You are on page 1of 28

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

TIỂU LUẬN MÔN ASEAN VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM ASEAN


Đề tài

QUAN HỆ ĐA PHƯƠNG ASEAN – NHẬT BẢN TỪ SAU KHI


KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH 1991 ĐẾN 2000

Giáo viên hướng dẫn Nguyễn Cảnh Huệ

Sinh viên thực hiện Trần Nguyễn Quỳnh Châu 2056110139

Diệp Kim Hoàng 2056110058

Đào Hoàng Phương Thảo 2056110096

Phan Hồng Ngân 2056110207

Nguyễn Ngọc Trâm 2056110280


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2023
STT TÊN MSSV NỘI DUNG PHỤ TRÁCH
1 Trần Nguyễn 2056110139 - Lời mở đầu
Quỳnh Châu - 1.1. Khái quát quan hệ Nhật
Bản - Asean trước chiến tranh
lạnh 1991
- 2.1. Chính sách của
ASEAN đối với Nhật Bản sau
chiến tranh lạnh
2 Diệp Kim 2056110058 - 2.2. Chính sách của Nhật
Hoàng Bản đối với ASEAN sau chiến
tranh lạnh
- 3.2 Những vấn đề cần giải
quyết để phát triển mối quan hệ
hữu nghị ASEAN và Nhật Bản
khi bước vào thế kỷ XXI
- 4. Tổng kết

3 Đào Hoàng 2056110096 - 1.2.1. Nhật Bản sau chiến tranh


Phương Thảo lạnh
- 1.2.2. Asean sau chiến tranh
lạnh
- 1.2.3. Bối cảnh thế giới chi
phối quan hệ ASEAN - Nhật
Bản

4 Phan Hồng 2056110207 - Tổng hợp nội dung


Ngân - Bổ sung - chỉnh sửa
- Làm PPT

5 Nguyễn Ngọc 2056110280 - 3.1.1. Thành tựu về chính trị -


Trâm an ninh
- 3.1.2. Thành tựu về kinh tế
- 3.1.3. Thành tựu về văn hoá xã
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC
MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC.........................................................................2

MỤC LỤC..................................................................................................................3

LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1

1. Quan hệ ASEAN - Nhật Bản trước và sau chiến tranh lạnh 1991.................2

1.1. Khái quát quan hệ Nhật Bản - Asean trước chiến tranh lạnh 1991:..................2

1.2.Quan hệ Nhật Bản - ASEAN từ khi kết thúc chiến tranh lạnh 1991 đến năm 2000
......................................................................................................................................4

1.2.1. Nhật Bản sau chiến tranh lạnh....................................................................4

1.2.2. ASEAN sau chiến tranh lạnh......................................................................6

1.2.3. Bối cảnh thế giới chi phối quan hệ ASEAN - Nhật Bản.............................7

2. Quan hệ đa phương ASEAN - Nhật Bản.........................................................8

2.1. Chính sách của ASEAN đối với Nhật Bản sau chiến tranh lạnh.......................9

2.2. Chính sách của Nhật Bản đối với ASEAN sau chiến tranh lạnh.....................11

3. Những thành tựu hợp tác trong các lĩnh vực và các vấn đề cần giải quyết
trong thế kỷ XXI của ASEAN - Nhật Bản............................................................15

3.1. Những thành tựu hợp tác trong các lĩnh vực giữa ASEAN - Nhật Bản...........16

3.1.1. Chính trị - an ninh.........................................................................................16

3.1.2. Kinh tế..........................................................................................................16

3.1.3.Văn hóa xã hội...............................................................................................18

3.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển quan hệ ASEAN - Nhật Bản trong
thế kỷ XXI..................................................................................................................19

4. Tổng kết.............................................................................................................21

Tài liệu tham khảo:.................................................................................................24


LỜI MỞ ĐẦU

Quan hệ đa phương giữa ASEAN và Nhật Bản từ sau khi kết thúc chiến tranh
lạnh năm 1991 đến năm 2000 đã chứng kiến sự phát triển đáng chú ý. Giai đoạn này
đánh dấu một thời điểm quan trọng trong quá trình hình thành và củng cố mối quan
hệ đối tác toàn diện giữa hai bên. Trong thời kỳ này, ASEAN và Nhật Bản đã nhận ra
những lợi ích chung và tầm quan trọng của việc hợp tác đa phương để thúc đẩy phát
triển kinh tế, an ninh và hòa bình trong khu vực Đông Nam Á.

Chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra một bối cảnh mới, trong đó sự đối đầu giữa
hai cường quốc đã giảm bớt và cơ hội hợp tác đa phương đã mở ra. ASEAN, tổ chức
khu vực quan trọng của Đông Nam Á, đã nhận thức được vai trò ngày càng tăng của
mình và khả năng thúc đẩy hợp tác đa phương. Trong khi đó, Nhật Bản, một nền kinh
tế lớn và phát triển, đã tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường và đầu tư trong khu vực.

Sự tương đồng về lợi ích kinh tế và chính trị đã tạo nên một nền tảng cho quan
hệ đa phương ASEAN - Nhật Bản. Cả hai bên nhận thấy rằng sự hợp tác có thể tạo ra
những lợi ích to lớn, từ việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, đến việc
xây dựng một môi trường ổn định và an ninh khu vực. Đồng thời, cả ASEAN và Nhật
Bản đề cao những giá trị chung như quyền tự chủ, công bằng, phát triển bền vững và
luật pháp quốc tế.

Trên cơ sở những điểm khởi đầu này, bài luận này sẽ tìm hiểu sâu hơn về sự
phát triển của quan hệ đa phương ASEAN - Nhật Bản trong giai đoạn từ năm 1991
đến năm 2000. Chúng ta sẽ xem xét những sự kiện, chính sách và sáng kiến quan
trọng đã đóng vai trò trong việc thúc đẩy hợp tác và tăng cường quan hệ giữa hai bên.
Đồng thời, chúng ta cũng sẽ đánh giá tầm quan trọng và tiềm năng của quan hệ
ASEAN - Nhật Bản trong việc định hình tương lai khu vực Đông Nam Á.

1
1. Quan hệ ASEAN - Nhật Bản trước và sau chiến tranh lạnh 1991

1.1. Khái quát quan hệ Nhật Bản - Asean trước chiến tranh lạnh 1991:

Từ thập kỷ cuối những năm 1930, các biến đổi sâu sắc trong bối cảnh toàn cầu,
đặc biệt là Cuộc Chiến thế giới thứ hai và sự tham gia của Nhật Bản trong cuộc xung
đột này, đã gây ảnh hưởng đáng kể đến mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và các
quốc gia Đông Nam Á. Trước đó, vào năm 1930, các nước hải đảo thường chiếm ưu
thế trong quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và khu vực Đông Nam Á, trong khi các
nước thuộc khu vực sông Mekong chiếm ưu thế nhỏ nhỏ hơn. Thế nhưng, giá trị xuất
nhập khẩu giữa Nhật Bản và các nước thuộc khu vực sông Mekong đã trở thành vị trí
hàng đầu tại Đông Nam Á vào năm 1940.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, vào năm 1954, Nhật Bản bắt đầu mở rộng sự
hiện diện của mình trên thị trường Đông Nam Á. Trước đó, Nhật Bản đã dựa vào thị
trường truyền thống của Trung Quốc trong giai đoạn trước. Tuy nhiên, khi Trung
Quốc theo con đường Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản buộc phải tìm kiếm
một thị trường Châu Á tương đương để thay thế. Đồng thời, để tái thiết và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế sau cuộc chiến, Nhật Bản đang đối mặt với nhu cầu cấp thiết về
nguyên liệu thô và năng lượng để thúc đẩy ngành công nghiệp, đồng thời cần tìm
kiếm các thị trường xuất khẩu cho sản phẩm của mình. Do đó, khu vực Đông Nam Á
trở thành mục tiêu lý tưởng để Nhật Bản đáp ứng những nhu cầu này. Tại thời điểm
này, Nhật Bản xếp thứ ba trong việc xuất khẩu đến khu vực Đông Nam Á sau Mỹ và
Anh. Cùng với đó, hàng hóa Mỹ xuất khẩu được nhập vào nhiều nhất ở Nhật Bản,
xếp theo sau là các nước Đông Nam Á. Trong giai đoạn từ năm 1950 đến 1954, các
nước Đông Nam Á gặp khó khăn trong thương mại với Nhật Bản và chủ yếu là thị
trường xuất khẩu cho hàng hóa của Nhật Bản.

