy.. Chính sức sống tiềm ẩn trong con người, lòng khát khao
được sống đã chiến thắng nỗi đau thể xác.
➔ Với góc nhìn từ bên ngoài, nhà văn đã xây dựng thành
công hình tượng nhân vật A Phủ: một con người có
tính cách gan góc, mạnh mẽ, pha chút ngang tàng, táo
bạo mà cũng chất phác, tự tin. Anh cũng là nạn nhân

45
Cóp nhặt và sưu tầm

của bọn chúa đất quan lại thống trị tàn bạo, độc ác.
Trong anh cũng tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng dữ
dội → một hình tượng điển hình của người dân miền
núi vùng Tây Bắc bị áp bức, bóc lột.
➔ Nếu nhà văn nhìn Mị ở góc nhìn từ bên trong, thì đến
nhân vật A Phủ nhà lại nhìn từ góc nhìn bên ngoài
để thấy tính cách mạng mẽ pha chút ngang tàng ở
nhân vật A Phủ → đặc sắc về bút pháp nghệ thuật của
tác giả không phải ai cũng làm được
➔ Ngoài ra cũng cần kể đến: nghệ thuật miêu tả phong
tục tập quán rất đặc sắc; miêu tả thiên nhiên miền núi
hùng vĩ, thơ mộng, giàu chất thơ; con người hồn
nhiên, ngay thẳng nghệ thuật trần thuật uyển chuyển,
linh hoạt (chủ yếu theo trình tự thời gian, đôi lúc đan
xen hồi ức một cách tự nhiên, có lúc pha trộn quá khứ
với hiện tại ). Đây chính là yếu tố cốt lõi làm nên sự
thành công của tác phẩm.
➔ Sở trường quan sát và khả năng nhạy bén trong việc
nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà
văn chỉ với mất nét đơn sơ mà tạo dựng thành công một
hình tượng đặc sắc.
Phản ánh số phận đau thương của A Phủ và Mị, Tô
Hoài đã tố cáo tội ác của bọn chúa đất dã man tàn
bạo, đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
của người nghèo miền núi. Sự vùng dậy của Mị và A
Phủ tuy chỉ là sự vùng dậy tự phát nhưng cũng là cơ sở
để sau này khi được giác ngộ cách mạng, họ đã đi theo
Đảng để giải phóng cho mình và cho cả quê hương đất
nước.

46
Cóp nhặt và sưu tầm

Nhân vật Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác,
thống lý chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra
Pá Tra thật đặc sắc.
1. Điểm đầu tiên mà - “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây
Tô Hoài Khắc họa lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc
thống lí Pá Tra phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng
chính là một thống lí ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy
giàu có xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp
lửa”.

- Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích,
sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái
quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà
hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại
làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy Pá Tra là một kẻ độc
ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí qua cảnh giàu sang của hắn
càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công
sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu
người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản
2. Điểm nổi bậc thứ ấy.
hai: Thống lí Pá Tra
chính là một thống - Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối
lí chìm đắm trong thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là
nghiện ngập, sa đọa thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người
khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về
kiện”. Cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất
Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực
khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc,
3. Thống lí Pá Tra là trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.

47
Cóp nhặt và sưu tầm

một thống lí độc ác, - Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử
tàn nhẫn, bạo nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma
ngược. nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết. Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã
đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một
cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này
như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con
người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt,
muốn hành hạ thì hành hạ.

- Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm
hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra- Vợ của A sử nhưng Mị cũng
như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ hạng
bét, bị cha con Pá tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra
nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy
đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần
tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng
chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

- Thống lí Pá Tra đã dùng thủ đoạn dùng thần quyền và cường quyền để
giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm
của Pá Tra thể hiện rõ nhất rong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con
Pá tra ngang nhiên bắt Mị về nhà, không những thế hắn còn dùng cả thần
quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao
lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì
“ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”.

- Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A
Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm
khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.

48
Cóp nhặt và sưu tầm

- Đức tin về thần quyền là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền
núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ
để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm
họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác,
giày vò tinh thần con người.

- Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng
mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những
nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng
thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc,
một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.

- Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A
Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa
được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức
việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô
đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh,
càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh
lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong
tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn.

- Ở Hồng Ngài cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó
sống, bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của
mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “Chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại
trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập sa đọa của
bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là
giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu
khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu
đó

49
Cóp nhặt và sưu tầm

cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.

- “Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến
đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong
khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ,
những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra,
và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài
một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống
lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán
năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm
hào.
Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”

- Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và
tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền
“mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình.

- Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống
mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội,
mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ
đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế
hệ, mà nhiều thế hệ. “Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn mày phải chịu một
trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để ở nợ. Bao
giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm
con trâu, con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt
thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

- Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ
một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta
vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả
nợ dần.

50
Cóp nhặt và sưu tầm

Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu
nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng
bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên
phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà
không có cơ hội thoát.

- Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc,
nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào
trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời
bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp
Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô
lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt
cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát.
Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn
nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ
tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí
và phải chăng còn nhiều nữa những nạn nhân của chúng? Của cải nhà
thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn
nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí.

- Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm
con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra
không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá
Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ
hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị
hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy.
“Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi
theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể:
đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi
đi chơi, khi

51
Cóp nhặt và sưu tầm

về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”.


➔ Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy
bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay
vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho
thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá
Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc
nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc
ác vô nhân tính của chúng.

Vế phân 1. Giá trị hiện thực - Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động
hóa nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến
miền núi (Mị, A Phủ).

- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở
miền núi (cha con thống lí Pá Tra)

- Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên
và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân,
cảnh xử kiện A Phủ )

2. Giá trị nhân đạo - Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận
đau khổ của người lao động nghèo miền núi (nhân vật Mị, A Phủ).

- Phê phán, tố cáo quyết liệt tội ác của những thế lực cường quyền và
thần quyền đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và số phận con người
(cường quyền bạo lực, tàn ác và thần quyền hủ tục lạc hậu).

- Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và

52
Cóp nhặt và sưu tầm

khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh
khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự
do và hạnh phúc (nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)

- Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc
nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi
những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình (hành động cởi
trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).

3.Nhận xét chung về - Nghệ thuật kể chuyện:


nghệ thuật của tác ● Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách
phẩm dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận
động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
● Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn
giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật:
● Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, các ý nghĩ chập
chờn trong tiềm thức nhân vật.
- Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc:
● Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất
thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).
● Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động
(Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).

4.Nhận xét về nghệ - Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa hình
thuật khắc họa chân tượng nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài
dung nhân vật của ● Để khắc họa nhân vật Mị với những nỗi thống khổ trong kiếp sống
tác giả qua đoạn: "Ở nô lệ nhà thống lí, với sự chai sạn, vô cảm trong cảm xúc tâm hồn,
lâu trong cái khổ, Mị nhà văn đã miêu tả nhân vật chủ yếu qua ý nghĩ và hành động lặp đi
lặp

53
Cóp nhặt và sưu tầm

quen.. đến bao lại.


giờ chết thì thôi" ● Mặt khác, chuỗi hình ảnh so sánh tăng cấp, từ so sánh ngang bằng
(Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, như con
rùa lùi lũi) đến so sánh hơn (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm
nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì
vùi vào việc làm cả đêm cả ngày).. cũng mang lại hiệu quả biểu đạt
cao trong khắc họa chân dung nhân vật.
● Đặc biệt, chi tiết căn buồng Mị với cái ô cái cửa sổ lỗ vuông bằng
bàn tay còn mang lại những ám ảnh sâu sắc trong lòng độc giả về
nhân vật Mị với cuộc sống như ngục tù, tăm tối, quẩn quanh, bế tắc.

5.Nhận xét về sự - Đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là "quen khổ rồi", hai là
chuyển biến của "phơi phới trở lại", "muốn đi chơi". Nếu ở phần đầu đoạn văn người đọc
nhân vật Mị qua nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến phần sau của
đoạn: "Lần lần, mấy đoạn, dấu ấn về sự "nổi loạn", bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này.
năm qua.. Mị sẽ ăn Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân
cho chết ngay, chứ phận ở những diễn biến kế tiếp.
không buồn nhớ lại
nữa" - Như vậy đoạn văn đã cho ta thấy sự chuyển biến của nhân vật Mị trong suy
nghĩ, nhận thức và cả hành động. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài
không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng
xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện
đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự
do.

- Trước đây, ta tưởng khát vọng sống đã tàn lụi và chết hẳn trong tâm hồn
Mị. Thế nhưng không! Ngọn lửa tình yêu cuộc sống, khát vọng về hạnh
phúc tự do vẫn âm ỉ cháy trong sâu thẳm tâm hồn ấy. Khi có điều kiện
thuận lợi, ngọn lửa đó đã được khơi dậy và bùng lên mạnh mẽ, đưa Mị
trượt ra khỏi

54
Cóp nhặt và sưu tầm

trạng thái thờ ơ, vô cảm thường ngày.

- Miêu tả sự chuyển biến ấy của Mị, nhà văn đã gửi vào trang viết tấm lòng
đồng cảm, yêu thương sâu sắc của mình dành cho nhân vật. Nhà văn đã
không để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đau khổ triền miên,
ông mang đến cho Mị những phút giây rạo rực trong khát khao hạnh phúc,
tình yêu để làm sống dậy một cô Mị trẻ trung, yêu đời thuở mười tám, đôi
mươi.
6.Nhận xét về phong
vị miền núi trong tác - Đề tài miền núi là đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng
phẩm hoặc một tác của nhà văn Tô Hoài, đồng thời còn mở ra một giai đoạn mới cho văn
đoạn trích trong tác học viết về đời sống của những người lao động nơi rẻo cao Tây Bắc. Bằng
phẩm "Vợ chồng A vốn hiểu biết về đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi qua chuyến đi
Phủ" thực tế và tài năng văn chương của mình, Tô Hoài đã tạo nên những tác
phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm "Vợ chồng A
Phủ" cũng ghi nhận những nét đặc sắc ấy của Tô Hoài khi viết về đề tài
này. Tác phẩm đã mang đến những thông tin phong phú về phong tục tập
quán, thói quen sinh hoạt, nếp sống nếp nghĩ... với những nét rất riêng
của đồng bào Tây Bắc như khung cảnh đón xuân với trai gái trẻ con ra
sân tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn, nhảy múa... cảnh đêm
tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, cảnh uống rượu ngày Tết,
cảnh xử kiện ngập trong khói thuốc phiện, tục cướp vợ, tục cúng trình ma...

- Phong vị miền núi còn gợi lên từ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi
với những chi tiết, hình ảnh đặc trưng của miền rẻo cao: Trên đầu núi, các
nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ
em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở
Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể
ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ
nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng
ửng, gió và rét rất dữ

55
Cóp nhặt và sưu tầm

dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ...

- Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật, lời bài hát xen kẽ...
cũng góp phần tạo nên phong vị Tây Bắc rất riêng cho những trang văn
Tô Hoài.

7. Nhận xét (bình - Đoạn trích không chỉ thể hiện phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài ở
luận) về ngòi bút lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn, giọng văn trầm lắng, ngôn ngữ giàu chất
miêu tả tâm lí sắc thơ, chất tính tạo hình và đậm phong vị miền núi... mà còn tạo ấn tượng đặc
sảo của Tô Hoài qua biệt ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nhà văn ít miêu tả hành động mà
đoạn miêu tả diễn chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật. Nhà văn đã
biến tâm trạng kiên trì dõi theo sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị, tinh tế trong cách lựa chọn
nhân vật Mị trong ngôn từ khi diễn tả những biến đổi ấy của Mị. Có cảm tưởng như Tô Hoài
đêm tình mùa xuân đang nhập thân vào nhân vật Mị, hòa mình vào dòng tâm tư ấy để nói giùm
hoặc đêm đông cởi cô những trạng thái cảm xúc tinh tế nơi sâu thẳm tâm hồn.
trói cứu A Phủ.
- Tô Hoài còn khéo léo dẫn những thôi thúc của ngoại cảnh làm cơ sở cho sự
thức tỉnh trong tâm hồn Mị (yếu tố tiếng sáo, không khí mùa xuân, hoặc
dòng nước mắt A Phủ). Quá trình thức tỉnh đó được miêu tả đi dần từ
những cõi xưa về cõi nay, từ vô thức, tiềm thức đến ý thức. Đoạn văn
không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm tàng, khát
vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt trong nhân vật Mị và cũng đủ để
chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả nội tâm của Tô Hoài.

8. Nhận xét về chất - "Chất thơ" trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được “Có một chất thơ ngọt ngào,
thơ trong ngòi bút Tô tạo ra từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ dịu dàng lan tỏa trong cảnh
Hoài: Đoạn miêu tả đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và sắc, trong dòng hồi ức của Mị
tình và

56
Cóp nhặt và sưu tầm

đêm tình mùa xuân cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện trong nhịp điệu câu văn, trong
thực. lời bài hát, trong những từ ngữ
giàu sắc thái biểu cảm”
- Chất thơ dạt dào ấy thấm đẫm trong những câu văn thật hay nêu bật
được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết:
"các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho",
"gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội" . Hình ảnh những
chiếc váy hoa"đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong
các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi"lấp ló ngoài đầu núi" mang
đến chất thi vị cho mùa xuân Tây Bắc.

- Mặt khác, từ dòng hồi ức của Mị, ta còn cảm nhận được cái chất thơ vút
lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh
nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do:
"Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi [..] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng [..] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường
[..] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo..". "Mùa xuân này, Mị uống rượu
bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo.
Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị".

- Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng còn lan tỏa trong nhịp điệu câu văn khi co
khi duỗi, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, trong lời bài hát
xen vào nhịp kể trần thuật:

"Mày có con trai con gái


Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai con
gái Ta đi tìm người yêu"

57
Cóp nhặt và sưu tầm

Ngườ i lá i đò sô ng Đà - Nguyễn Tuâ n

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Sông Đà 1. Sự hung bạo thể - Hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được Trong những dòng cuối “Trang
hung bạo hiện ở cảnh đá bờ độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. hoa”, Nguyễn Tuân viết: “Tôi
sông dựng vách - Hình ảnh so sánh “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã thích làm một loại hoa nở lầm
thành diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước mùa. Nở vào giữa lúc ít ai đợi
lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. chờ nó nhất, sau khi thân nó đã
➔ Bằng liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã tiếp tục khắc sâu ấn chịu nhiều thử thách của mọi
tượng về độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn thứ gió mùa. Đối với tôi, cái lúc
sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy “ngồi trong khoang đò qua nở quan trọng thật nhưng chưa
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như quan trọng bằng cái chất hương
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào đem tới để thật sự góp vào”.
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Trải qua bao nhiễu nhương của
xã hội trước cách mạng, đến
cuộc chiến tranh chống Pháp,
2. Sự hung bạo thể - Nhà văn nhân hóa con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ thuê: dữ dằn, gắt Nguyễn Tuân tuy vẫn luôn giữ
hiện ở ghềnh đá gao, tàn bạo. được sự hứng thú đặc biệt cho
“quãng mặt - Điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) được hỗ những cảm giác mạnh mẽ, mới
ghềnh Hát Loóng” trợ bởi những thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu lạ, nhưng qua bao thử thách của
khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá thời đại, ông đã trở thành một
khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe nhà văn “bằng cái chất hương”
dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái của mình - đem tới những miêu
thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. tả độc đáo, sáng tạo trong khúc
ca vẻ vang về quê hương đất
nước, con người
3. Sự hung bạo thể - Sự khủng khiếp tàn độc:

58
Cóp nhặt và sưu tầm

hiện ở những “cái ● Được tái hiện từ các góc nhìn khác nhau: “Nhà văn nếu tự tin đi tận cùng
hút nước” chết người ★ từ trên nhìn xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông cái tôi đầy tràn của mình thì sẽ
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” tự khắc trừu xuất được vân chữ,
★ từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng mùi chữ độc sáng.” (Nhà phê
nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê bình Hoàng Đăng Khoa) -> Nhà
xanh như sắp vỡ tan ụp vào…” văn Nguyễn Tuân trong suốt
● Được cảm nhận từ các vị thế trải nghiệm khác nhau: hành trình sáng tác của mình đã
★ vị thế của người quay phim “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn luôn “tự tin đi tận cùng cái tôi
vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút đầy tràn của mình” để tạo nên
sông Đà…”. phong cách nghệ thuật riêng,
★ vị thế của người xem phim “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ tạo nên thứ “vân chữ, mùi chữ
chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái độc sáng”, không trộn lẫn. Như
cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”
Anh Đức từng ca ngợi: “Không
● Được cảm nhận bằng các giác quan khác nhau:
biết chừng nào mới lại có một
★ thị giác là những hình ảnh liên tưởng độc đáo và mới lạ
nhà văn như thế, một nhà văn
★ thính giác: lúc thì “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
mà khi ta gọi là một bậc thầy
sặc”, lúc thì “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. “Không
của ngôn từ ta không hề thấy
thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
ngại miệng, một nhà văn độc
qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số
đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều
ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua
cái giếng sâu…” như có đóng một dấu triện
riêng”
➔ Đó chính là sự minh chứng rõ nhất cho mức độ nguy
hiểm tột cùng của những cái hút nước
“Khi thì trang nghiêm cổ kính,
- Hậu quả khủng khiếp mà những cái hút nước gây ra:
khi thì đùa cợt bông phèng,
● “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó
khi thì thánh thót trầm
lôi tuột xuống”
bổng, khi thì xô bồ bừa bãi
● “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
như là ném ra trong một cơn
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và bị đi ngầm dưới lòng sông đến
say chếnh choáng, khinh bạc
mươi

59
Cóp nhặt và sưu tầm

phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới” đấy, nhưng bao giờ cũng rất
đỗi tài hoa.” (Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh nhận xét về phong
4.Sự hung bạo thể - Dấu hiệu đầu tiên là âm thanh tiếng nước thác cách nghệ thuật của Nguyễn
hiện ở chiến trường ● Âm thanh phong phú: Tuân)
sông Đà ★ lúc thì nghe như là oán trách
★ lúc như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo Đọc câu văn của Nguyễn Tuân
★ đặc biệt có lúc rống lên gầm thét những âm thanh cuồng nộ, miêu tả về sông Đà, bất chợt
ghê sợ để trấn áp con người. khiến ta nhớ đến dòng sông
- Các trùng vi thạch trận Hương vùng thượng nguồn
● Trùng vi thạch trận thứ nhất: trong trang kí Hoàng Phủ Ngọc
★ Đó là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ Tường - dòng sông như "một
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước bản trường ca của rừng già,
chỗ này”. rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn,
★ Đá ở con thác này biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn mãnh liệt qua những ghềnh
Tử, gồm năm cửa trận, trong đó “có bốn cửa tử một cửa sinh, thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào
cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. những đáy vực bí ẩn". Những
★ Cửa sinh lại chia làm ba tuyến – tiền vệ, trung vệ, hậu vệ – ngòi bút tài hoa đã tạo nên trang
đòi ăn chết con thuyền đơn độc. Khi thạch trận bày xong, đá viết "nở hoa" - trang viết có khả
phối hợp với nước thác dữ dội và nham hiểm
năng khơi dậy trong trí tưởng
● Trùng vi thạch trận thứ hai:
tượng của người đọc về hai
★ Khúc sông này càng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
dòng sông hùng vĩ, dữ dội cuồn
thuyền, và cũng chỉ có một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không
cuộn trôi đi giữa cơ thể đất
kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”
nước.
★ Phối hợp với đá là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh (lao nhanh) trên sông đá”
★ Cùng với đó là bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ xô Sông Đà có cả thảy bảy mươi ba
ra, đòi “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử” cái thác như bảy mươi ba cạm
● Trùng vi thạch trận thứ ba: bẫy luôn rình rập và sẵn sàng
ăn chết bất cứ chiếc thuyền nào
đi ngang qua đó. Sự chất chồng,
liên tiếp của thác dữ sông Đà đã

60
Cóp nhặt và sưu tầm

★ Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có từng đi vào câu ca xưa:
một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”
"Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba
cái ghềnh"

“Con khủng long vươn dài


hai trăm cây số dốc
Quật nát những rừng già khoét
lõm những hang sâu”
(Mai mốt đến sông Đà -
Bằng Việt)

