Professional Documents
Culture Documents
BTN XHHPL
BTN XHHPL
Nhóm: 04
Lớp: N06.TL1
Hà Nội, 2023
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA
LÀM BÀI TẬP NHÓM
Ngày: 22/06/2023. Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Môn học: Xã hội học pháp luật
Nhóm: 04 Lớp N06 – TL1
Xin được phép báo cáo:
Tổng số sinh viên trong nhóm:
+ Có mặt: 6
+ Vắng mặt: 0, có lý do: 0; không có lý do: ...
Đề bài: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Bảng đánh giá làm việc nhóm
Đánh giá Điểm
Công việc được Ký
STT
MSSV Họ và tên Đúng Chất số đề
giao tên
hạn lượng xuất
Tỷ lệ 90,5% không đồng ý có thể cho rằng tín ngưỡng tôn giáo là một hình
thức tin tưởng mang ý nghĩa sâu sắc và có căn cứ trong kinh nghiệm và quan điểm
tâm linh của họ. Trong khi đó, 9,5% đồng ý có thể chỉ ra rằng một số người cho
rằng tín ngưỡng tôn giáo có một yếu tố mê tín, chẳng hạn như tin vào các hiện
tượng siêu nhiên không có bằng chứng rõ ràng.
2.2. Để thu thập được thông tin về mức độ quan tâm của người dân trên
địa bàn thành phố đến việc xây dựng pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
trên địa bàn nhóm chúng em đã đặt câu hỏi: “Anh (Chị) có quan tâm
đến hoạt động Xây dựng pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn
Hà Nội hiện nay ?”
Câu hỏi đã nhận được câu trả lời phân chia khá rõ rệt. Khoảng 81% người
trả lời cho biết họ quan tâm đến hoạt động xây dựng pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo, trong khi 19% cho biết họ không quan tâm. Việc quan tâm đến hoạt động
xây dựng pháp luật về lĩnh vực này có thể phản ánh những mối quan tâm về sự đa
dạng tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, và mong muốn đảm bảo công
bằng và bình đẳng trong việc áp dụng các quy định liên quan. Trong khi đó,
những người không quan tâm có thể có những quan điểm khác nhau về tín
ngưỡng và tôn giáo, hoặc coi rằng việc xây dựng pháp luật trong lĩnh vực này
không ưu tiên hoặc không cần thiết.
2.3. Tiếp theo, để đánh giá mức độ tiếp cận các văn pháp luật của người
dân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
nhóm chúng e đã đặt ra câu hỏi: “ Anh (Chị) có biết những VBQPPL
nào có quy định về tín ngưỡng tôn giáo?”
Trong những phương án đưa ra trên chúng tôi đã đưa ra các văn bản quy
phạm pháp luật có chứa đựng các quy định về tín ngưỡng, tôn giáo với hy vọng
khi khảo sát mọi người có thể biết hết về các văn bản này và bổ sung thêm những
văn bản khác có quy định liên quan. Tuy nhiên tỷ lệ cho thấy mọi người biết đến
các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu thông qua Hiến pháp 2013, điều này cho
thấy sự tìm hiểu về pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo chưa cao. Có thể
đánh giá trong thực tiễn, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến của các văn bản
quy phạm pháp luật chưa được thực hiện tốt.
2.4. Để đánh giá một cách khách quan trực tiếp nhóm đưa ra câu hỏi khảo
sát: “Theo anh (chị) Hà Nội hiện nay có đang thực hiện tốt các quy định
của Luật tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam?” và nhận được câu trả lời như
sau:
Với tỷ lệ câu trả lời 33,3% là "Tốt" và 66,7% là "Bình thường" có thể đưa
ra một số nhận xét sau: Đánh giá không hoàn toàn tích cực: Tỷ lệ này chỉ đạt
33,3%, kết quả cho thấy chỉ có một phần nhỏ người được hỏi cho rằng Hà Nội
đang thực hiện tốt các quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam. Đa số
cho rằng hiện tại chỉ "bình thường": 66,7% người trả lời cho biết Hà Nội đang
thực hiện các quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam ở mức "bình
thường". Kết quả này đặt ra câu hỏi về chất lượng thực hiện quy định về tín
ngưỡng và tôn giáo tại Hà Nội. Điều này có thể chỉ ra rằng có một số hạn chế
hoặc vấn đề cần cải thiện trong việc thực hiện luật này tại thành phố.
2.5. Cuối cùng, nhóm đưa ra câu hỏi để lấy ý kiến dựa trên hiểu biết của
mọi người “Những tri thức, hiểu biết của anh (chị) về các yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa
bàn Hà Nội hiện nay?”