Trong giai đoạn từ 1977 đến 1991, Nhật Bản tập trung vào việc duy trì nguyên
tắc linh hoạt và chấp nhận sự phụ thuộc vào Mỹ trong nhiều khía cạnh khác nhau
trong chính sách đối ngoại của mình. Sau khi cuộc Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào
năm 1975, Nhật Bản đã thay đổi chính sách đối ngoại đối với các quốc gia trong khu
vực sông Mekong nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập trung phát triển kinh tế
và mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia Đông Nam Á. Ngày trước, Nhật Bản tập

2
trung chủ yếu vào viện trợ kinh tế nhằm duy trì sự ổn định chính trị trong các quốc
gia thuộc khu vực sông Mekong và bảo vệ thị trường của mình, mà không chú trọng
đến việc tăng cường vai trò chính trị tại khu vực này. Tuy nhiên, vào năm 1977, Nhật
Bản công bố Học thuyết Fukuda, nhằm nhấn mạnh vai trò chính trị của mình ở Đông
Nam Á, trở thành một chiếc cầu nối giữa các nước ASEAN và các nước Đông
Dương. Nhật Bản đã đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực thương mại của các quốc
gia ASEAN từ những năm 1970 trở đi. Trong thời kỳ này, Nhật Bản chiếm tỷ lệ
25,1% trong tổng giá trị thương mại của ASEAN. Các quốc gia ASEAN đã phụ thuộc
mạnh mẽ vào nền kinh tế của Nhật Bản. Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1983,
xuất khẩu từ ASEAN sang Nhật Bản chiếm tỷ lệ từ 23% đến 30% tổng xuất khẩu,
trong khi nhập khẩu từ Nhật Bản chiếm tỷ lệ từ 23% đến 27%. 1 Viện trợ phát triển
chính thức (ODA) của Nhật Bản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm căng
thẳng chính trị trong những năm đầu thập kỷ 1970 với các quốc gia ASEAN. Đặc
biệt, từ năm 1977, Nhật Bản đã tuyên bố tăng gấp đôi số tiền ODA và mở rộng phạm
vi tài trợ trong những năm tiếp theo, cam kết coi ASEAN như một đối tác cùng cấp.

Sau Thế chiến thứ hai, Nhật Bản đối mặt với tình hình quốc tế bất lợi. Tuy
vậy, Nhật Bản vẫn duy trì mối quan hệ sâu sắc với Đông Nam Á, bởi vì khu vực này
không chỉ mang ý nghĩa kinh tế quan trọng mà còn có ý nghĩa chiến lược. Để có thể
phục hồi kinh tế và đảm bảo an ninh và tạo điều kiện tiếp cận trở lại với Đông Nam Á
dưới tư cách đồng minh của Mỹ, vì vậy Nhật Bản đã thực hiện chiến lược dựa trên
liên minh với Mỹ. Bằng cách thực hiện chính sách đền bù chiến tranh và khuyến
khích thương mại với các quốc gia Đông Nam Á, Nhật Bản đã xây dựng một chiến
lược phát triển bền vững trong khu vực và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
mối quan hệ song phương giữa Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á. Mặc dù có
những biến cố chính trị,= nhưng quan hệ giữa các quốc gia ngày càng tăng cường và
củng cố, vì các quốc gia Đông Dương và ASEAN đều quan tâm đến việc phát triển và
hợp tác kinh tế và an ninh trong khu vực. Vì vậy, việc phát triển kinh tế đã trở thành
một ưu tiên hàng đầu cho cả khu vực Đông Dương và ASEAN. Chính vì điều này sự
đòi hỏi về hỗ trợ vốn và công nghệ từ các nước phát triển ngày một gia tăng, Nhật
Bản đã tận dụng cơ hội thuận lợi này để củng cố thêm vị thế của mình. Ngoài ra, sự

1
Quan hệ Nhật Bản - ASEAN từ sau chiến tranh lạnh (1991 - 2009) : luận văn Thạc sĩ : 60.31.50

3
cách mạng khoa học và kỹ thuật mới từ những năm 1970 đã tạo ra sự tăng trưởng
nhanh chóng cho kinh tế của các quốc gia ASEAN, đồng thời củng cố mối quan hệ
gắn kết và hỗ trợ chặt chẽ giữa ASEAN và Nhật Bản. Trong thời kỳ hậu Chiến tranh
Lạnh, lãnh đạo Nhật Bản đã đối mặt với nhiệm vụ tìm cách tái thiết vị thế của quốc
gia phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại.

Trong những năm cuối thế kỷ XX, Nhật Bản đã thay đổi chính sách đối với
ASEAN và tập trung vào việc tăng cường và thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn
thông qua các diễn đàn đa phương và song phương. Nhật Bản đã chú ý mở rộng quan
hệ đa mặt với ASEAN không chỉ trong lĩnh vực kinh tế và thương mại như trước đây,
mà còn trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa và hợp tác đa phương.Trên mặt chính trị,
Nhật Bản đã nỗ lực xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nước ASEAN thông
qua việc tham gia các diễn đàn đa phương như Hội nghị ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN-Nhật Bản, và Hội nghị Cấp cao ASEAN-Nhật Bản. Nhật Bản đã
tìm cách thúc đẩy các hoạt động hợp tác chính trị và an ninh với ASEAN, đồng thời
đề cao vai trò quan trọng của ASEAN trong việc đảm bảo ổn định và phát triển khu
vực.Về mặt văn hóa, Nhật Bản đã tăng cường giao lưu văn hóa và hợp tác giáo dục
với các nước ASEAN. Các chương trình trao đổi học sinh, sinh viên và giáo viên đã
được triển khai nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và tạo dựng mối quan hệ gần gũi giữa
Nhật Bản và ASEAN. Nhìn chung, Nhật Bản đã mở rộng quan hệ với ASEAN không
chỉ trong lĩnh vực kinh tế - mậu dịch mà còn trong các khía cạnh chính trị, văn hóa và
hợp tác đa phương, nhằm tạo nên một mối quan hệ đa mặt và bền vững với các nước
ASEAN. Điều này thể hiện sự quan tâm và cam kết của Nhật Bản đối với khu vực
này và mong muốn thúc đẩy sự phát triển chung và hòa bình ở Đông Nam Á.

1.2. Quan hệ Nhật Bản - ASEAN từ khi kết thúc chiến tranh lạnh 1991
đến năm 2000

1.2.1. Nhật Bản sau chiến tranh lạnh

Liên Xô tan rã, trật tự hai cực Ianta sụp đổ chính là cơ hội cho Nhật Bản trở
mình thành một cường quốc lớn mạnh về cả chính trị và kinh tế trong khu vực châu Á
– Thái Bình Dương. Không chỉ có tiềm lực kinh tế lớn mạnh, khoa học kỹ thuật của
Nhật Bản cũng phát triển hàng đầu thế giới. Nhật Bản đã tận dụng thế mạnh của mình

4
để giúp đỡ các nước kém phát triển hơn trong khu vực, đem công nghệ khoa học tiên
tiến vào giúp đỡ các nước còn lạc hậu, kém phát triển. Nhật Bản cũng cung cấp và
trao đổi những thông tin cần thiết, những kinh nghiệm quý báu đã giúp họ phát triển
cho các nước trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là những thông tin trong lĩnh vực
thương mại và thị trường. Không những thế, Nhật Bản cũng đổ nhiều vốn, tăng cường
đầu tư vào các quốc gia, căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng nước nhận viện trợ mà
cung cấp các khoản viện trợ phù hợp, có hiệu quả tích cực, phần lớn là đầu tư vào cơ
sở hạ tầng, hệ thống giao thông; thúc đẩy sự lưu thông qua lại của các dòng vốn và có
vai trò tích cực trong việc khuyến khích sự hợp tác lĩnh vực tài chính của các nước
trong khu vực.

Không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, trên các lĩnh vực khác như chính trị, quân sự và
ngoại giao Nhật Bản cũng thể hiện vai trò ngày càng to lớn và quan trọng của mình
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nhật Bản mong muốn thể hiện vai trò là
nước lớn của mình trong việc ổn định, duy trì nền hòa bình trong khu vực, đồng thời
là nhân tố quan trọng với nền kinh tế vượt bậc sẽ thúc đẩy sự phát triển của các quốc
gia kém phát triển hơn. Tuy nhiên, trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, sau thời
gian liên tục phát triển và vươn mình trở thành “con rồng châu Á”, nền kinh tế Nhật
Bản dường như đã đạt đến đỉnh điểm của sự phát triển và bắt đầu rơi vào tình trạng
hết sức khó khăn và không ổn định. Nền kinh tế Nhật Bản rơi vào giai đoạn trượt dốc
và do không có những giải pháp phù hợp để nhanh chóng khắc phục nên thời kỳ suy
thoái càng kéo dài. Nền công nghiệp của Nhật Bản cũng vì không còn tiếp tục tăng
trưởng, sức cạnh tranh yếu đi mà dần trở nên thua kém rõ rệt so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Sự suy thoái kinh tế này đã làm ảnh hưởng đến quan hệ kinh
tế giữa Nhật Bản đối với các nước và cũng giảm dòng vốn và đầu tư của Nhật Bản ra
nước ngoài trong giai đoạn này.