Sông Đà 1.Góc nhìn từ trên - Từ trên cao nhìn xuống: Những vết thương đời chạm ngõ
trữ tình cao (tàu bay), Sông ● Dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn văn chương, những vẻ đẹp diệu
Đà mang vẻ đẹp ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người kỳ từ cảnh sắc thiên nhiên, đất
của một mĩ nhân thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu nước, những cảnh ngộ đa đoan
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo đa chiều của cuộc sống…Tất cả,
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. bằng một cách nào đó thật tinh
● Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt tế đã len lỏi vào từng trang văn
và duyên dáng. thấm hương chiều lộng gió, thổi
● Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi mãi trong lòng người. Nhưng
rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. qua bao mùa thương, mùa nhớ
- Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra của câu chữ, lạ thay, tôi lại mải
những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi miết đắm mình vào trang viết
theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể: của Nguyễn Tuân, nhớ lời tâm
● Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sự cháy bỏng mà nhà văn đã viết
sáng, trong trẻo, lấp lánh trong tùy bút “Một chuyến đi”:

61
Cóp nhặt và sưu tầm

● Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người “Và tôi, đêm nay thiếp giấc trên
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn tập du ký cắt ở báo cũ ra sửa
bực bội gì mỗi độ thu về” chữa lèm nhèm, tôi lại vẫn nằm
● Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như mơ thấy viễn tưởng tương lai
thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi mình chứa đựng vào một lá
bằng cái tên lếu láo Sông Đen. buồm phồng trắng lừ lừ trên một
vùng nước xanh rờn không đầu
không cuối và không có tuổi”
2. Góc nhìn từ bờ bãi - Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt Phải chăng, chính viễn tưởng
sông Đà, dòng sông thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, mong mỏi “lá buồm phồng
mang vẻ đẹp của đẹp một cách hồn nhiên và trong sáng trắng lừ lừ trên một vùng nước
một “cố nhân” - Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái xanh rờn” ấy đã đưa bước chân
miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt xê dịch của Nguyễn Tuân về với
há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa sông Đà, về nơi Tây Bắc như
khói). chất vàng mười quý giá mà Tổ
- Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu quốc đã nâng niu?
vườn cổ tích “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
➔ Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm
ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng Liên hệ mái tóc người thiếu nữ
đi núi đã hơi lâu” trong tác phẩm “Tóc Chị Hoài” -
Nguyễn Tuân: “Có cái tài nhất là
3. Góc nhìn từ giữa Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm
lòng sông Đà, con - Đó là vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của xuống rất nhẹ nhàng thì cả một
sông mang vẻ đẹp lịch sử cha ông. mớ tóc trần quấn rất chắc ấy đổ
của một người tình - Đó là vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa nảy tung xuôi xuống như một trận
nhân lộc sinh sôi. mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc
- Đó còn là vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính: Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho mây dài như một sải rưỡi ôm
thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời lấy gáy, ấp lấy bả vai. Cái người
gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn nào trong suốt một đời người
Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản mà

62
Cóp nhặt và sưu tầm

Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”. không được ngắm một mớ tóc
- Vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ cho tử tế, thì cái thẩm mỹ
quan của người ấy còn lung
lay lắm, chưa lấy gì làm định.”

Liên hệ chi tiết “Cỏ gianh đồi núi


đang ra những nõn búp”
“Tôi thấy trong cái mầm đầy
nhựa cây rất tầm thường trong
những túp lá mới non nhiều ý
nghĩa: sự sống mạnh mẽ tràn
trề của mọi vật, cái vui sướng
của mầm cây từ dưới đất nhô
lên đón ánh mặt trời, cái rung
động của ngàn lá trong cơn gió”
(Thạch Lam)

“Tóc mây gợn ánh huyền” (Dục


Thiếu Sơn - Nguyễn Trãi)

“Tiếc mãi đến giờ hết tuổi


hoa niên
Tôi mới đến với dòng sông cô
tích
Sông từng trải lượn lờ trên
trang sách
Giữa dòng thơ quanh núi
Tản bao đời..

63
Cóp nhặt và sưu tầm

Hãy thề lòng lượng thứ, Sông Đà


ơi!”
(Đêm trò chuyện với sông Đà
– Thúc Hà)

Người lái 1.Lai lịch, ngoại Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề “Tôi đi với sông
đò sông hình (đoạn khái nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái quát vẻ đẹp của con Đà Bao lần rồi vẫn
Đà quát học thuộc) người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi thường. Nhà văn lạ
Nguyễn Tuân giới thiệu “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi. Ông đã làm Tôi thuộc ngầm thuộc đá
nghề lái đò trên Sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông Đà Tôi thuộc lũ, thuộc dòng”
hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng (Với sông Đà - Vũ Quần Phương)
đã không lái đò được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được
nhà văn miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, “Ôi các con sông bắt nước từ
đôi chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới đâu Mà khi về đất nước mình
vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng thì bắt lên câu hát
nói ào ào như nước mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là ngoại hình Người hát khi chèo đò,
của một người lao động trên sông nước. Trên ngực còn ông nổi một số “củ nâu” kéo thuyền vượt thác
thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động Gợi trăm màu trên trăm
siêu hạng”. dáng sông xuôi”
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng
bay phượng múa, nói lên cái hoài bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống “Nếu một người làm công việc
như một cụ ấm thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có quét đường, anh ta cần phải
mùi thơ và một triết lý”… Hình tượng ông lái đò Tây Bắc cũng là một người nghệ quét đường như Michelangelo vẽ
sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Ông là tay lái ra hoa, là một người nghệ tranh, như Beethoven soạn
sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ông nhạc, hay như Shakespeare làm
lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ông lái đò vượt thơ. Anh ta cần phải quét đường
thác Sông Đà là một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, thật tốt sao cho tất cả mọi người
giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một trên thiên đường hay dưới trần
bên là

64
Cóp nhặt và sưu tầm

ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết gian đều phải ngừng lại và nói,
liệt. “Nơi đây có một người quét
đường vĩ đại đã làm rất tốt công
2.Vẻ đẹp người lái đò - Là một người từng trải, dày dạn kinh nghiệm trong nghề. việc của mình.” (Dr. Martin
sông Đà ● Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là Luther King JR.)
người từng trải, thành thạo nghề.
● Người lái đò còn là một người mang linh hồn muôn thuở của sông nước những chữ nghĩa, ví von có hồn
này: ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược có mắt được nâng niu, cẩn thận
hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… góp nhặt qua “hàng trăm tuần
● Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà
con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại,
những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. giữ lại cho chúng ta”
● Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh
hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả
những đoạn xuống dòng.
➔ Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào
trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm
nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó
của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà
văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như
được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà

- Là một người có lòng dũng cảm phi thường Dượng Hương Thư trong Vượt
● Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó thác (Võ Quảng) “như một pho
đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự tượng đồng đúc, các bắp thịt
quyết đoán cuồn cuộn, hai hàm răng cắn
● Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt chặt, quai hàm bạnh ra, cặp
mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào
giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến giống như một hiệp sĩ của

65
Cóp nhặt và sưu tầm

đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một Trường Sơn oai linh, hùng vĩ.”
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác
đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một
trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù
số một
● Cuộc chiến đấu của ông lái đò trong ba trùng vi thạch trận:
★ Trùng vi một: Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình.
★ Trùng vi hai:
○ Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước
bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông
lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như
một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
○ Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa,
đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi
thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây
thứ hai”.
★ Trùng vi ba:
○ Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần
đá.
○ Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”:
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền
vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được. Thế là kết thúc.

66
Cóp nhặt và sưu tầm

- Là một nghệ sĩ tài hoa


● Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của
một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của
Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết
văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật
cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi
và siêu phàm.
● Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình
tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra
hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông
Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
★ Ông lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi
ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh
như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều
hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.
★ Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng
vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái
hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi
túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa
rồi”.
Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để
thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về
công sức của mình.
➔ Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét:
Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với
sông Đà

67
Cóp nhặt và sưu tầm

dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những


cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng
nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người
lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái
đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời
ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!

Vế phân 1.Hãy cắt nghĩa vì - Từ việc làm rõ sức mạnh, sự ngoan cường, chí quyết tâm, kinh nghiệm đò “Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là
hóa sao trong con mắt giang của người lái đò-một người lao động bình thường trên mảnh đất Tây tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem
của tác giả, thiên Bắc nước ta – qua cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chúng ta hiểu cái đẹp như là tôn giáo của
nhiên Tây Bắc quý rằng, chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân mình” (GS. Trần Đình Sử)
như vàng, nhưng chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi
con người Tây Bắc tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ,
mới thật xứng đáng trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả Người lái đò sông Đà, con người đẹp
là vàng mười của hơn tất cả và quý giá hơn tất cả.
đất nước ta
- Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý
chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng
lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy
chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của
những người lao động nói chung.

2.Nhận xét vẻ đẹp - Nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: "Nguyễn Tuân là một
con người trong văn định nghĩa về người nghệ sĩ". Ông luôn tìm mọi cách để tìm kiếm và phát
của Nguyễn Tuân hiện cái mới lạ, độc đáo "xưa nay chưa từng có" trong hành trình sáng tạo.
sau Cách mạng Đọc văn Nguyễn Tuân, bất cứ ai cũng nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn
Tuân rất ưa quan sát và diễn tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

68
Cóp nhặt và sưu tầm

- Nếu trước cách mạng con người trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là
những con người xuất chúng thuộc thời trước còn vương sót lại, những
người đặc tuyển như Huấn Cao (Chữ người tử tù) thì đến người lái đò
sông Đà nhà văn đã có sự thay đổi trong cách khám phá, thể hiện con
người.

- Nhân vật chính trong người lái đò sông Đà không còn thuộc lớp người sinh
lầm thế kỷ, bơ vơ, lạc lõng trong thời hiện đại mà là một người lao động hết
sức bình thường, bình dị, thậm chí là vô danh. Đây chính là cách Nguyễn
Tuân tôn vinh, ca ngợi ý chí con người, ngợi ca lao động vinh quang đã đưa
con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh của thiên nhiên hung dữ.
Đây cũng chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và
của những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đi tìm vẻ đẹp của con người trong lao động, Nguyễn Tuân đã thể
hiện sự hòa nhập đầy hứng khởi, mến yêu với cuộc đời mới và chúng ta
không còn thấy một Nguyễn Tuân cô độc luôn muốn xê dịch cho khuây đi
cảm giác thiếu quê hương.

3.Nhận xét về ngòi


bút tài hoa của - Nguyễn Tuân là nhà văn của núi cao, thác dữ, dốc đèo hiểm trở; là nhà văn
nhà văn Nguyễn của cảm giác dữ dội, của cái phi thường nhưng khi ông đặt bút viết về cái
Tuân trữ tình, thơ mộng cũng không kém phần ấn tượng và đặc sắc.

- Văn Nguyễn Tuân là sự hiện thân cho cái đẹp, cho sự hoàn mỹ; văn
giàu hình ảnh và gợi cảm; giàu liên tưởng so sánh mới mẻ, độc đáo.

- Trước hết, nó biểu hiện một cảm quan thẩm mĩ độc đáo trong cách nhìn và
quan sát sự vật, sự tỉ mỉ và chi tiết làm cho người ta có cảnh giác sự vật
đang sống dậy từ những trang văn bước ra cuộc đời.

69
Cóp nhặt và sưu tầm

- Độc đáo thôi chưa đủ, vốn hiểu biết sâu rộng mới là chìa khóa để Nguyễn
Tuân khai thác chất xám trong bộ não của chính mình. Nguyễn Tuân đã sử
dụng hàng loạt các tri thức liên ngành từ quân sự, âm nhạc đến thể thao,
quân sự, hội họa tạo nên một môn nghệ thuật thứ bảy lung linh dưới ánh
hào quang chiếu sáng chói lọi… Từ đó có thể khẳng định rằng Nguyễn
Tuân xứng đáng là “Người thầy kim hoàn của chữ”

4.Nhận xét nét độc - Có thể tóm gọn phong cách của Nguyễn Tuân trong những ý sau: Nguyễn
đáo trong phong Tuân ưa cảm giác mãnh liệt, dữ dội; ông thường tả gió, bão, núi đèo, tả thác
cách nghệ thuật ghềnh; luôn khám phá đối tượng ở phương diện tài hoa thẩm mỹ; tài hoa
của nhà văn uyên bác trong hiểu biết về văn hóa; không ngừng thay đổi trong hành trình
Nguyễn Tuân lao động nghệ thuật để không lặp lại chính mình.

- Như thế, qua đoạn … ta thấy Nguyễn Tuân là người luôn hướng đến cái
phi thường, dữ dội; của dốc cao, đèo thẳm, của cái tạo nên cảm giác mạnh.
Đằng sau hình tượng con sông Đà lắm thác nhiều ghềnh là một nhà văn
ham cảm giác lạ, và không ngại làm mới mình. Điều này ít nhiều do ảnh
hưởng từ thú “thích xê dịch” của ông. Để thỏa mãn “thú ham cái mới
lạ”, Nguyễn Tuân không chịu nổi cái bình thường, nhạt nhẽo, bình dị,
phẳng lặng như “ao hồ mùa thu”.

- Nguyễn Tuân quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ
thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách
độc đáo”. Với tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ngòi bút Nguyễn Tuân đã mang
đến cho người đọc một hình dung mới mẻ, độc đáo trong chất vàng của
thiên nhiên, đồng thời là chất vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con
người Tây Bắc.

70
Cóp nhặt và sưu tầm

- Trong “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã thể hiện “cái tôi” tài hoa qua
những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của
thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ
của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc,
như hoạ. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả sông Đà như một sinh thể sống,
với tính cách hung bạo và trữ tình. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh
người lái đò trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục.

5.Bình về cốt cách tài - Nhân vật người lái đò được Nguyễn Tuân nhìn như là đối tượng của cái
hoa nghệ sĩ của ông Đẹp. Nó lấp lánh ánh sáng của người tài hoa nghệ sĩ. Theo Nguyễn Tuân,
lái đò không cứ gì cứ là người hoạt động ở các ngành nghệ thuật họ mới là kẻ tài
hoa nghệ sĩ, mà những con người xung quanh chúng ta biết tôn trọng cái
Đẹp đều có thể ứng xử Đẹp và tự giác sáng tạo ra cái Đẹp. Những người
uống trà trong sương sớm, những kẻ biết thưởng thức “hương cuội”… đều
là những nghệ sĩ tài hoa. Và do vậy “Người lái đò sông Đà “là người lái đò –
nghệ sĩ”.
Chở đò, lái đò là cả một nghệ thuật cao cường và đầy tài hoa

➔ Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính
diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu
như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ
có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò sông Đà và
nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay
trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất
nước. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những
ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho
nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của
Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên
nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào

71
Cóp nhặt và sưu tầm

lao động.

6. Nhận xét những - Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một
phát hiện về dòng dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông
sông Đà của nhà Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của
văn Nguyễn Tuân thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn
là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con
người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến
trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như
một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.

- Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối
với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ
thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã
chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là trong tác
phẩm có vai trò là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người
lao động trong chế độ mới.

7. Cái Tôi của nhà - “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà
văn Nguyễn văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
Tuân
- “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có
chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một
cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên
môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách
hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm
giác về đối tượng.

72
Cóp nhặt và sưu tầm

➔ “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể
hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của
người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan
niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc
đáo của chính người cầm bút.

8.Cách nhìn mang - Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện
tính phát hiện về về người lao động mới:
con người của nhà ● Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động
văn Nguyễn Tuân miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm
nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên
hung dữ.
● Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản
anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con
người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy
miếng cơm manh áo.
● Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự
trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng
mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin
tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước.

- Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con
người của Nguyễn Tuân sau cách mạng:
● Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi
là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”.
● Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy
ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.

73
Cóp nhặt và sưu tầm

- Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng:
● Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công
việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều
rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ.
● Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính
nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan
đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái
đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một
nghệ thuật…Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ
sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò
thành một nghệ thuật.
● Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có
ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên
để giành lấy cuộc sống.

9.Nhận xét chất - Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học Nguyễn Tuân là “nhà thơ bị
thơ thể hiện trong thuộc thể loại khác. Chất thơ trong văn xuôi nói chung được tạo nên khi nhà đóng đinh trên cây Thánh
đoạn trích văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm giá văn xuôi”
trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng
những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm,
phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

- Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:


● Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà
như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật
dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng
ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng
mùa xuân mù sương khói…Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp
của

74
Cóp nhặt và sưu tầm

Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch.


● Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình:
cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi
ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc “Chao ôi” được nhà
văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ.
● Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những
biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà
như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi
màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc
cảm…Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng
nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu
văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn
đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng
trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng
tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những
đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử
dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn
Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ
mộng và trữ tình.

10.Nhận xét về cái


tôi trữ tình của - Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tôi uyên bác, tài hoa nghệ sĩ
Nguyễn Tuân của một người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn
nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng
trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác
mãnh liệt gây ấn tượng.

- Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước
là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc
sống

75
Cóp nhặt và sưu tầm

mới, con người mới.

Ai đã đặ t tên cho dò ng sô ng - Hoà ng Phủ Ngọ c Tườ ng

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Sông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mở đầu bài kí của mình bằng một câu văn đầy
Hương chủ quan: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói
qua góc đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
nhìn địa ➔ niềm tự hào của mình với dòng sông Hương đồng thời ông đã đặt
lý (nhìn ngang hàng Hương giang với vẻ đẹp của các dòng sông trên thế giới.
từ thủy
trình của 1.Vẻ đẹp của - Sông Hương là một bản trường ca của rừng già: vẻ đẹp mạnh mẽ,
dòng sông Hương ở huyền bí, nguyên sơ
sông từ thượng nguồn ● Tên gọi xuất phát từ cội nguồn của dòng sông: đại ngàn Trường
nguồn Sơn hùng vĩ
đến biển) ● SH là một bản trường ca với những nốt trầm bổng khác nhau:
★ Âm vang mãnh liệt, dữ dội, hùng vĩ, man dại, cuộn xoáy với
những cung bậc cao trào: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” ->
động từ mạnh, câu văn dài, ngắt thành nhiều vế, cấu trúc điệp
★ Những nốt lặng dịu dàng, ngân nga khi sông Hương đằm thắm
giữa “những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng” -> màu đỏ
xua tan đi cái lạnh lẽo khiến con sông rực rỡ, tỏa sáng
- Sông Hương mang thiên tính của một “nữ nhân” tài sắc vẹn toàn

76
Cóp nhặt và sưu tầm

● Trong lòng Trường Sơn, SH mang vẻ đẹp hoang dại, nguyên sơ, Liên hệ “Thằng gù ở nhà thờ
thánh thiện của tự nhiên: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống Đức Bà”: Ta nhớ đến cô gái
một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và Digan Esmeralda - tình si trong
man dại” câm nín của thằng gù
-> phép so sánh, nhân hóa Quasimodo - mang vẻ đẹp
★ năng động, tự do, không theo quy chuẩn nào, không chịu gò trong trắng, ngây thơ và có số
bó -> sức sống căng tràn của tuổi trẻ phận bất hạnh, hay nàng Digan
★ bộ lạc du mục Digan -> hoang dã, phóng khoáng, tự do, đầy Carmen với vẻ đẹp hoang dại,
khỏe khoắn tính tình phóng khoáng và một
➔ xinh đẹp, hoang dại, cá tính trái tim hoang dã đã làm say
● Sông Hương như nàng thơ tinh nghịch của rừng già Trường Sơn, đắm anh sĩ quan chất phát Don
chính rừng già là cội nguồn để Sông Hương tỏa sáng, che chở và José. Dù là “nàng thơ” trong tác
yêu thương dòng sông phẩm “Thằng gù ở nhà thờ Đức
★ động từ: “hun đúc” -> sự gắn bó sâu đậm -> cánh rừng đã rèn Bà” của Victor Hugo hay vở
luyện, dõi theo và hình thành cho dòng sông một bản lĩnh gan nhạc kịch cùng tên, các cô gái
dạ, kiên cường -> không tước đi sự tự do, sáng trong Digan đều đã rực rỡ với vẻ đẹp
● Sông Hương như một sinh thể được rừng già tôi luyện và uốn nắn -> tự do, tràn đầy sức sống của
một cô gái uyển chuyển, khéo léo: “Nhưng chính rừng già nơi đây, với mình.
cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức
mạnh bản năng ở người con gái của mình”
★ liên tưởng độc đáo: hình dung sự phát triển trong tính cách
của dòng sông cũng giống như sự phát triển, hoàn thiện trong
tính cách con người
★ cánh rừng chế ngự được sức mạnh bản năng của dòng sông ->
giúp dòng sông trưởng thành
● Sông Hương ở thượng nguồn dưới góc nhìn đa chiều của HPNT còn
là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
★ Nhà văn lý giải nguyên nhân đã góp phần làm nên vẻ đẹp, bồi
đắp “phù sa” cho điệu hồn văn hóa xứ sở nơi đây
★ Nhà văn nâng dòng sông từ người con gái -> người mẹ -> hành