Phần lớn câu trả lời được đưa ra là “Không biết”, “Chưa rõ”, song, bên cạnh
đấy, dù còn cũng có những ý kiến khác được đưa ra như “Môi trường”, “Yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hóa”, “Niềm tin”, “Ý thức, nhận thức của người dân” hay
“Dự liệu của các nhà làm luật”. Từ đó có thể nhận xét, mặc dù các hoạt động xây
dựng pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn còn chưa được phổ biến tuy
nhiên, các ý kiến đưa ra về yếu tố ảnh hưởng của hoạt động trên vẫn được đóng
góp khá là phong phú, đa dạng.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật
3.1. Quan điểm, tư tưởng, năng lực của các nhà làm luật :
Thứ nhất, về mặt tích cực: Khi các nhà làm luật có tư tưởng đúng đắn, quan
điểm tích cực về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Đồng thời có sự tìm hiểu, nghiên
cứu sâu, khảo sát thực tế. Từ đó sẽ có thể đưa ra các điều luật có tính ứng dụng
cao, vừa có thể tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, vừa có thể hạn chế được
những tiêu cực còn tồn đọng trong lĩnh vực này (lợi dụng tôn giáo để chống phá
nhà nước; tôn giáo, tín ngưỡng bị biến tướng thành các hoạt động mê tín dị đoan)
Thứ hai, về mặt tiêu cực: Ngược lại, khi các nhà làm luật có tư tưởng sai
lệch, quan điểm không phù hợp, không có sự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo sẽ dẫn
đến các điều luật ban hành không sát thực tế, không phù hợp gây ra nhiều ý kiến
trái chiều trong dư luận đặc biệt là trong lĩnh vực thiên nhiều về đời sống tinh
thần, tình cảm như tôn giáo, tín ngưỡng.
3.2. Các phương tiện thông tin đại chúng :
Thứ nhất, mặt tích cực: Các phương tiện thông tin chính thống là công cụ
hữu hiệu để truyền bá pháp luật; đưa ý chí của các nhà làm luật, của nhà nước đến
với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đồng thời cũng là diễn đàn để tổng hợp các ý
kiến, góp ý từ dư luận, từ nhiều tầng lớp khác nhau. Từ đó trở thành một nguồn
tham khảo hữu ích cho các nhà làm luật. Đặc biệt trong lĩnh vực tín ngưỡng tôn
giáo, vai trò điều hướng dư luận của các phương tiện thông tin đại chúng càng trở
nên đặc biệt. Các thông tin chính thống, thể hiện một cách rõ ràng ý chí của nhà
nước sẽ giúp người dân tuân thủ pháp luật; tránh xa các hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng vi phạm chuẩn mực.
Thứ hai, mặt tiêu cực: Tuy nhiên, các kênh thông tin truyền thông không
chính thống với các luận điệu xuyên tạc lại đem tới hiệu quả ngược lại. Là công
cụ truyền bá cho các luận điệu tôn giáo, tín ngưỡng sai lệch. Góp phần điều hướng
dư luận đi theo những tôn giáo, tín ngưỡng không phù hợp với thuần phong mỹ
tục, trái với ý chí nhà nước.
3.3. Dư luận xã hội :
Dư luận xã hội có vai trò tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa giáo dục,...
trong đó, phải kể tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động
xây dựng pháp luật. Việc xây dựng văn bản pháp luật về tín điều tôn giáo luôn là
một vấn đề nhạy cảm và gặp nhiều tranh cãi trong xã hội.
Thứ nhất, về mặt tích cực: Một số người cho rằng việc quy định và kiểm
soát tôn giáo là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự và đảm bảo quyền lợi của
những người khác.
Thứ hai, về mặt tiêu cực: Trong khi đó, một số người lại cho rằng việc can
thiệp vào tôn giáo là vi phạm quyền tự do tôn giáo và làm giảm đi tính đa dạng về
tôn giáo.
4. Một số giải pháp khắc phục những hạn chế, nâng cao hiệu quả của
hoạt động xây dựng pháp luật
Thứ nhất, tăng cường công tác thẩm định nội dung các dự án luật bằng công
cụ xã hội học: Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng vốn là một lĩnh vực gắn với đời sống
tinh thần của đông đảo người dân. Vì vậy, nội dung các dự án luật phải sát với
thực tế, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu tâm linh của người dân . Khi đó các công
cụ xã hội học như: Tổ chức các buổi hội thảo, đào tạo, tôn vinh các giá trị đạo đức
và văn hoá của các tôn giáo khác nhau; Tổ chức các cuộc điều tra và thăm dò ý
kiến của cộng đồng liên quan đến các vấn đề tôn giáo; Nghiên cứu và phân tích dữ
liệu về tôn giáo,.... sẽ là công cụ hữu hiệu để kiểm định tính thực tế của các dự án
luật
Thứ hai, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt
động xây dựng pháp luật về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo: Các cơ quan lập pháp
cần tăng cường hoạt động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tổ chức hội thảo lấy ý
kiến,... Nhằm đưa ra những điều luật sát thực tế, tính hiệu quả cao, hạn chế tối đa
được các tiêu cực.
Thứ ba, tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng: Như đã đề cập ở
trên, phương tiện thông tin đại chúng là công cụ hữu hiệu để truyền bá thông tin,
kết nối nhà nước với người dân. Vì vậy cần tận dụng công cụ đó để định hướng
dư luận, giúp người dân hiểu đúng, hiểu rõ những quy định của nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo; tránh xa tiêu cực,...
Thứ tư, mở rộng dân chủ, tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt
động xây dựng pháp luật, bảo đảm giá trị bền vững: Tính dân chủ, công khai minh
bạch trong hoạt động xây dựng pháp luật về tôn giáo là vô cùng quan trọng. Đó là
cách tốt nhất để hạn chế những ý kiến trái chiêu, phản đối liên quan tới vấn đề dân
chủ. Đồng thời tăng cường lòng tin của người dân đối với khả năng quản lý của
nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.