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau chiến tranh lạnh đã nhanh chóng được
thay đổi một cách linh động để phù hợp với tình hình phức tạp của thế giới. Sau
quãng thời gian cả thế kỷ hướng về châu Âu, Nhật Bản đã quyết định đưa ra chính
sách quay trở lại châu Á, khu vực gần gũi và thân thuộc về địa lý, văn hóa. Nhật Bản
dường như xem châu Á là sân sau của mình, dựa vào đó để có thể tăng cường vị thế
trong khu vực và trên quốc tế với tham vọng to lớn hơn là lãnh đạo cả khu vực châu

5
Á. Vì lẽ đó, chính sách đối ngoại của Nhật Bản cần phải đổi mới để giúp Nhật Bản
trở thành một nước có sức ảnh hưởng trên cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong
khu vực và toàn thế giới. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng đã sớm nhận ra Mỹ cũng có xu
hướng hướng về châu Á, lo sợ vị thế của mình ở châu Á bị Mỹ giành mất nên Nhật
Bản đã quyết tâm với chính sách quay lại châu Á của mình, đây cũng là việc làm kịp
thời và phù hợp với xu thế của thời đại.

Việc đổi mới chính sách của Nhật bản trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh là vô
cùng chính xác. Điều này bước đầu cũng đã mang đến những thành công nhất định
cho Nhật Bản trong việc khẳng định vị thế của mình ở khu vực. Với chính sách này
không chỉ duy Nhật Bản được hưởng lợi và phát triển mà các nước trong khu vực
cũng đồng thời hưởng được nhiều lợi ích từ đây và nâng tầm phát triển. Nhờ vậy vị
thế của Nhật Bản trong khu vực đã được khẳng định và vị thế trên trường quốc tế
cũng ngày càng tăng cao. Chính sách “trọng Á" của mình đã giúp Nhật Bản thêm lớn
mạnh về kinh tế lẫn chính trị.

1.2.2. ASEAN sau chiến tranh lạnh

Chiến tranh lạnh là thời kỳ ASEAN ra đời và vốn dĩ nó cũng là một nguyên
nhân mà ASEAN được ra đời. Sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã khiến ASEAN mất
đi một nguồn hỗ trợ lớn từ các nước phương Tây và Mỹ (trước đó hỗ trợ là cho chủ
nghĩa chống Cộng). Tình hình trong khu vực cũng đang vô cùng căng thẳng vì vấn đề
Campuchia vẫn tồn đọng và chưa được giải quyết triệt để. Sự căng thẳng trong khu
vực và mất đi nguồn viện trợ lớn đã làm ASEAN rơi vào tình thế khá khó khăn. Và
tình hình chỉ dịu đi khi Hiệp định Pari về hoạt động ở Campuchia được ký kết vào
tháng 10/1992, chấm dứt một giai đoạn phức tạp, căng thẳng và mở ra triển vọng của
hoà bình, hợp tác ở khu vực Đông Nam Á.

Đông Nam Á thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh phát triển theo chiều hướng vô
cùng tích cực, các nước thành viên nỗ lực hợp tác chặt chẽ với nhau để tạo điều kiện
thuận lợi cùng nhau tiếp tục phát triển bền vững. Dưới những hoạt động thiện chí và
tích cực của của các thành viên thuộc hiệp hội, quan hệ ngoại giao song phương giữa
ASEAN với Việt Nam, ASEAN với các nước Đông Dương và ASEAN với Trung
Quốc đã không ngừng được cải theo chiều hướng tích cực hơn, mở ra tương lai tươi

6
sáng hơn cho cả tổ chức và toàn khu vực. Các bên dường như nhận thức được tầm
quan trọng của mối quan hệ đa phương toàn diện và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
và an ninh ngày càng tăng, bất chấp những khác biệt về hệ thống chính trị. Việc tăng
cường kết nạp thêm thành viên, mở rộng từ ASEAN 6 đến ASEAN 10 đã củng cố vị
thế của tổ chức này ở cả khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Mục tiêu của ASEAN giờ đây là trở thành ngôi nhà chung của Đông Nam Á, cùng
nhau xây dựng, phát triển dựa trên tinh thần hòa bình, ngăn ngừa xung đột xảy ra và
hạn chế sự can thiệp từ nước ngoài, đặc biệt là các nước lớn vào khu vực. Việc phát
huy lợi thế bổ sung về tài nguyên, cơ cấu sản xuất công nghiệp, nguồn lao động, khả
năng tiếp thu công nghệ... tạo điều kiện thuận lợi để các nước là thành viên cũ và
thành viên mới trong ASEAN hợp tác cả về kinh tế lẫn thương mại. Vị thế, sự uy tín
của ASEAN trên trường quốc tế ngày càng thăng hạng, tổ chức ngày càng có nhiều
quyền lực và tiếng nói hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới đa cực, ai cũng có
thể trở thành một cực như hiện nay. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, kinh tế là
lĩnh vực được ASEAN đặc biệt chú trọng và ưu tiên, những cuộc họp, chính sách chủ
yếu đều nhằm mục đích phát triển kinh tế chung của toàn thể tổ chức. Bối cảnh thế
giới thay đổi với những xu thế mới, các nước ASEAN đã tăng cường phối hợp chặt
chẽ với nhau để tạo ra các cơ chế mới, thúc đẩy hợp tác, liên kết trong ASEAN và với
các nước, tổ chức quốc tế.

Do sự phát triển mạnh mẽ của khu vực hóa và thế giới hóa, ASEAN cũng tăng
cường hợp tác với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… nhằm đẩy
mạnh và tận dụng hết tiềm năng cho sự phát triển của bản thân mình. Sự năng động
này đã giúp ASEAN nhanh chóng vươn mình và trở thành một điểm sáng của khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Tuy cũng gặp những bất lợi và khó khăn trong cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực vào cuối thế kỷ XX nhưng ASEAN cũng
nhanh chóng trở mình vực dậy và tiếp tục phát triển, mở rộng hợp tác trong khu vực
và cả thế giới.

1.2.3. Bối cảnh thế giới chi phối quan hệ ASEAN - Nhật Bản

Năm 1991 Liên Xô tan rã, Chiến tranh lạnh kết thúc và cũng chấm dứt luôn sự
tồn tại của trật tự hai cực Ianta, cục điện thế giới trong tình trạng đối đầu giữa hai

7
khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa cũng sụp đổ. Thế nhưng dường như thế
giới vẫn không hề bình yên hơn trên lộ trình hướng tới một trật tự mới khi liên tục
xảy ra các xung đột trên mọi lĩnh vực: an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa...

“Khoảnh khắc đơn cực”. Mỹ nhanh chóng nắm bắt thời cơ khi không còn đối
trọng nặng cân là Liên Xô, đã xem mình là nước duy nhất được phép lãnh đạo thế
giới. Mỹ triển khai nhiều chính sách, áp đặt “các giá trị Mỹ”, như “tự do”, “dân chủ”,
“nhân quyền”, “mô hình phát triển kiểu Mỹ”... ra khắp thế giới, nhằm biến thế giới
trong bối cảnh còn lao đao, mù mờ trong xu thế mới thành sân chơi của Mỹ, phải đi
theo định hướng của Mỹ mới có thể tồn tại. Tuy nhiên khoảng thời gian độc nhất đó,
Mỹ là siêu cường duy nhất không có đối thủ cạnh tranh không thể kéo dài được lâu.
Nhiều biến động mới đã xảy ra trên toàn thế giới và cả trong nội bộ Mỹ đã khiến “ưu
thế áp đảo phần còn lại của thế giới” của Mỹ bị lung lay và dần dần phải nhường chỗ
cho xu thế mới, hiện đại hơn, phù hợp hơn.

Xu thế mới, xu thế toàn cầu hóa, liên kết, hội nhập quốc tế. Cùng với sự chấm
dứt của trật tự thế giới hai cực, sự suy yếu của Mỹ sau khi bành trướng và can dự quá
sâu vào các nước khác, đa số các nước dẫn thừa nhận và xây dựng nền kinh tế thị
trường, tuy nhiên vẫn căn cứ vào tình trạng, điều kiện cụ thể ở từng nước mà có các
chính sách phát triển phù hợp. Ở một mức độ nhất định, có thể nói kinh tế thị trường
đã là một mô hình mẫu mà các quốc gia dựa vào và dùng nó một cách thông minh để
phát triển kinh tế. Xu thế mới là cạnh tranh về kinh tế chứ không còn là so găng về
quân sự, thế nên để phát triển kinh tế nhanh thì các quốc gia đã hợp tác với nhau, bên
cạnh sự cạnh tranh giữa các nước, các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Các
hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, đa phương, khu vực,... gia tăng với
các thành viên tham gia rất đa dạng về mô hình, định hướng phát triển. Thành viên
của các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế tăng lên nhanh chóng, các tổ chức khu vực
có sự biến đổi trong cơ cấu thành viên, nhiều diễn đàn hợp tác khu vực, liên châu lục
được hình thành,...

