You are on page 1of 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA TIẾNG ANH


------------

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển và vận dụng


quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay

Lớp học phần: 2325MLNP0221


Giảng viên giảng dạy: Nguyễn Thị Liên
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 3

Hà Nội, tháng 3 năm 2023


MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1.....................................................................................................7
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN...............................7
1.1 Khái niệm phát triển......................................................................................7
1.2. Tính chất của sự phát triển..........................................................................7
1.3. Vai trò của sự phát triển...............................................................................8
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................9
CHƯƠNG 2...................................................................................................10
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................10
2.1. Các khái niệm..............................................................................................10
2.1.1. Chủ nghĩa xã hội...................................................................................10
2.1.2. Thời kỳ quá độ.......................................................................................11
2.1.3. Cơ sở về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội..................................12
2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.....................................13
2.2.1. Bối cảnh lịch sử.....................................................................................13
2.2.2. Tính tất yếu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..14
2.2.3. Quá trình vận dụng quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ của
Việt Nam hiện nay...........................................................................................16
2.2.4. Những thành tựu đạt được trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.................................................................................................19
2.2.5. Mục tiêu và chủ trương phát triển của Đảng trong thời kỳ quá độ hiện
nay....................................................................................................................23
2.3. Những hạn chế trong quá trình vận dụng quan điểm phát triển vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.........................................................24
2.4. Phương hướng và giải pháp khắc phục hạn chế, tiếp tục thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian tới..........................................27
KẾT LUẬN................................................................................................... 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................31
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Mã sinh
STT Họ và tên Vai trò Nhiệm vụ
viên
- Ghi lại tiến trình
cuộc họp
22D17011 Phạm Thị Phương - Làm biên bản cuộc
21 Thư ký
7 Linh họp
- Trả lời câu hỏi phản
biện
- Làm PowerPoint các
phần:
+ Phần 2: Sự vận
dụng quan điểm phát
triển của nhà nước
22D17012 Làm
22 Từ Thùy Linh CHXHCN Việt Nam
2 PowerPoint
+ Phần gameshow
mở đầu bài thuyết
trình
- Tìm kiếm hình ảnh,
video phù hợp
- Trả lời câu hỏi phản
biện
- Giám sát, đôn đốc
thành viên làm việc
22D17012 Nhóm - Lập dàn ý cho bài
23 Hà Thành Long
6 trưởng thảo luận
- Phân công nhiệm vụ
- Làm nội dung phần
gameshow mở đầu bài
thuyết trình
- Làm nội dung
22D17013 Chuẩn bị chương 1: Cơ sở lý
24 Nguyễn Thị Ngọc Ly
0 nội dung luận của quan điểm
phát triển
25 22D17013 Nguyễn Ngọc Mai Thuyết - Thuyết trình các
5 trình phần:
+ Phần mở đầu (trò
chơi)

4
+ Phần 2: Sự vận
dụng quan điểm phát
triển của nhà nước
CHXHCN Việt Nam

26 Nguyễn Tuấn Minh - Thuyết trình phần 1:


22D17014 Thuyết
Cơ sở lý luận của quan
0 trình
điểm phát triển
- Làm word (chỉnh sửa
về lỗi chính tả, câu cú,
bản word bài thảo
luận)
22D17014 Chuẩn bị
27 Vũ Trà My - Làm nội dung
3 nội dung
chương 2, phần 2.2.
Thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Nguyễn Thị Ngát - Làm nội dung
22D17015 Chuẩn bị
28 chương 2, phần 2.1.
1 nội dung
Các khái niệm
- Chuẩn bị - Làm nội dung phần:
nội dung phần mở đầu
22D17015 - Làm - Làm PowerPoint
29 Lê Thị Thùy Ngân
3 Powerpoint phần 1: Cơ sở lý luận
của quan điểm phát
triển
- Làm nội dung
chương 2, các phần:
+ 2.3. Những hạn chế
trong quá trình vận
dụng quan điểm phát
triển vào thời kỳ quá
22D17015 Chuẩn bị độ lên chủ nghĩa xã
30 Phạm Thị Thu Ngân
6 nội dung hội ở nước ta
+ 2.4. Phương hướng
và giải pháp khắc phục
hạn chế, tiếp tục thời
kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
trong thời gian tới
5
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống, mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, phát triển và tồn tại
theo một quy luật nhất định. Sự phát triển gắn liền với tính phổ thông của mọi sự
vật, hiện tượng. Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về sự phát triển là một
nguyên lý quan trọng, là cơ sở hình thành quan điểm toàn diện. Phát triển là đặc
trưng phổ biến, phát triển là một tất yếu khách quan.
Quan điểm này cũng được ứng dụng trong thời kỳ quá độ được nhắc đến
trong triết học Mác - Lênin. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc
gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua. Thấm nhuần những tư
tưởng căn bản của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “Là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen”. Như vậy, có thể thấy quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một quá trình vận động phát triển liên tục của nhiều thành phần trong nền
kinh tế xã hội. Bởi vậy, để hiểu và vận dụng được vào thời kỳ quá độ thì trước hết
chúng ta phải nắm bắt được cơ sở lý luận về sự phát triển. Phát triển là gì? Cơ sở
của quan điểm phát triển là gì? Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong thực tiễn
chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Làm thế nào để vận dụng quan điểm
này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Để trả lời
những câu hỏi trên, chúng em quyết định thực hiện đề tài mang tên: “Phân tích cơ
sở lý luận của quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm này trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.
Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa phân
tích và tổng hợp, bài thảo luận của nhóm sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về khái niệm,
tính chất, ý nghĩa phương pháp luận của sự phát trển đồng thời đưa ra cái nhìn tổng
quát nhất về quá trình vận dụng quan điểm này trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay, cũng như đưa ra những hạn chế và những mục tiêu,
chủ trương của Đảng trong giai đoạn đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bài thảo luận của chúng em gồm 2 nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển.

