You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ

TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

ĐỀ TÀI:
Anh (chị) hãy phân tích tình hình lạm phát
của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021?
Theo anh (chị) trong năm 2022 Việt Nam đối
mặt với những áp lực nào về lạm phát?
Nhóm: 6
Lớp: 4621
Nhóm trưởng: Hồ Vũ Phương Thảo

Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2022.

BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM


Nhóm: 6
Lớp: 4621
Bộ môn: Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Anh (chị) hãy phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong
giai đoạn 2016-2021? Theo anh (chị) trong năm 2022 Việt Nam đối mặt
với những áp lực nào về lạm phát?

1. Kế hoạch làm việc của nhóm:


a) Giữa tuần 2: Nhóm nhận và lựa chọn đề tài từ bộ môn Kinh tế vĩ mô
b) Cuối tuần 2:
- Nhóm trưởng lên dàn bài chi tiết cho đề tài
- Họp nhóm để các thành viên nhóm bổ sung, thống nhất dàn bài
c) Tuần 3:
- Nhóm trưởng phân công công việc, nhiệm vụ cụ thể cho từng
thành viên nhóm
- Mọi thành viên có nhiệm vụ tìm hiểu khái quát, hoàn thành
những phần việc mình được giao
- Nhóm trưởng giám sát và đốc thúc tiến độ làm việc, giúp đỡ và
hỗ trợ các thành viên trong quá trình nghiên cứu bài tập nhóm
d) Giữa tuần 3: Các thành viên nộp sản phẩm nghiên cứu của mình,
các thành viên được phân công nhiệm vụ tổng hợp tiến hành tổng
hợp lại các sản phẩm
e) Cuối tuần 3:
- Nhóm trưởng tiến hành họp và đánh giá, bổ sung, hoàn thiện sản
phẩm, các thành viên nộp lại sản phẩm hoàn thiện vào cuối tuần
- Nhóm trưởng tiến hành thiết kế bài tập nhóm
f) Tuần 4:
- Hoàn thành word, powerpoint và bản thuyết trình
- Nhóm trưởng tổng kết, nhận xét và đánh giá lại quá trình hoạt
động nhóm của từng thành viên
- Nộp bài tập nhóm cho giáo viên và tập thuyết trình

2. Bảng đánh giá hoạt động nhóm:

STT Họ và tên Công việc Tiến độ Mức độ Họp nhóm Xế


thực hiện công việc hoàn thành lo
(đúng hạn)
Đóng
Tha Tích
góp
Không m gia cực
Có Không Tốt nhiều
tốt đầy sôi
ý
đủ nổi
tưởng
Phụ trách tìm
Vũ Thị Kim hiểu phần II
1 X X X X X A
Oanh Thiết kế
powerpoint
Phụ trách tìm
Hoàng Thị hiểu phần II
2 X X X X X A
Phương Tổng hợp phần
II
Phụ trách phần
III
Nguyễn Hồng
3 Thuyết trình và X X X X X A
Quân
soạn bản thuyết
trình
Phụ trách mục
Kiều Thúy
4 3,4 phần I X X X X X A
Quỳnh
Tổng hợp phần I
Phụ trách phần
Nguyễn Thị III
5 X X X X X A
Diễm Quỳnh Tổng hợp phần
III
Phụ trách phần
III
6 Lê Thanh Sơn Thuyết trình và X X X X X A
soạn bản thuyết
trình
Nhóm trưởng
Hồ Vũ Phương
7 Phụ trách phần II X X X X X A
Thảo
Làm word
Phụ trách phần
Nguyễn Thị mở đầu, kết
8 X X X X X A
Phương Thảo luận, mục 1,2
phần I

Hà Nội, ngày 21 tháng 05 năm 2022


Nhóm trưởng
(Ký và ghi rõ họ tên)
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
và giành được sự quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, hoạch định cũng
như công chúng. Ở Việt Nam lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm.
Một số nhà kinh tế học cho rằng “Lạm phát là hiện tượng tiền được cung ứng
nhiều hơn mức cần thiết hoặc do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông lớn
hơn khối lượng tiền cần thiết” hoặc cho rằng “Lạm phát là quá nhiều tiêu
được bỏ ra để săn lùng quá ít hàng hóa”, “Lạm phát là hiện tượng bội chi lâu
dài của ngân sách nhà nước”, “Lạm phát là một khối u ác tính, thể hiện sự nở
phồng lên của tiền tệ”. Do là vấn đề hết sức phức tạp nên nó đòi hỏi sự đầu tư
lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Cùng
với sự phát triển ngày càng đa dạng và phong phú của nền kinh tế, nguyên
nhân lạm phát cũng ngày càng phức tạp. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà
nước, việc nghiên cứu về lạm phát, đánh giá, phân tích tìm hiểu nguyên nhân
và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự phát triển
đất nước.
Vì vậy, trong phạm vi môn học, nhóm em lựa chọn đề tài “Phân tích tình hình
lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2016- 2021? Theo anh (chị) trong năm
2022 Việt Nam đối mặt với những áp lực nào về lạm phát?” Tuy nhiên, do
còn những hạn chế nhất định trong nhận thức lý luận và hiểu biết thực tiễn
nên bài tiểu luận sẽ khó tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự
đóng góp để hoàn thiện hơn phương pháp học và nghiên cứu môn kinh tế vĩ
mô.