Chính vì xu thế toàn cầu hóa đang đi lên, Nhật Bản và ASEAN đều nằm trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, có vị trí địa lý thuận lợi nên dĩ nhiên cũng đã cố
gắng tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển trong các lĩnh vực, đặc

8
biệt là lĩnh vực kinh tế.

2. Quan hệ đa phương ASEAN - Nhật Bản

2.1. Chính sách của ASEAN đối với Nhật Bản sau chiến tranh lạnh

Sau cuộc chiến tranh lạnh, vùng sông Mekong đã tăng cường vị thế kinh tế và
chính trị thông qua việc tham gia vào ASEAN, một tổ chức khu vực đang phát triển
mạnh mẽ và ngày càng được công nhận. ASEAN theo đuổi chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ và đa dạng hóa, với mục tiêu tăng cường hợp tác với Nhật Bản để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế và gia tăng sức ảnh hưởng của khu vực Đông Nam Á. Việc hợp
tác với Nhật Bản đã trở thành một nguồn lực quan trọng để thúc đẩy quá trình đổi mới
trong quốc gia. Trong giai đoạn này, các nước ASEAN đã thực hiện chính sách đối
ngoại thông minh, tận dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến từ Nhật Bản để hỗ trợ quá
trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa của mình. Hợp tác với Nhật Bản đã cung cấp
cho các nước ASEAN những công nghệ và kiến thức cần thiết để thúc đẩy sự phát
triển trong các lĩnh vực này.

Sau cuộc chiến tranh lạnh, khu vực ASEAN đã trở thành một vùng kinh tế phát
triển sôi động với tốc độ tăng trưởng đáng kể. Điều này đã tạo ra nhu cầu không chỉ
để mở rộng sự tham gia của các thành viên hiện có, mà còn để tìm kiếm các hình thức
hợp tác mới có hiệu quả hơn. Hướng tiếp cận hợp tác không chỉ bao gồm việc thúc
đẩy tự do hoá hoạt động thương mại trong ASEAN, mà còn mở rộng đến các quan hệ
với các quốc gia khác trong khu vực, đặc biệt là với các nền kinh tế lớn như Trung
Quốc và Nhật Bản. Sự ổn định giữa các mối quan hệ giữa các quốc gia Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc và ASEAN chi phối và ảnh hưởng to lớn đến sự ổn định và phát
triển của các quốc gia ASEAN trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Các nước lớn, trong đó
có Nhật Bản, đang nỗ lực thu hút sự hợp tác của ASEAN bằng cách tận dụng sức
mạnh kinh tế của mình trong khu vực, nhằm củng cố vị thế là một cường quốc tại
châu Á.

Một chiến lược thông minh là sử dụng và áp dụng công nghệ và kỹ thuật hiện
đại từ các dự án đầu tư của Nhật Bản để hỗ trợ quá trình hiện đại hóa và công nghiệp

9
hóa của các quốc gia ASEAN. Thông qua Hội nghị Cấp cao ASEAN 1992, các thành
viên ASEAN đã đưa ra nhiều ý tưởng và giải pháp trong việc nâng cao hợp tác khu
vực. Bên lề hội nghị cũng đã ký kết Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế
ASEAN và Hiệp định về các chương trình và biện pháp ưu đãi thuế quan để thành lập
Khu vực thương mại tự do ASEAN. Ngoài ra, trong kế hoạch, các Bộ trưởng ASEAN
đã nêu rõ 4 điểm thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản và ASEAN, đặc biệt trong
lĩnh vực đầu tư. Các điểm chính của kế hoạch bao gồm: Thành lập Quỹ phát triển
ASEAN-Nhật Bản; Tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ tại ASEAN và Nhật Bản; Xây
dựng kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước thành viên ASEAN;
Đề nghị Bộ Công Thương Nhật Bản phê duyệt kế hoạch hỗ trợ cải thiện môi trường
đầu tư trong khu vực.

Các nỗ lực này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác, trao đổi công
nghệ, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển kinh tế của cả ASEAN và
Nhật Bản. Đối với ASEAN, tăng cường hợp tác kinh tế với Nhật Bản được coi là một
yếu tố quan trọng để thúc đẩy các quốc gia thành viên trở thành những nền kinh tế
phát triển hàng đầu trong khu vực Đông Á. Hợp tác kinh tế với Nhật Bản được coi là
một nguồn lực quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển của các quốc
gia trong vùng Đông Dương. ASEAN chào đón việc tăng cường quan hệ thương mại
hai chiều và đầu tư từ Nhật Bản, nhưng cũng cần xem xét cẩn thận vai trò an ninh của
Nhật Bản trong khu vực. ASEAN đã nhận thức rằng cả Nhật Bản và Trung Quốc đều
có vai trò quan trọng trong khu vực và có ảnh hưởng lớn về mặt quân sự và kinh tế.
Vì vậy, cần cân nhắc và thiết lập quan hệ cân bằng giữa Nhật Bản và Trung Quốc
trong khu vực. Với đề xuất việc tổ chức Diễn đàn cấp cao giữa Nhật Bản và ASEAN
vào năm 1997 của thủ tướng Hashimoto, ASEAN đã chỉ ra nhiều điểm tương đồng
trong các vấn đề quốc tế và khu vực và những lợi ích mà cả Nhật Bản và ASEAN
mong muốn từ việc cải thiện quan hệ. Điều này không chỉ tập trung vào khía cạnh
kinh tế mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác phù hợp với thời đại mới. Do đó,
ASEAN đồng ý với ý kiến của Nhật Bản về tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật
Bản với mục tiêu giải quyết các vấn đề song phương và những vấn đề an ninh khu
vực và tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ASEAN cũng
muốn xem xét lại quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong bối cảnh mối quan hệ ASEAN-

10
Trung Quốc và ASEAN-Hàn Quốc, do đó đã tổ chức các cuộc họp thượng đỉnh song
phương với hai quốc gia này theo cơ chế ASEAN+1.

ASEAN đề xuất tăng cường hợp tác song phương với Nhật Bản nhằm dần dần
kết nối Trung Quốc vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị cũng như vấn đề an ninh
khu vực, với mục đích giải quyết các căng thẳng và duy trì tình hình ổn định tại khu
vực châu Á-Thái Bình Dương. Theo Tầm nhìn 2020 của ASEAN được công bố vào
năm 1997, tổ chức này cam kết xây dựng một cộng đồng rộng mở hơn, thúc đẩy quá
trình hội nhập sâu rộng trong khu vực cũng như đóng vai trò trọng yếu trong việc liên
kết Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Các quốc gia thành viên ASEAN đều ủng hộ
việc thành lập khu vực thương mại tự do với Nhật Bản và Trung Quốc, và đang tích
cực thúc đẩy để thực hiện điều này trong thời gian ngắn nhất. Sau khi hợp tác với các
nước châu Á theo mô hình ASEAN+1, ASEAN tiếp tục thúc đẩy cơ cấu ASEAN+3,
trong đó có Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như Sáng kiến Chiang Mai của
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính 10+3 và ASEAN+3. Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế vào
tháng 5 năm 2000 và lời kêu gọi thành lập khối kinh tế Đông Á của Thủ tướng
Malaysia, báo hiệu ý định tăng cường hợp tác và hình thành khu vực thương mại tự
do nhanh chóng giữa ASEAN với Nhật Bản, Trung Quốc và các nước khác.

2.2. Chính sách của Nhật Bản đối với ASEAN sau chiến tranh lạnh

Kết thúc Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản đặc biệt chú trọng đến việc duy trì an
ninh - chính trị để bảo vệ các lợi ích kinh tế đã được thiết lập ở Đông Nam Á. Nhật
Bản đã nhận ra sự thành công trong hợp tác kinh tế phụ thuộc vào sự hiểu biết về an
ninh, điều này tạo nền tảng để mở rộng sự hợp tác kinh tế.

Nhật Bản tích cực các hoạt động đối thoại về hợp tác phát triển lĩnh vực an
ninh và chính trị ở hai cấp độ: ASEAN và các nước thành viên ASEAN.