6
Chương 2: Sự vận dụng quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
1.1 Khái niệm phát triển
Theo quan điểm siêu hình: Phát triển là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt
lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại mà không có sự thay đổi về chất, không có
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và nguồn gốc của sự “phát triển” đó nằm
ngoài chúng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng: Phát triển là quá trình vận động từ thấp
đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ
cao hơn. Quá trình vận động đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa tới sự ra
đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, quá trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết
mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn.
1.2. Tính chất của sự phát triển
Phát triển có tính khách quan thể hiện ở chỗ, nguồn gốc của nó nằm trong
chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không phải do tác động từ bên ngoài và đặc
biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ như hạt
lúa khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người nhưng nó
vẫn phát triển.
Phát triển có tính phổ biến, sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy, trong tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong quá
trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có
thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy luật khách qua. Một ví dụ
rõ ràng là mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội
trước.
Phát triển có tính kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng
cũ. Đó không phải là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt một
cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ mà sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại,
chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích hợp với chúng, trong khi gạt
bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật,
hiện tượng mới tiếp tục phát triển. Trong quá trình phát triển một nền văn hóa “tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ta chủ trương phải giữ gìn những truyền
thống, phong tục tốt đẹp, tuy nhiên luôn phải biết chọn lọc, giữ lại những cái tốt,
7
cái hay, phù hợp với đặc điểm của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đồng thời loại
bỏ những cái xấu, đã lạc hậu, không còn phù hợp.
Phát triển có tính đa dạng, phong phú, tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát
triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự
vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật
còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều
kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật. Chẳng
hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở
các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện
thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ
ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh
nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song, vấn đề còn ở chỗ, sự vận
dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào
những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển
đó.
1.3. Vai trò của sự phát triển
Theo triết học, sự phát triển có vai trò quan trọng trong định hướng và nâng
cao chất lượng cuộc sống con người. Cụ thể, sự phát triển được hiểu là quá trình
tiến hóa từ trạng thái tối thiểu đến trạng thái tối đa của một thực thể hoặc một hệ
thống. Sự phát triển có thể diễn ra ở nhiều khía cạnh, bao gồm mặt vật chất, tinh
thần, xã hội, văn hóa và kinh tế. Những yếu tố này tương tác với nhau và cùng
đóng góp vào sự phát triển toàn diện của con người và xã hội.
Sự phát triển được xem là quá trình phát triển nhân cách, nơi mà con người
trở thành người hoàn thiện hơn thông qua việc học hỏi và trải nghiệm. Các triết gia
tin rằng sự phát triển nhân cách đòi hỏi một quá trình không ngừng nghỉ của học
tập, tìm hiểu và trau dồi kiến thức. Những trải nghiệm mới và kiến thức mới giúp
con người mở rộng tầm nhìn, nâng cao khả năng giải quyết vấn đề và trở thành một
cá nhân đầy tự tin và sáng tạo.
Sự phát triển có tác động lớn đến các vấn đề xã hội và văn hóa. Sự phát triển
kinh tế có thể giúp tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống của con người. Trong
khi đó, sự phát triển văn hóa có thể giúp định hình và duy trì các giá trị văn hóa và
truyền thống của một xã hội.
8
Tóm lại, sự phát triển theo triết học có vai trò quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng cuộc sống con người và xã hội. Nó đòi hỏi một quá trình liên tục học
tập, trau dồi kiến thức và trải nghiệm để con người có thể trở thành một cá nhân
đầy tự tin, sáng tạo và đóng góp cho xã hội.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải tôn trọng nguyên tắc phát triển.
Thứ nhất, cần đặt sự vật, hiện tượng ở trạng thái động, nằm trong khuynh
hướng chung của sự phát triển. Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa
học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo V.I. Lênin,
“Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận
động, trong sự biến đổi của nó”, tức là trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải
có quan điểm phát triển.
Thứ hai, cần nhận thức được phát triển là quá trình trải qua nhiều giai
đoạn. Mỗi giai đoạn là sự tích lũy về lượng để dẫn đến thay đổi về chất và đặc
điểm của các giai đoạn là khác nhau. Để nhận thức và giải quyết được bất cứ
những vấn đề gì trong thực tiễn thì không chỉ cần nắm bắt được những cái hiện
đang tồn tại ở sự vật mà còn phải thấy được những biến đổi có tính chất đi lên hoặc
thụt lùi của chúng. Trên cơ sở này tìm ra phương pháp nhận thức và những cách
tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc là kìm hãm sự
phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát triển đó có lợi hay là có hại đối với đời
sống của con người.
Thứ ba, sớm phát hiện, ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho nó phát triển, đồng thời chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Để
có thể phát triển được thì cần phải khắc phục được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
lạc hậu, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết
kế thừa yếu tố tích cực từ cái cũ, phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm mục đích
thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng như quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng
ta cần phải tìm ra được những mâu thuẫn của sự vật qua hoạt động thực tiễn từ đó
giải quyết được mâu thuẫn và tìm ra được sự phát triển. Quan điểm phát triển góp
phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và