I. Cơ sở lý luận:
1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. Khi
mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch
vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên
một đơn vị tiền tệ.

2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát


2.1. Lạm phát do cầu kéo:

Lạm phát do cầu kéo (demand-pull inflation) là sự gia tăng mức giá chung do
tổng cầu vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế.
Tại mức sản lượng toàn dụng (bằng tổng sản phẩm trong nước tiềm năng )
tình trạng dư cầu đẩy giá lên cao trong khi khối lượng hiện vật không thay
đổi. Theo lý thuyết tiền tệ, tình trạng dư cầu có nguyên nhân của sự gia tăng
cung tiền lên trên mức tăng của tổng sản phẩm quốc dân.

2.2. Lạm phát do chi phí đẩy

Khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên thực tế đã
xảy ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở các nước phát triển cao. Đây là đặc
điểm của lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng
thêm thất nghiệp nền còn được gọi là “Lạm phát đình trệ”.

2.3. Lạm phát do cầu thay đổi

Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng
cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc
quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc (chỉ có thể tăng mà không thể giảm),
thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng
có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến
lạm phát.

2.4. Lạm phát do xuất, nhập khẩu


Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, khi đó sản phẩm
được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong
nước giảm sẽ khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung
và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.

Có nguyên nhân gây ra lạm phát từ việc xuất khẩu thì cũng có nguyên nhân
gây ra lạm phát từ việc nhập khẩu. Giá hàng hóa nhập khẩu tăng có thể xuất
phát từ thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng làm giá bán sản
phẩm trong nước tăng lên. Giá bị đội lên qua những nhân tố này làm lạm phát
xuất hiện.

2.5. Lạm phát do cơ cấu

Khi doanh nghiệp đi vào kinh doanh hiệu quả thu được một số lợi nhuận đáng
kể sẽ tự thúc đẩy nhân công bằng việc tăng lương. Tuy nhiên một số doanh
nghiệp lại không đạt được mục tiêu kinh doanh hiệu quả mà vẫn phải tăng
lương cho nhân công để giữ chân họ. Lúc này không còn cách nào khác ngoài
việc tăng giá cả sản phẩm làm lạm phát phát sinh.

3. Tác động của lạm phát tới nền kinh tế

Lạm phát có những tác động đến nền kinh tế của một đất nước theo nhiều mặt
gồm cả tích cực và tiêu cực. Trong đó:

3.1. Về mặt tích cực

Khi tốc độ lạm phát vừa phải, từ 2 - 5% ở các nước phát triển và dưới 10% ở
các nước đang phát triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như sau:

- Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư, giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.
- Giúp các chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích
đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng,
giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực trong xã hội theo các định
hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
3.2. Về mặt tiêu cực

So với mặt tích cực, lạm phát có những ảnh hưởng tiêu cực hơn đến nền kinh
tế khi tác động đến nhiều yếu tố, có thể kể đến như:

Lạm phát tác động lên lãi suất:

Đây là sự tác động tiêu cực nhất của lạm phát. Khi lạm phát tác động trực tiếp
lên lãi suất sẽ dẫn đến việc ảnh hưởng đến các yếu tố khác của nền kinh tế.
Nhằm duy trì hoạt động ổn định, ngân hàng cần ổn định lãi suất thực. Trong
khi đó: Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.

Do đó khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định và thực
dương thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi
suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái
kinh tế và thất nghiệp gia tăng.

Lạm phát ảnh hưởng đến thu nhập thực tế:

Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan hệ
với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa
không thay đổi thì làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống.

Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thật của những tài sản không có lãi mà
nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập
thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Đó là do chính sách thuế của nhà
nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao,
những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao
mặc dù thuế suất vẫn không tăng.

Từ đó, thu nhập ròng của người cho vay bằng thu nhập danh nghĩa trừ đi tỷ lệ
lạm phát bị giảm xuống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế xã hội. Như suy
thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó
khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ…
Thu nhập thực tế và phân phối thu nhập bình đẳng

Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan hệ
với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Lạm phát tăng nhưng thu nhập danh nghĩa không
đổi khiến thu nhập thực tế bị giảm xuống. Lạm phát không chỉ giảm giá trị
thật của những tài sản không có lãi mà còn làm hao mòn giá trị của những tài
sản có lãi do chính sách nhà nước tính lãi theo cơ sở thu nhập danh nghĩa.
Hậu quả là suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống người lao động
khó khăn và mất niềm tin vào chính phủ.

Nợ quốc gia

Lạm phát cao giúp chính phủ nhận được khoản lợi từ thuế đánh vào thu nhập
của người dân. Tuy nhiên, khoản nợ nước ngoài trở nên trầm trọng hơn do tỷ
giá đồng tiền trong nước trở nên mất giá so với đồng tiền nước ngoài tính trên
các khoản nợ.

II. Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021

Lạm phát là vấn đề chung của các quốc gia đang phát triển, đang hướng đến
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và Việt Nam không nằm trong ngoại
lệ đó. Trong những năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn 2016-2021 kinh tế Việt
Nam luôn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát tốt và
luôn giữ mức ổn định khi lạm phát bình quân chỉ tăng 3,15%/năm, thấp hơn
mục tiêu mà Quốc hội đề ra.