77
Cóp nhặt và sưu tầm

trình thiêng liêng đã góp phần tạo nên, gìn giữ, bảo tồn văn
hóa
★ Sông Hương đã chắt chiu từng giọt phù sa màu mỡ, nuôi
dưỡng và kiến tạo nền văn minh, hình thành nên văn hóa xứ
sở
➔ Sông Hương đã trưởng thành, mang vẻ đẹp dịu dàng -
trí tuệ
● Sông Hương muốn giấu kín đi tất thảy phần bản năng hoang dại,
biến đổi một cách hoàn toàn, lột xác trở thành một con người khác: Nhà văn Tô Hoài nhận định:
“Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm
người ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương cả tâm hồn trong khuôn mặt
với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không thấu hiểu cuộc đời cùng với đất trời, sông
phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc nước của Huế” -> Chính sự trầm
lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang mình cùng tình yêu thiết tha với
đá dưới chân núi Kim Phụng” sông Hương, với xứ Huế đã
★ Sông Hương chủ động biến đổi để hòa hợp với nét dịu dàng khiến HPNT khắc họa được
của xứ Huế chiều sâu trong nét tình cách
★ HPNT thể hiện góc nhìn đầy triết lý về Sông Hương -> kiềm của dòng sông đầy thương nhớ
chế phần bản năng hoang dại, nguyên sơ để trưởng thành và
phù hợp với xứ Huế “Ta về thăm Huế mộng mơ
➔ Sông Hương ở thượng nguồn từ hình ảnh một người Câu thơ ai thả lững lờ trên sông
con gái cá tính, nổi loạn trưởng thành mang vẻ dịu Nghe mênh mang, thổn thức
dàng, trẻ trung, sẵn sàng cho hành trình tìm kiếm lòng
hạnh phúc, tìm kiếm một nửa của chính mình Con thuyền buông lái giữa
dòng Hương giang”
➢ Bằng những hình ảnh đầy ấn tượng + biện pháp tu từ nhân hóa -> HPNT (Sông Hương chiều nhạt nắng
gợi ra tính cách man dại, mãnh liệt của SH ở thượng nguồn - Vũ Nguyên Đạt)
➢ Cách cảm nhận lãng mạn, suy nghĩ có bề sâu trí tuệ của nhà văn

78
Cóp nhặt và sưu tầm

2.Vẻ đẹp của sông - Tựa như cô bé lọ lem bước ra từ sự cằn cỗi của số phận, Sông Hương “Sông Hương quyến rũ lạ
Hương ở ngoại vi cũng nhanh chóng bỏ lại những nét dữ dội, hoang dại nơi rừng già mà lùng Em choàng tỉnh giấc
thành phố Huế - cuộc biến thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa ngượng ngùng nhìn tôi”
hành trình đi tìm đầy hoa dại” (Sông Hương - Vũ Dung)
tình yêu từ nguồn ● Sông Hương như một người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ
đến kinh thành Huế dài, như một nàng công chúa bị hóa phép với giấc mộng ngàn năm, “Huơng giang ủ nét hiền
đợi chàng hoàng tử đến lay dậy để sống trọn đời hạnh phúc ngoan con gái
● “Chàng hoàng tử” ấy chính là xứ Huế -> câu chuyện tình yêu như Thu dịu dàng phà hơi thở sương
cổ tích nhưng SH vẫn giữ tính cách man dại, tinh tế khi tìm kiếm mai
tình yêu Kim Long khoác vạn màu xanh
● Cách gọi “người gái đẹp”, lối so sánh độc đáo, biện pháp nhân hóa - hoa trái
> dòng sông trở thành một sinh thể lôi cuốn, một người con gái xinh Huế mượt mà thêm thắm ngọt
đẹp rực rỡ tình ai”
- Tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, người đẹp Hương giang đã: “Chuyển dòng (Huế - một đường tơ - Từ
một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những Nguyễn)
đường cong thật mềm, rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía
đông “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài
– bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” như một áng tóc trữ tình, đầu
● Đó là một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi đến gặp thành phố tương tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
lai, đến với tình yêu đích thực của sông Hương trời Tây Bắc bung nở hoa ban
● Nhà văn tập trung phác họa dáng hình một người con gái xinh đẹp hoa gạo tháng hai và cuồn
với “những đường cong thật mềm” -> phô khoe tất cả vẻ đẹp, từ cuộn mù khói núi Mèo đốt
những đường cong tuyệt mĩ đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm nương xuân”
hồn người con gái đang khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu
● Sông Hương như một người con gái đã dành trọn nỗi nhớ thương,
sự thủy chung cho “thành phố tương lai” của mình
- Chuyến đi qua nhiều vùng đất để đến thành phố Huế thương yêu: Bằng sự
am hiểu sâu sắc về thủy trình của Hương giang, nhà văn đã tái hiện sống
động “đường đi” mà dòng sông phải vượt qua để đến với người yêu thương

79
Cóp nhặt và sưu tầm

● Sông Hương bắt đầu đi “từ ngã ba Tuần”, theo hướng Nam Bắc qua
điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản -> chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua
thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung
thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế
★ Hành trình dài, quanh co, gấp khúc
★ Hệ thống động từ “vòng”, “uốn mình”, “vẽ”, “vượt qua”, “trôi
đi”
★ Câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man của
sông Hương
● “Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”
-> SH vẫn vương nét hoang dại của rừng già Trường Sơn -> SH còn
duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại đầy nữ tính
➔ Vẻ đẹp bình lặng, dịu dàng, trí tuệ
➔ Sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên
cường giấu trong vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng
● “Vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên “Như một người đã chiêm
xanh thẳm” nghiệm trong im lặng và trong
★ Sông Hương tự làm mới mình trong bể lọc lớn, trút bỏ hết sương khói chỉ để giữ lại những
những u uất của thời gian mà khoác lên mình tấm áo choàng nét đẹp sâu thẳm của thiên
mềm mại nhiên, từ dưới đáy kinh
● Hương giang không rực rỡ kiêu sa nữa bởi nó đã thấm vào mình nghiệm của một đời cầm bút,
một vẻ đẹp của rừng thông u tịch. Đó là vẻ đẹp triết lí như cổ thi và tôi đã không ngần ngại gửi
niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ giấc ngủ ngàn thu của vua chúa tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ
★ Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông bỗng trở nên lại đời mình bằng màu nước
nghiêm trang hơn, phủ khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” của dòng sông, nước xanh biếc
mang “triết lí cổ thi” của cố nhân và yên tĩnh như một lẽ vĩnh
★ dòng sông -> dòng chảy lịch sử hằng trong cảnh vật cố đô”
● Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ một bức tranh bằng nghệ thuật ngược (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
sáng của điện ảnh. Dòng sông in bóng những ngọn đồi tạo nên phản

80
Cóp nhặt và sưu tầm

quang nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
★ Ta lại hình dung đến vẻ đẹp thật dịu dàng, e lệ của sông Ta nhớ đến Sông Đà mỗi mùa
Hương trước khi gặp thành phố Huế. Nàng Hương ấy điệu mang một vẻ đẹp riêng, say
đà mà chuẩn bị để đi gặp người tình trong mộng: nàng chuẩn đắm và tình tứ: Mùa xuân nước
bị cho mình ba sắc áo nàng yêu thích nhất: xanh, vàng, tím sông Đà xanh màu “xanh ngọc
để làm duyên, làm dáng với tình nhân. bích” chứ không “xanh màu
★ Dòng sông thật yểu điệu trong con mắt của HPNT canh hến của sông Gâm sông
➔ Sông Hương đi giữa vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Lô”. Mỗi độ thu về, nước sông
xứ Huế nhưng chính nó cũng là tấm gương phản chiếu lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt
nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông một người bầm đi vì rượu
➔ Ngôn từ tinh tế, giàu chất thơ, lối hành văn hướng nội bữa”.
mê đắm tài hoa, so sánh, nhân hóa, liên tưởng
➢ Nhà văn không chỉ tái hiện lại chân thực dòng chảy địa lý của sông Hương
mà còn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một
người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ -> cảm nhận riêng, độc đáo và rất
đặc sắc
➢ Sông Hương qua cái nhìn lãng mạn của HPNT như một cô gái dịu dàng,
mơ mộng khát khao đi tìm tình yêu theo tiếng gọi của trái tim

- Sông Hương được nhân hóa, mang tâm trạng như con người
3.Vẻ đẹp của ● Chảy giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long,
sông Hương “sông Hương vui tươi hẳn lên” như ý thức được sau một thủy trình dài
trong lòng thành đằng đẵng, nỗ lực thay đổi diện mạo, nó đã “tìm được tình yêu đích
phố Huế thực của mình”
➔ Sông Hương như một cô gái vui vẻ, hạnh phúc, rạng
ngời không thể che giấu
● Hành trình của Hương giang qua bao ngã, bao đường, từ hướng nam
bắc sang tây bắc, “rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông
bắc” đến khoảnh khắc “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây

81
Cóp nhặt và sưu tầm

nam - đông bắc”


➔ Đó là một chặng đường dài, truân chuyên, mạnh mẽ và
kiên trì như cách con người Huế đã dựng xây, gìn giữ
cố đô bằng tất cả niềm tin yêu của mình
● Chào Huế bằng sự e ấp vừa kín đáo vừa dạt dào tình yêu thương
“sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, đường
cong ấy gợi liên tưởng đến một vòng ôm trìu mến và tình tự, tựa như
“một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”
★ Hình ảnh so sánh độc đáo -> đây là một câu văn súc tích, mang “Dịu dàng đôi ngón tay tiên
vẻ đẹp lãng mạn và đầy mê đắm của tình yêu miêu tả dòng Giữ hờ mép áo làm duyên
sông Hương khi gặp người tình của nó trở nên đầy e ấp, tình qua đường”
tứ, thể hiện sự chấp nhận tình yêu một cách đầy kín đáo và nữ (Tựu trường - Nguyễn Bính)
tính.
★ Chỉ với một ánh mắt, nụ cười, gật đầu -> đủ biểu đạt được bao
yêu thương đong đầy
★ Gợi trong lòng người đọc những rung cảm thẩm mĩ đẹp đẽ -
> còn nói lên nét tính cách của người con gái Huế: thướt tha,
tình tứ mà dịu dàng, e lệ, kín đáo -> duyên dáng trước người
tình của mình
- Sông Hương ở Huế gắn liền với hình ảnh cây cầu trắng
● Huế trong cảm nhận đầu tiên của Hương giang là “chiếc cầu trắng
in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”
★ “Phía đó, nơi cuối đường” chính là cây cầu thân thương của cố
đô -> người đọc cảm nhận được sự chờ đợi được hồi đáp, “Cầu cong như chiếc lược
một nỗi vọng trông được thực hiện nơi dòng sông ngà, Sông dài, mái tóc cung
★ Chiếc cầu trắng đã qua bao lần tu sửa -> vững mạnh, kiên
nga buông hờ.”
cường hơn -> đã đứng đó để ghi tạc bao chiến công lịch sử của
(Vài nét Huế - Nguyễn Bính)
nước nhà
★ Phép so sánh “nhỏ nhắn như những vành trăng non” -> hình

82
Cóp nhặt và sưu tầm

dáng độc đáo của cầu Tràng Tiền -> sự thanh mảnh, dịu dàng,
thơ mộng hòa cùng sắc mây trời xanh biếc
- Sông Hương được so sánh với các dòng sông đẹp trên thế giới
● Nhà văn so sánh sông Hương với sông Xen của Pa-ri và sông Đa-
nuýp của Bu-đa-pét:
★ Vẻ đẹp riêng của dòng sông Hương: thuộc về một thành phố
duy nhất và chỉ một mình nó còn nằm trong tổng thể một đô
thị cổ
★ Nó trôi đi bên cạnh những cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u
sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, mà ở đó vẫn lập lòe
trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn
mô tê xưa cũ
★ Vẻ đẹp cổ kính ấy của Huế, của sông Hương “không có một
thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được” -> lời nhận xét
tràn đầy tình yêu say đắm, niềm tự hào
● Hoàng Phủ Ngọc Tường còn so sánh sông Hương với dòng sông Nê- “Con sông dùng dằng con
va ở Lê-nin-grat: sông không chảy
★ Nhấn mạnh điểm khác biệt là nếu như dòng sông Nê-va chảy Sông chảy vào lòng nên Huế
rất nhanh, thì sông Hương có dòng chảy chậm, thật chậm, cơ rất sâu”
hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh (Thu Bồn)
★ Nhà văn cảm nhận dòng chảy nhanh của sông Nê-va qua hình
ảnh những chú hải âu tinh nghịch co một chân trên đám băng
lô xô trôi theo dòng chảy ra bể Ban-tích. Nước sông Nê-va
chảy nhanh đến mức cuốn trôi băng băng những con tàu bằng
thủy tinh chở theo những hành khách tí hon khiến tác giả chỉ
biết ngẩn ngơ trông theo.
★ Sông Hương lại chảy lặng lờ và được so sánh như một “điệu
slow” tình cảm mà Hương giang dành riêng cho xứ Huế, “có
thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng

83
Cóp nhặt và sưu tầm

bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén
trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ
trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”
➔ Sông Hương chậm rãi, lặng lờ mang đậm khí vị của xứ
Huế mộng mơ
➔ Hình ảnh so sánh độc đáo, đầy sức gợi, giàu thi vị
➔ Dòng sông đã dành trọn tình cảm cho thành phố duy
nhất được thưởng ngoạn vẻ đẹp và sự gắn bó thủy
chung của nó
★ Sông Hương chảy chậm vì:
➔ Đặc điểm dòng chảy chậm ấy được nhà văn lí giải từ
nhiều góc nhìn khác nhau. Từ đặc điểm địa lí tự nhiên
thì những chi lưu tỏa ra khắp phố thị cùng với hai hòn
đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng
nước.
➔ Nhưng mặt khác, bằng lí lẽ của trái tim tác giả cho
rằng “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn
ở” của sông Hương là do tình cảm của nó dành riêng
cho Huế. Sông Hương do quá yêu thành phố thân
thương của mình nên dùng dằng không nỡ rời xa, nó
chảy chậm, thật chậm để được ở bên người tình mong
đợi.
➢ Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ cảm nhận trước một bức
tranh sông nước diễm lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế,
tâm hồn Huế, văn hóa Huế
4.Vẻ đẹp của
- Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy
sông Hương khi
nhiên, do đặc điểm địa lý đặc biệt nên thủy trình của con sông đã phải
rời xa thành phố
thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi
Huế
qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ
● Đó là đặc điểm tự nhiên của sông Hương

84
Cóp nhặt và sưu tầm

● Nhưng qua cảm quan của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương
chính là hiện thân của một người tình đằm thắm, dịu dàng, thủy
chung không nỡ rời xa thành phố thân yêu của nó
- Nhưng dù có níu kéo đến như thế nào thì đã tới lúc, sông Hương phải “Vuờn ai mướt quá xanh như
rời xa thành phố nên trước lúc giã biệt sông Hương đã dành cho Huế ngọc
một cái ôm thật nồng thắm: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về Lá trúc tre ngang mặt chữ điền”
hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
khói, đang xa dần thành phố Huế để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc
của tre trúc và của vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”
● Từng sắc màu của thiên nhiên như trôi êm trong dòng bút kí lắng
đọng tiếng lòng màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau ->
màu xanh thanh tân trong trẻo của tuổi trẻ và tình yêu
- Rời khỏi Huế rồi như sực nhớ ra điều gì điều gì chưa kịp nói với người
tình yêu dấu, sông Hương đột ngột “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp
lại thành phố lần cuối”
● Trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường,
khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có
chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình
➔ Tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung
tình với quê hương xứ sở
● Với lăng kính tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy sông
Hương ở đây giống như nàng Kiều trong đêm tình tự đã trở lại
tìm Kim Trọng để nói một lời thề chung thủy
- Nàng Hương lúc này dù phải đi trên hành trình của mình nhưng người
con gái ấy đã chọn ngoảnh đầu lại nhìn một lần để thề nguyền ước hẹn,
để nói lời tri âm: “Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài
mười dặm trường đình. Riêng với Sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa
cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao”
● Là dòng sông đang thốt lên vì ngỡ ngàng hay chính nhà văn đang

85
Cóp nhặt và sưu tầm

cảm thán trước khúc quanh đặc biệt mà Hương giang phải đi qua?
● Đây là khúc quanh để nhà văn nhìn thấy điểm “rất giống con người “Nhà văn không có phép thần
nơi đây” - con người xứ Huế luôn nhớ về cố nhân, luôn trân trọng thông để vượt ra khỏi thế giới
những ký ức xưa cũ và không bao giờ nỡ rời xa quê hương này, nhưng thế giới này trong
● Nhà văn nhân cách hóa dòng sông để nói thay tiếng lòng người Huế, mắt nhà văn phải có một hình
bộc lộ tình yêu tha thiết dành cho thiên nhiên và con người nơi đây sắc riêng” (Hoài Thanh) -> Văn
➢ Một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương là lĩnh vực của sự độc
chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế đáo, vì vậy nó đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có “vân tay” nghệ
thuật riêng biệt, phải biết đào
sâu, tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những
cái gì chưa có. Và dòng chảy
sông Hương qua lăng kính của
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
mang một “hình sắc riêng”,
không trộn lẫn…

Sông - Dòng sông Hương được hiện lên trong nét đẹp, trong sự gắn bó cùng “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một
Hương lịch sử, như nhân chứng từ quá khứ cho đến tận hiện tại phong cách viết bút kí văn học
qua góc ● Từ thuở xa xưa, sông Hương “là một dòng sông biên thùy xa xôi của riêng mình. Thế mạnh của
nhìn lịch của đất nước các vua Hùng” ông là tri thức văn học, triết
sử ● Vào thời trung đại, nó lại chiến đấu hết mình “bảo vệ biên giới học, lịch sử, địa lý sâu rộng, gần
phía nam của đất nước Đại Việt” và còn “soi bóng cả kinh đô Phú như đụng đến vấn đề gì, ở thời
Xuân” lộng lẫy của người anh hùng áo vải Quang Trung điểm nào và ở đâu thì ông vẫn
➔ Sông Hương đã chứng kiến hết thảy sự kiện bi tráng của lịch có thể tung hoành thoải mái với
sử qua từng giai đoạn “với máu của biết bao con người đã ngòi bút được” (Nhà thơ Hoàng
đổ xuống trong những cuộc khởi nghĩa” Cát)
● Thế kỷ XX, sông Hương đã “đi vào thời đại của Cách mạng tháng
Tám

86
Cóp nhặt và sưu tầm

bằng những chiến công rung chuyển” -> để rồi sau đó nó tiếp tục có
mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với
cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt
- Hào hùng, oanh liệt đấu tranh chống quân thù nhưng trong đời thường, “Đạp quân thù xuống đất đen
sông Hương lại rất đỗi bình dị. Khi tổ quốc lâm nguy, sông Hương sẵn Súng gươm vứt bỏ lại hiền như
sàng hiến mình để lập nên những chiến công, rồi sau đó lặng lẽ trở về với xưa”
đời thường là một người con gái dịu dàng của đất nước (Nguyễn Đình Thi)
● Nhà văn đã quan sát, nhìn ngắm, yêu và hiểu sông Hương
● Hình ảnh dòng sông và văn hóa quyện hòa vào nhau mãnh liệt và đầy
ắp
➔ Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch
sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường,
kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử

87
Cóp nhặt và sưu tầm

Sông - Từ góc độ âm nhạc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngợi ca vẻ đẹp của Mặc dù đã đi đến nhiều nơi, tận
Hương sông Hương như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya mắt tham quan vô số dòng sông
qua góc ● Hình ảnh so sánh độc đáo: “Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nổi tiếng trên thế giới nhưng
nhìn văn nước, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm con sông quê luôn để lại nhiều
hóa khuya” cảm xúc đặc biệt trong lòng nhà
★ Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ cho thấy vẻ đẹp trang văn. Ông xem nó là những ký
trọng, duyên dáng, nữ tính của dòng sông Hương mà còn thể ức đáng trân trọng, là niềm cổ
hiện Hương giang gắn với nền văn hóa phi vật thể của vùng vũ tinh thần giúp bản thân
đất cố đô vượt qua khó khăn, biến cố
★ Với nghệ thuật so sánh, sông Hương chính là một người con trong cuộc sống.
gái tài hoa đang gảy lên khúc nhạc riêng của đời mình - như
điệu chảy chậm rãi, lửng lơ, nhẹ nhàng, sâu lắng - điệu nhạc “Tôi nhớ những con sóng vỗ
độc đáo riêng biệt của sông Hương bờ, vỗ mạn thuyền những đêm
● Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước nằm thao thức. Đã xa rồi, đã
sông Hương lâu rồi không nghe lại tiếng
★ Sông Hương chính là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa sóng thân quen ấy, nhưng
xứ sở, góp phần bồi đắp và gìn giữ nền văn hóa Huế. Cụ thể dường như những tiếng sóng
hơn thì chính sông Hương đã giúp hình thành nền âm nhạc ấy đã tạo cho tôi ý chí vươn lên
cổ điển Huế và góp phần tạo nên vẻ đẹp trong Truyện Kiều trong cuộc sống.”
của Nguyễn Du
★ Sông Hương đã trở thành cái nôi sản sinh ra âm nhạc Huế, – Hoàng Phủ Ngọc Tường
những giai điệu, tiết tấu, cung bậc của dòng chảy Sông
Hương làm những sắc điệu riêng của âm nhạc cổ điển Huế Niềm thương nhớ và hoài niệm
● Viết về sông Hương, nhà văn còn có một phát hiện, phán đoán rất bất về con sông gắn bó máu thịt với
ngờ là dòng sông Hương với âm nhạc Huế có ảnh hưởng đến kiệt tác mình đã tạo nên một Hoàng
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du Phủ Ngọc Tường miệt mài,
★ Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng đại thi hào đã phải bao năm không ngơi nghỉ trên dòng chảy
lênh đênh trên quãng sông này, nghe nhạc Huế với một phiến nghệ thuật để đóng góp cho đời
trăng sầu. Môi trường văn hóa ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của những áng thơ văn rung động,

88
Cóp nhặt và sưu tầm

đại thi hào, để từ đó những bản đàn đi suốt cuộc đời nàng thiết tha.
Kiều, để từ đó, Nguyễn Du tạo nên những câu thơ tuyệt bút
★ Nhằm chứng minh cho phán đoán ấy, tác giả đã dẫn vào câu “Thèm được hát một điệu gì
chuyện về người nghệ nhân già, một buổi tối ngồi nghe con xưa lắm
gái đọc “Truyện Kiều” chợt nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang Thèm đọc một đoạn
sách của Nguyễn Du mà thốt lên “Đó chính là tứ đại cảnh” văn hoàng-phủ-ngọc-
➢ Như vậy, dòng sông Hương trong lòng thành phố với nhịp điệu chậm rãi, tường
khoan thai như một điệu slow tình cảm đã tạo nên cái thần, cái hồn rất Có ai đó rót chiều vào chén
riêng đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng của nhã nhạc cung đình ngọc Huế dịu dàng xây bằng
Huế, tạo nên vẻ đẹp rất riêng của kiệt tác văn học dân tộc “Truyện Kiều” khói và sương”
(Vọng Huế - Nguyễn Trọng Tạo)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa điểm nhìn của mình dừng lại và tâm đắc ở
những nét phong tục văn hóa của người dân xứ Huế thông qua dòng
sông Hương
● Nhà văn nhắc đến “Huế ngày xưa” - một Huế đã ghi tạc trong “Con sông đám cưới Huyền
quãng đời đặc biệt của ông Trân Bỏ quên dải lụa phù vân
● Ông nhớ đến sắc áo cưới với màu điều lục bằng loại vải vân thưa trên nguồn
màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong -> tạo thành một Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người Niềm riêng nhuộm tím
➔ Đó cũng là “màu sương khói trên sông Hương, giống như hoàng hôn đến giờ
tấm voan huyền ảo của tự nhiên” Con sông nửa thực nửa mơ
➔ Cách liên tưởng độc đáo, sáng tạo, đầy sức gợi, đầy Nửa mong Lý Bạch, nửa
thi vị chờ Khuất Nguyên”
➔ Sự dịu dàng, trầm tư của con người cố đô (Nguyễn Trọng Tạo)

Sông - Như một lẽ tự nhiên, sông Hương luôn trở thành những đề tài quen “Thuyền ai đậu bến sông trăng
Hương thuộc, cảm hứng dạt dào cho mỗi nhà thơ nhà văn sáng tác nên, điều đáng đó
qua góc nói hơn là dòng sông ấy “không bao giờ tự lặp lại mình” trên thi đàn Việt Có chở trăng về kịp tối nay”
nhìn thi Nam (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
● Nhà văn cho rằng “có một dòng thi ca về sông Hương”, một dòng thơ

89
Cóp nhặt và sưu tầm

ca không bao giờ tự lặp lại mình -> xuất phát từ cảm nhận chủ quan và
những vẻ đẹp phong phú đầy biến ảo của dòng sông luôn biết cách
làm mới mình
● Sông Hương đi vào trang viết của các thi sĩ:
★ mơ màng với “dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà
★ “như kiếm dựng trời xanh” qua lăng kính của Cao Bá Quát
★ thấm đẫm bao tự tình của Bà Huyện Thanh Quan, dòng sông
cũng như nhuốm một màu “nỗi buồn quan hoài vạn cổ với
bóng chiều bảng lảng”
★ đối với Tố Hữu, nó lại mang “Sức mạnh phục sinh tâm hồn”
➢ Sông Hương quả thực “Kiều rất Kiều” -> vừa xinh đẹp vừa tài năng nhưng
khi đi vào trang văn, áng thơ của người nghệ sĩ, nàng Hương lại mang
theo vẻ đẹp rất riêng và độc đáo

Vế phân 1.Nhận xét tính trữ - Tính trữ tình trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường đẫm chất thơ, được gợi
hóa tình trong bút kí lên từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và cảm xúc nồng nàn, tha
của Hoàng Phủ thiết; giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều cùng vốn kiến thức
Ngọc Tường phong phú.
- Thể hiện ở sự kết hợp giữa kể và tả, quan sát và tưởng tượng, lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

2.Nhận xét tình yêu - Tình yêu xứ Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường được chưng cất lên từ
tha thiết của quá trình gắn bó và trải nghiệm của ông ở mảnh đất này.
Hoàng Phủ Ngọc - Đó là tình yêu được kết tinh từ chất trí tuệ, cảm xúc nồng nàn, tha thiết xuất
Tường với xứ Huế phát từ trái tim nhà văn.

3.Bình luận về cái tôi - Thứ nhất, đó là một cái tôi dạt dào cảm xúc. Cái tôi ấy là cái tôi của một
tài hoa uyên bác của người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh, vừa
Hoàng Phủ Ngọc bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa
anh

90
Cóp nhặt và sưu tầm

Tường hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng
chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó. Cái tôi
ấy là cái tôi của một người nghệ sĩ giàu rung động và lãng mạn, say sưa tìm
kiếm vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút riêng của con sông xứ Huế ở các phương
diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá.
- Thứ hai, đó là một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát
hiện (uyên bác). Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông
Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và
khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa… Các mặt kiến thức
này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau
tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con
sông của xứ Huế.
- Và đó còn là một cái tôi tài hoa và lãng mạn. Trí tưởng tượng mạnh mẽ
và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm giác rất dồi dào
mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên
mỗi trang văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng
thức.
4.Nhận xét về phong - Mê đắm: viết về đối tượng với tất cả niềm đam mê, nhiệt huyết, tâm
cách mê đắm tài huyết, bằng tất cả tình cảm, nỗi lòng
hoa của Hoàng Phủ - Tài hoa thể hiện ở việc khám phá đối tượng từ nhiều góc độ khác nhau
Ngọc Tường ● Lối ví von, so sánh, liên tưởng độc đáo, nhân hóa, sử dụng nhuần
nhuyễn cách nói của người Huê
● Hình ảnh chân thực, đầy ấn tượng, câu văn kéo dài, thanh điệu hài
hòa, tiết tấu nhịp nhàng
● Giàu chất trí tuệ - văn hóa
● Kiến thức uyên bác, cách viết đầy chất thơ
● Tình yêu sâu nặng + niềm tự hào

91
Cóp nhặt và sưu tầm

5.Thông điệp nhà - Hãy biết đánh động tình yêu trong tâm hồn mình trước dòng sông quê
văn đối với độc hương đã nuôi lớn mình
giả qua thiên bút - Hãy luôn sống trong tâm thế có trách nhiệm với cuộc đời, luôn biết ngạc
ký nhiên về cái bí ẩn, phong phú của tạo vật
- Hãy yêu quý và trân trọng thiên nhiên, đất nước mình
- Hãy hết lòng gìn giữ, bảo vệ và phát triển thiên nhiên, đất nước

Hồ n Trương Ba da Hà ng thịt - Lưu Quang Vũ

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Cuộc đối Giới thiệu về Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có tâm “Không ai bằng Vũ trong biệt
thoại hồn Trương Ba hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị tài làm nên cái muôn thuở
giữa hồn bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích trong cái đời thường, biến cổ
và xác nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô tích, huyền thoại thành truyện
lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú thời sự, dùng cái hư để nói cái
nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên thực, dùng cái thô lỗ để
trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương khẳng định cái cao quý.” (Giáo
Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên sư Phan Ngọc)
xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình.
Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu So sánh nhân vật Trương Ba với
vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau nhân vật Chí Phèo trong tác
khổ. phẩm cùng tên của nhà
Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình. văn Nam Cao:
Trương Ba và Chí Phèo đều
1.Tâm thế của mang bi kịch tha hóa về nhân
hồn Trương Ba - Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cách: Nhà tù thực dân có một
trong cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi
bày

92
Cóp nhặt và sưu tầm

cuộc đối thoại tâm sự, nỗi lòng của mình “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế sự tàn phá ghê gớm đối với
này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể con người, biến một anh nông
kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! dân lương thiện thành một
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù con quỷ dữ. Chí Phèo ra tù với
chỉ một lát” bộ dạng hoàn toàn mới “cái đầu
● Tư thế ngồi “ôm đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một thì trọc lóc, cái mặt thì
con người đầy đau khổ, lại có sự kết hợp của ba từ phủ định liên đen lại rất cơng cơng, hai mắt
tiếp “không…không…không” gườm gườm...”, ra tù hôm
● Lời thoại của hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối trước hôm sau hắn đã ra chợ
thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bối, đau khổ, dằn vặt, bế uống rượu và ăn thịt chó, hắn
tắc đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt xách chai đến nhà Bá Kiến rạch
đứng dậy mặt, ăn vạ. Bị lão gian
➔ Có thể thấy hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là hùng dụ dỗ, hắn trở thành tay
bởi ông không còn được là mình nữa. Ông phải sống sai đắc lực chuyên đòi nợ cho
trong thân xác của một kẻ khác và cái thân xác ấy làm nhà Bá Kiến. Chí Phèo triền
ông ghê tởm. Ông ước muốn có hình hài riêng và miên trong những cơn say và
muốn được tách ra khỏi xác hàng thịt dù chỉ giây lát. làm tất cả những việc người ta
sai hắn làm. Hắn đã làm đổ
➔ Nắm bắt được nguyện vọng của nhân vật, Lưu Quang máu và nước mắt của bao nhiêu
Vũ đã sáng tạo ra tình huống hồn và xác phân thân để người lương thiện, phá nát bao
đối đáp với nhau. Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác nhiêu cảnh yên vui, làm
hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ tan vỡ bao hạnh phúc. Hắn trở
bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của thành con quỷ dữ của làng Vũ
mình nhưng hóa ra không phải vậy. Đại. Còn Trương Ba Từ
khi sống trong thể xác anh hàng
thịt thô lỗ, phàm phu. Xác thịt
2.Xác hàng thịt lấn - Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương âm u, đui mù nhưng vẫn
lướt, sỉ nhục hồn Ba gọi xác hàng thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn có tiếng nói riêng, sức mạnh
Trương Ba Trương ba là ông. riêng. Linh hồn nhân hậu, trong

93
Cóp nhặt và sưu tầm

● Dựa trên cách xưng hô này thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. sạch, ngay thẳng của
Hồn Trương Ba ở vai trên và xác hàng thịt ở vai dưới. Trương Ba vì phải sống mượn,
● Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại xác hàng thịt không hề lép vế, yếu vá lắp, tạm bợ, lệ thuộc nên
thế mà còn lấn lướt và sỉ nhục hồn Trương Ba. chẳng những đã không sai
- Bởi vì xác hàng thịt ngày càng ý thức được vai trò của nó. khiến được xác thịt mà trái lại
● Nó nói “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của còn bị cái xác ấy nó điều khiển.
tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù Đáng sợ hơn, hồn Trương
mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái
đấy!” tầm thường của xác thịt anh đồ
● Nó còn khẳng định nó là “cái bình để giữ linh hồn” tể.
★ nhờ nó mà hồn Trương Ba mới có thể làm lụng, cuốc
xới, ngắm nhìn trời đất, người thân.
★ Xác thịt tuy âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm
chí đồng hóa linh hồn cao khiết.
★ Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung
sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục.
● Để chứng minh điều đó nó đã kể ra những việc mà hồn Trương Ba
đã làm dưới sự sai khiến của nó.
★ Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay
chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt
nữa thì…”.
★ Hồn Trương Ba sống trong thể xác phàm tục của người hàng
thịt giờ đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà trước
đây ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi.
★ Khi giận dữ, hồn Trương Ba đã sử dụng vũ lực một cách
tàn bạo với con trai. Với sức mạnh của xác hàng thịt, ông
đã tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…
➔ Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt

- Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện:

94
Cóp nhặt và sưu tầm

“Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”
● Nó nói “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những
đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”.
● Nó còn sỉ nhục khi nói Trương Ba hãy chơi trò chơi tâm hồn. Hãy
thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho nó. Hãy
cứ nghĩ mình cao khiết nhưng chỉ vì hoàn cảnh.
● Thậm chí nó cho rằng đấy chính là lí lẽ hồn Trương Ba tự nói với
mình và người khác: “Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc lại
những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ!”.
➔ Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả
tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa
mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm
chọc.
● Hồn Trương Ba thanh cao, trong sạch phải sống với xác hàng thịt thô
lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu đã là đau khổ lắm rồi. Vậy mà thật
sỉ nhục khi xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều “Đã bảo chúng ta
tuy hai mà một mà!”.

- Ngoài ra, xác hàng thịt còn bày tỏ những bất công mà mình phải gánh
chịu khi sống với linh hồn Trương Ba
● “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi
tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng
đáng được quý trọng chứ!”.
● Xác hàng thịt cho rằng khi sống chung với hồn Trương Ba nó bị xúc
phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không chính
đáng. Chẳng hạn “Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm
ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát
cơm cho tôi ăn chứ?”.
● Một mặt nó đấu tranh cho những nhu cầu chính đáng của mình,
mặt

95
Cóp nhặt và sưu tầm

khác nó tìm cách ve vuốt, đề nghị hồn Trương Ba trở về sống hoà hợp
với mình.

➢ Nhìn chung, trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt có thế chủ động, đặt
nhiều câu hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt, trở thành kẻ thắng thế, buộc
Trương Ba phải quy phục.

3.Thái độ của Hồn - Khi tách khỏi xác hàng thịt, hồn Trương Ba có cơ hội bày tỏ tâm trạng
Trương Ba trước sự uất ức, tức giận vì phải chung sống với cái xác thô lỗ, tầm thường, dung
lấn lướt sỉ nhục tục
của xác hàng thịt ● Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với xác là “kẻ
âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng
nói”…; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn
ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo…
● Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định
linh hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”…
● Ông mắng xác hàng thịt là “lí lẽ của anh thật là ti tiện” và “Ta…ta…đã
bảo mày im đi”…
● Nhưng trước lí lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba cuối cùng cũng phải
thừa nhận rằng mình đuối lí, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và
bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển
biến được.
➔ Những đối thoại ngắn và dần dần là những lời thoại bỏ
lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối
thoại cùng xác.

- Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác
Trương Ba hoàn toàn bối rối, lúng túng, không thể phản bác những ý kiến
đó.

96
Cóp nhặt và sưu tầm

- Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang,
tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng
thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc.

- Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ
bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch và sự
bế tắc của hồn Trương Ba.

4.Nghệ thuật xây Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng,
dựng cuộc đối xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại
thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành
động bên ngoài và hành động bên trong. Ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai,
dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.

Cuộc đối 1. Tình huống - Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ bởi
thoại dẫn đến cuộc đối không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi
giữa hồn thoại mình không còn là mình nữa.
Trương
Ba và - Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Ông cũng càng lúc
người 2.Phân tích cuộc đối càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng khi ông đối thoại với những người thân
thân thoại
- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết
đòi bỏ đi
● Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”.
● Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông
đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

- Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước
từ tình thân (tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi)

97
Cóp nhặt và sưu tầm

● Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp
nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng”
đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”
trong mảnh vườn của ông nội nó.
● Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu
Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
● Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”.
● Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm
thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu
● Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”.
● Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra
cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái
nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái
bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy…
mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc,
nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa…”

➔ Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái
nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày
chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không
khổ bằng bây giờ”.

➔ Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng,
giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không
thể chịu nổi. Ông lâm vào bi kịch : không được người thân thừa
nhận. Sự tha hóa, biến chất của bản thân làm cho gia đình ông trao

98
Cóp nhặt và sưu tầm

đảo có nguy cơ tan vỡ. Với Trương Ba mất gia đình, ý nghĩa sống
còn đâu nữa. Trong đau khổ tuyệt vọng, hồn nhận rõ hiện thực
chua chát ấy cứ lớn dần… lớn dần, khiến ông muốn đứt tung, muốn
bứt phá.

3.Nhận xét - Như vậy, màn kịch này là sự tô đậm, khắc sâu bi kịch mà Trương Ba phải
gánh chịu, bi kịch của một người phải sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá chứ
không được là chính mình. Và ở đây, tình huống kịch đã thúc đẩy Trương Ba
phải lựa chọn, phải quyết định

Cuộc đối 1.Hoàn cảnh dẫn - Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng thịt, Trương Ba ngày càng trở nên xa
thoại đến cuộc đối lạ với chính mình và với người thân, bị người thân nghi ngờ, xa lánh.
giữa thoại Những người thân nhất của ông giờ đây đều không nhận ra ông nữa.
Trương
Ba và - Ông đau khổ đến tuyệt vọng, chi tiết Hồn Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm
Đế đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không
Thích phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”.

- Ông mất hết niềm tin vào cuộc sống của mình, tuyệt vọng, tâm hồn cao đẹp
của ông không thắng được thể xác, diện mạo bên ngoài mà ông đang phải
mang, nỗi đau đó đang giằng xé lấy tâm hồn của ông. Ông thẫn thờ trong
tuyệt vọng, đau khổ, bế tắc, không còn có lối thoát

- Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình,
trước cái chỗ ở không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa,
rời khỏi thể xác thô lỗ: “Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”.

- Cuối cùng, sau những dằn vặt, đau khổ ấy, Hồn Trương Ba đã quyết định
thắp nhang gọi Tiên Đế Thích đến, và quyết định từ bỏ thể xác đang
mang,

99
Cóp nhặt và sưu tầm

để bảo vệ lấy linh hồn cao khiết đang ngày một phai tàn vì thể xác khác biệt.
Và qua cuộc tranh luận với Đế Thích, tác giả đề cao quan điểm sống: “phải
sống là chính mình”.

2. Diễn biến cuộc đối - Quan niệm sống không hợp lẽ của Đế Thích
thoại: ● Đế Thích cho rằng: Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống “sống
nhờ”, sống với vỏ bọc là người khác vì “dưới đất trên trời đều thế
cả”.

● Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba đang sống trong


cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả.

● Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược


vòng mà hãy chấp nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp
nhận.
● Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên quan điểm sống của
mình. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng
không thể sống là chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo
như những gì tôi nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính
người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc
Hoàng”.

● Theo Đế Thích: “không ai được sống là chính mình”. Quan niệm


sống này rất phổ biến trong xã hội, khi một bộ phận người cho rằng
ta có thể sống và phải sống tùy thuộc vào hoàn cảnh xung quanh, vào
người khác, vào bất cứ ngoại cảnh nào và không phải vì chính bản
thân ta.

- Trương Ba thẳng thắn bày tỏ quan niệm và từ chối cuộc sống “trong
ngoài bất nhất”
● Ông khẳng định một quan điểm sống cao đẹp – sống phải là chính
mình: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
100
Cóp nhặt và sưu tầm

muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương
Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài:
★ “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách
cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển
thể xác.
★ Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh
hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là
hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục
vọng bản năng.
➔ Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh
hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với
nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ,
trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp
bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một
thể xác phàm tục tội lỗi.
● Từ đó Trương Ba lên tiếng đòi nhu cầu chính đáng của bản thân:
“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
★ Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được
sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa
bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể
xác và linh hồn.
● Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc
sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa,
sống mà không được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt
ngã.
● Ông vẫn một mực khẳng định quan điểm cao đẹp của mình: “Sống
nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”
★ Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. Đồ
đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện không

101
Cóp nhặt và sưu tầm

nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào thân xác của
kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án.
- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích
● Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng
sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích quan
niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống.
● Với Đế Thích, sống là tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần
biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn tại sinh học mà sự
tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.
- Trương Ba cương quyết đấu tranh để là chính mình
● Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục
mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”
★ Hai lần tha thiết và chắc nịch: “tôi không thể”; “không thể được”
cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của
Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
★ Bởi, ông biết rằng, tự mình phải cứu lấy mình, nếu cứ mãi day
dứt và tuyệt vọng chịu thua thể xác, chẳng bao lâu nữa ông sẽ
đánh mất đi linh hồn đẹp đẽ mà một đời Trương Ba ông đã xây
dựng.
● Hồn muốn tròn vẹn là Hồn, Xác trả về Hồn của Xác: “Thân thể anh
hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy
làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”.
● Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý
của Trương Ba không thể thay thế cho phần hồn tầm thường của
anh hàng thịt.
● Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta…
chúng sinh ra là để sống với nhau”.
● Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ:
“Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào

102
Cóp nhặt và sưu tầm

cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”.
★ Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được
sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này,
Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết.
★ Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn
nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình.
★ Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú
ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những
người yêu quý ông.
● Tiếp đó, Lưu Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch
độc đáo.
★ Sự việc thằng cu Tị con trai độc nhất của chị Lụa chết đã làm
cho cuộc đối thoại mang tính bước ngoặt. Và đến đây, ta
càng cảm thấy kính nể và quý trọng Hồn Trương Ba bởi sự
cao quý mà ông có.
★ Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống
trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. → Câu nói này của Đế Thích
một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện –
sống là sự tồn tại.
★ Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho
tôi suy nghĩ một lát đã”. → Sự phân vân của Trương Ba cho
thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn
quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất
ham sống, vẫn muốn được sống.
★ Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội.
Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình
trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tôi còn phải
sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự
thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên

103
Cóp nhặt và sưu tầm

mười…”. Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ông nhìn thấy


được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm
tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như
ông khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”.
★ Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là tâm
hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt
của cu Tị” và cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng
được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên mạnh mẽ.
Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích: “Ông hãy
cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối
cùng”.
● Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã
thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể
sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng
bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”.
● Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng,
đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của
Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay
đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở
về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn
Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
● Hồn Trương Ba đau khổ, quyết định lựa chọn cái chết để giải phóng
cho mình một mặt xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản thân, mặt
khác xuất phát từ tấm lòng vị tha, trái tim nhân hậu, cao thượng:
mong muốn giải thoát nỗi khổ đau cho những người thân yêu; muốn
ngăn chặn nguy cơ gia đình “tan hoang” do tác động, ảnh hưởng tiêu
cực từ chính mình; muốn đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho
những người xung quanh, như cu Tị, chị Lụa, vợ anh hàng thịt, anh
hàng thịt.

104
Cóp nhặt và sưu tầm

➢ Qua đoạn đối thoại của Hồn Trương Ba và Đế Thích, ta còn thấu hiểu
được một quan niệm - một chân lý: "Hãy sống là chính mình". Con người
chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, có được sự hoà hợp
giữa thể xác và linh hồn, giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và
hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống
chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

Màn 1.Hành động chấp - Cảnh khu vườn của Trương Ba, Trương Ba hóa thân vào những hình ảnh
cuối nhận cái chết, trả quen thuộc trong gia đình: “Ánh lửa bà nấu cơm,con dao bà giẫy cỏ,cầu
lại xác cho anh hàng ao bà vo gạo,trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu”.
thịt là một hành - Cu Tị sống lại và đang cùng ngồi với cái Gái trong khu vườn. Cái Gái “Lấy
động đúng đắn, hạt na vùi xuống đất…”cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo thế.
dũng cảm và đạo Những cây sẽ nối nhau mà khôn lớn.Mãi mãi…”
đức. Nó xuất phát từ
niềm tin mãnh liệt
của Trương Ba vào
cuộc sống

2.Ý nghĩa - Đoạn kết giàu chất thơ thể hiện tinh thần lạc quan của vở kịch. Trương Ba
chết nhưng hình ảnh của Trương Ba bất tử, bởi ông đã có chỗ để phục sinh.
Đó chính là sự phục sinh trong trái tim của những người thân yêu.
- Tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý nghĩa khi
con người được sống tự nhiên,hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc
của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn
thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý

Vế phân 1.Những quan Qua cuộc đối thoại trong đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" Lưu
hóa niệm về lẽ sống Quang Vũ muốn gửi gắm đến người đọc về quan niệm lẽ sống và cái chết
chết qua rằng:

105
Cóp nhặt và sưu tầm

các cuộc đối thoại - Ranh giới giữa sự sống và cái chết tưởng chừng như rất dài, nhưng thật ra
trong đoạn trích nó ngắn lắm.
"Hồn Trương Ba,
da hàng thịt" - Trong cuộc sống, không ai muốn mình là kẻ sống không ra sống, bị người
khác khinh bỉ, chê cười, ai cũng muốn có một tâm hồn trong sạch, sống đẹp
và ý nghĩa (như Trương Ba mong muốn). Nhưng cũng như ranh giới của
sống và chết, những điều cao đẹp và những toan tính, hiểm độc cũng có
khoảng cách rất ngắn, nhiều khi không ai muốn thế cả, nhưng bắt buộc,
cùng đường phải trở nên như thế.

- Tâm hồn và thể xác là một thể thống nhất và không tách rời được. Và
không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục.

- Sống phải cho ra sống, sống trong thân xác người khác thì chẳng khác nào
đày đọa tâm hồn mình. Sống cho ra người quả không đơn giản.
Ý nghĩa triết lý:
- Trong cuộc sống, đôi lúc con người ta không thể làm theo tất cả những gì
mình muốn, bắt buộc phải sống theo một khuôn phép, một chuẩn mực
của xã hội. Nhưng dù cuộc sống có thế nào đi chăng nữa, dù đứng giữa ranh
giới giữa sống và chết, dù đang rơi vào vòng xoáy sinh tồn thì cũng đừng
bao giờ đánh mất đi chính mình, đừng bán rẻ tâm hồn mình.

- Cũng bởi thế mà chúng ta có thể hiểu tâm trạng giằng xé đớn đau của nhà
thơ Việt Phương khi ông viết: “Ta giãy giụa trong vòng xoáy sinh tồn. Chỉ
mong một môi trường không ô uế"

2.Từ nội dung vở - Thể xác và linh hồn là hai phần gắn bó hữu cơ làm nên một con người.
kịch, phát biểu khái ● Thể xác là nơi trú ngụ của linh hồn

106
Cóp nhặt và sưu tầm

quát về mối quan ● Linh hồn tạo nên sự sống, sự hoạt động của thể xác và điều khiển thể
hệ giữa thể xác và xác.
linh hồn của con ● Tuy vậy, thể xác cũng có tính độc lập tương đối của nó, nếu linh
người. Từ đó suy hồn không giữ vững ý chí, thì những nhu cầu, những đòi hỏi của thể
nghĩ rộng thêm về xác có thể tác động tới linh hồn, làm thay đổi bản chất của linh hồn.
quan hệ giữa nội ● Cuộc đấu tranh giữa linh hồn với thể xác là để đạt tới sự hòa hợp,
dung và hình thức thống nhất, để con người làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân
trong sự vật, trong cách.
đời sống
- Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích có thể khiến
người ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong
mỗi sự vật của đời sống
● Cho dù đó là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái
này ra cái kia một cách tịnh tiến.
● Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và
phát triển; khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự
phát triển bị kìm hãm, thậm chí sự tồn tại của hình thức.
● Sự vật luôn cần sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, cũng như
con người luôn cần có sự hài hòa của thể xác và linh hồn.

3.Ý nghĩa thời đại - Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong
của tác phẩm "Hồn vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần
Trương Ba, da hàng phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ:
thịt" ● Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn
tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm
phu, thô thiển.
● Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà
chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì
hạnh phúc toàn vẹn.
➔ Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng

107
Cóp nhặt và sưu tầm

phê phán.
- Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức
xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không
được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha
hóa do danh và lợi.
➢ Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết
kịch của Lưu Quang Vũ

4.Quan niệm, triết lí - Qua màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều
về đời sống và con thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa
người kín đáo và sâu sắc về cuộc sống và con người:

● Với sự lựa chọn đầy nhân văn của Trương Ba, Lưu Quang Vũ muốn gửi
gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải
hài hoà. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống
đúng là mình, hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi,
sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Và không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Ngược lại, khi con người bị
chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân
xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác
chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Thông điệp nữa ở đây là với con
người được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa mới
là điều quan trọng. Và sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với
mình quả thực là điều không hề dễ dàng.

● Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao,
ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung
tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn
thiện

108
Cóp nhặt và sưu tầm

nhân cách vươn tới sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất
thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

● Qua đoạn thoại, tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực
trong đánh giá về con người là con người trong mối quan hệ với những
người xung quanh. Con người sống không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải
biết sống vì người khác để tâm hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống
trở nên tốt đẹp hơn.

● Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham
dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn trích
nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu
cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy
theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi
trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã
từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai,
lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo
thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.
Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười
biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng
phê phán.

● Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức
xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không
được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha
hóa do danh và lợi.

109
Cóp nhặt và sưu tầm

Rừ ng xà nu - Nguyễn Trung Thà nh

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


Hình 1. Vị trí xuất hiện - Nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các “Rừng Xà Nu là truyện của
tượng nhân vật ở trong truyện. một đời, và được kể trong một
cây xà đêm.
nu 2. Nghĩa thực - Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên. Đó là cái đêm dài như
cả một đời. Nhưng nó cũng
3.Nghĩa biểu tượng - Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên: ngắn, cũng chỉ là một đêm
trong sự sống vất vả, đau khổ
● Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân và
làng Xôman. hạnh phúc trường tồn ở đây. Bởi
● Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman. “nhà ra xa, đến hút tầm mắt
● Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức cũng không thấy gì khác
nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về ngoài những rừng xà nu nối
cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào tiếp chạy đến chân trời”
“không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành (Nguyên Ngọc, “Về truyện ngắn
một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh Rừng Xà Nu”, Nhà văn nói về tác
đất này. phẩm, Hà Minh Đức biên soạn,
Nxb Giáo dục, 2000).
- Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người “Tôi yêu say mê cây rừng Xà
Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng: Nu từ ngày đó. Ấy là một cây
hùng vĩ và cao thượng, man
● Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng dại và trong sạch, mỗi cây cao
trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá
(anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã vừa thanh nhã vừa rắn rỏi
phải trải qua trong cuộc chiến đấu. mênh mông, tưởng như đã sống
● Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, tự ngàn đời, còn sống đến ngàn

110
Cóp nhặt và sưu tầm

lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng đời sau, từng cây, hàng
bào miền Nam trong cuộc kháng chiến. vạn, hàng triệu cây vô tận.
● Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của Không khí ở đây thơm lừng.
nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn Nệm lá dưới mặt đất ngả lưng
kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. êm ru... Nguyễn Thi và tôi đã
● Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù sống với nhau một ngày một
tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên đêm chia tay cuối cùng trong
mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù. khu rừng tuyệt vời ấy. Cùng
nhau ôn lại cả cuộc đời mình, và
- Nghệ thuật miêu tả: nói với nhau về cuộc chiến
đấu đang chờ mình trong kia...”
● Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, (Nguyên Ngọc, “Về truyện ngắn
khi đặc tả cận cảnh một số cây Rừng Xà Nu”, Nhà
văn nói về tác phẩm, Hà
● Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với Minh Đức biên soạn, Nxb
vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng Giáo dục, 2000).

● Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng.
Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người.
Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể
hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều
suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.

● Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện
ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho
phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man
nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu
tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm
chống đế quốc Mĩ.

111
Cóp nhặt và sưu tầm

Hình 1.Tnú là người có - Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. “Yêu biết mấy, những bước đi
tượng tính cách trung Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. dáng đứng
nhân thực, gan góc, dũng Của đời ta chập chững buổi
vật cảm, mưu trí - Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. đầu tiên
Tnú Tập làm chủ, tập làm người
- Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ xây dựng
nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi Dám vươn mình cai quản
theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến. lại thiên nhiên!
Yêu biết mấy, những con người
- Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi đi tới
bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng Hai cánh tay như hai cánh
dạc nói “cộng sản ở đây này”. bay lên
Ngực dám đón những phong ba
2.Tnú là người có - Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép dữ dội
tính kỷ luật cao, của cấp trên mới về thăm. Chân đạp bùn không sợ các
tuyệt đối trung loài sên!”
thành với cách - Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng (Mùa thu mới – Tố Hữu)
mạng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như
thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy So sánh với hình ảnh Tnú bị đốt
của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”. tay mà vẫn anh dũng chiến đấu:
Lê Anh Xuân khắc họa
3.Một trái tim yêu - Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. một dáng đứng Anh Giải
thương và sục sôi Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng phóng quân, dáng đứng Việt
căm giận ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với Nam:
buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng
Xôman. “Chợt thấy anh giặc hốt
hoảng xin hàng
- Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba
Có thằng sụp xuống chân anh
mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng

112
Cóp nhặt và sưu tầm

4.Ở Tnú, hình tượng - Khi lành lặn: đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn dũng cảm
đôi bàn tay mang viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng
tính cách, dấu ấn phạt vì học hay quên chữ… tiến công.”
cuộc đời
- Khi bị thương: đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời
điểm
lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh
nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng
phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ
huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
5.Hình tượng Tnú - Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa
điển hình cho con giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá
đường đấu tranh đến nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay
với cách mạng của không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và
người dân Tây bản thân.
Nguyên làm sáng tỏ
chân lí của thời đại - Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời
đánh Mĩ : “chúng nó bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách
đã cầm súng mình mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
phải cầm giáo”.
- Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu
tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây
Nguyên nói chung.
➔ Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú
mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các
dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức
mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt
Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.

113
Cóp nhặt và sưu tầm

Cụ 1.Cụ Mết - “Pho sử sống” của làng Xô man


Mết, - Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện
Dít, bé tại, hôm qua và hôm nay
Heng - “Thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho
cả bộ tộc
- nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man
nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.

➔ Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ
Mết chính là cây đại thụ.

2.Dít - Một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến
với cách mạng
- Tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến
- Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm
nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.
- Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong
“những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.

3.Bé Heng - Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu
- Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng
- Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách
mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là
một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.

Tổng - Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên;
kết ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)

114
Cóp nhặt và sưu tầm

- Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng
Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có
những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát,
tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)

- Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý
nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên
truyện.

- Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và
cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời
gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm
hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

Vế 1.Biểu hiện của - Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam
phân khuynh hướng sử thi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng
hóa và cảm hứng lãng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây
mạn Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.

- Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá
nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các
dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu
(yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành
với cách mạng…

- Không gian nghệ thuật: rộng lớn.

- Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng,

115
Cóp nhặt và sưu tầm

đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng
nghe, không khí rất trang nghiêm

- Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng
cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử
thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

- Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang
trọng, hào hùng.

Tuyên ngô n độ c lậ p - Hồ Chí Minh

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


1.Cơ sở pháp lý - Trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mỹ và của Pháp để làm cơ sở pháp
của Tuyên ngôn lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
độc lập ● Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người ...
quyền mưu cầu hạnh phúc”
● Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người
ta sinh ra tự do ... bình đẳng về quyền lợi.”
- Ý nghĩa:
● Hồ Chí Minh tôn trọng và sử dụng hai bản tuyên ngôn có giá trị, được
thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý không thể chối cãi.
● Dùng phương pháp “gậy ông đập lưng ông”: lấy tuyên ngôn của Pháp
để phản bác lại chúng, ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng.
● Đặt ngang hàng cuộc cách mạng, giá trị bản tuyên ngôn của nước
ta với hai cường quốc Mỹ và Pháp, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.

116
Cóp nhặt và sưu tầm

● Lập luận chặt chẽ, sáng tạo: từ quyền con người (tự do, bình đẳng,
quyền mưu cầu hạnh phúc), “suy rộng ra” là quyền tự do bình
đẳng của mọi dân tộc trên thế giới.

2.Cơ sở thực tiễn của - Tội ác của thực dân Pháp


Tuyên ngôn độc lập ● Vạch trần bản chất công cuộc “khai hóa” của thực dân Pháp: thực
chất chúng thi hành nhiều chính sách dã man về chính trị, văn hóa –
xã hội – giáo dục và kinh tế.
● Vạch trần bản chất công cuộc “bảo hộ” của thực dân Pháp: hai lần
bán nước ta cho Nhật (vào năm 1940, 1945), khiến cho “hơn hai
triệu đồng bào ta bị chết đói”, ...
● Chỉ rõ luận điệu xảo trá, lên án tội ác của chúng: là kẻ phản bội
Đồng minh, không hợp tác với Việt Minh mà còn thẳng tay khủng bố
Việt Minh, ...
● Nghệ thuật: Điệp cấu trúc “chúng + hành động”: nhấn mạnh tội
ác của Pháp.
- Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta:
● Nhân dân ta đã chống ách nô lệ hơn 80 năm, đứng về phía Đồng
minh chống phát xít, kêu gọi Pháp chống Nhật, lấy lại nước từ
tay Nhật
● Kết quả: cùng lúc phá tan 3 xiềng xích đang trói buộc dân tộc ta
(Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị), thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.

3.Lời tuyên bố - Dùng từ ngữ có ý nghĩa phủ định để tuyên bố thoát ly hẳn với thực dân
độc lập và ý chí Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước đã ký kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt
bảo vệ chủ quyền Nam.
dân tộc - Dựa vào điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội
nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận
quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

117
Cóp nhặt và sưu tầm

- Tuyên bố với thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do ... ”. Thể hiện quyết tâm đoàn kết giữ vững chủ
quyền, nên độc lập, tự do của dân tộc.
- Lời văn đanh thép, rõ ràng như một lời thề cũng như một lời khích lệ tinh
thần yêu nước nhân dân cả nước.

4.Tổng kết - Nêu khái quát về giá trị nghệ thuật: là áng văn chính luận mẫu mực với
lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, dẫn chứng xác thực, ngôn ngữ hùng
hồn, gần gũi, giàu tính biểu cảm.
- Đánh giá chung về giá trị nội dung (giá trị văn học, giá trị lịch sử) của bản
tuyên ngôn độc lập: nêu cao truyền thống yêu nước, ý chí chống quân xâm
lược, lòng tự hào dân tộc; đánh dấu mốc son trong lịch sử dân tộc ta.