9
hoạt động thực tiễn. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định
hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải
tạo chính bản thân con người. Tuy nhiên, để thực hiện được, mỗi người cần nắm
chắc cơ sở lý luận, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
Tóm lại, chúng ta có thể rút ra được những bài học về sự phát triển như sau:
Một là, cần tích cực, chủ động nghiên cứu tìm ra được những mâu thuẫn trong
mỗi sự vật, sự việc, hiện tượng để từ đó xác định được định hướng phát triển và
những biện pháp giải quyết phù hợp.
Hai là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng thì cần đặt sự vật hiện tượng đó
trong sự vận động và phát triển. Bởi sự vật không chỉ như là cái mà nó đang có,
đang hiện hữu trước mắt mà còn phát triển, chuyển hóa.
Ba là, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với sự vật hiện
tượng, không được dao động trước những quanh co, những phức tạp của sự phát
triển ở trong thực tiễn.
Bốn là, khi kế thừa những thuộc tính, những bộ phận còn hợp lý của cái cũ thì
cần đồng thời kiên quyết loại quả những cái đã quá lạc hậu và gây ảnh hưởng, cản
trở đến sự phát triển; chủ động phát hiện, cổ vũ những cái mới, cái phù hợp; từ đó
có thể tìm cách thúc đẩy để phát triển cái mới, để cái mới chiếm đóng vai trò chủ
đạo.
CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội (CNXH), theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, là giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội (HTKT-XH) cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa
xã hội tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội nhằm giải phóng con người khỏi tình trạng áp bức, bóc lột bất công. trên
thực tế không có định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa xã hội mà nó bao gồm một loạt
các khuynh hướng chính trị từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng công

10
nhân có tinh thần các mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh
chóng và bằng bạo lực cho tới các dòng cải cách chấp nhận. Chủ nghĩa xã hội ở
Việt nam gắn liền với đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam.
Ngoài ra, chủ nghĩa xã hội còn được thể hiện ở một số nét cơ bản sau:
Một là, chủ nghĩa xã hội là ước mơ, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân lao
động về một xã hội không có chế độ tư hữu, giai cấp, áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu, cạnh tranh và tội ác...trong đó xã hội đó, nhân dân được giải phóng và có
quyền làm chủ.
Hai là, chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa là phong trào đấu tranh thực tiễn của
người dân lao động chống chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, đòi quyền dân
chủ.
Ba là, chủ nghĩa xã hội mang những tư tưởng, lý luận, học thuyết về giải
phóng xã hội loài người khỏi chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn,
lạc hậu.; xây dựng xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không
có sự phân chia giai cấp và sự khác nhau về tài sản, không có bất công, không có
cạnh tranh - một xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay.
Bốn là, nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể
hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, ý chí và quyền lực của nhân
dân lao động.
2.1.2. Thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ (TKQĐ) là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa
thành xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền
và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế
của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản
của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt
khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
C. Mác đã dự kiến rằng, sự vận động của hình thái kinh tế - chủ nghĩa cộng
sản phải trải qua ba giai đoạn: thời kỳ quá độ, giai đoạn xã hội chủ nghĩa và giai
đoạn cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã được trình bày trong tác phẩm “Phê phán
cương lĩnh Gôta”. C.Mác cho rằng, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội này sang xã hội kia. Nhà nước trong thời kỳ này là chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát ra khỏi xã hội tư

11
bản, vì vậy mà trên mọi phương diện vẫn còn mang dấu vết của tư bản chủ nghĩa.
Không chỉ bàn về phương thức quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen còn dự báo khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản đối
với một số nước trong điều kiện nhất định. Đó gọi là “con đường phát triển rút
ngắn”. Như vậy, có hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Quá độ trực tiếp- từ
những nước tư bản phát triển lên CNXH; Quá độ gián tiếp- từ những nước không
trải qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH.
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên
CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên CNXH. Ở Việt Nam là
hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [2].
Theo đó, quá độ lên CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và
lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều” [3]. Bởi vì, “chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta
phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ
hàng ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công
nghiệp”. [3]
2.1.3. Cơ sở về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã
hội, chủ nghĩa Mác - Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về
TKQĐ lên CNXH, có giá trị định hướng con đường phát triển đi lên của các dân
tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia - dân
tộc. Hệ thống đó dựa trên cơ sở khoa học bao gồm:
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C. Mác và Ph. Ăngghen phát minh
tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ sở khoa
học để nhận thức chân thực về TKQĐ. Trong đó, làm sáng tỏ, xã hội loài người đã
và sẽ trải qua lần lượt 5 hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao; tiến bộ nhất là
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy luôn
có một thời kỳ chuyển tiếp gọi là TKQĐ.
Lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Phân tích TKQĐ từ xã
hội TBCN sang xã hội CSCN ở các nước TBCN đã phát triển cao nhất, C. Mác chỉ
ra và xác định hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN: Giai
đoạn thấp là XHCN, giai đoạn cao là CSCN. Ở giai đoạn XHCN, chế độ kinh tế và
sự phát triển của văn hóa mới đạt tới giới hạn và chỉ đảm bảo cho xã hội thực hiện
nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở giai đoạn CSCN, những
12
điều đó không bị giới hạn, con người không bị lệ thuộc vào sự phát triển của lao
động, xã hội đủ điều kiện để thực hiện theo nguyên tắc “Làm hết năng lực, hưởng
theo nhu cầu”.
Xác định, luận giải về XHCN. Trong đó, C. Mác đã phân tích và chỉ ra bản
chất xã hội trong TKQĐ là “một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội
tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh
thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” và công cụ để
thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính của cách mạng giai cấp vô sản.
[4]