Vì Trung Quốc ngày càng có sự ảnh hưởng lớn đối với khu vực, Nhật Bản đã
đưa ra chính sách tăng cường mối quan hệ chính trị - an ninh với ASEAN. Nhận thấy
rằng tăng cường quan hệ với ASEAN sẽ tạo ra một sự cân bằng mới trong khu vực và
mở ra cơ hội để mở rộng quan hệ kinh tế với ASEAN, Nhật Bản đã nhận thức tầm

11
quan trọng của việc này. Trong bối cảnh sự liên kết khu vực đang ngày càng mạnh
mẽ, ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối kinh tế giữa Đông Nam Á và
Đông Bắc Á. Do đó, việc tăng cường mối quan hệ chính trị và an ninh với ASEAN sẽ
thúc đẩy quá trình này và đồng thời giúp giải quyết những vấn đề nhạy cảm giữa Nhật
Bản và Trung Quốc. Tóm lại, Nhật Bản không chỉ quan tâm đến vai trò chính trị mà
còn đặc biệt quan tâm đến khía cạnh kinh tế, đồng thời cũng đề cao tham vọng ngày
càng lớn của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á.

Giai đoạn đầu thập niên 90 của thế kỷ XX

Học thuyết Fukuda được công bố năm 1977 để góp phần giúp mối quan hệ
giữa Nhật Bản và các nước Đông Nam Á, đặc biệt là các nước thành viên ASEAN,
phát triển tích cực hơn. Dựa trên Học thuyết Fukuda, trong chuyến thăm chính thức
các nước ASEAN tại Singapore, thủ tướng Nhật Toshiki Kaifu đã đọc bài phát biểu
quan trọng về chính sách khu vực của Nhật Bản. Trong bài, Nhật Bản đã thể hiện sự
thành thật nhận lỗi vì những hành vi xâm lược của Nhật Bản trong chiến tranh thế
giới thứ hai, cam kết Nhật sẽ không trở thành cường quốc quân sự, và khẳng định bản
thân đóng vai trò tích cực hơn trong các vấn đề chính trị - kinh tế ở Châu Á - Thái
Bình Dương. Nhật Bản cũng cam kết tham gia vào việc giải quyết vấn đề Campuchia,
ủng hộ sự hoà bình bán đảo Triều Tiên và tăng cường hợp tác khu vực bằng việc đầu
tư, chuyển giao công nghệ và đóng vai trò thúc đẩy hợp tác để các nước ASEAN và
Đông Dương cùng nhau phát triển và trở thành đối tác tốt của nhau. Bài phát biểu của
thủ tướng Kaifu còn được coi là Học thuyết Fukuda 2 hay Học thuyết Kaifu.

Trong nội dung của học thuyết, được cho thấy rằng Nhật Bản đã trực tiếp đề
cập đến việc hợp tác trong lĩnh vực an ninh và chính trị với các quốc gia trong khối
ASEAN, đồng thời mở rộng vai trò của mình sang các quốc gia Đông Dương. Nhật
Bản không chỉ mở rộng sự ảnh hưởng chính trị của mình trong khu vực, mà còn đáp
ứng thành công nhiệm vụ quan trọng là trở thành người trung gian giữa ASEAN và
Đông Dương.

Sau khi Học thuyết Miyazawa được giới thiệu vào tháng 1-1993, trong chuyến
thăm chính thức của Thủ tướng Nhật Bản Kiichi Miyazawa tới Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), đã chính thức công bố mục tiêu chiến lược của Nhật Bản.

12
Mục tiêu đó là nâng cao vị thế, vai trò chính trị và xác lập ảnh hưởng toàn diện của
Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á.

Học thuyết Miyazawa bao gồm hai điểm chủ yếu: Thứ nhất, dựa trên một tầm
nhìn dài hạn về an ninh ở Đông Nam Á, Nhật Bản đề cao việc hợp tác chặt chẽ với
các quốc gia trong khu vực để duy trì sự ổn định, thiết lập trật tự trị an và đem lại hòa
bình. Thứ hai, Nhật Bản đề xuất hợp tác và phối hợp mật thiết với ASEAN để tái thiết
khu vực Đông Dương và thành lập "Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương".

Học thuyết Miyazawa xác định nhu cầu của Nhật Bản trong việc tăng cường
đối ngoại giữa Nhật Bản và ASEAN với mục tiêu phát triển sự ổn định trong khu vực.
Thông qua việc công bố học thuyết Miyazawa, Nhật Bản muốn khẳng định một chính
sách đối ngoại và an ninh độc lập đối với khu vực Đông Á, đặc biệt là khối liên minh
ASEAN. Dưới thời thủ tướng Miyazawa, quan hệ Nhật Bản và ASEAN tập trung vào
bốn mục tiêu chính: tăng cường hợp tác ổn định khu vực, tiếp tục phát triển kinh tế,
hợp tác giải quyết các vấn đề toàn cầu và phối hợp với ASEAN để phát triển Đông
Dương.

Trong cuộc họp thứ hai giữa Bộ trưởng kinh tế của ASEAN và Bộ trưởng công
nghiệp và thương mại của Nhật Bản vào tháng 10 năm 1993, các vấn đề quan trọng
như phát triển kinh tế, thương mại, tiếp cận thị trường, đầu tư, hợp tác công nghiệp và
phát triển Đông Dương đã được các Bộ trưởng trao đổi. Nhật Bản đã gia hạn cho
ASEAN các ưu đãi theo hệ thống GSP của mình đến năm 2001 và đồng ý hợp tác với
ASEAN trong bốn chương trình liên quan đến phát triển công nghiệp, bao gồm việc
hỗ trợ tài sản trí tuệ, chất lượng và tiêu chuẩn công nghiệp, nghiên cứu công nghệ...
Như vậy, đối ngoại về kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản đã có sự phát triển chiến
lược trong năm 1993.

Nhằm hỗ trợ sự khôi phục và phát triển kinh tế của các nước Đông Dương,
Nhật Bản đã đưa ra một chính sách cụ thể. Vào tháng 1 năm 1993, Thủ tướng
Miyazawa đề xuất ý tưởng tổ chức Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương. Đáp
ứng sáng kiến này, vào tháng 2 năm 1995, Hội nghị Bộ trưởng của Diễn đàn đã được
tổ chức tại Tokyo dưới sự chủ trì của Nhật Bản. Hội nghị đã thu hút sự tham gia của
25 quốc gia, bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, 6 quốc gia trong ASEAN, 8 tổ

13
chức quốc tế và một số quốc gia khác. Mục tiêu của Hội nghị bao gồm: (1) Phát triển
các nước Đông Dương dựa trên triển vọng của khu vực; (2) Hợp tác quốc tế thông
qua việc tự nguyện điều phối các hỗ trợ dựa trên trao đổi thông tin giữa các quốc gia
và tổ chức; (3) Thúc đẩy kinh tế thị trường trong các nước Đông Dương.

Thủ tướng Tomiichi Murayama, người kế nhiệm sau thủ tướng Miyazawa, đã
tiếp tục thực hiện các chính sách, trong đó đặc biệt quan trọng là tăng cường hợp tác
kinh tế và viện trợ phát triển chính thức (ODA), nhằm thúc đẩy quan hệ ngoại giao và
phát triển với ASEAN.

Giai đoạn nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ XX

Quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và ASEAN đã phát triển lên tầm cao mới
nhờ có chính sách ngoại giao của thủ tướng Nhật Bản - Ryutaro Hashimoto.

Trong bài phát biểu tại Singapore vào năm 1997, trong khuôn khổ chuyến
thăm 5 quốc gia ASEAN (Brunei, Malaysia, Indonesia, Việt Nam và Singapore) để
kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN, thủ tướng Hashimoto đã đề cập đến những khó
khăn và thách thức mà ASEAN và Nhật Bản sẽ đối mặt trong thế kỷ XXI. Ông đã đề
xuất phát triển mối quan hệ hợp tác bình đẳng và tăng cường giữa Nhật Bản và
ASEAN, nhằm tạo ra một hợp tác sâu rộng hơn cho thời đại mới. Trước tiên là mở
rộng phạm vi trao đổi và đối thoại ở cấp cao và tất cả các cấp, đặc biệt là trong lĩnh
vực chính sách, giữa ASEAN và Nhật Bản. Mục tiêu là đảm bảo sự hòa bình và ổn
định trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Thủ tướng Hashimoto đề xuất tổ
chức cuộc đối thoại trực tiếp và thẳng thắn về an ninh khu vực dựa trên mối quan hệ
song phương giữa Nhật Bản và các quốc gia thành viên của ASEAN. Ngoài ra, hợp
tác đa phương trong lĩnh vực văn hóa cũng rất quan trọng để bảo vệ di sản văn hóa
truyền thống và tạo điều kiện cho các nền văn hóa khác nhau tồn tại cùng nhau. Cuối
cùng, việc cùng nhau giải quyết các vấn đề quốc tế như môi trường, chống khủng bố,
y tế phúc lợi và kiểm soát ma túy cũng là những mục tiêu cần được đặt lên hàng đầu.