Giá cả các mặt hàng diễn biến tương đối ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 4%, giảm mạnh so với giai đoạn
2011 - 2015 (7,65%), trong phạm vi mục tiêu đề ra (dưới 4%). Lạm phát cơ
bản bình quân được kiểm soát tốt qua các năm, giữ mức tương đối ổn định,
bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 1,64%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011
- 2015 là 5,15%.

Theo Tổng cục Thống kê, lạm phát của năm 2016 tăng cao hơn năm 2015,
nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng bình quân của một số năm gần đó,
đồng thời vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu 5% mà Quốc hội đề ra. CPI bình
quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015, bình quân mỗi tháng
CPI tăng 0,39%. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2016 tăng 1,83% so với
bình quân năm 2015. Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 0,11% so với
tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ những yếu
tố làm tăng giá các mặt hàng, dịch vụ trong thời gian ngắn như xu hướng thì
lạm phát của Việt Nam chỉ vào khoảng 1-2% và là mức tương đối thấp. Hơn
nữa, mức lạm phát thấp này đã được duy trì tương đối ổn định kể từ giữa năm
2016, khi lạm phát cơ bản chỉ dao động xoay quanh mức 0,1%/tháng.
Theo cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, năm 2017 là năm
thành công của nước ta trong kiểm soát và ổn định lạm phát. Năm 2017, CPI
bình quân chỉ tăng 3,53% so với năm 2016 và CPI tháng 12 tăng 2,6% so với
tháng 12 năm 2016. Lạm phát cơ bản tháng 12/2017 tăng 0,11% so với tháng
trước và tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước.Cũng theo Tổng cục Thống kê,
lạm phát cơ bản bình quân năm 2017 tăng 1,41% so với bình quân năm 2016.
Như vậy, lạm phát năm nay của Việt Nam chỉ dừng ở con số 3,53%, thấp hơn
mục tiêu 4% mà Quốc hội đề ra.
Năm 2018 vẫn tiếp tục là năm thành công trong việc kiểm soát lạm phát
của nước ta. Chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với
năm 2017 và tăng 2,98% so với tháng 12 năm 2017, đạt chỉ tiêu Quốc hội đề
ra là giữ CPI bình quân năm 2018 dưới 4%. Lạm phát cơ bản tháng 12/2018
tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Lạm
phát cơ bản bình quân năm 2018 tăng 1,48% so với bình quân năm 2017. Như
vậy, mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2018 dưới 4% đã
đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các mặt hàng do nhà
nước quản lý đặt ra trong năm 2018.
CPI bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với năm 2018, là mức tăng bình
quân năm thấp nhất trong 3 năm liên tiếp. CPI tháng 12 năm 2019 tăng 5,23%
so với tháng 12 năm 2018. Cùng với diễn biến tăng, giảm giá cả thị trường,
CPI các tháng cũng tăng, giảm theo xu hướng của thị trường. CPI tăng cao
nhất vào tháng 2 tăng 0,8%, tháng 11 tăng 0,96%, tháng 12 tăng 1,4%. Lạm
phát cơ bản bình quân tăng từ 1,48% năm 2018 lên 2,01% năm 2019. Mặt
bằng giá thị trường trong năm 2019 biến động theo hướng tăng cao trong
tháng diễn ra Tết Nguyên đán, giảm nhẹ trong tháng 3, tăng dần trở lại trong
hai tháng tiếp theo, sau đó giảm trở lại vào tháng 6 và tiếp tục tăng vào các
tháng cuối năm. Như vậy, mặc dù giá cả thị trường biến động khá lớn nhưng
Chính phủ và nhà nước đã thành công kiểm soát và bình ổn lạm phát trong
nước.
Sang năm 2020, CPI bình quân tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu
kiểm soát lạm phát, giữ CPI bình quân năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra
trong bối cảnh một năm với nhiều biến động khó lường, chủ yếu do giá các
mặt hàng thực phẩm tăng 12,28% so với năm trước (làm CPI chung tăng 2,61
điểm phần trăm). CPI tháng 12/2020 tăng 0,19% so với tháng 12/2019, là
mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Lạm phát cơ bản bình quân năm
2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019. Lạm phát cơ bản tháng 12/2020
tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước. Ở
góc độ điều hành vĩ mô, Chính phủ luôn chỉ đạo đúng đắn, kịp thời nhằm
khống chế đà tăng CPI ngay từ đầu năm.
Bước sang năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng
tăng cao, giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển
liên tục tăng nhưng CPI tăng 1,84% so với năm trước, mức tăng thấp nhất kể
từ năm 2016 đạt mục tiêu Quốc hội đề ra, tiếp tục được đánh giá là năm kiểm
soát lạm phát thành công của Chính phủ Việt Nam. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12/2021 giảm 0,18% so với tháng trước và tăng 1,81% so với tháng
12/2020. Theo đó, mức lạm phát năm 2021 chỉ có 1,84% và lạm phát cơ bản
12 tháng tăng 0,81%, thấp nhất kể từ năm 2015. Với mức lạm phát này Việt
Nam cũng đang là một “làn gió ngược” trong xu hướng lạm phát của thế giới
tính đến thời điểm hiện tại.