Việt Bắ c - Tố Hữ u

Ý đề Luận điểm Luận cứ - dẫn chứng Liên hệ mở rộng


(20 câu 1.4 câu thơ đầu: “- Mình về mình có nhớ ta? "Cách đây đã hai mươi năm.
đầu): lời hỏi của người ở Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Chuyện xảy ra như đã cũ lắm
Lời lại Mình về mình có nhớ không rồi. Tôi đi tìm cái cũ để rao bán
nhắn Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” cho con người ư? Hay chỉ ghi
nhủ - Cách xưng hô mình – ta: lại cái gì tinh chất được sàng
của ● Gợi nghĩa tình thân thiết, gắn bó. lọc qua thời gian và trong trí
người ● Là cách gọi quen thuộc trong ca dao dân ca. nhớ, để độc giả cùng sống lại
ở lại ➔ Tạo không khí trữ tình cảm xúc một thời chiến tranh chúng tôi
đối với - “Mười lăm năm”: tính từ thời kháng Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) phải chịu đựng, thời chiến
tranh mà

118
Cóp nhặt và sưu tầm

người đến khi những người kháng chiến trở về Thủ đô (tháng 10 – 1954) ngoại bang muốn đưa dân tộc
ra đi - Câu hỏi tu từ: Kỉ niệm thời gian gắn bó lâu dài, keo sơn, bền chặt. chúng ta trở về thời kỳ đồ đá
- Điệp từ “nhớ”: nhấn mạnh nỗi nhớ sâu sắc, thường trực, da diết. ..." (Tiểu thuyết Nước mắt -
- Hình ảnh: cây – núi, sông – nguồn gợi mối qua hệ khăng khít, thủy chung, Đào Thắng)
ân tình giữa kháng chiến và Việt Bắc.
➔ Người ở lại thiết tha, luyến tiếc, khơi gợi trong lòng người “Mình về có nhớ ta chăng
ra đi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn Ta về nhớ bạn như trăng nhớ
cội, nghĩa tình. trời”

2.4 câu tiếp: lời “Tiếng ai tha thiết bên cồn “Phút chia tay ta chỉ nắm tay
đáp của người ra Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi mình
đi Áo chàm đưa buổi phân ly Lời chưa nói thì bàn tay đã
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” nói Mình đi rồi hơi ấm còn ở
- Từ láy: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn lại Còn bồi hồi trong những
➔ sự day dứt, lưu luyến, bối rối trong tâm trạng và hành ngón tay ta.”
động của người ra đi. (Lưu Quang Vũ)
- Hình ảnh hoán dụ: “áo chàm”
➔ gợi hình ảnh bình dị, thân thương của những người dân Từ tấm lòng yêu thương dành
Việt Bắc. cho nhân dân và nỗi trăn trở, lo
- Hành động: cầm tay âu dành cho cuộc đời, nhà thơ
➔ sự luyến tiếc và nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng Tố Hữu đã “gói” lòng mình
và Việt Bắc, gợi nhớ những cuộc chia tay trong văn học trong những trang thơ:
trung đại (nhưng đây là cuộc chia tay trong niềm vui chiến “Như cốm mùa thu nằm
thắng). mát giữa tờ sen
➢ Tiếng lòng người về xuôi bâng khuâng lưu luyến. Màu xanh của nắng trời
chừng dịu lại
3.12 câu tiếp “Mình “- Mình đi, có nhớ những ngày Những yêu thương lòng tôi, tôi
đi… cây đa”: Tác giả Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? gói
gợi những kỉ niệm về Mình về, có nhớ chiến khu Trong lá thơ vừa hái ở đời lên”
Việt Bắc trong những Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

119
Cóp nhặt và sưu tầm

năm kháng chiến Mình về, rừng núi nhớ ai (Như cốm mùa thu - Chế
Trám bùi để rụng, măng mai để Lan Viên)
già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son “Từ hồi về thành phố
Mình về, còn nhớ núi non Quen ánh điện cửa gương
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Vầng trăng đi qua ngõ
Mình đi, mình có nhớ mình Như người dưng qua đường”
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?” (Ánh trăng - Nguyễn Duy)
- Hình ảnh: suối lũ, mây mù, miếng cơm chấm muối
➔ Đây là những hình ảnh rất thực gợi được sự gian khổ của “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng
cuộc kháng chiến, vừa cụ thể hoá mối thù của cách mạng đối như nghề thơ Tố Hữu chín
với thực dân Pháp. rộ,..., không phải là một cây
- Chi tiết “Trám bùi….để già” bút trong tay Tố Hữu nữa mà là
➔ diễn tả cảm giác trống vắng gợi nhớ quá khứ sâu nặng. nhiều ngọn bút nở rộ cùng một
Tác giả mượn cái thừa để nói cái thiếu. lúc, bút tả tình, bút tả
- “Hắt hiu…lòng son” cảnh, bút tả người. Người ta
➔ phép đối, đảo ngữ gợi nhớ đến mái tranh nghèo. Họ là thấy văn chương cách mạng
những người nghèo nhưng giàu tình nghĩa, son sắt, thuỷ chí nghĩa chí tình, cái văn
chung với cách mạng. chương nên thơ nên nhạc...”.
- 6 câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: câu hỏi đau đáu, khơi gợi, nhắc nhớ mọi người (Xuân Diệu)
hãy luôn nhớ về Việt Bắc.
- Địa danh: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
➔ gắn liền với Việt Bắc, là hình ảnh tiêu biểu của thủ đô kháng
chiến.
- Phép điệp: mình đi…, mình về…, nhớ…
➔ lời nhắn gọi tha thiết, nhắc nhớ những kỉ niệm về một thời
ở Việt Bắc.
- “Mình đi, mình có nhớ mình"
➔ ý thơ đa nghĩa một cách thú vị. Cả kẻ ở, người đi đều gói gọn

120
Cóp nhặt và sưu tầm

trong chữ “mình” tha thiết. Mình là một mà cũng là hai, là


hai nhưng cũng là một bởi sự gắn kết của cách mạng, của
kháng chiến.
➢ Chân dung một Việt Bắc gian nan mà nghĩa tình, thơ mộng, rất đối hào
hùng trong nỗi nhớ của người ra đi.

(70 câu 1.4 câu đầu “Ta “Ta với mình, mình với ta “Vầng trăng vằng vặc giữa
sau): với… bấy nhiêu…”: Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh trời Đinh ninh hai miệng một
Lời Khẳng định tình Mình đi, mình lại nhớ mình lời song song”
của nghĩa thủy chung Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…” (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
người son sắt - Đại từ mình – ta: được sử dụng linh hoạt và tạo sự hòa quyện, gắn bó
ra đi máu thịt “Qua đình ngả nón trông đình
- Giọng điệu: tha thiết như một lời thề thủy chung son sắt. Đình bao nhiêu ngói em thương
- Từ láy: mặn mà, đinh ninh mình bấy nhiêu”
➔ Khẳng định nghĩa tình đậm đà, bền chặt, trước sau như một
của cách mạng đối với Việt Bắc. “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
- So sánh: bao nhiêu … bấy nhiêu Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai”
➔ gợi tình cảm bao la, chan chứa giữa cách mạng và Việt Bắc
Chính “cánh chim đầu đàn của
nền thơ ca cách mạng Việt Nam”
2.28 câu tiếp “Nhớ - 18 câu tiếp “Nhớ gì… suối xa…”: Nỗi nhớ về cuộc sống ở Việt Bắc từng quan niệm: “Bài thơ hay là
gì… thuỷ chung…”: bài thơ đọc lên không còn thấy
nỗi nhớ thiên nhiên, “Nhớ gì như nhớ người yêu câu thơ mà chỉ còn thấy tình
núi rừng và cuộc Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng người và tôi muốn thơ phải thật
sống con người ở Việt nương Nhớ từng bản khói cùng sương là gan ruột của mình”. Kỳ thực,
Bắc Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Tố Hữu đã viết “Việt Bắc” bằng
Nhớ từng rừng nứa bờ tre cả tấc lòng, niềm trân trọng
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. máu thịt. Trầm mình trong
Ta đi, ta nhớ những ngày những vần thơ hào hùng của Tố

121
Cóp nhặt và sưu tầm

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... hữu, con tim ta như được thổi
lửa nhiệt huyết, chữ “tình” rộng
Thương nhau, chia củ sắn lùi thêm, niềm tự hào dân tộc và ý
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp thức giữ gìn non sông gấm vóc
cùng. lung linh, rực sáng hơn bao giờ
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

● Biện pháp so sánh: “nhớ… người yêu” => So sánh nỗi nhớ Việt Bắc với
nỗi nhớ người yêu, sắc thái cao nhất của nỗi nhớ.
● Phép tiểu đối:
★ “Trăng lên đầu núi / nắng chiều lưng nương” => Nỗi nhớ từ đêm sang
ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian.
★ “Bát cơm sẻ nửa / chăn sui đắp cùng” => Hình ảnh cảm động cho
thấy sự san sẻ khó khăn gian khổ, chia sớt ngọt bùi, đắng cay giữa
người dân Việt Bắc và những người cách mạng.
● Phép điệp: nhớ, nhớ từng…, nhớ sao…=> Nhấn mạnh nỗi nhớ da diết,
sâu sắc.
● Hình ảnh: người thương đi về, người mẹ nắng cháy lưng,… => Những hình
ảnh thân thương, cảm động về con người Việt Bắc.
● Những kỉ niệm: đắng cay ngọt bùi, bát cơm sẻ nửa, những giờ liên hoan,…

➔ Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó như trong một gia đình.

122
Cóp nhặt và sưu tầm

➔ Con người và cuộc sống Việt Bắc: khổ cực, lam lũ mà thủy chung, son sắt.

➔ Thiên nhiên, núi rừng, cuộc sống và con người ở Việt Bắc luôn in
đậm trong tâm trí những người về xuôi tình cảm chân thành, tha
thiết của người cán bộ kháng chiến.

- 10 câu sau “Ta về… thuỷ chung”: Nỗi nhớ về bức tranh tứ bình của
Việt Bắc
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt
lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ
chung.”

● 2 câu đầu: nỗi nhớ chung và cảm xúc chủ đạo cho cả khổ thơ
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
● 8 câu sau: bức tranh tứ bình của Việt Bắc:
★ Mùa đông:
○ Hình ảnh: hoa chuối đỏ tươi + người lao động trên đèo cao
=> bình dị, khoẻ khoắn;
○ Màu sắc: xanh + đỏ + “nắng ánh” => màu sắc ấm áp.
★ Mùa xuân:
○ Hình ảnh: mơ nở trắng rừng + người đan nón => đẹp, nên thơ.

123
Cóp nhặt và sưu tầm

○ Màu sắc: trắng + trắng => tinh khiết, thanh nhã.


○ Âm thanh: hiệp vần “ơ” (mơ – nở), “ưng” (rừng – từng)
cảm nhận tinh tế, âm thanh của rừng mơ đồng loạt nở hoa.
★ Mùa hạ:
○ Hình ảnh: rừng phách đổ vàng + em gái hái măng
○ Màu sắc: vàng
○ Âm thanh: tiếng ve
➔ Vẻ đẹp đặc trưng rộn rã, rực rỡ, đặc trưng của mùa hè.
★ Mùa thu: “Thạch lựu hiên còn phun
○ Hình ảnh: ánh trăng thức đỏ
○ Âm thanh: tiếng hát ân tình thuỷ chung Hồng liên trì đã tiễn
➔ Vẻ đẹp thanh bình, hiền hoà. mùi hương”
- Nghệ thuật: (Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi)

● Phép điệp: ta về, ta nhớ, nhớ,…


● Đại từ xưng hô: mình – ta…
● Nhịp điệu đều đặn, cân xứng, nhịp nhàng…
● Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, lời thơ giàu nhạc điệu,…

➢ Mỗi mùa mỗi cảnh, đều mang vẻ đẹp riêng trong vẻ đẹp chung: đó là sự
hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa người và cảnh, cảnh và người
cùng làm cho nhau thêm đẹp, làm cho bức tranh thêm sinh động.

➢ Thiên nhiên cảnh vật quen thuộc, bình dị, gần gũi nhưng rất thơ mộng,
trữ tình và nỗi nhớ sâu sắc của người cán bộ cách mạng về Việt Bắc.

3.22 câu tiếp - 10 câu đầu “Nhớ khi… Nhị Hà…”: Thiên nhiên cùng con người sát cánh
“Nhớ khi… núi đánh giặc.
Hồng”:

124
Cóp nhặt và sưu tầm

Nhớ cuộc kháng “Nhớ khi giặc đến giặc lùng


chiến anh hùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
ở Việt Bắc. Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một
lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
● Phép điệp: nhớ… => gắn với những kỉ niệm trong những ngày Việt
Bắc kề vai sát cánh cùng với CM trong chiến đấu.
● Biện pháp nhân hóa: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”,… biến
thiên nhiên thành một lực lượng kháng chiến, thể hiện tình đoàn kết
đặc biệt giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc đối với Cách mạng,
khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Rừng mang tính
chất của con người VN quả cảm và biết phân biệt địch – ta,…Tác giả
nhìn thiên nhiên xuất phát từ lòng yêu nước gắn với yêu Cách mạng.
● Câu hỏi tu từ: hỏi để khẳng định nỗi nhớ thường trực, sâu sắc
về những địa danh gắn liền với Việt Bắc.
● Từ chỉ địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng,… => thân thuộc, gắn liền với
Việt Bắc.
- 12 câu sau “Những đường… núi Hồng”: Khung cảnh hùng tráng của Việt
Bắc trong những ngày ra quân sôi động làm nên chiến thắng.

● 8 câu đầu: khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp ở Việt Bắc
“Những đường Việt Bắc của ta

125
Cóp nhặt và sưu tầm

Đêm đêm rầm rập như là đất Liên hệ với câu thơ “Quân đi
rung Quân đi điệp điệp trùng điệp điệp trùng trùng”:
trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. “Từ nơi em gửi đến anh
Dân công đỏ đuốc từng đoàn Những đoàn quân trùng
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. trùng ra trận
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Như tình yêu nói lời vô tận”
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
★ Các động từ mạnh: rầm rập, rung, bật => tạo thành những (Trường Sơn Đông, Trường Sơn
chuyển rung dữ dội, thể hiện sức mạnh vô địch của cuộc Tây – Phạm Tiến Duật)
kháng chiến.
★ Các từ láy: điệp điệp, trùng trùng => khí thế mạnh mẽ không
gì có thể ngăn cản nổi.
★ Biện pháp cường điệu: Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay =>
sức mạnh của thời đại, của ý chí tiêu diệt giặc, của tinh thần
đoàn kết có thể làm nên những điều tưởng chừng không thể.
★ Nhịp điệu: dồn dập, mạnh mẽ như những bước hành quân của
quân dân Việt Bắc, thể hiện khí thế ra trận của cả một dân tộc
trong trận chiến quyết định với kẻ thù.

● 4 câu sau: khí thế chiến thắng ở các chiến trường khác
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui
về Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
★ Phép điệp: “vui”, “vui + lên/về…”
★ Liệt kê: các địa danh (…)
★ Giọng điệu thơ: hồ hởi, vui tươi
★ Niềm vui to lớn, rộng khắp của cuộc kháng chiến.
➢ Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến, trở thành điểm đến của tất cả các

126
Cóp nhặt và sưu tầm

cánh quân, của ý chí Việt Nam để tạo nên một cuộc đụng đầu lịch sử, làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

4.16 câu cuối: Nỗi “Ai về ai có nhớ không?


nhớ Việt Bắc, nhớ Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
cuộc kháng chiến, Nắng trưa rực rỡ sao vàng
nhớ quê hương cách Trung ương, Chính phủ luận bàn việc
mạng của người Việt công Điều quân chiến dịch thu đông
Nam Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
- Câu hỏi tu từ: khơi gợi tình cảm thiêng liêng về Việt Bắc.
- Các hình ảnh: ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng rực rỡ, cụ Hồ sáng soi, Trung
ương, Chính phủ, mái đình, cây đa,…=> những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng
thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả. Đó là những hình ảnh biểu tượng của
cách mạng, là tương lai của dân tộc.
- Phép điệp: Ở đâu… Nhìn lên…, Ở đâu… Trông về…=> nhấn mạnh: Việt
Bắc là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của sự sống.
- Biện pháp đối lập: u ám >< sáng soi => đề cao vai trò của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Bác chính là chỗ dựa tinh thần tươi sáng nhất cho cách mạng và nhân

127
Cóp nhặt và sưu tầm

dân Việt Nam.


- Cách xưng hô mình – ta…

Vế “Tạm biệt đời ta yêu quý nhất


phận Còn mấy dòng thơ, một nắm
hóa tro Thơ gửi bạn đường. Tro bón
đất Sống là cho. Chết cũng là
cho” (Tạm biệt - Tố Hữu)

Tâ y Tiến - Quang Dũ ng

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


1.Một số nét khái - Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ Sự trùng điệp liên hệ với câu
quát kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực thơ trong “Chinh phụ ngâm” nói
lượng giặc Pháp. về con đường chinh
- Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học chiến đầy gian khó của người
sinh, sinh viên. chinh phụ:
- Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn
quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác. “Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”
2.Đường hành quân “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
của đoàn quân Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Liên hệ với đoạn thơ “Dốc lên
Tây Tiến giữa Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, khúc khuỷu, dốc thăm
thiên nhiên Tây Mường Lát hoa về trong đêm hơi thẳm...xa khơi”: Cách diễn đạt
Bắc của Quang Dũng gợi người
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, đọc nhớ tới hai câu thơ của
Tản Đà

128
Cóp nhặt và sưu tầm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. (Thanh trắc, thanh bằng):
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. “Tài cao phận thấp chí khí
uất Giang hồ mê chơi quên
Anh bạn dãi dầu không bước quê hương”
nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên
đời! Sự hi sinh thanh thản của người
Chiều chiều oai linh thác gầm thét, lính tựa như một giấc ngủ quên
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.” của họ liên hệ với thơ
Tố Hữu:
- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân
thương, “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian. “Vui vẻ chết như cày xong
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội: thửa ruộng
● Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; Lòng khỏe nhẹ anh dân
● Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo quê sung sướng
hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên ... dốc lên” gợi địa
hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh. Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ
● Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người ngon lành
lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong Và trong mơ thơm ngát lúa đồng
đó. xanh
● Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả Vui nhẹ trên môi cười hi vọng.”
sự nguy hiểm tột cùng.
● Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự (Trăng trối – Tố Hữu)
hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những
người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn Liên hệ với câu thơ “Có thấy
rừng thiêng nước độc. hồn lau nẻo bến bờ”:
● Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở,
ghập ghềnh của địa hình. “Ai đi biên giới cho lòng ta
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc theo với

129
Cóp nhặt và sưu tầm

sống: “nhà ai Pha Luông ...”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh Thăm làng lau chỉ trắng có
bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình. một mình
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả Suốt một đời cùng với gió giao
khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể tranh”.
hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.
(Lau biên giới – Chế Lan Viên)
3.Kỉ niệm đẹp về tình “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
quân dân, vẻ đẹp của Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Liên hệ với câu thơ “Chiến
thiên nhiên Tây Bắc trường đi chẳng tiếc đời
xanh”:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ. “Chúng tôi đi không tiếc
Khèn lên man điệu nàng e ấp, đời mình
Nhạc về Viên Chăn xây hồn Nhưng tuổi hai mươi làm sao
thơ. không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy, hai mươi
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ? Thì còn chi Tổ quốc”.
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
(Thanh Thảo)
- Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:
● Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng
lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm
áo”, “nàng e ấp”.
● Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người:
“Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
● Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau
nẻo bến bờ”

130
Cóp nhặt và sưu tầm

● Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”,
cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong
đưa”

4.Hình tượng người “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
lính Tây Tiến Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên
giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc
hành.”
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”,
“xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu
thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt
trừng gửi mộng” / “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng
người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
● Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ
viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
● Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”,
“khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

5.Lời hẹn ước, gửi “Tây Tiến người đi không hẹn ước,
gắm tình cảm Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
của
131
Cóp nhặt và sưu tầm

tác giả Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,


Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi.”

- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân
Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội
đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn
quân Tây Tiến và vùng rừng núi Tây Bắc: “Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm
Nứa chẳng về xuôi”.