Nội dung cơ bản của học thuyết này có thể khái quát thành 3 điểm chủ yếu
sau:

Một là, Nhật Bản mong muốn tăng cường quan hệ Nhật - ASEAN lên một tầm

14
cao mới bằng cách tổ chức định kỳ các cuộc trao đổi cấp cao giữa Nhật Bản và
ASEAN. Điều này đã được Nhật Bản đề xuất khi tham dự Hội nghị cấp cao không
chính thức của ASEAN vào tháng 11/1997 tại Malaysia.

Hai là, Nhật Bản đánh giá cao vai trò quan trọng của ASEAN và ủng hộ việc
mở rộng ASEAN để bao gồm tất cả 10 quốc gia Đông Nam Á, đồng thời coi ASEAN
là một đối tác chính trị quan trọng trong khu vực. Bởi vì, sự phát triển đồng đều và
bền vững của ASEAN 10 sẽ mang lại cho Nhật Bản lợi ích cả về mặt chính trị và kinh
tế.

Ba là, Quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN sẽ tiến xa hơn từ việc cung cấp viện
trợ sang một mối quan hệ bình đẳng và hợp tác thân thiết, bao gồm không chỉ lĩnh
vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực an ninh, chính trị và văn hoá - xã hội. Sự trao
đổi và hợp tác sẽ được mở rộng một cách đáng kể.

Tiếp theo đó, mối quan hệ giữa ASEAN và Nhật Bản tiếp tục được tăng cường
dưới thời gian Thủ tướng Keizo Obuchi nắm quyền (1998 - 2000). Vào cuối năm
1998, trong cuộc gặp lãnh đạo ASEAN tại Hà Nội, Thủ tướng Obuchi đã tham gia
như một khách mời đối thoại danh dự và trong bài diễn thuyết của ông đã đề xuất một
số biện pháp nhằm củng cố thêm quan hệ Nhật Bản – ASEAN:

- Trong thời kỳ thế kỷ XXI, việc tăng cường đối thoại và hợp tác là một ưu
tiên, và để thực hiện điều đó, các cuộc đối thoại cấp cao sẽ được tổ chức định kỳ và
Nhật Bản sẽ đảm nhận vai trò tài trợ cho việc tổ chức Hội nghị tư vấn Nhật Bản-
ASEAN với tầm nhìn đến năm 2020.

- Trong việc hợp tác để giải quyết cuộc khủng hoảng ở Châu Á, Nhật Bản cam
kết sẽ nhanh chóng khôi phục nền kinh tế nội địa và cùng hợp tác với các quốc gia
châu Á để giúp họ phục hồi kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng,
nhân lực, tài chính và công nghiệp chế biến.

- Hợp tác nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến an ninh con người, như
xây dựng mạng lưới an toàn xã hội và giải quyết các thách thức liên quan đến môi
trường, buôn bán và sử dụng ma túy, cũng như hoạt động tội phạm có tổ chức, đang
được thúc đẩy.

15
- Đẩy mạnh sự giao tiếp giữa các trí thức và tăng cường sự giao lưu, hợp tác
trong việc phát triển văn hóa, khoa học và kỹ thuật. 2

Học thuyết Obuchi khuyến khích quan hệ Nhật Bản-ASEAN không chỉ tập
trung vào tài chính và tiền tệ, mà còn đặt nặng vào các vấn đề về an ninh con người
và sự giao lưu trí thức, văn hóa, khoa học và kỹ thuật một cách cụ thể.

Chính sách của Nhật Bản đối với ASEAN trong giai đoạn từ 1991 đến 2000 đã
nhận được sự đáp ứng tích cực từ các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.

3. Những thành tựu hợp tác trong các lĩnh vực và các vấn đề cần giải
quyết trong thế kỷ XXI của ASEAN - Nhật Bản

3.1. Những thành tựu hợp tác trong các lĩnh vực giữa ASEAN - Nhật
Bản

3.1.1. Chính trị - an ninh

Chiến tranh lạnh kết thúc là thời điểm các lãnh đạo Nhật Bản bắt đầu nhận ra
bản thân phải thay đổi cách nhìn và chính sách về chính trị - an ninh của quốc gia ở
khu vực Đông Nam Á. Quyết định này dường như đã mở ra một hướng đi mới cho
đất nước mặt trời mọc, thể hiện rõ ràng quyết tâm muốn hòa nhập vào xu thế chung
của toàn cầu lúc bây giờ và khát khao vươn lên trở thành một trong những quốc gia
có tầm ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới. Bắt đầu bằng việc Nhật Bản giải quyết vấn
đề xung đột nội bộ của Campuchia. Cụ thể, Nhật Bản đã tích cực phối hợp với Thái
Lan và triệu tập các cuộc họp khẩn nhằm đề ra giải pháp cho vấn đề mà Campuchia
đang gặp phải. Kết quả của quá trình cố gắng này là Hiệp định Hòa bình ở
Campuchia chính thức được ký kết vào năm 1991. Sau đó, Nhật Bản cũng lần đầu
tiên sau chiến tranh thế giới thứ hai gửi lực lượng tham gia hoạt động bảo vệ hòa bình
của Liên Hiệp quốc ở Campuchia. Hành động này đã đánh dấu một bước thay đổi
mới trong chính sách chính trị - an ninh của Nhật Bản. Bên cạnh đó, vào những năm
đầu 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản còn tích cực tham gia thành lập và tham gia vào
Diễn đàn khu vực của ASEAN (ARF). Mục đích của việc này là hướng đến việc tăng
2
Trần Quang Minh (2007), Quan hệ Nhật Bản – ASEAN trong bối cảnh hội nhập Châu Á”, nghiên cứu Đông
Bắc Á, số 9(79), Hà Nội 6-7

16
cường ảnh hưởng trên lĩnh vực chính trị và an ninh của Nhật Bản ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, đồng thời đưa ra những đóng góp quan trọng cho chiến lược ngoại,
tạo cơ sở để xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, ổn định, thúc đẩy
các quan hệ hợp tác và phát triển khác. Có thể nói, chính những sự thay đổi mang
chiều hướng tích cực đó đã đưa mối quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN từ căng thẳng
đối đầu trở thành mối quan hệ hợp tác, hữu nghị.

3.1.2. Kinh tế

Ở giai đoạn này, quá trình hợp tác thương mại, trao đổi buôn bán được Nhật
Bản và ASEAN tăng cường đẩy mạnh. Điều này đã đem đến những thành tựu nhất
định đối với Nhật Bản và ASEAN, đồng thời góp phần giúp cho sợi dây liên kết giữa
hai bên ngày càng bền chặt.

a. Đối với Nhật Bản

Trong giai đoạn này, ASEAN trở thành thị trường trao đổi hợp tác thương mại
quan trọng của Nhật Bản và ngược lại. Điều này phần nào được thể hiện thông qua sự
tăng giảm tỷ trọng xuất khẩu của cả hai khu vực. Lấy ví dụ vào năm 1993, tỷ trọng
xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản vào thị trường các nước ASEAN đạt mức 15% trên
tổng giá trị xuất nhập khẩu, hay như năm 1996 có số này đạt 13,3%. Mặc dù vào năm
1997, châu Á phải gồng mình hứng chịu những ảnh hưởng và dư âm của cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á kéo dài đến tận khoảng năm 1999 khiến cho nền kinh tế của
các quốc gia phải chững lại, tỷ trọng xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và ASEAN cũng
có nhiều biến đổi theo chiều hướng đi xuống. May mắn thay, điều này đã được khắc
phục và dần thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Điều này có thể thấy rõ trong tỷ
trọng xuất khẩu của Nhật Bản vào ASEAN, trong khi vào năm 1999 con số này chỉ
đạt mức 11% thì vào một năm sau nó đã có sự khởi sắc khi tăng lên 2,3%, tức 13,3%.

Cũng từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản tiến hành đẩy mạnh việc
rót vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, gọi tắt là FDI) vào thị
trường ASEAN thay vì thị trường các nước công nghiệp mới do chi phí sản xuất ở
các quốc gia này đã có sự gia tăng so với thời điểm trước. Bằng việc ngày càng có
nhiều các công ty, doanh nghiệp nội địa mở rộng thị trường sang khu vực ASEAN,
Nhật Bản đã thông qua đó thu về nguồn lợi nhuận khổng lồ, đồng thời làm vững chắc

17
thêm vị trí đứng của mình ở thị trường kinh tế Đông Nam Á. Tuy vậy, quá trình đầu
tư này cũng diễn ra không quá thuận lợi, một phần là do ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Điều này được biểu hiện trong
giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1993, FDI của Nhật Bản vào ASEAN đã có sự sụt
giảm đáng kể do sự sụp đổ của nền bong bóng kinh tế, hay từ năm 1997 cho đến
khoảng năm 2000, do tác động và tàn dư của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á đã
khiến cho FDI của Nhật Bản giảm mạnh, cụ thể từ 29,8% tổng FDI (1997) giảm
xuống chỉ còn 0,6% (2000).