2. Nguyên nhân gây ra lạm phát 2016-2021 (cut phần thừa)


- Đồng USD suy yếu trong những năm gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng
giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực thực phẩm… từ đó tác động xấu đến
giá cả ở Việt Nam. Năm 2020, ảnh hưởng của dịch Covid-19 và chiến tranh
thương mại Mỹ-Trung làm cho giá vàng thế giới đang ở mức cao nhất trong
vòng 6 năm qua bất chấp tăng trưởng toàn cầu sụt giảm. Giá dầu thế giới năm
2021 tăng hơn 50%, sắt thép tăng gần 50%, phân bón tăng “vọt” 60-80%,...
Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu cũng xuất với giá tăng rất cao,
đặc biệt là giá lương thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ
đó làm ảnh hưởng lớn đến giá cả chung trong nước, nên CPI tăng mạnh.
- Sự bùng nổ của đại dịch COVID-19 cũng ảnh hưởng đến lạm phát tại Việt
Nam trong giai đoạn này. Do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trên thế
giới khiến cho nhu cầu về thuốc và thiết bị y tế tăng nhanh. Điều này dẫn đến
giá của những mặt hàng này tăng lên nhanh chóng như giá thuốc và thiết bị y
tế tăng 1,35% vào năm 2020. Nhu cầu tích lũy của người dân trong thời gian
giãn cách xã hội khiến cho nhiều mặt hàng trở nên khan hiếm, làm cho CPI
tăng lên.
- Chính sách tài khóa không hiệu quả là nguyên nhân của lạm phát ở nước ta.
CSTK chưa phát huy được hiệu quả vai trò “đòn bẩy” trong việc huy động
nguồn lực tư nhân để thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng toàn diện. Vai trò
của nguồn lực tư nhân trong việc thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng toàn
diện còn khá hạn chế. Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng
kế hoạch đầu tư của Chính phủ kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, gây lãng phí lớn
trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà, trong khi đồng
lương của nhân dân lao động, những người công chức nhà nước thì quá thấp
so với thời giá.
- Một trong những nguyên nhân quan trọng đóng vai trò làm tăng lạm phát của
nước ta giai đoạn 2016-2021 là các Nghị định, Thông tư của Chính phủ, của
các Bộ và cơ quan ngang bộ. Cụ thể giá các mặt hàng y tế tăng 2 bước theo
Thông tư liên tịch và một số Thông tư khác làm giá các mặt hàng dịch vụ y tế
tăng 77,57% năm 2016, bình quân cả năm 2017 tăng 57,91%, tăng 13,86%
vào năm 2018 và tăng 4,65% năm 2019. Lộ trình tăng học phí theo Nghị định
của Chính phủ làm tăng chỉ số giá nhóm giáo dục hay giá điện sinh hoạt điều
chỉnh tăng theo Quyết định của Bộ Công Thương cũng là nguyên nhân tăng
CPI trong các năm này. Ngoài ra mức tiền lương tối thiểu vùng áp dụng cho
người lao động ở các doanh nghiệp cùng mức lương cơ sở áp dụng cho cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang tăng đã làm cho giá một số
loại dịch vụ tăng theo kéo CPI tăng lên.
- Việc tổng cầu của người dân tăng lên vào các dịp lễ Tết cũng là nguyên nhân
làm tỷ lệ lạm phát tăng lên. Như năm 2017, tổng cầu trong dịp đến Nguyên
đán đối với các mặt hàng đồ uống, thuốc lá và giá các loại quần áo may sẵn
tăng nhanh. Bình quân năm 2017, chỉ số giá các nhóm mặt hàng này lần lượt
tăng 1,52% và 1,07% so với năm 2016. Hay dịp Tết năm 2018, giá các mặt
hàng lương thực tăng 3,71% so với cùng kỳ năm trước; nhu cầu du lịch tăng
cao vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Tuất và các kỳ nghỉ lễ 30/4-1/5 và 2/9 nên
chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói tăng 1.87% so với cùng kỳ năm trước; giá các
mặt hàng, dịch vụ khác cũng tăng cao như giá thịt lợn, dịch vụ giao thông vận
tải, giá thuê nhà ở, các nguyên nhiên liệu nhập khẩu,...
- Một trong những nguyên nhân cũng góp phần vào mức lạm phát gia tăng tại
VN hiện nay là yếu tố tâm lý của người dân. Đặc biệt là yếu tố đầu cơ, găm
hàng, làm giá rất “kinh nghiệm” của các đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ,
các đại lý bán lẻ tại VN.
- Ngoài các nguyên nhân làm tăng thì cũng có một số nguyên nhân làm CPI
giảm từ đó khiến cho tỷ lệ lạm phát không quá tăng cao. Giá các mặt hàng
thiết yếu như xăng, dầu giảm 23,03% so với năm trước; giá dầu hỏa giảm
31,21%; giá gas trong nước giảm 0,95% do ảnh hưởng của giá nhiên liệu thế
giới; nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-
19 làm giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước; giá cước
vận tải của các loại phương tiện như tàu hỏa, máy bay giảm vào năm 2020.
Tổng cầu nền kinh tế vẫn chưa hồi phục trong bối cảnh quý II và quý III chịu
tác động rất lớn bởi tình hình dịch bệnh; một số lĩnh vực vẫn chịu tác động
mạnh của dịch bệnh như dịch vụ văn hóa, giải trí du lịch giảm mạnh, tiêu
dùng cơ bản ở mức thấp vào năm 2021 cũng là nguyên nhân làm giảm áp lực
lên mặt bằng giá.