2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam


2.2.1. Bối cảnh lịch sử
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định rằng: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc.” [5]
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, ảnh
hưởng đến tất cả các nước ở nhiều mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội được nâng cao, ảnh hưởng đến tiến độ phát triển lịch sử và cuộc sống
của các dân tộc trên thế giới. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho
các nước, vừa đặt ra những thách thức, nhất là với các nước lạc hậu, kém phát triển
về kinh tế.
Trong tình hình đó, Liên Xô và các nước XHCN khác đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn về nhiều mặt, là chỗ dựa vững chắc cho những nước mong muốn
nền độc lập dân tộc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình thế giới.
Tuy nhiên, do đường lối cải tổ sai lầm và những khuyết điểm của mô hình chủ
nghĩa xã hội, nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số
nước đảng cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo, lợi dụng điều
đó, các thế lực đế quốc đẩy mạnh tấn công nhằm xóa bỏ các nước XHCN. Mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ngày càng gia tăng.
Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển nhưng về bản chất vẫn là một chế
độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vẫn còn đó, nhất là mâu
thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê ngày một sâu sắc hơn. Hơn nữa, khủng
hoảng kinh tế, chính trị vẫn tiếp tục diễn ra.
Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải đấu tranh với
nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp: chống nạn đói nghèo, chống chủ nghĩa thực
13
dân, chống bệnh tật… Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác của tất
cả các nước.
Như vậy, “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù
gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật
tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.” [5]
Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”.[6]
2.2.2. Tính tất yếu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đất nước ta quá độ lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN, không phải theo
phương thức trực tiếp mà phải đi qua các bước trung gian. Việc bỏ qua chế độ
TBCN, về cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại" [7]. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi:
Thứ nhất, trong lịch sử loài người giữa các hình thái kinh tế xã hội cũ và hình
thái kinh tế xã hội mới luôn có một thời kỳ quá độ. Lịch sử phát triển của loài
người luôn ghi nhận sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội (HTKT-XH),
nhưng không phải HTKT-XH này kết thúc hoàn toàn thì HTKT-XH khác bắt đầu
ngay mà giữa chúng luôn phải có một bước đệm đó là thời kỳ quá độ. Và trong
bước chuyển đó đòi hỏi chế độ xã hội đối mặt được với những khó khăn, thử thách,
thất bại.
Thứ hai, học thuyết Mác – Lê-nin cho rằng loài người phải trải qua 5 hình thái
kinh tế xã hội. Nhưng do đặc điểm về lịch sử, do điều kiện khách quan và chủ
quan, tình hình bên trong và bên ngoài chi phối, lịch sử - văn hóa của từng quốc
gia, không phải đất nước nào cũng trải qua tất cả các HTKT-XH. Sự bỏ qua này đã