Ngoài những điều kể trên, việc thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác kinh
tế với ASEAN đã đồng thời góp phần giúp cho quốc gia này giải quyết phần nào vấn
đề thiếu hụt nguồn tài nguyên sản xuất, nguồn lao động cũng như môi trường sản
xuất. Điều này thể hiện qua việc ASEAN là nguồn cung cấp chính các loại tài nguyên
như dầu mỏ, đồng, kẽm,...cho ngành sản xuất của Nhật Bản.

b. Đối với ASEAN

Trong quá trình hợp tác thương mại, trao đổi buôn bán, không chỉ có riêng
Nhật Bản mà tỷ trọng xuất khẩu của ASEAN vào thị trường Nhật cũng có sự gia tăng
nhanh chóng. Lấy ví dụ từ năm 1995 cho đến 1996, tỷ trọng xuất khẩu của ASEAN
vào thị trường Nhật Bản tăng từ hơn 45 triệu USD đến khoảng hơn 50 triệu USD.
Con số này có xu hướng chững lại và sụt giảm vào từ khoảng năm 1997 đến 1998 do
chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á rồi lại tiếp tục tăng trở lại vào
những năm sau đó.

Việc trở thành khu vực nhận được nguồn đầu tư lớn từ Nhật Bản đã giúp
ASEAN phần nào bước ra khỏi những khó khăn do các cuộc khủng hoảng về kinh tế
gây nên. Đồng thời việc các tập đoàn, công ty Nhật Bản chọn ASEAN làm thị trường
để đầu tư và phát triển cũng đã góp phần giúp nhiều nước trong ASEAN giải quyết
được vấn đề việc làm, phát triển nền kinh tế quốc gia, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng đời sống người nhân cũng như cải thiện được bộ mặt kinh tế quốc gia trên
trường quốc tế.

Song song với việc thông qua hợp tác với Nhật Bản để mở rộng thị trường,
từng bước khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới, ASEAN còn nhanh

18
nhạy trong vấn đề tận dụng những cơ hội giao lưu, tiếp xúc, tận dụng nguồn vốn
ODA mà Nhật Bản hỗ trợ cho ASEAN để tiến hành đẩy mạnh công cuộc công nghiệp
hóa hiện đại hóa. Thông qua đó mà nền kinh tế ASEAN đã có sự thay đổi tích cực,
từng bước từng bước vươn lên trở thành một trong những khu vực cho sức ảnh hưởng
đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung.

3.1.3.Văn hóa xã hội

Trong giai đoạn này, Nhật Bản và ASEAN tiến hành hàng loạt các hoạt động
trao đổi về văn hóa. Về phương diện học thuật, Nhật Bản phối hợp với các nước trong
khối ASEAN đẩy mạnh việc giảng dạy tiếng Nhật và tìm hiểu về văn hóa Nhật Bản
cũng như các nước thuộc ASEAN thông qua các cuộc thi, buổi giao lưu, trao đổi,...Về
phương diện bảo tồn văn hóa, di sản, Nhật Bản và ASEAN tích cực đề ra các chiến
lược lâu dài cho việc nghiên cứu và đưa ra các biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát
triển văn hóa. Chẳng hạn các chương trình giao lưu, hợp tác văn hóa giữa Nhật Bản
và ASEAN liên tiếp diễn ra như các festival phim ASEAN (1991, 1992), các buổi liên
hoan nghệ thuật,...Ngoài ra, mối quan hệ văn hóa giữa hai bên còn được thể hiện
thông qua vốn ODA dành riêng cho các dự án về văn hóa giáo dục. Nổi bật có thể kể
đến như Indonesia đã được Nhật Bản ưu tiên đầu tư đến 39 dự án về văn hóa giáo dục
trên tổng số 116 dự án ODA, hay như ở Philippines, con số này đạt mốc 22 dự án trên
tổng số 117 dự án ODA nói chung,...

❖ Kết luận

Tóm lại, việc thay đổi về cách nhìn, chính sách ngoại giao của Nhật Bản và
ASEAN thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã góp phần xoa dịu phần nào những căng thẳng
trong lịch sử, đồng thời biến đổi mối quan hệ trên nhiều mặt phát triển theo chiều
hướng tích cực. Mặc dù song song với đó vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn chủ quan
lẫn khách quan, nhưng ít nhất chính sự tích cực đó đã mở ra một hướng đi mới cho cả
Nhật Bản lẫn ASEAN, cho mối quan hệ hợp tác giữa hai bên, từ đó tạo điều kiện để
Nhật Bản và ASEAN dần hòa mình vào xu hướng toàn cầu hóa của thế giới.

19
3.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển quan hệ ASEAN - Nhật
Bản trong thế kỷ XXI

Trong thập kỷ 1990, vai trò và vị trí của các nước thành viên ASEAN trong
khu vực và sân chơi quốc tế đã tăng lên đáng kể. Sự tăng trưởng của ASEAN giúp
ASEAN nâng cao sự tự chủ trong các chính sách ngoại giao.

Trong cuộc cạnh tranh thiết lập quan hệ với các nước ASEAN+3, việc hợp tác
giữa ASEAN và Trung Quốc được tiến hành tuần tự từng bước, trong khi đó hợp tác
ASEAN và Nhật Bản trong thập niên 90 vẫn đang gặp nhiều khó khăn chưa được giải
quyết. Vì vậy, bắt buộc phải thúc đẩy nhanh chóng việc triển khai hợp tác ASEAN và
Nhật Bản khi bước vào thế kỷ XXI.

Ngoài ra, vai trò kinh tế của ASEAN cũng phải đối mặt với những thách thức
lớn bởi quá trình toàn cầu hóa và sự biến đổi cực kỳ nhanh chóng của nền thị trường
kinh tế toàn cầu. Năm 1997, nhờ có khủng hoảng tài chính và tiền tệ mà các nước
thành viên của ASEAN đã thấy những điểm yếu và hạn chế trong quá trình quản lý
kinh tế, các chính sách đầu tư phát triển nguồn vốn, nguồn nhân lực ... Muốn tiếp tục
sự tăng trưởng, ASEAN cần tập trung vào chiến lược quản lý kinh tế vĩ mô và xác
định vị trí tối ưu của ASEAN trong việc phân bổ lao động quốc tế, góp phần tạo động
lực cho sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN trong môi
trường toàn cầu hóa không ngừng biến động.

Sau kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế Nhật Bản đã được
phục hồi và phát triển một cách mạnh mẽ. Thế nhưng khi kinh tế các nước ASEAN
hồi phục chậm chạp do cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á thập kỷ 1990 diễn ra, các
nước thành viên ASEAN hy vọng Nhật Bản phát huy vai trò cường quốc kinh tế trong
khu vực, thì lúc này, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào đình trề, lún sâu vào suy thoái do
khủng hoảng bong bóng bất động sản bùng vỡ. Tình hình này đã tác động rất lớn đến
mối quan hệ của Nhật Bản và các nước ASEAN. Nhật Bản để có thể giúp nền kinh tế
của nước mình vượt qua suy thoái và định vị Nhật Bản như một nước có vị trí quan
trọng về kinh tế lẫn chính trị ở khu vực, Nhật Bản cần tiến hành hoạt động ngoại giao
tích cực một cách linh hoạt và có hiệu quả với ASEAN, góp phần xây dựng một môi
trường kinh tế và chính trị thuận lợi cho chính mình tại khu vực ASEAN và khu vực

20
Đông Á.

Không thể chối cãi là trong những năm 1990 chính phủ Nhật đã tập trung chú
trọng hỗ trợ phát triển cho các nước ASEAN vào việc nâng cấp hạ tầng cơ sở và đào
tạo nguồn nhân lực để môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Tuy nhiên, sự tập trung này
chỉ giới hạn vào năm nước thành viên trước đó của ASEAN - Singapore, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và Philippines. Vì có thể tiến đến mục tiêu một ASEAN phát
triển đồng đều, cũng như xây dựng quan hệ Nhật Bản và ASEAN một cách đầy đủ,
sâu rộng hơn, Nhật Bản cần tăng cường đầu tư không chỉ về số lượng mà còn về chất
lượng, đặc biệt là đối với các nước thành viên mới của ASEAN. Điều này sẽ góp
phần rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa các nước thành viên và thúc đẩy sự phát triển
toàn diện của ASEAN

Mặc dù trong suốt thập kỷ 1990, Nhật Bản là đối tác thương mại hàng đầu của
ASEAN, song song với việc đầu tư vào khu vực này. Tuy nhiên vẫn tồn tại tình trạng
mất cân đối trong hoạt động thương mại giữa ASEAN và Nhật Bản. Nhiều ý kiến cho
rằng chính Chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ của Nhật Bản là nguyên nhân chính
dẫn đến sự chênh lệch này. Các nước ASEAN đã đề xuất nhiều lần Nhật Bản mở rộng
thị trường của họ và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hóa của ASEAN. Thế
nhưng kết quả vẫn chưa thực sự hiệu quả. Sẽ tốt hơn nếu Nhật Bản tăng cường sự hợp
tác thương mại bằng cách thúc đẩy tự do hóa thị trường trong nước mình thông qua
việc loại bỏ những rào cản thương mại và phi thương mại. Tiếp đó cho phép hàng hóa
từ các nước ASEAN tiếp cận thị trường trong nước của mình. Song song, Nhật Bản
cần cung cấp và trao đổi thông tin thương mại và thị trường cần thiết với các quốc gia
ASEAN nhằm tăng cường hơn mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực này.