3. Các chính sách của Nhà nước (theo bản cut của Thảo)
Bám sát các chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, quyết liệt, chỉ đạo hệ
thống các tổ chức tín dụng triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các
chính sách vĩ mô khác nhằm đảm bảo kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
- Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm 1,5-2,0%/năm lãi suất điều hành,
sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận
nguồn vốn chi phí thấp từ Ngân hàng Nhà nước; giảm 0,6-1,0%/năm trần lãi
suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho
vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ giảm chi phí vay
vốn của doanh nghiệp, người dân.
- Ngân hàng Nhà nước thể hiện điều hành tín dụng linh hoạt, an toàn, hiệu quả,
tập trung vào sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính
phủ.
- Cơ cấu lại nguồn thu, theo đó, tăng tỷ trọng thu nội địa, bao quát các nguồn
thu, mở rộng cơ sở thu, đặc biệt là nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc
tế; đảm bảo tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu ở mức hợp lý. Tăng
cường quản lý thu, hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thu, chống thất
thu, chuyển giá, gian lận thương mại.
- Về điều hành chi Ngân sách Nhà nước, trước tình hình phức tạp của dịch
bệnh, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan
ban hành một số chế độ đặc thù đối với những người trực tiếp tham gia công
tác phòng, chống dịch và những người phải cách ly tập trung; xây dựng cơ
chế đảm bảo kinh phí và thu xếp bố trí nguồn ngân sách trung ương để thực
hiện.
- Cơ chế phối hợp điều hành giá giữa các bộ, ngành chính là điểm nhấn trong
công tác kiểm soát lạm phát của nước ta như:
- Bộ Y tế điều chỉnh giá dịch vụ y tế ở 36 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã bàn bạc, thảo luận với Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính trong phối
hợp xây dựng phương án, đánh giá tác động, cân nhắc mức độ, thời điểm điều
chỉnh, đảm bảo hài hòa với việc điều chỉnh giá cả các dịch vụ khác, hạn chế
tác động mạnh tới mặt bằng giá cả của thị trường.
- Ngành công thương phối hợp với các ngành liên quan chỉ đạo các doanh
nghiệp thương mại dự trữ hàng hóa, tham gia bình ổn thị trường phục vụ Tết
Nguyên đán nên không xảy ra hiện tượng tăng giá đột biến vào dịp Tết.
- Về quản lý giá xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương điều
hành kinh doanh xăng dầu phù hợp tình hình thị trường thế giới và trong nước
góp phần thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
- Bộ Công Thương chủ động trong điều hành sản xuất và phân phối các nguồn
hàng để ứng phó kịp thời với các chính sách kinh tế của các nước có quan hệ
thương mại lớn hiện nay; phối hợp với các Bộ, ngành có những giải pháp đẩy
mạnh xuất khẩu; kiểm soát tình hình nhập khẩu...; phối hợp với Bộ Giao
thông vận tải và các Bộ, ngành liên quan tăng cường các giải pháp giảm các
chi phí trong dịch vụ logistic để tăng cường năng lực cạnh tranh, giảm chi phí
cho nền kinh tế.
- Chính phủ cũng các Bộ, ngành và liên ngành luôn có những quyết định, nghị
định, thông tư để kịp thời và linh hoạt điều chỉnh giá, giảm sức ép lên mặt
bằng giá, kiểm soát và ổn định lạm phát :
- Các Bộ, ngành đã thực hiện nghiêm túc các kết luận của Trưởng Ban chỉ đạo
điều hành giá tại Thông báo số 226/TB-VPCP ngày 04/7/2019 của Văn phòng
Chính phủ; Bộ Tài chính với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo đã
phối hợp chặt chẽ với các Bộ tổng hợp và các Bộ chuyên ngành trong công
tác điều hành giá, kiểm soát lạm phát, làm tốt công tác tuyên truyền, minh
bạch thông tin về giá.
- Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-BTC ngày 21/12/2020 về việc
tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá trong dịp Tết Nguyên
đán Tân Sửu năm 2021, trong đó chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ Tài chính, Sở
Tài chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động triển khai thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ về quản lý, điều hành, bình ổn giá cả thị
trường và thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo trong dịp Tết Nguyên đán
nhằm kịp thời nắm bắt tình hình thị trường và có các biện pháp kịp thời, phù
hợp nhằm bình ổn thị trường khi cần thiết.
- Năm 2020, Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản
xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19 như gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng. Các cấp,
các ngành tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để ngăn chặn
diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, bảo đảm cân đối cung cầu và ổn
định thị trường.
- Bộ Tài chính đã có công văn số 4896/BTC-QLG ngày 14/05/2021 đề nghị Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục tăng cường
công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá cả thị trường trên địa bàn để hỗ trợ
cho việc thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ, vừa giữ ổn định mặt bằng giá
để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, vừa
hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tránh để xảy ra các biến động bất thường
về giá ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội.
- Bộ Tài chính tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các
đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện công tác quản
lý bình ổn giá tại một số địa phương. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đã tập
trung đẩy mạnh công tác tổng kết, đánh giá thi hành Luật Giá; rà soát để xác
định các nội dung chồng chéo, vướng mắc; không còn phù hợp tại các văn
bản quy phạm pháp luật về giá, trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi hoàn thiện
pháp luật. Một số hàng hóa dịch vụ quan trọng thiết yếu tiếp tục được đề xuất
giảm giá để hỗ trợ nền kinh tế như: Mặt hàng điện, Dịch vụ chứng khoán, mặt
hàng Xăng dầu, Sách giáo khoa… Trong đó, tiếp tục thực hiện chủ trương giữ
ổn định giá điện bán lẻ bình quân để đảm bảo hỗ trợ cho người dân, doanh
nghiệp.
Nhờ các biện pháp quản lý, các chính sách, đường lối của nhà nước luôn bám
sát kịp thời với giá cả thị trường đã được triển khai quyết liệt; sự phối hợp
điều chỉnh giá giữa các bộ, ngành; tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường
phối hợp linh hoạt với các chính sách tài khóa, tiền tệ, thương mại đã giúp
cho cung cầu nói chung cơ bản ổn định, tỷ lệ lạm phát ở nước ta luôn duy trì ở
mức thấp và ổn định, ít xảy ra tình trạng khan hiếm và tạo sự ổn định cho nền
tảng kinh tế vĩ mô của Việt Nam ở trạng thái tốt, tạo dư địa cho Chính phủ
triển khai các biện pháp nhằm thúc đẩy hồi phục tăng trưởng.