14
và đang diễn ra trong lịch sử. Đi tắt để tiến lên HTKT-XH cao hơn, điều đó hoàn
toàn phù hợp với đặc thù của từng nước, phù hợp với quy luật khách quan: "... tính
quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ, mà
trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về
hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó".[8]
Thứ ba, việc bỏ qua giai đoạn TBCN quá độ lên XHCN ở Việt Nam là hoàn
toàn phù hợp với nền kinh tế. Trong hoàn cảnh lịch sử, chúng ta có những điều
kiện khách quan và chủ quan để thực hiện quá độ lên XHCN mà bỏ qua TBCN.
Điều kiện khách quan là sự phát triển thần tốc của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ làm cho lực lượng sản xuất đã phát triển đạt đến trình độ cao, tạo ra
cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện để Việt Nam có thể tranh thủ
cơ sỏ vật chất, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa của đất nước. Điều kiện chủ quan là nước ta đã giành
được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với 25 năm đổi mới đất nước sau hòa bình
đã giúp nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, lọt vào danh sách nhóm
các nước đang phát triển trên thế giới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có
quan hệ hòa bình quốc tế, có vị thế ngày càng quan trọng so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết quyết định con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta chứng minh rằng quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi ách đô hộ
của thực dân, đế quốc. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào
yêu nước chống Pháp diễn ra ở sôi nổi ở khắp nơi. Các phong trào ấy đều có đặc
điểm chung là thấm đượm tình yêu nước, song đều lâm vào bế tắc và thất bại. Đó
là kết quả của đường lối chiến lược chưa đúng đắn. Trong bối cảnh đó, bằng kinh
nghiệm sâu sắc thực tiễn của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận rằng: “chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập
cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho
tất cả mọi người, cho các dân tộc”. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối rõ ràng, xác định rằng:
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ
15
nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tan
rã, phong trào vô sản lâm vào giai đoạn thoái trào, khủng hoảng, gặp nhiều khó
khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [9]. Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa
khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử”. [6, tr.70]
2.2.3. Quá trình vận dụng quan điểm phát triển trong thời kỳ quá độ của Việt
Nam hiện nay
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tin rằng theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội và kiên
định đi theo con đường đó. Tuy nhiên, Đảng ta không vận dụng quan điểm phát
triển một cách khô cứng, trong quá trình xây lãnh đạo cách mạng Việt Nam và xây
dựng đất nước, đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta luôn được điều
chỉnh, bổ sung và hoàn thiện sao cho phù hợp với tiến trình phát triển và điều kiện
lịch sử nhất định của từng thời kỳ.
Việc vận dụng quan điểm phát triển của Đảng ta được thể hiện rõ nhất trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước từ trước đến nay.
Thứ nhất, trong khi vận dụng lý thuyết về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Đảng
ta đã cố gắng vận dụng sáng tạo vào Việt Nam.
Với hình thức quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Lê- nin
chỉ ra nhiệm vụ của thời kỳ quá độ sẽ nặng nề, khó khăn hơn bởi phải thực hiện
nhiệm vụ “kép” là xây dựng chủ nghĩa xã hội về mặt chính trị, xã hội và đạt được
những thành tựu cơ bản của chủ nghĩa tư bản về mặt khoa học, lực lượng và trình
độ sản xuất. Do vậy, ông nhấn mạnh phải trải qua nhiều bước trung gian, “bắc
những nhịp cầu nhỏ” để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong
giai đoạn đầu, chúng ta chưa nhận ra được điều này. Do áp dụng máy móc mô hình
chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, chúng ta đã không tôn trọng nguyên tắc phát triển,
đó là: Trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố

16
tích cực đã đạt được từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Việt Nam đã phủ định toàn bộ những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa. Chúng ta không thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế
tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân; xây dựng nền kinh tế
khép kín, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về tài
nguyên của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Tuy nhiên, sau đổi mới, Đảng ta đã
có nhận thức rõ hơn về việc bỏ qua chế độ TBCN: “Tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại” [7]. Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận
thức và vận dụng sáng tạo, phát triển nhiều vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm,
nội dung và các giai đoạn phát triển trong TKQĐ, có những đóng góp vào lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù quá trình nhận thức, vận dụng lý luận về
TKQĐ lên CNXH ở các giai đoạn lịch sử có những giai đoạn, công việc chưa
thành công nhưng về cơ bản, đó là quá trình hoàn thiện, bổ sung, phát triển sáng
tạo. Đó là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ hai, Đảng ta đã nhận thấy rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là lâu dài và gian nan.
Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để
tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy,
hoặc kìm hãm sự phát triển đó. Vận dụng nguyên tắc trên, trong văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã xác định rằng từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một điều tất yếu, và độ dài
của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Đối
với nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên đương nhiên phải lâu dài và rất khó
khăn. Điều đó nói lên rằng Việt Nam muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
nhiều chặng đường. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã khẳng định rằng, xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Như vậy, Đảng ta nhận thức được thời kỳ quá
độ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và

17
cái mới; đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát
triển với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen cùng phát triển. Tư tưởng
này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của thời kỳ quá độ ở nước ta từ những
năm có được hòa bình đến nay.
Thứ ba, Đảng đề ra mục tiêu rõ ràng tương ứng với từng giai đoạn phát triển
của thời kỳ quá độ ở nước ta, mạnh dạn thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa.
Trên cơ sở tính chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã đưa ra mục tiêu cụ thể tương ứng với từng giai đoạn phát triển của thời kỳ
quá độ. Trong thời kỳ đầu, nước ta xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi
kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh” [5]. Đảng ta đã chỉ
rõ nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính trị,
kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy
mô lớn. Với sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, 10 năm đầu đổi mới đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận
định nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên và bắt đầu bước vào chặng đường
tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nội dung trọng tâm là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội X của Đảng đề ra quyết tâm:
“Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [10]. Trong bối
cảnh hội nhập, sự toàn cầu hóa và khu vực hóa tạo ra những thời cơ phát triển cho
các nước đang phát triển, mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã nêu
rõ mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; kinh tế phát triển năng động, bền
vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với
nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đến
năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao [11, tr.94]. Như vậy, có thể thấy
rằng, lộ trình và mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ là tương
đối rõ ràng. Chính việc xác định cụ thể mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho từng
giai đoạn đã thể hiện sự nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Thứ tư, Đảng ta luôn chú ý đến đặc điểm xuất phát của đất nước để từ đó đề
ra những chính sách thay đổi phù hợp, đặc biệt đối với việc phát triển kinh tế.