Vấn đề cuối cần giải quyết là về viện trợ ODA. Trong quá khứ, mối quan hệ
Nhật Bản và ASEAN được xây dựng dựa trên nền tảng viện trợ ODA khi các nước
thành viên ASEAN chưa phát triển. Cho đến sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
ASEAN trở thành một trong các trung tâm tăng trưởng kinh tế nhanh và hoạt động sôi
nổi trên thế giới, việc này khiến mối quan hệ lấy viện trợ ODA làm trung tâm trước
đó giữa Nhật Bản và ASEAN không còn phù hợp nữa. Và vì thế quan hệ Nhật Bản và
ASEAN từ thời điểm sau chiến tranh lạnh sẽ cần thay đổi từ mô hình quan hệ giữa

21
nước viện trợ và nước nhận viện trợ thành mô hình quan hệ bạn bè, hợp tác bình
đẳng, trao đổi rộng rãi có lợi cho đôi bên trong các lĩnh vực khác nhau: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội...

4. Tổng kết

Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách để nâng
cao vai trò chính trị trong khu vực. Vào năm 1992, Quốc hội Nhật Bản thông qua một
quyết định quan trọng, cho phép lực lượng phòng vệ của nước tham gia vào chiến
dịch duy trì hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia. Năm 1997, trong cuộc gặp
cấp cao nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN, Thủ tướng Hashimoto tuyên bố
một chính sách mới về khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, với sự nhấn mạnh về sự
ảnh hưởng của mối quan hệ Nhật Bản-ASEAN đối với sự ổn định và phát triển của
khu vực.

Tuy nhiên, trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, ASEAN và Nhật Bản đã
phải đối mặt với một thách thức quan trọng - sự trì trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật
Bản, việc này ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên
ASEAN. Do mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế Nhật Bản và ASEAN,
đặc biệt là sự phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư từ Nhật Bản, đã tạo ra tình trạng này.

ASEAN được coi là một đối tác quan trọng của Nhật Bản trong lĩnh vực kinh
tế, viện trợ và đầu tư, và Nhật Bản đang tìm kiếm một vị trí chính trị phù hợp với sức
mạnh kinh tế của mình trong khu vực này. Mặc dù Nhật Bản đã chịu tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, nhưng nền kinh tế của họ vẫn đang phát triển
trong khu vực. Trong thế kỷ 21, sự hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản và ASEAN sẽ tiếp
tục được tăng cường và phát triển mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực. Trong bối cảnh quá
trình hội nhập Đông Á ngày càng gia tăng và sự ảnh hưởng của các quốc gia lớn như
Trung Quốc, Mỹ, Australia, cùng với sự cạnh tranh từ Hàn Quốc, Đài Loan, EU và
Nga, Nhật Bản đã tăng cường quan hệ kinh tế với ASEAN. Về mặt chính trị-an ninh,
Nhật Bản đã đề xuất các sáng kiến về an ninh và tích cực tham gia vào diễn đàn ARF
để xác định vai trò của mình trong vấn đề an ninh khu vực và tiếp tục phát triển quan
hệ toàn diện với ASEAN.

Sau khi vượt qua khủng hoảng tài chính và tiền tệ, ASEAN đã khai thác tiềm

22
năng và thành tựu kinh tế trước đây, kết hợp với việc điều chỉnh chính sách kinh tế
quy mô lớn và thực hiện những cải cách kinh tế mạnh mẽ. Nhờ những nỗ lực này, các
quốc gia thành viên của ASEAN đã tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Không
chỉ trong phạm vi ASEAN, mà còn thông qua các chương trình hợp tác như kế hoạch
thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN, khu vực đầu tư ASEAN và hợp tác kinh
tế-tài chính trong khuôn khổ ASEAN+3 và APEC. Trong thời đại 21, ASEAN đã trở
thành một liên minh kết hợp từ các quốc gia vừa và nhỏ, ngày càng có vai trò và tầm
ảnh hưởng quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh khu vực. Đặc
biệt, ASEAN đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng các cơ chế an ninh
mới và thúc đẩy sự thay đổi mạnh mẽ.

Sau những năm phát triển, đặc biệt là giai đoạn sau chiến tranh lạnh từ 1991
đến 2000, hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN đã trải qua những thăng trầm nhưng vẫn
tiến lên theo hướng phát triển. Từ việc chỉ là đối tác thương mại, sự hợp tác giữa Nhật
Bản và ASEAN đã tiến xa hơn với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Hiện nay,
quá trình hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN đã tiến đến việc xây dựng một đối tác
kinh tế toàn diện trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Đông Nam Á có vai trò không thể xem nhẹ đối với Nhật Bản, không chỉ trong
mặt kinh tế mà còn trong việc đảm bảo ổn định và tạo liên kết khu vực. Do vị trí địa
lý gần nhau, sự tương đồng văn hóa và lợi ích chung của ASEAN và Nhật Bản, đã tạo
ra nhu cầu liên kết khu vực và quá trình này ngày càng mạnh mẽ hơn sau khi kết thúc
chiến tranh lạnh và sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa. Các lợi ích chung về an
ninh khu vực đã mở ra cơ hội cho hai bên để tìm kiếm các hình thức hợp tác phù hợp.
Trong các lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm như chính trị và an ninh chung, đã diễn ra
các cuộc thảo luận và trao đổi dựa trên sự hiểu biết và sự tin cậy, nhằm duy trì sự ổn
định và thịnh vượng chung của khu vực.

Hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN có tác động rất lớn và hiệu quả đáng kể đến
quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN. Không chỉ giúp ASEAN phát triển và trở
thành một cộng đồng kinh tế, chính trị và văn hóa trong tương lai gần, hợp tác này
còn đóng góp quan trọng vào quá trình liên kết Đông Á.

Vì vậy, việc lựa chọn các hình thức hợp tác phù hợp và tiếp tục điều chỉnh

23
chiến lược hợp tác luôn là một nhiệm vụ quan trọng đối với Nhật Bản và tất cả các
quốc gia thành viên ASEAN. Sự gia tăng tình hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN
mang đến nhiều cơ hội và thuận lợi, song đồng thời cũng đối mặt với nhiều thách
thức. Do đó, Nhật Bản và ASEAN cần có quyết tâm và tăng cường hợp tác mạnh mẽ
hơn để vượt qua mọi thử thách.

24
Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Tiến Lực & Trần Thị Kim Dung (2010), Quan hệ Nhật Bản -
ASEAN từ sau chiến tranh lạnh (1991 - 2009), (Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn).
2. Hoàng Văn Vinh (30/07/2023), Những điều chỉnh trong chính sách đối
ngoại của Nhật Bản đối với khu vực Đông Nam Á sau Chiến tranh lạnh (1991 -
2006), Tạp chí Cộng sản, 20.10.2023, từ
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/cong-bo-ket-qua-nghien-cuu/-/2018/827697/
nhung-dieu-chinh-trong-chinh-sach-doi-ngoai-cua-nhat-ban-doi-voi-khu-vuc-dong-
nam-a-sau-chien-tranh-lanh-%281991---2006%29.aspx
3. Nguyễn Hoàng Giáp (22/03/12), Một số điều chỉnh trong chính sách Đông
Nam Á của Nhật Bản những năm 90, 22/10/2023, từ https://dav.edu.vn/so-19-mot-so-
dieu-chinh-trong-chinh-sach-dong-nam-a-cua-nhat-ban-nhung-nam-90/
4. Nguyễn Thu Mỹ (02/11/2007), Hợp tác ASEAN + 3: thành tựu sau hơn 10
năm phát triển, Tạp chí Cộng sản, 17/10/2023, từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/1956/hop-tac-
asean-%2B-3--thanh-tuu-sau-hon-10-nam-phat-trien.aspx
5. Trần Quang Minh (2007), Quan hệ Nhật Bản – ASEAN trong bối cảnh hội
nhập Châu Á, Tạp chí Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (số 9).
6. Ngô Hồng Điệp & Nguyễn Huy Phương (2009), Đầu tư của Nhật Bản vào
ASEAN thời kỹ những năm 1990, Tạp chí Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
(số 10).

25

You might also like