Đấ t Nướ c - Nguyễn Khoa Điềm

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng

9 câu thơ 1.Nhà thơ khẳng “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” Dẫn dắt: “Trước khi biến thành
đầu: Nhà định nguồn cội của - Nhà thơ viết hoa hai từ “Đất Nước” mực chảy qua ngòi bút, những
thơ lý Đất Nước ● Xem Đất Nước là một sinh thể có quá trình sinh ra, trưởng thành và gì nhà văn viết ra chảy qua
giải lớn lên -> trang trọng, thiêng liêng tim như một dòng máu”
nguồn ● Thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về lịch sử hình thành và phát
cội của triển, quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc “Lòng yêu nước ban đầu là lòng
Đất Nước - Cách dẫn vào mạch thơ tự nhiên + giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời trò yêu những vật tầm thường nhất:
+ những chuyện mộc mạc, chân thành cất lên từ trái tim yêu cái cây trồng ở
cảm ➔ Nhà thơ khẳng định Đất Nước có từ rất lâu đời, trường tồn trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ
nhận sâu vĩnh hằng theo thời gian ra bờ sông, yêu vị thơm chua
sắc, mới ➔ Khi ta vừa lớn lên đã thấy dáng hình của Đất Nước mát của trái lê mùa thu hay
mẻ về - Đại từ phiếm chỉ “Ta” -> cảm nhận toàn thể về bức tranh của Đất Nước và mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu

132
Cóp nhặt và sưu tầm

Đất Nước con người Việt Nam từ quá khứ, hiện tại đến tương lai mạnh”. (Trích “Lòng yêu nước”
của Ê-ren-bua)
2.Tác giả lý giải - Đưa cội nguồn đất nước về con người từ thuở nằm nôi
nguồn gốc của “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” “Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Đất Nước ● Câu thơ bỏ ngỏ: sau trạng ngữ chỉ thời gian -> tác giả cho người Vừa nhân hậu lại tuyệt vời
đọc tự liên tưởng sâu xa
● Gợi về ký ức tuổi thơ Thương người rồi mới thương
● Truyện cổ tích là những giá trị thiêng liêng, cao đẹp, nuôi dưỡng tâm ta Yêu nhau dù mấy cách xa
hồn, nhân cách cho con người Việt Nam cũng tìm
➔ Câu thơ gợi nên cả chiều dài lịch sử của đất nước Ở hiền thì lại gặp hiền
vọng về nguyên sơ. Đất nước hiện lên trong câu Người ngay thì gặp người tiên độ
chuyện đầu đời của ta, đã thẩm thấu trong trái tim từ trì
khi ta cất tiếng khóc chào đời Mang theo truyện cổ tôi đi
➔ Đất Nước thấm đẫm trong bầu không gian của băn học Nghe trong cuộc sống thầm
dân gian thì tiếng xưa”
- Đất Nước hòa quyện gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hằng ngày của Nhân (Truyện cổ nước mình - Lâm
Dân: Thị Mỹ Dạ)
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
● Nhà thơ thể hiện lòng yêu nước qua những nét đẹp văn hóa đậm đà “Những cô nàng xén răng
bản sắc dân tộc, qua trái cau, miếng trầu giản đơn, dung dị đen Cười như mùa thu tỏa
● Câu thơ mang sức chứa của bốn nghìn năm văn hiến: nắng” (Bên kia sông Đuống -
★ tục ăn trầu, sự tích trầu cau được hình thành Hoàng Cầm)
★ “miếng trầu là đầu câu chuyện”
★ hương trầu đưa ta về một miền ký ức nhỏ đầy ắp yêu thương, “Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
một miền ký ức bên người bà móm mém miệng nhai trầu Duyên em sánh với tình anh
★ nét đẹp không thể thiếu trong các dịp lễ Tết, cưới xin -> giá tuyệt vời”
trị văn hóa minh chứng cho tình yêu chung thủy, sắt son mặn
nồng
➔ Những điều lớn lao luôn khởi thủy từ những điều nhỏ

133
Cóp nhặt và sưu tầm


➔ Miếng trầu têm thắt ấy dẫu nhỏ bé nhưng lại chở một
đất nước cùng đi, chở cả một truyền thống dân tộc đẹp
đẽ và hào hùng
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
● Tình yêu quê hương Đất Nước đã thôi thúc mỗi con người “Loài tre đâu chịu mọc cong
xung phong ra trận khi đất nước lâm nguy Chưa lên đã thẳng như chông
● Liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của Đất Nước lạ thường”
● Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh đuổi giặc Ân
● Hình ảnh cây tre gắn bó với Nhân Dân qua những trận đấu hào hùng
đã in sâu vào tâm trí mỗi người con đất Việt
➔ Đất Nước đã lớn lên trong truyền thống chống giặc
ngoại xâm cùng những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý
của con người Việt Nam: thật thà, chất phát, đôn hậu,
trung thực, yêu chuộng hòa bình
● Tác giả sử dụng từ ngữ gần gũi, thân thuộc “dân mình” -> tình
yêu thương, sự trân quý
➔ Bằng giọng thơ trang nghiêm, nhà thơ đã khiến ta suy
tư về cội nguồn của đất nước
- Nhà thơ ngợi ca vẻ đẹp giản dị, đằm thắm và dịu dàng của người phụ
nữ Việt Nam với tục “búi tóc sau đầu”:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” “Tóc ngang lưng vừa chừng em
● Hình ảnh các bà, các mẹ với mái tóc dài đen và búi lên một cách gọn bối
gàng -> nét đẹp riêng của người phụ nữ Việt -> nét đặc trưng của Để chi dài cho rối lòng anh”
văn hóa nước ta
● Vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng + giản dị, tảo tần
● Chữ “bới” -> sự gần gũi, thân thuộc trong cách Nguyễn Khoa Đièm
đã viết về người phụ nữ Việt Nam
➔ Tạo nên hồn cốt dân tộc

134
Cóp nhặt và sưu tầm

- Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. Đất Nước ẩn
mình trong hạt muối, nhánh gừng, đắm sâu trong tình thương của mẹ
cha:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
● Thành ngữ dân gian “gừng cay muối mặn” -> uyển chuyển, khéo léo “Tay bưng dĩa muối chén
● Nguyễn Khoa Điềm trân quý, ngợi ca nét đẹp truyền thống gừng Gừng cay muối mặn xin
thủy chung, son sắt của tình nghĩa vợ chồng, đôi lứa đừng quên nhau”
● Tình nghĩa vợ chồng mặn mà, sâu đậm chảy mãi qua bao thế hệ ->
nhắn gửi con cháu ngày càng biết yêu thương và sẻ chia, trân quý
những giá trị ân tình cao đẹp trong cuộc đời mình
● Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với sắc màu lộng
lẫy, sáo ngữ ồn ào mà là những nét duyên như tóc mẹ bới sau đầu
gọn gàng, ý nhị, đủ để làm con tim xao xuyến khi gần nhau và nhung
nhớ chẳng nguôi ngoai khi xa cách
- Đất Nước còn hiện hữu trong từng cái tên, trong từng cách gọi của ông
bà xưa, trong thói quen đặt tên con theo những sự vật, vật dụng hằng
ngày quen thuộc
“Cái kèo, cái cột thành tên”
● Cái kèo, cái cột -> gợi nhắc đến tập quán làm nhà cổ của người
Việt Nam xưa
★ Cột chống nhà lên trên cao
★ Kèo giữ cột lại với nhau nên mới có thể đứng vững chãi,
tránh mưa to gió lớn
➔ Mái ấm cho gia đình đoàn tụ bên nhau, gắn kết bao thế
hệ con cháu
● Cái kèo, cái cột còn là sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ dân
tộc -> phong tục chọn đặt tên con theo những vật dụng đơn sơ, giản
dị để bảo vệ đứa trẻ khỏi những điều tai hại, xấu xa
★ Quan niệm xuất phát từ tình yêu thương con cái sâu đậm của
đấng sinh thành

135
Cóp nhặt và sưu tầm

★ Nét văn hóa rất riêng, rất thiêng liêng, tạo nên nét đặc trưng
cho người Việt
➔ Câu thơ ngập tràn ý vị, niềm tự hào về tiếng Việt
- Nhà thơ tái hiện hình ảnh những người lao động cần cù, yêu lao động
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
● Đất Nước lớn lên với hình ảnh “hạt gạo” trải qua bao vất vả, gian “Cày đồng đang buổi ban
khổ để tạo ra những hạt trắng ngần, nuôi dưỡng bao thế hệ (vận trưa Mồ hôi thánh thót như
dụng phép liệt kê “xay, giã, giần, sàng” để nhấn mạnh) mưa ruộng cày
● Nổi bật phẩm chất cần cù, siêng năng, chăm chỉ, tỉ mỉ Ai ơi bưng bát cơm đầy
● Gợi nhắc về truyền thống “uống nước nhớ nguồn” Dẻo thơm một hạt, đắng
- Câu thơ cuối một lần nữa khái quát lại toàn bộ ý thơ của 9 câu đầu, cay muôn phần”
khẳng định chắc nịch một lần nữa nguồn cội của Đất Nước:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
● Cụm từ “ngày đó” đã khái quát lại toàn bộ ý thơ của chín câu thơ đầu
● Dấu chấm lửng làm câu thơ như ngân dài, tha thiết, sâu lắng, nối dài
những văn hóa truyền thống, văn hiến, phong tục -> thể hiện sự bất
tận, trường tồn vĩnh hằng từ xa xưa của Đất Nước

Hai mươi 1.Nhà thơ giải thích, - Đất Nước được cảm nhận ở phương diện không gian địa lý thật độc đáo,
câu thơ lý giải về Đất Nước mới lạ. Bằng việc sử dụng lối chiết tự khéo léo và cấu trúc “Đất là…”,
tiếp theo: theo lối chiết tự đi từ “Nước là…”, “Đất Nước là…”, tác giả đã tách Đất Nước ra làm hai thành tố
Định cái riêng đến cái là “Đất” và “Nước” -> suy ra định nghĩa Đất Nước một cách trọn vẹn
nghĩa Đất chung - Đất Nước ● Không gian của quê hương thân thương, bình dị
Nước, trả hiện lên trong “Đất là nơi anh đến
lời cho không gian của trường Nước là nơi em
câu hỏi: “anh” và “em”, của tắm”
Đât tình yêu đôi lứa ★ Những hình ảnh, nét đẹp quen thuộc, gợi ra không gian bình
dị, gần gũi
★ Đất Nước là không gian sinh tồn gắn với mỗi cá nhân
★ Đất Nước là con đường làng mà “anh” “Thuở còn thơ ngày hai

136
Cóp nhặt và sưu tầm

buổi đến trường” (Quê hương - Giang Nam)


★ Đất Nước cũng chính là dòng sông, là bến nước tắm mát tuổi
thơ “em”, là dòng nước “em” hòa mình vào mỗi sớm chiều và
là nơi để nhớ thương và để trở về
➔ Để rồi, Đất Nước cũng là “nơi ta hò hẹn” -> các yếu
tố đất và nước trở thành một chỉnh thể, không thể
thiếu một trong hai
➔ Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái
riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện
thực và huyền thoại
● Đất Nước còn là không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa “Khăn thương nhớ ai
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Khăn rơi xuống đất
★ Cụm từ “Đất Nước là nơi” được điệp lại -> sự nhắc nhở và
Khăn thương nhớ ai
khẳng định rằng từng chút một trong sự lớn lên của tình yêu
Khăn vắt lên vai
đều quyện hòa vào trong đất nuớc
Khăn thương nhớ ai
★ Đất Nước là nơi dung chứa tình yêu của anh, của em, của
Khăn chùi nước
lứa đôi nồng đượm
★ Sắm vai một người yêu thầm với nỗi nhớ lặng lẽ nhưng đậm mắt”
sâu, “em” với “những lo phiền” dành cho người mình yêu đã đi
vào câu thơ như gửi gắm cho Đất Nước gìn giữ một nỗi lòng
➔ Nhà thơ muốn nhắn nhủ về sự đan cài giữa tình yêu cá
nhân và tình yêu đất nước, tuy hai mà một

2.Nhà thơ tiếp tục “Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” “Con chim phượng hoàng
tách hai thành tố Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” bay ngang hòn núi Bạc
“Đất” và “Nước” để Thời gian đằng đẵng Con cá ngư ông móng nước
giải thích, lý giải sâu Không gian mênh mông ngoài khơi
sắc hơn về Đất Nước. Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi
Đất Nước hiện lên - Hình ảnh đa dạng, phong phú của chim, của cá tượng trưng cho sự thịnh lời

137
Cóp nhặt và sưu tầm

trong không gian vượng và trù phú của nước Việt Kẻo mai kia con cá về sông
địa lý rộng lớn, - Quan hệ đoàn tụ của chim và cá -> sự hài hòa giữa Đất và Nước vịnh Con chim nọ đổi dời về
mênh mông - “Thời gian đằng đẵng/Không gian mênh mông” - “Đất Nước là nơi dân non xanh”
mình đoàn tụ”
● Trải qua sự dai dẳng của thời gian, không gian, qua bao sóng gió -
> dân mình được đoàn tụ
● Đó là sự hội ngộ sau những ngày tháng gian khổ, cũng chính là sự
trở về với Tổ tiên, tất cả đều được đoàn tụ trong chiều dài không gian
và thời gian của Đất Nước -> góp phần giữ gìn, dựng xây và phát
triển Đất Nước

3.Đất Nước hiện lên - “Thời gian đằng đẵng” nuôi dưỡng nên dáng hình Đất Nước qua những
qua thời gian lịch sử sử thi, những huyền thoại, truyền thuyết thiêng liêng, đầy tự hào:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
● Đất Nước bắt đầu từ thuở khai thiên lập địa - nhà thơ cảm nhận và
lý giải Đất Nước theo chiều dài vô tận của thời gian, chiều sâu của
quá khứ lịch sử và phảng phất chất huyền thoại qua những câu
chuyện vọng về
● Hình ảnh “chim về”, “Rồng ở” -> nguồn gốc của người Việt Nam, từ
thuở hồng hoang với LLQ và ÂC
● Dù là miền ngược, miền xuôi, tất cả đều có chung tiếng gọi
“đồng bào” đầy thân thương, gắn bó
● Tất cả cùng đồng lòng khai phá, xây dựng, lập nước và tạo dựng
nên phần gốc, phần hồn cho gấm vóc non sông
➔ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca
dao, dân ca, truyền thuyết -> tạo nên những hình

138
Cóp nhặt và sưu tầm

tượng nghệ thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về Đất


Nước
- Nhà thơ đã nhắc đến hai mốc thời gian: xưa và nay, khẳng định một Đất
Nước trường tồn, vững mạnh và không ngừng phát triển qua bao thế
hệ:
“Những ai đã
khuất Những ai
bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
- Không nhắc đến các sử liệu, tên tuổi của những anh hùng sử sách lưu danh,
không nhắc đến công trạng của những anh hùng hiện tại, nhà thơ vận
dụng điệp từ “Những ai” để cất tiếng gọi nhân dân về vai trò kế thừa, tiếp
nối và cống hiến của toàn dân tộc
● Sứ mệnh kế thừa và giữ truyền được đặt trong ý thức hệ, trong
quá trình phát triển và trưởng thành của mỗi người
★ Yêu nhau, sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống “Con rồng
cháu tiên”
★ Sứ mệnh, trách nhiệm “gánh vác phần người đi trước để lại” ->
tiếp tục sống, giữ gìn dân tộc, đất nước mình
★ Tiếp tục phát triển non sông bằng sức trẻ và trí tuệ được trau
dồi không ngừng
★ Khi già đi -> tiếp nối vòng tuần hoàn -> “dặn dò con cháu
chuyện mai sau”
- Hành động “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” thể hiện sự biết ơn, tỏ lòng thành
kính với ngày giỗ tổ tiên, ngày giỗ Tổ Hùng Vương
➔ Truyền thống cao quý và tốt đẹp của người Việt Nam
➢ Lời thơ như một mệnh lệnh xuất phát từ trái tim, ý thơ thêm phần
thiêng liêng và trang trọng
139
Cóp nhặt và sưu tầm

Mười ba 1. Mối quan hệ giữa “Trong anh và em hôm nay Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm
câu thơ con người và Đất Đều có một phần Đất Nước” chính là “tiếng nói đại diện của
tiếp: Đất Nước là sự gắn bó - Thể thơ tự do + thể loại trường ca -> giúp nhà thơ khai thác triệt để không tuổi trẻ miền Nam trong quá
Nước hóa hữu cơ, Đất Nước gian thơ, nhắn gửi thông điệp sâu sắc và ý nghĩa cho thế hệ thanh niên yêu trình nhận đường về với nhân
thân luôn hiện hữu trong nước dân, với dân tộc”
trong mỗi con người, trong - Đất Nước gắn liền với tình yêu đôi lứa, là một phần “trong anh và em”,
mỗi con đời sống và trong là máu thịt thiêng liêng của mỗi con người
người. những giá trị văn - Thời gian của mỗi người “hôm nay” cũng đều kết tinh từ những “hôm
Ước mơ hóa, tinh thần, vật qua”, cũng như “anh và em” - mỗi người đều thừa hưởng những giá trị vật
giản dị chất. Vì thế, mỗi chất và tinh thần từ Đất Nước
và trách người đều cần phải - Lời khẳng định “đều có một phần Đất Nước” -> niềm tự hào
nhiệm có trách nhiệm đối - Ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước”
của cá với Đất Nước được diễn đạt một cách trữ tình, giản dị qua tiếng nói tâm tình của lứa
nhân với đôi
cộng 2. Từ “anh và em”,
đồng, “hai đứa” đến “mọi “Khi hai đứa cầm tay
của mỗi người”, từ “hôm Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
người đối nay” đến “mai Khi chúng ta cầm tay mọi người
với Đất sau”, quan hệ giữa Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Nước Đất Nước với mỗi - Đất Nước gắn kết với Nhân Dân không chỉ qua tấm lòng, mà còn là
cá nhân hiển thị những lúc “cầm tay”
qua hình ảnh “hai ● Biểu hiện cụ thể của sự gắn bó giữa người và người, giữa cá nhân
đứa cầm tay”, khi với cộng đồng
tình yêu lứa đôi, sự ● Đó là khoảnh khắc “Đất Nước chúng ta” nhận được ý chí, lửa tình
gắn bó của cá nhân yêu từ anh và em, để rồi trở nên “hài hòa nồng thắm”
đã hòa vào tình yêu ● Đó là khoảnh khắc tình yêu lứa đôi hướng vào tình yêu cộng
Tổ quốc đồng, trong mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể của chúng ta với
mọi người, để rồi “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
➔ Đất Nước được cảm nhận trong sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc

140
Cóp nhặt và sưu tầm

- Loạt tính từ “hài hòa nồng thắm, vẹn tròn, to lớn” liên tục xuất hiện -> khẳng
định sự hòa nhập, hòa hợp giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung, từ “chân trời
của một người đến chân trời của mọi người”

3.Nhà thơ đã hướng “Mai này con ta lớn lên


về tương lai phía Con sẽ mang Đất Nước đi xa
trước với vị trí, tầm Đến những tháng ngày mơ mộng”
vóc, sự phát triển - Cái tôi sử thi đã tạo cho nhà thơ một tâm thế mới. Nhà thơ phát ngôn cho cả
của Đất Nước và ước dân tộc, đất nước, nhân dân với một hình thức diễn đạt độc đáo
mơ “mai này” dựng - Ẩn dụ “con ta” -> gợi lên hình ảnh bao thế hệ người Việt tương lai, tiếp
xây Đất Nước đã nối, kế thừa và phát triển Đất Nước
được nhà thơ thể - Lời thơ như vừa nhắc nhở đứa con tương lai của nhà thơ, lại như nhắn nhủ
hiện thật tinh tế đến những người con của dân tộc: Hãy đưa Đất Nước “đi xa”, đi về bến bờ
của tươi đẹp, phồn vinh và hạnh phúc, đến những tháng ngày phát triển
mà cha ông ta hôm nay đã luôn “mơ mông” và mong mỏi thực hiện
- Hai chữ “lớn lên” -> niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân

4.Bốn câu thơ cuối là - Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ “Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu
lời nhắn gửi với đông sâu sắc thịt Như mẹ như cha, như vợ
đảo thanh niên lúc như chồng
bấy giờ và với thế hệ “Em ơi em Đất Nước là máu xương của Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
mai sau về trách mình Phải biết gắn bó và san sẻ Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi,
nhiệm của mỗi cá Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở dòng sông.”
nhân với cộng đồng Làm nên Đất Nước muôn đời…” (Chế Lan Viên)
và với Đất Nước ● “Em ơi em” -> tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ
● “Đất Nước là máu xương của mình” Thơ là tiếng nói của cảm xúc,
★ cách so sánh sâu sắc nhưng vô cùng gần gũi của tâm tình, “tình khô cạn thì
★ Đất Nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mỗi đâu còn thơ nữa”. Có lẽ,
người, là “máu xương”, là cả cuộc đời hi sinh của tổ tiên, của Nguyễn Khoa Điềm đã “gói”
những giọt