18
Như đã biết, kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế
quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại mạnh mẽ, to lớn đối với kinh tế. Do
đó, sự tác động của chính trị đối với kinh tế trước hết và chủ yếu thông qua đường
lối, chính sách của đảng, nhà nước. Vì vậy, đòi hỏi phải có những đổi mới nhất
định về chính trị khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường. Đảng ta xác định nền kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là nền
kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát
triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đại hội IX (tháng 4/2021)
chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước
phát triển mới rất quan trọng về tư duy lý luận, thể hiện rõ vai trò định hướng
chính trị của Đảng trong sự phát triển kinh tế. Sự đổi mới trong tư duy kinh tế và
chính trị của Đảng trực tiếp được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động của
Nhà nước. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là sự tự chỉnh đốn, đổi mới tư
duy lý luận, chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo hướng vào giải quyết những
vấn đề được đặt ra trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Điều đó đòi hỏi những đổi mới nhất định trong hoạt động của Nhà nước để
phù hợp với sự phát triển kinh tế trong thời đại mới. [12, tr.179]
2.2.4. Những thành tựu đạt được trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Trong suốt quá trình lao động, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta đã từng bước
nhận thức đầy đủ hơn, hình dung rõ ràng hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chúng
ta thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Song, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đất nước ta vượt qua khó
khăn, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và khởi xướng đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập với thế giới.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII do Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trình bày đã khẳng định những thành tựu đạt được trong quá
trình quá độ lên CNXH của nước ta rằng: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn
có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết
quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn

19
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư
tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.” [13]
Ba mươi năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung phát triển năm 2011) và 35
năm đổi mới: “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới”. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế duy trì ở mức cao, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm
lực kinh tế đất nước tăng lên. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, phát triển con người, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường,
ứng phó với biến đổi khí hậu được coi trọng và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Các chính sách, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chính sách dân tộc,
tôn giáo được thực hiện có kết quả. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt
nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, dân chủ
xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp,
hành pháp và tư pháp ngày càng được hoàn thiện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu
quả rõ rệt. Nhìn một cách tổng thể, mọi lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế,
xã hội của đất nước được thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả, được
cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng lòng ủng hộ, tin tưởng, bạn bè quốc tế tín
nhiệm.
Cụ thể hơn, trước đổi mới, Việt Nam vốn là một nước nghèo bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh. Cho đến nay vẫn có hàng triệu người phải chịu các bệnh hiểm
nghèo và trăm triệu trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi chất độc Da cam/Đioxin do quân
đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam từ năm 1961 đến 1971.
Chiến tranh Việt Nam vẫn giữ kỷ lục là cuộc chiến có số lượng bom được ném
nhiều nhất trong lịch sử thế giới. Tổng số bom mà máy bay Mỹ ném xuống Việt
Nam là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số bom mà tất cả các nước đã sử dụng
trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tương đương sức công phá của 250 quả bom
nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima.Theo các chuyên gia, Việt Nam phải mất

20
hơn 100 năm nữa mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh.
Hơn nữa, sau chiến tranh, chúng ta bị Mỹ và nước phương Tây áp đặt lệnh cấm
vận kinh tế trong suốt 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp,
lương thực và hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân hết sức thiếu thốn, khoảng
3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển
liên tục với tốc độ tương đối cao với mức tăng trưởng trung bình 7% mỗi năm.
Quy mô GDP không ngừng mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền
kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, Việt
Nam không những bảo đảm an ninh lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu
hàng đầu thế giới gạo và nhiều nông sản khác. Công nghiệp phát triển khá nhanh,
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và chiếm khoảng 85% GDP. Tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ
USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD
và vốn thực hiện khoảng 200 tỷ USD đến cuối năm 2020 [14]. Năm 2020, trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế -
xã hội, nhưng với sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết
quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy
thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là
một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Thành công
đó chính là kết quả của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo,
điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả
hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả
nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm
soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong cộng đồng; hạn chế tối
đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội
cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức
cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn
2016 - 2020. Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực
hiện thắng lợi "mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch Covid-19 thành
công; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.
[10, tr.9]
Hiện tại, dân số của Việt Nam là gần 100 triệu người, gồm 54 dân tộc, trong
đó có hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát

21
khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế- xã hội những năm 1980 và cải thiện đáng
kể đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8%
năm 2016. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến cuối
tháng 11/2022, trên cả nước đã có 71,4% xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các
xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có lưới điện và mạng quốc gia, có
trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và mạng điện thoại. Trong khi chưa
có đủ điều kiện để đảm bảo miễn học phí cho mọi học sinh ở các cấp, Việt Nam
tập trung xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học năm 2000 và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35
năm qua. Theo VnExpress, hơn 97% người Việt biết chữ, tính đến năm 2020. Về y
tế, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, chống dịch bệnh, hỗ
trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được
cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ
sinh giảm gần ba lần. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 62 tuổi năm
1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng
mạng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao
nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi
đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có
HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Như vậy, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ
rệt hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển; lực lượng sản xuất
được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh; đời sống của nhân dân được cải thiện;
nền chính trị xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được đảm bảo; đối ngoại và hội
nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng
minh rằng: “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả
tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với
các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế” [10, tr.67]. Những
thành tích đặc biệt của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid -19 được nhân dân
và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.
Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh

22
mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được
nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững
bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất
nước. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân
ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh
của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".[10, tr.43]
2.2.5. Mục tiêu và chủ trương phát triển của Đảng trong thời kỳ quá độ hiện nay
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu hướng tất yếu, xuất phát từ chính
nhu cầu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Quá trình này tạo ra sự giao thoa văn
hóa mạnh mẽ giữa các quốc gia trên thế giới, tạo ra nhiều cơ hội để chúng ta hiểu
biết lẫn nhau, học hỏi và trao đổi với nhau, làm phong phú thêm nền văn hóa dân
tộc và thế giới. Điều này tạo ra những thời cơ phát triển cho các nước đang phát
triển.
Trong tình hình đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những chủ trương về quan điểm phát triển như sau:
[11, tr.92-94]
Một là, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động
nắm bắt kịp thời, tận dụng thời cơ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn
với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã
hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa kinh tế -văn hóa giữa các vùng miền, bảo vệ
môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hai là, lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật
hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Hệ thống

23
pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản
phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. Phát triển nhanh, hài hòa giữa các vùng kinh
tế; phát triển kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
Ba là, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự
cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ
thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.
Bốn là, xây dựng nền kinh tế tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ
động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của
nền kinh tế. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng doanh
nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh và huy động sức mạnh tổng hợp
của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại.
Năm là, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi
trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm
cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Dựa vào bối cảnh toàn cầu và khu vực, Đại hội XIII cũng đã nêu ra mục tiêu
chung cần thực hiện trong tình hình hiện nay là: Phấn đấu đến năm 2030, là nước
đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản
lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và
bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với
nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc,
xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an
toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; không ngừng nâng
cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
2.3. Những hạn chế trong quá trình vận dụng quan điểm phát triển vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Trước đây Việt Nam đã áp dụng máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết,
cụ thể là đã áp dụng những kinh nghiệm của Liên Xô đã được khái quát thành 9

24
quy luật của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ được Hội
nghị các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mát-xcơ-
va thông qua năm 1957, sau này Việt Nam có bổ sung thêm một quy luật nữa là
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. 9 quy luật đó được phản ánh trong các
văn kiện của các Đại hội III, IV, V. Mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu
nhất định trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng áp dụng máy móc mô hình chủ
nghĩa xã hội Xô Viết vào Việt Nam mà nội dung của nó không thừa nhận sản xuất
hàng hóa và cơ chế thị trường, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh
tế xã hội chủ nghĩa, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế
hoạch. Không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và
tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân: xây dựng nền kinh tế
khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế
về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn ngoại viện của các nước xã hội chủ nghĩa
đi trước. Thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là
bình quân, ít quan tâm tới lợi ích cá nhân. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp tràn
lan tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy được tính năng
động, sáng tạo của người lao động.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta dự báo thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ lâu dài và vì vậy đã bàn đến sự phân kỳ thời kỳ quá
độ. Các khái niệm bước đi ban đầu, chặng đường đầu tiên, chặng đường trước mắt
và chặng đường tiếp theo, nói lên rằng Việt Nam phải trải qua nhiều chặng đường.
Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định
rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ. Mặc dù Đảng ta quan niệm độ dài của thời kỳ quá độ ở
nước ta không thể ngắn như ở các nước khác, nhưng cũng có lúc ta chủ trương
phải tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội III) và dự báo khoảng 20 năm nữa sẽ
hoàn thành cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa (Đại hội IV). Cũng có ý kiến cho rằng, khoảng đến năm 2000,
Việt Nam có thể kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, những
quan niệm như vậy đã không còn nữa.
Những chính sách của nhà nước đã đạt đạt được nhiều thành tựu nhất định
nhưng chúng ta còn một số mặt hạn chế sau đây:

25
Thứ nhất, do vận dụng máy móc lý thuyết, kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa đi trước nên chúng ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ồ ạt và cũng
không tìm được động lực phát triển.
Thứ hai, mặc dù Đảng ta đã nhận thấy thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là lâu dài, nhưng do bệnh chủ quan duy ý chí, nhiều chủ trương, chính sách
đã tỏ ra nóng vội, muốn “đốt cháy giai đoạn” nên hậu quả nhận được không như
mong muốn.
Thứ ba, cả một thời gian dài chúng ta hiểu không đúng về khái niệm bỏ qua
chủ nghĩa tư bản, nên đã phủ định sạch trơn những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. [12, tr.168-171]
Để khắc phục những hạn chế, Đảng ta đã nỗ lực đổi mới cách thức tiếp cận
chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên, chúng ta vẫn mắc không ít khuyết điểm và đối mặt với
nhiều thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước trong thời đại hội nhập
hóa.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững;
kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong
đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi;
công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Chúng ta không đạt mục
tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Kinh tế tri thức chưa được
quan tâm phát triển. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt
trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ cũng đặt ra nhiều nguy cơ về
việc suy thoái đạo đức, lối sống. Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần hiện nay, ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn
đóng góp, theo hiệu quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng
gia tăng, bất công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây
căng thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới
chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa
xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối
khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu
của việc này là do sự suy thoái về lý tưởng xảy ra ở nhiều tầng lớp, nhất là lối sống
thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang và từng ngày từng giờ tác động đến cán
bộ, đảng viên và nhất là tầng lớp trẻ. Các đội ngũ này có vai trò quan trọng trong
học tập, rèn luyện và làm nên bộ mặt mới của đất nước. Nhưng khi lý tưởng không