III. Thời cơ và thách thức thực trạng lạm phát của Việt Nam trong năm
2022
1.

Theo các chuyên gia, áp lực lạm phát là hiện hữu, tình hình lạm phát ở nhiều
nước ASEAN như là Thái Lan và Singapore đã bắt đầu thu hút sự quan tâm
của nhiều người, thế nhưng lạm phát lại không phải mối lo lớn đối với Việt
Nam.

Khi lạm phát nhiên liệu trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng, chỉ trong vòng 1
tháng, giá xăng dầu ở Việt Nam đã tăng 3 lần liên tiếp. Đây là yếu tố mà
nhiều tổ chức tài chính quốc tế trong đó có HSBC nâng mức dự báo lạm phát
của Việt Nam so với ban đầu. Nguyên nhân chính đẩy mức giá lạm phát lên
cao là do giá năng lượng. Lạm phát năm nay chủ yếu đến từ các yếu tố bên
cung. Ví dụ như giá dầu, giá thực phẩm và chi phí hậu cần. Lạm phát của Việt
Nam trong quý I năm nay không tăng cao như nhiều quốc gia khác trên thế
giới chủ yếu do một số nguyên nhân:

Thứ nhất, danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện tính CPI của các
quốc gia khác nhau do phụ thuộc vào tập quán tiêu dùng, đồng thời cơ cấu chi
tiêu dùng của hộ gia đình cũng không đồng nhất.
Đơn cử, Mỹ và châu Âu chi tiêu dùng cho các nhóm nhà ở, điện, nước, khí
đốt, giao thông, văn hóa, giải trí chiếm tỷ trọng lớn trong khi Việt Nam chủ
yếu chi tiêu dùng cho lương thực, thực phẩm (chiếm tỷ trọng 27,68%).
Cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đã khiến giá dầu thô, khí đốt tự nhiên và
khí tự nhiên hóa lỏng tăng nhanh hơn trong thời gian vừa qua. Mỹ và các
nước phương Tây có tỷ trọng chi tiêu dùng các nhóm hàng này lớn nên tỷ lệ
lạm phát cao hơn Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam là quốc gia có nguồn cung ứng các mặt hàng lương
thực, thực phẩm dồi dào, bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của
người dân còn xuất khẩu ra thế giới nên giá cả khá ổn định. Nhóm thực phẩm
quý I/2022 giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,26 điểm
phần trăm.
Trong đó, giá thịt lợn giảm 21,55%; mỡ ăn giảm 22,6% và giá thịt chế biến
giảm 4,63%. Giá thịt lợn giảm sâu chủ yếu do Việt Nam đã sản xuất được
vaccine dịch tả lợn châu Phi nên chủ động trong phòng ngừa dịch khiến
nguồn cung đảm bảo, trong khi giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao làm cho
các hộ chăn nuôi phải bán sớm cắt lỗ.
Bên cạnh đó, giá dịch vụ giáo dục giảm 4,24% do một số địa phương miễn
giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 làm CPI giảm 0,23 điểm phần
trăm.
Nhiều hộ gia đình trong quý I đã giảm giá hỗ trợ người thuê nhà trong tình
hình dịch bệnh diễn biến phức tạp khiến giá thuê nhà ở giảm 15,14%.
Thứ ba, để chủ động ứng phó với những thách thức trước áp lực lạm
phát gia tăng, trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ,
ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế
những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Các chính sách, giải pháp tài chính tiền tệ được ban hành kịp thời đã giảm áp
lực đáng kể lên mặt bằng giá như: Ổn định lãi suất cho vay ở mức thấp; giảm
thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 10% xuống còn 8%
từ ngày 01/02/2022; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu
bay từ ngày 01/01 đến hết 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí
trong 6 tháng đầu năm 2022.
Đồng thời, công tác điều hành giá xăng dầu theo sát diễn biến giá thế giới,
nguồn cung xăng dầu được chỉ đạo khắc phục kịp thời. Các địa phương tăng
cường quản lý giá trên địa bàn, nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia chương
trình bình ổn giá.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển, chúng ta thấy dấu hiệu phục hồi kinh tế
ngày càng rõ ràng hơn. Với các chỉ số kinh tế hiện nay điều quan trọng là tình
hình vẫn được kiểm soát và động lực tăng trưởng chính của Việt Nam đã bắt
đầu chứng kiến những bước hồi phục mạnh mẽ, dự báo một biến cảnh lạc
quan về tình hình sản xuất sẽ lấy lại phong độ như thời điểm trước Covid-19.
Cụ thể sau khi giảm gần 4% trong năm 2021 so với cùng kỳ năm trước, doanh
thu bán lẻ đã tăng 1,3% trong tháng 1 năm 2022, so với cùng kỳ năm trước
chỉ số quản lý thu mua PMI tăng cao nhất trong vòng 9 tháng qua cho thấy
dấu hiệu sản lượng công nghiệp Việt Nam đã mạnh mẽ trở lại.