141
Cóp nhặt và sưu tầm

ông cha, của dân tộc ngàn đời tình đắm say của mình với quê
★ Đất Nước trường tồn với tháng năm bởi sự dựng xây, hi sinh hương xứ sở vào trong những
cao cả của ông cha “lá thơ” đầy xao xuyến để rung
➔ Những câu thơ mang tính nhắc nhở, duy lý nhưng lại không khô khan hay động lòng người, thức tỉnh tinh
giáo điều cứng nhắc thần bảo vệ, gìn giữ non sông
● Đó là những lời dặn dò, chia sẻ tha thiết của một chàng trai hai mươi của tuổi trẻ đô thị miền Nam lúc
tám tuổi yêu nước nhiệt thành bấy giờ:
● “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu
nước, là ý thức, nghĩa vụ cao cả thiêng liêng Như cốm mùa thu nằm mát
● Điệp ngữ “phải biết” -> mệnh lệnh phát ra từ trái tim làm cho giữa tờ sen
giọng thơ mạnh mẽ nhưng không kém phần tha thiết Màu xanh của cốm nắng
trời chừng dịu lại
Những yêu thương của lòng tôi,
tôi gói
Trong lá thơ vừa hái ở đời lên
(Chế Lan Viên)

Tư tưởng 1.Tư tưởng Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Đất Nước của Nhân Dân được Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
của Nhân thể hiện ở bình diện - Tên đường, cuộc đời của một con đường chính là sự hóa thân từ cuộc đời,
Dân không gian - Lòng từ câu chuyện của mỗi con người
biết ơn của nhà thơ - Những con người “không tên không tuổi” đã đóng góp cho danh lam thắng
dành cho Nhân Dân cảnh của đất nước một sự hóa thân, một ý nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả
đã “góp” cuộc đời, tâm hồn dân tộc
tên tuổi, tính cách và ● Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự
số phận của mình để tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa đá
hóa thân thành ● Hòn Trống Mái cũng là một câu chuyện gắn bó của một đôi vợ
những địa danh chồng nghĩa nặng tình sâu
thắng cảnh đặc biệt ➔ Những vẻ đẹp ấy quyện hòa vào nhau bởi sự thủy chung, son

142
Cóp nhặt và sưu tầm

của Việt Nam sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người phụ nữ
Việt nói riêng
- Nghệ thuật liệt kê, điệp từ “góp”

“Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại


Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng
Vương”
- Truyền thuyết Thánh Gióng -> chứng tích “ao đầm” hình móng chân ngựa
có ở khắp chân núi Sóc Sơn, Hà Nội
- “Chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương, Phú Thọ đã “góp
mình dựng đất tổ Hùng Vương”
➔ Hình ảnh con người phi thường, hình ảnh những con
vật quen thuộc trong mỗi bản làng: ngựa, voi cùng tập
hợp lại để làm nên những thắng cảnh cho Đất Nước,
khứ hồi một thời ngoại xâm với truyền thống anh hùng
dân tộc yêu nước và quyết tâm giữ lấy nước

“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”


- Những con rồng nằm im mang dấu ấn miền Nam đậm đà
- Quan niệm: rồng phun nước là điềm lành, điềm may mắn -> lấy hình tượng
con rồng để đặt tên cho nhiều dòng sông
- Mỗi dòng sông đong chứa một câu chuyện của riêng mình

“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
- Truyền thống hiếu học được kế tụng và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ quá khứ đến hiện tại
- Vùng đất Quảng Ngãi nổi bật với ngọn núi mang hình cây bút và nghiên mực
- biểu tượng của truyền thống hiếu học
- Câu chuyện người học trò ngheo mài mực trong nghiên đá và dùng bút lông
ngỗng chấm mực -> tôn vinh truyền thống hiếu học với khát khao tạo lập

143
Cóp nhặt và sưu tầm

công danh của người xưa


➔ Thể hiện khát khao chiếm lĩnh, nâng tầm tri thức đã
in sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây

“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
- Dải đất hình chữ S Việt Nam kéo dài với những địa danh quen thuộc, gần
gũi, thân thương vô cùng bở những tên gọi đặc trưng của nó. Đất đai, ruộng
đồng, gò bãi nơi quê hương xứ sở là hóa thân của những cái tên, những cuộc
đời bình dị từ vạn vật thân thương
- Chính Nhân Dân đã biến những cảnh quan bình dị của Đất Nước thành
những danh thắng, những di tích văn hóa, lịch sử vừa thiêng liêng, vừa thân
yêu, gần gũi trong tâm thức người Việt
- Tất cả gắn liền với cuộc sống của Nhân Dân, được cảm nhận qua tâm
hồn Nhân Dân, được soi chiếu qua lịch sử dân tộc
➔ Từ những chủ thể và các cụm động từ nối tiếp nhau + nghệ
thuật liệt kê các địa danh -> khẳng định sâu sắc hình ảnh Đất
Nước của Nhân Dân
➔ Nhân Dân đã lặng lẽ góp phần đời của mình làm nên vẻ đẹp kì
thú của thiên nhiên và bề dày truyền thống văn hóa đáng tự
hào của Việt Nam

Nhà thơ nâng ý thơ lên tầm khái quát


“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông
cha Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
- Thán từ “Ôi” + dấu chấm lửng cuối đoạn -> san sẻ cùng người đọc những
cảm xúc mãnh liệt, rạo rực yêu mến và tự hào với quê hương, Đất Nước
Việt

144
Cóp nhặt và sưu tầm

Nam
➔ Nhà thơ ngầm khẳng định về sự hóa thân của nhân dân vào
bóng hình đất nước
➔ Nhân Dân không chỉ góp tên tuổi mà còn góp cả cuộc
đời mình
- Dù ở nơi đâu trên dải đất hình chữ S -> nhân dân đều gửi vào đó những
niềm ước áo, những lối sống, những số phận để “góp” mình vào hình hài
của Đất Nước
➔ Ý thơ đơn giản mà lại vô cùng sâu sắc khiến ta hình dung Đất
Nước thật gần gũi mà thân thương
- Thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” + không gian mênh mông “đi đâu ta
cũng thấy” -> sự gắn kết, hóa thân đằng đẵng của Nhân Dân, của dân tộc
trong quá trình dựng nước và giữ nước

2.Đóng góp của - Lời nhắn nhủ thiết tha tâm tình của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc
Nhân Dân trên bình cho mỗi người về một thời vàng son của dân tộc, về đạo lí “uống nước
diện lịch sử nhớ nguồn” vọng về qua mỗi câu thơ:
“Em ơi em “Đất nước bốn nghìn
Hãy nhìn rất xa năm Vất vả và gian lao
Vào bốn nghìn năm Đất Nước” Đất nước như vì sao
● Nhà thơ đã sử dụng cách gọi “Em ơi em” -> gần gũi, thiết tha, xao Cứ đi lên phía
xuyến -> câu chuyện về Đất Nước ngọt ngào như câu chuyện tình trước”
yêu (Mùa xuân nho nhỏ - Thanh
● Tiếng gọi “Em ơi” dành cho những thanh niên yêu nước vùng tạm Hải)
chiếm miền Nam -> như một lời giãi bày tâm sự, sẻ chia thấu
hiểu, không thuyết giáo lí lẽ, không hà khắc tuyên truyền
● Mở ra không gian và thời gian mênh mông xa rộng, một khoảng thời
gian đáng tự hào “Bốn nghìn năm Đất Nước” -> tự hào sâu sắc về tinh
thần quyết thắng hào hùng, trung kiên của dân tộc
● Lời nhắn gửi “Hãy nhìn rất xa” -> thời gian bất tử của đất nước, thời

145
Cóp nhặt và sưu tầm

gian ghi dấu khí thế của toàn dân tộc


- Đất Nước là kết tinh của bao công sức, bao khát vọng của Nhân Dân, từ
lớp người này đến lớp người khác đã làm nên lịch sử nước nhà
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp “Tôi muốn viết bài thơ lên
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta báng súng
Cần cù làm lụng Con lớn lên viết tiếp thay cha
Khi có giặc người con trai ra trận Người đứng dậy viết tiếp người
Người con gái trở về nuôi cái cùng con ngã xuống
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” Người hôm nay viết tiếp người
● Trong góc nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, lịch sử bốn nghìn hôm qua”
năm dân tộc là cuộc chạy đua tiếp sức không mệt mỏi của bao nhiêu (Bài thơ báng súng -
lớp người, của bao nhiêu cố gắng và hy sinh Hoàng Trung Thông)
● Người làm ra Đất Nước không chỉ là những vĩ nhân trong sử sách
lưu danh mà còn là những người dân vô danh bình dị “Ước chi được hoá thành ngọn
● Nhà thơ nhấn mạnh những người vô danh ấy “bằng tuổi chúng ta” - gió
> những thanh niên trẻ tuổi trong những ngày Đất Nước có giặc, Để được ôm trọn vẹn nước non
chiến đấu để dẹp tan quân thủ -> tinh tế, khéo léo trong thông điệp này
thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam Để thổi ấm những đỉnh đèo
● Cách dùng từ “Năm tháng nào” và “người người lớp lớp”, “con gái con buốt giá
trai” -> sự khẳng định về truyền thống đánh giặc giữ nước được Để mát rượi những mái nhà
tiếp nối, lưu truyền qua bao thế hệ nắng lửa
“Nhiều người đã trở thành anh hùng Để luôn luôn được trở lại với
Nhiều anh hùng cả anh và em đều đời…”
nhớ” (Gió và tình yêu thổi trên
● Có những anh hùng đã khắc vào lịch sử dân tộc một dấu ấn khó phai, đất nước tôi - Lưu Quang Vũ)
lập nhiều chiến công nhưng cũng có những người anh hùng vô danh,
không tiếc công mình vì non sông đất nước
● Sử dụng điệp từ “nhiều” -> khẳng định lịch sử đánh giặc cứu nước
của dân tộc đã để lại những trang sử vẻ vang
- Bằng giọng điệu thiết tha, lời thơ trữ tình - chính luận ngọt ngào, nhà thờ

146
Cóp nhặt và sưu tầm

Nguyễn Khoa Điềm đã dành trọn vẹn tình cảm cho Nhân Dân - hướng
về những người vô danh bình dị bằng những dòng thơ lay động lòng
người
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống chúng ta lứa
tuổi Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
● Đại từ phiếm chỉ “họ” -> khẳng định sự hóa thân của Nhân Dân
dành cho Đất Nước
● Cách ngắt nhịp 3-2, 2-3 luân chuyển -> gợi về dòng chảy vĩnh
hằng của sự sống, của Nhân Dân
● Họ đã “sống và chết” với Tổ quốc bằng cả một trái tim yêu và dòng
máu nóng anh hùng sục sôi trong lòng ngực
● Nhân Dân vô danh đã sống “giản dị”, chết “bình tâm” -> hiến dâng cả
tuổi xuân xanh, cả cuộc đời mình cho Tổ quốc
● Tuy “Không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã làm nên hình hài Tổ
quốc
➔ Nhà thơ nhắc nhở người đời mãi mãi nhớ ơn và khắc
ghi công ơn to lớn, sự hi sinh thiêng liêng, cao quý
của ông cha ta, của Nhân Dân bao đời
-
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con
cúi Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di
dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái
trái”
● Điệp từ “họ” xuất hiện liên tiếp trong các câu thơ là tiếng gọi chung

147
Cóp nhặt và sưu tầm

cho nhân dân, “họ” không rõ là một người nào, vì nhân dân là cả một
cộng đồng cùng đoàn kết lại
● “Họ” cùng trồng lúa, truyền nghề canh tác qua bao đời để giữ gìn
hạt gạo, rồi họ dạy cho con cháu mình bi bô tập nói tiếng mẹ đẻ…
“Có ngoại xâm thì chống ngoại
xâm Có nội thù thì vùng lên đánh
bại”
● Nhân Dân VN như cây tre vươn thẳng, đoàn kết thành một lũy
dài, sẵn sàng đối mặt với cơn mưa cơn bão
3.Phương diện chiều
sâu văn hóa, tư - “Họ” đã làm tất cả không quản gian lao, vì một lý tưởng
tưởng “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
● Bốn từ “Đất Nước” được lặp lại, nhấn mạnh “Đất Nước này là
Đất Nước của Nhân Dân”, của những bài ca dao thần thoại
- Đất Nước ấy đã dạy cho mỗi con người yêu quê hương, yêu Tổ quốc và
trưởng thành hơn
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ
đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt
thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
● Đất Nước là cái nôi ấp ủ, “dạy” chúng ta tình yêu thương gia đình
khi còn tấm bé, “dạy” ta biết quý công sức mình, quý trọng những
nỗ lực của mình
● Đất Nước còn “dạy” ta biết kiên trì, phấn đấu hết mình cho những
hoài bão, nuôi dưỡng ý chí của mình

148
Cóp nhặt và sưu tầm

➔ Tất cả học đều gợi lên rõ ràng những hình ảnh người lao động,
góp từng phần đời nhỏ tạo ra một Đất Nước kỳ vĩ nên thơ

Vế phân 1.Nhận xét phong - Chất trữ tình nằm trong xúc cảm cá nhân được bộc lộ trong thơ, thể hiện ở
hóa cách trữ tình - lối thơ tâm sự ngọt ngào đằm thắm giữa “anh” và “em”, thể hiện ở chất dân
chính luận của gian với những hình ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi cảm, là những “hạt lúa”,
Nguyễn Khoa Điềm “hòn than”, “con cúi”, là “giọng điệu”, “tên xã tên làng”,... vốn luôn hiện
hữu quanh ta hàng ngày nay được đưa vào trong thơ trở thành hình ảnh
giàu biểu cảm và ý nghĩa.

- Kết hợp với đó là chất chính luận thể hiện ở chiều sâu suy tư và cảm
nhận của tác giả về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, gắn vận mệnh
đất nước với số phận, trách nhiệm của những con người bình dị vô danh.
Đó là một quan điểm có tính thời sự, lớn lao nhưng cũng vô cùng bức thiết
trong bối cảnh chiến tranh và cả trong thời kì hòa bình. Phong cách thơ trữ
tình - chính luận cứ thế được thể hiện đặc sắc và rõ nét ở cả nội dung và
nghệ thuật của đoạn thơ.

➔ Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ sự kết hợp giữa hai
yếu tố chính luận và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc
nhìn mới mẻ về đoạn thơ nói riêng và bản trường ca nói chung.
làm cho tác phẩm có nội dung về vận mệnh Tổ quốc, khơi dậy ý chí
đồng bào nhưng lại hết sức uyển chuyển, không phải lời kêu gọi
giáo điều nhưng có sức tác động mạnh mẽ. Đây cũng là sáng tạo
trong phong cách nghệ thuật nổi bật của tác giả ở đoạn trích này
nói riêng và thiên trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung.

2.Nhận xét về cách Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy
vận dụng chất liệu vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ
(với

149
Cóp nhặt và sưu tầm

dân gian trong những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn)
“Đất Nước”
- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều
gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam
● Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng
trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than,
con cúi,...).
● Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.
● Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
● Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn
bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong
sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương,
chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý
nhị trong từng lời ăn tiếng nói…
● Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích
dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống
quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân
dân trong việc "làm ra Đất Nước"

- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên
một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi,
hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể
nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên
một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.

- Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí
giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử,
truyền thống văn hóa] nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư
tưởng mới mẻ: "Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần
thoại"

150
Cóp nhặt và sưu tầm

Só ng - Xuâ n Quỳnh

Ý đề Luận điểm Luận cứ - Dẫn chứng Liên hệ mở rộng


1.Bản chất, quy luật - Khổ 1: “Đó là cuộc hành trình khởi đầu
của “sóng” và “em” là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ
“Dữ dội và dịu êm hẹp để tìm đến một tình
Ồn ào và lặng lẽ yêu bao la rộng lớn, cuối cùng
Sông không hiểu nổi là khát vọng được sống hết
mình Sóng tìm ra tận bể” mình trong tình yêu, muốn
hóa thân vĩnh viễn thành tình
● Sử dụng nghệ thuật tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, từ yêu muôn thuở.” (GS-TS Trần
đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lí của Đăng Suyền)
người phụ nữ khi yêu (khi mãnh liệt khi lại dịu dàng).
● Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” được bản tính của sóng, “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của
nên “sóng ” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng một cánh chuồn chuồn bay
là hành trình khám phá chính bản thân mình, khát khao vươn tới tìm chỗ nương thân trong
giá trị tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ. nắng nôi dông bão của cuộc
đời ...
- Khổ 2: Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh
là sự tương tranh không
“Ôi con sóng ngày xưa ngừng giữa khắc nghiệt và yên
Và ngày sau vẫn thế lành với những biểu hiện
Nỗi khát vọng tình yêu sống động và biến hóa khôn
Bồi hồi trong ngực trẻ” cùng của chúng.” (Nhà phê bình
văn học Chu Văn Sơn)
● “Ôi con sóng ... và ngày sau vẫn thế”: dù trong quá khứ hay hiện tại
Tình yêu cũng giống như một

151
Cóp nhặt và sưu tầm

sóng luôn dạt dào, sôi nổi, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và liều thuốc tinh thần. Nó xoa dịu
bản tính của người phụ nữ muôn đời. những đớn đau, u hoài,
● “Nỗi khát vọng tình yêu ... ngực trẻ”: liên hệ tình yêu của tuổi trẻ những mặc cảm, nó làm đầy trái
với con sóng của đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc tim nóng hổi, làm người ta trăn
trưng muôn đời của tuổi trẻ. trở nhiều hơn, nghĩ
suy nhiều hơn nhưng hạnh
2.Những suy nghĩ - Khổ 3: phúc nhiều hơn, thiết tha
trăn trở về cội “Trước muôn trùng sóng bể với cuộc sống cũng nhiều
nguồn tình yêu Em nghĩ về anh, em hơn.
Em nghĩ về biển lớn Bởi, giống như thi sĩ Xuân
Từ nơi nào sóng lên?” Diệu khi xưa đã từng viết:

● Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh “Làm sao sống được mà
niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về không yêu
tình yêu muôn đời. Không nhớ không thương một kẻ
nào?”
- Khổ 4:
Khi xưa ông hoàng thơ tình
“Sóng bắt đầu từ gió Puskin đã từng viết ra những
Gió bắt đầu từ đâu? dòng tâm trạng đầy thổn thức:
Em cũng không biết
nữa Khi nào ta yêu “Em cần anh như biển xanh cần
nhau” sóng.
● Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của Có mặt biển nào yên lặng
sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời được đâu anh.
điểm bắt đầu tình tình yêu. Em yêu anh bởi vì anh là nắng.
Có hạt sương nào thiếu nắng
lại long lanh.”

Để rồi người đàn bà tự hát ấy,

152
Cóp nhặt và sưu tầm

3.Nỗi nhớ, lòng thủy - Khổ 5: cùng hòa vào nhịp sóng của
chung của người con biển cả mênh mang cất lên
gái trong tình yêu “Con sóng dưới lòng sâu lời ca của đời mình, kiếp mình:
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ “Em trở về đúng nghĩa trái
Ngày đêm không ngủ được tim em
Lòng em nhớ đến anh Là máu thịt đời thường ai chẳng
Cả trong mơ còn thức” có
Cũng ngừng đập khi cuộc
● Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác đời không còn nữa
nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác Nhưng biết yêu anh cả khi
nhau: ʻ”ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ chết đi rồi.”
được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ cũng là
nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.
● Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân
thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ
còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong
suy nghĩ.

- Khổ 6:

“Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”

● Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi
hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của
người phụ nữ giữa cuộc đời.

153
Cóp nhặt và sưu tầm

● Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình
yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người
mình yêu bằng cả trái tim.

4.Khát vọng tình yêu - Khổ 7:


vĩnh cửu trong bài
Sóng “Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

● Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ
... Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử
thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

- Khổ 8:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

● “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé
trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.
● “Như biển kia ... bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của
lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu
phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có
thể vượt qua biển rộng.

- Khổ 9:

154
Cóp nhặt và sưu tầm

“Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

● “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa
thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
● Đó là khát khao của người phụ nữ được sống trong “biển lớn tình
yêu” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu
riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

5.Nghệ thuật đặc sắc - Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con
sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu.

- Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo,
giàu sức liên tưởng

- Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ
tính

- Xây dựng hình ảnh ẩn dụ - với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực,
vừa mang nghĩa ẩn dụ

- Bài thơ sử dụng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập - tương phản,...

155

You might also like