26
được đảm bảo thì sẽ dẫn đến sự lệch lạch rất lớn về nhận thức dẫn đến nhiều hành
động thiếu suy nghĩ, thiếu hiểu biết.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y
tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình
trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống
vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chưa kiểm soát tốt quyền lực
trong bộ máy Đảng và chính quyền, mô hình, phương thức kiểm soát quyền lực
trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng chưa rõ. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù
địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện
âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những hạn chế trên do những nguyên nhân chủ yếu: Nhận thức lý luận của
chúng ta về một số vấn đề như tiêu chí của nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
tiêu chí nền kinh tế tri thức; hệ tiêu chí giá trị văn hóa Việt Nam; hệ tiêu chí con
người mới Việt Nam chưa thống nhất. Những nội dung, phương thức của đảng cầm
quyền, mô hình bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả còn chưa rõ. Mô
hình, phương thức kiểm soát quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước còn chưa
rõ. Lý luận về phát triển kinh tế tri thức hướng tới đáp ứng cách mạng công nghiệp
4.0 chưa rõ. Điều này dẫn đến lúng túng trong triển khai, tổ chức thực hiện và kết
quả chưa được như mong muốn.
Chúng ta còn có biểu hiện chủ quan trong thực hiện mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng Đảng về đạo đức còn có biểu hiện chưa thật
quyết liệt, chưa thật quyết tâm. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương của
Đảng còn chậm. Việc triển khai, tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của
Đảng chưa linh hoạt, việc tổng kết, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm chưa kịp
thời. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, nhất là cán bộ cấp chiến lược chưa ngang
tầm nhiệm vụ.
2.4. Phương hướng và giải pháp khắc phục hạn chế, tiếp tục thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian tới
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập
và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các
nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng
phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc
tế. Do đó, Đảng và nhà nước trong thời gian tới cần phải:
27
Một là, luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của
chủ nghĩa Mác Lênin. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên
tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học
để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp
thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc
hậu so với cuộc sống.
Hai là, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò sáng
tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Đồng thời phải nghiên cứu, tham
khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.
Ba là, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực,
trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ,
hiện đại cả về kinh tế và xã hội.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất
lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn
hoá cho nhân dân.
Năm là, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Sáu là, ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng,
nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh,
giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo
một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một
sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ
trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh
mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp

28
nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường
lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội
nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng
chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và
dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế
giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi
quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới
và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ
sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền
tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin - học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách
mạng triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị
bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ
còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong
thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn
lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và
khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được
tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ,
lạc hậu so với cuộc sống.

29
KẾT LUẬN
Quan điểm phát triển là phạm trù triết học quan trọng và cơ bản nhất trong
cuộc sống. Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động
của sự vật cũng như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Hiểu
được cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, luôn luôn xem xét nhưng
ưu điểm của cái cũ, chú trọng tận dụng những gì tiến bộ và phát triển nó, bên cạnh
đó lược bỏ đi những gì tiêu cực, không phù hợp với thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Từ cơ sở đó, trong 35 năm thực hiện đổi mới, với những thành tựu hết sức khả
quan cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự
đồng thuận của nhân dân, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất
định thắng lợi.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết đồng thuận một lòng xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên
con đường quá độ đi lên CNXH, làm cho vị thế của Việt Nam ngày càng trở nên
quan trọng trong khu vực và trên thế giới, dân tộc Việt Nam bước đến đài vinh
quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới./.

30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác- Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.12, tr. 411.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.10, tr. 324, 329.
4. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 1995, tr.47, 33, 47.
5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011).
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 69, 70.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tr. 84.
8. V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 45, tr.431.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà
Nội, 2002, t.2, tr.94.
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006.
11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2021.
12. Lê Hữu Tầng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn mới về định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, 2014.
13. Tham khảo: https://moha.gov.vn/tin-noi-bat/toan-van-bao-cao-cua-ban-chap-
hanh-trung-uong-khoa-xii-do-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-trinh-bay-45761.html
14. Tham khảo: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-
ttpltc?dDocName=MOFUCM200756
15. Tham khảo:
https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/
content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-
len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam
31
16. Tham khảo: https://sotttt.sonla.gov.vn/1229/27531/6134/635159/bao-chi-xuat-
ban/-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-
len-chu-nghia-xa-hoi-o-v
17. Tham khảo: https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-phuong-huong-co-ban-
cua-qua-trinh-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi.html?fbclid=IwAR24ZZsdG-
FnCEAQ5lqdTZXnw7lMO9Y5rUAYXe6nCPg9vjyHuo-kbDWsAOA
18. Tham khảo: https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-phuong-huong-co-ban-
cua-qua-trinh-xay-dung-chu-nghia-xa-hoi.html?fbclid=IwAR24ZZsdG-
FnCEAQ5lqdTZXnw7lMO9Y5rUAYXe6nCPg9vjyHuo-kbDWsAOA
19. Tham khảo: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ly-luan-ve-thoi-ky-qua-
do-len-chu-nghia-xa-hoi-cua-chu-nghia-mac-lenin-va-su-bo-sung-phat-trien-cua-
dang-ta-619688.html

32

You might also like