2. Những áp lực

Mặc dù lạm phát trong 4 tháng đầu năm được kiểm soát, áp lực lạm
phát trong những tháng còn lại của năm 2022 và năm 2023 là rất lớn. Có rất
nhiều yếu tố đang đẩy lạm phát lên mức rủi ro cao.

Giá dầu thế giới ở mức cao kỷ lục, giá xăng đã tăng 6 lần liên tiếp kể từ
đầu năm 2022, kéo theo nhiều mặt hàng Việt Nam đang phụ thuộc vào nhập
khẩu đều tăng như nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu phân bón, sắt
thép, khí đốt hóa lỏng… Trong quý I, giá xăng dầu trong nước tăng 48,81%
so với cùng kỳ năm trước, tác động làm tăng 1,76 điểm phần trăm trong mức
lạm phát chung của toàn nền kinh tế là 1,92%. Theo số liệu được Tổng cục
Thống kê công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Việt Nam trong tháng 3/2022
đã tăng 0,7% so với tháng trước. Sự gia tăng mạnh của CPI trong tháng
3/2022 chủ yếu đến từ 2 nhóm hàng: Giao thông tăng 4,8%; nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng 1,49%, Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở cũng sẽ tăng theo giá
nguyên liệu dùng trong xây dựng. Sự gia tăng giá cả của 2 nhóm hàng là
nhóm giao thông; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng chủ yếu liên quan đến
việc Nga thực hiện chiến dịch quân sự tại Ukraine dẫn đến những lo ngại về
gián đoạn nguồn cung dầu thô và nguyên vật liệu trên toàn cầu. Xung đột
quân sự giữa Nga và Ukraine đã đẩy giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng
mạnh, có lúc lên trên 130 USD/thùng. Giá xăng chưa dứt đà tăng, trong khi
xung đột giữa Nga và Ukraine chưa biết bao giờ mới kết thúc, dẫn đến rất khó
để dự báo các yếu tố giá cả trên thế giới sẽ thay đổi thế nào.

Đặc biệt, nguy cơ mới có thể hiện hữu và ảnh hưởng nghiêm trọng hơn
đối với áp lực gia tăng lạm phát và suy giảm tăng trưởng kinh tế Việt Nam
khi Trung Quốc - đối tác thương mại chính của Việt Nam đang theo đuổi
chính sách zero Covid, tăng trưởng chậm lại của quốc gia này, cũng làm gián
đoạn hoạt động thương mại Việt Nam - Trung Quốc.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo giá thức ăn chăn nuôi
và phân bón tiếp tục tăng trong thời gian tới, ảnh hưởng xấu đến ngành chăn
nuôi và trồng trọt. Chi phí đầu vào ảnh hưởng lớn đến người nông dân nuôi
trồng. Ngay cả khi bán giá cao hơn trước, họ vẫn không có lời. Nguyên nhân
chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết bất lợi từ các khu vực trồng chính trên thế
giới tại các nước Nam Mỹ; đồng thời cuộc khủng hoảng chính trị giữa Nga và
Ukraine (nhà xuất khẩu lúa mì lớn nhất và thứ tư trên thế giới) đang tác động
lớn đến giá ngô và lúa mì trên thị trường thế giới và Việt Nam.
Theo Bộ NN&PTNT, Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ukraine nhiều
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp trong nước như lúa mì (trong
điều kiện bình thường có thể đến 1 triệu tấn, chiếm khoảng 20% tổng nhập
khẩu lúa mì), ngô (3% tổng nhập khẩu ngô) làm thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra,
Việt Nam nhập khẩu từ Nga khoảng 143,5 triệu USD phân bón. Trong tháng
1 năm nay, con số này đạt khoảng 30 triệu USD (chiếm khoảng 17% tổng
lượng nhập khẩu của Việt Nam). Hiện, giá phân bón tăng trên 20% trong thời
gian gần đây ảnh hưởng xấu đến ngành trồng trọt. Rất có thể giá các loại phân
bón tiếp tục đẩy lên mức cao trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, các đơn vị logistics cũng báo giá vận tải trong nước đã
tăng mạnh, tính chung trong vòng 3 tháng đầu năm 2022, ước tính cước xe
container đã tăng 20%. Bên cạnh một số nhà xe chạy tuyến cố định đã kê khai
tăng khoảng 20% giá vé, các doanh nghiệp vận tải hàng hóa, xe hợp đồng
cũng đã bắt đầu có sự thỏa thuận giữa nhà xe và khách hàng để điều chỉnh
tăng giá cước, bình quân từ 15% - 20%. Giá dịch vụ vận tải tăng, giá hàng
hóa nhập tăng, giá hàng bán trong nước không thể không tăng.
Lo ngại về rủi ro lạm phát ở Việt Nam gần đây cũng được nhiều tổ
chức quốc tế đề cập. IMF tuần trước dự báo chỉ số này đạt 3,9% cuối năm
nay, còn con số đố của Standard Chartered Bank đưa ra là trên 4% trong năm
2022. Nếu nhìn vào các chỉ số ở tầm vĩ mô, Việt Nam đang kiểm soát khá tốt
lạm phát. Dự trữ ngoại hối, cân đối giữa nguồn hàng và dòng tiền, hàng hóa
vẫn được cung ứng đầy đủ, không bị gián đoạn. Ngân hàng nhà nước vẫn làm
chủ được dòng tiền, thực hiện tốt việc cung ứng tiền mặt. Tuy nhiên, giá cả
theo Tổng cục Thống kê chỉ mới phản ánh 60% thực tế, quyền số chỉ gồm 500
mặt hàng thiết yếu dựa trên thống kê thông tin từ cấp cơ sở, còn cuộc sống
của chúng ta có hàng ngàn mặt hàng. Điều này lý giải nguyên nhân giá cả thị
trường tăng mạnh nhưng chỉ số CPI chỉ tăng 1,68% so với cùng kỳ năm 2021,
lạm phát cơ bản tăng 0,67%, và mức tăng như vậy thể hiện lạm phát vẫn đang
được kiểm soát tốt, dưới mức 4% theo đúng mục tiêu của Chính phủ. Tuy
nhiên, cảm nhận thực tế cuộc sống lại là câu chuyện khác. Giá cả hàng hóa
tăng trong khi thu nhập giảm, tỉ lệ không nhỏ người lao động chưa có hoặc
chưa quay lại làm việc, cộng thêm những bất ổn do dịch bệnh và biến động
của địa chính trị thế giới chắc chắn sẽ tác động đến kỳ vọng lạm phát của
người dân. Bên cạnh đó, tâm lý lo ngại trong dân cũng bắt đầu đẩy nguy cơ
lạm phát tăng cao. Nhiều người tìm cách để trốn khỏi những rủi ro của đồng
tiền. Giá vàng tăng phi mã dạo gần đây là một trong những biểu hiện rõ nét
của yếu tố tâm lý. Các chỉ số như chứng khoán bất động sản, giá vàng cũng
đồng loạt tăng rất nhiều nhưng lại không nằm trong “rổ” hàng hóa của CPI.
Tuy vậy, đây lại là những mặt hàng có tác động lan tỏa, tác động chuyển sang
các thị trường khác, làm tăng các nhu cầu khác, đẩy giá một số mặt hàng tăng
dần.

3. Giải pháp:

Năm 2022, Việt Nam đặt ra mục tiêu CPI tăng khoảng 4%. Theo giới chuyên
gia, đây là quyết tâm cao của Quốc hội, Chính phủ, tuy nhiên việc thực hiện
mục tiêu của năm 2022 sẽ không dễ dàng. Để bảo đảm kiểm soát tốc độ tăng
chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2022 ở mức khoảng 4%, công tác quản lý,
điều hành giá trong thời gian tới cần được thực hiện một cách chủ động, linh
hoạt. Chính phủ phải đề ra biện pháp hợp lý và kịp thời để giải quyết nhu cầu
và những bất ổn của nền kinh tế trong thời điểm hiện tại.

- Cần nâng cao hiệu quả trong phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong
điều hành cung tiền, lãi suất, điều tiết giá cả.
- Cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư-kinh doanh; chú trọng
phát triển kinh tế-xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của
nền kinh tế, từ đó giảm áp lực lạm phát.
- Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả,
lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả,
lạm phát của Việt Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng,
nguyên vật liệu nào có khả năng thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ
đó đưa ra được chính sách phù hợp.
- Đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính cần theo dõi
sát diễn biến giá xăng dầu thế giới, đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho hoạt
động sản xuất và tiêu dùng ở trong nước, giảm bớt sự lệ thuộc và tác động
tiêu cực của giá xăng dầu thế giới tăng cao.

KẾT LUẬN

Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia ( tăng
trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư).
Một nền kinh tế được coi là khỏe mạnh khi có mức lạm phát vừa phải, tốc độ
tăng lạm phát nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, để kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, an sinh xã
hội, thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong
thời gian tới, Đảng và nhà nước cần hoàn thiện chính sách, thể chế, kỹ năng
ứng phó với lạm phát do tác động từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế
khỏe mạnh từ bên trong. Lạm phát cũng không phải hoàn toàn xấu mà nó
cũng có những ưu điểm nhất định. Có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển có
hiệu quả, tiến bộ khoa học kĩ thuật được áp dụng tích cực. Cơ cấu kinh tế
được đổi mới nhanh chóng và đúng hướng thì lạm phát cũng có thể được xem
là công cụ góp phần vào tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái. Vì vậy, chúng
ta cần phải kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay
lạm phát cân bằng và cớ dự tính tạo điều kiện trở thành động lực thúc đẩy quá
trình phát triển của đất nước.

You might also like