You are on page 1of 19

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM

Môn học:
NGHỀ LUẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP HỌC LUẬT

Đề số 4:
Phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp
của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư. Theo nhóm,
các chức danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp
nào khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp?

NHÓM: 01
LỚP: N01.TL2

Hà Nội, 04/2024
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ
THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM

Ngày: / /2024 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội


Nhóm số: 01 Lớp: N01.TL2 Khoá: 47
Tổng số sinh viên của nhóm:
 Có mặt:
 Vắng mặt: 0
Nội dung: Đánh giá mức độ tham gia làm việc nhóm của thành viên
Tên bài tập: Bài tập nhóm
Môn học: Nghề luật và phương pháp học luật
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực
hiện bài tập nhóm với kết quả như sau:

ĐÁNH GIÁ
ĐÁNH GIÁ CỦA GV
S CỦA SV
T MÃ SV HỌ VÀ TÊN SV KÝ TÊN GV
Điểm ĐIỂM
T A B C (Ký
(Số) (Chữ)
tên)
1 442918 Phan Thị Bích Ngọc X
2 442927 Tống Thị Chinh X
3 452915 Nguyễn Hương Thảo X
4 472001 Hoàng Thị Thu Giang X
5 472002 Đường Ngọc Huyền X
6 472003 Trần Nguyễn Hải Ly X
7 472004 Hoàng Khánh Linh X
Nguyễn Mai Quỳnh
8 472005
(NT)
X
9 472006 Bùi Thị Huyền Trang X
10 472007 Nguyễn Đức Bảo Duy X
11 472008 Đoàn Hà Phương X

Kết quả điểm bài viết: .......................... Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2024
Giáo viên chấm thứ nhất: ……………... NHÓM TRƯỞNG
Giáo viên chấm thứ hat: ……………......

Kết quả điểm thuyết trình: …………..

Giáo viên cho thuyết trình: …………….

Điểm kết luận cuối cùng: ……………. Nguyễn Mai Quỳnh


Giáo viên đánh giá cuối cùng: …………
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
1. Khái quát chung về các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư.......1
1.1. Thẩm phán:...............................................................................................1
1.2. Kiểm sát viên:............................................................................................2
1.3. Luật sư:......................................................................................................3
2. So sánh nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và
luật sư:......................................................................................................................4
2.1. Những điểm tương đồng thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư:..............4
2.2. Nhưng điểm khác biệt giữa thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư........7
3. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư
phải tuân thủ khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp.........................10
3.1. Ứng xử trên tinh thần tôn trọng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau................10
3.2. Ứng xử trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng công lý...........................11
3.3. Không lạm dụng chức vụ, quyền hạn, công việc để tác động đến
việc giải quyết, xét xử vụ án nhằm vụ lợi......................................................11
3.4. Có lý tưởng chung là hướng tới lợi ích tốt nhất cho đương sự và xã
hội trên cơ sở là thực hiện sứ mệnh công lý.................................................12
3.5. Tự ý thức được phẩm giá và uy tín của mình, lấy đạo đức làm gốc
để phát triển nghề nghiệp, phấn đấu xứng đáng là nơi xã hội gửi gắm
niềm tin công lý..............................................................................................12
3.6. Trung thực, khách quan với sự thật.......................................................13
KẾT LUẬN............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................15
MỞ ĐẦU
Trong công cuộc hội nhập và phát triển của Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối
với một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị thế và vai trò của pháp luật ngày
càng được nâng cao, kéo theo đó nghề luật và các chủ thể hành nghề luật sẽ được
quan tâm nhiều hơn. Nhắc đến các chủ thể hành nghề luật, không thể bỏ qua được
ba chức danh tiêu biểu là Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư, họ mang trong
mình nhiệm vụ là bảo vệ công lý, mang lại công bằng, lẽ phải cho xã hội. Vì vậy,
để đảm bảo được các yếu tố trên, ba chức danh phải luôn nâng cao trình độ chuyên
môn, tôn trọng pháp luật, giữ gìn được đạo đức và phẩm giá trong hoạt động nghề
nghiệp. Với cương vị là người học luật và là người sẽ hành nghề luật trong tương
lai, nhóm 1 xin được giải quyết yêu cầu của Đề 4: “Phân tích để chỉ ra điểm tương
đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên,
luật sư. Theo nhóm, các chức danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề
nghiệp nào khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp?”, để qua đó nhìn nhận
rõ hơn về nghề luật nói chung cũng như người làm công việc tư pháp nói riêng.

NỘI DUNG

1. Khái quát chung về các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư
1.1. Thẩm phán:
Tại Khoản 1 Điều 65 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, có quy định
“Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được
Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử.”
Xét về tính chất công việc, Thẩm phán phải tiếp xúc trực tiếp với con
người và đảm bảo sự sinh tồn đối với cuộc sống bình thường của cá nhân con
người trong điều kiện chung của xã hội; có thể gây ra những ảnh hưởng khác nhau
đến sinh mạng và điều kiện sinh tồn của đương sự hoặc bị cáo 1. Ngoài ra, bằng
công cụ lao động là pháp luật, toàn bộ hoạt động của Thẩm phán được bảo vệ, thúc

1
Trần Văn Độ, “Sự liêm chính, vô tư, khách quan, trong chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán, Tạp chí Tòa án
nhân dân điện tử, 23/09/2018, truy cập ngày 11/04/2024.
3
đẩy và diễn ra trong khuôn khổ pháp luật với trình tự thủ tục tố tụng do pháp luật
quy định.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán được quy định tại khoản 2 Điều 65
và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Thẩm phán đóng vai trò là một bộ phận
quan trọng của Tòa án Nhân dân. Trong quá trình làm việc, Thẩm phán làm nhiệm
vụ cần dựa trên các pháp lệnh, sự phân công của Chánh án Tòa án. Trong trường
hợp phiên tòa xét xử diễn ra không theo sự chỉ đạo hay phân công của bất kỳ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào thì Thẩm phán phải là người chịu trách nhiệm với chính
những phán quyết của mình. Như vậy, những người mang chức danh Thẩm phán
sẽ làm nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, do đó họ nhận được sự tôn trọng, kính mến từ nhân dân.
1.2. Kiểm sát viên:
Kiểm sát viên - một chức danh pháp lý của công chức trong ngành Kiểm sát
nhân dân được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật. Theo Điều 74 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp”.
Xét về khía cạnh tính chất công việc, Kiểm sát viên thực hiện chức năng
nghề nghiệp là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời,
Kiểm sát viên sẽ đảm nhận vai trò buộc tội trong tố tụng, quyết định truy tố ra
trước tòa án một người tình nghi là phạm tội và bảo vệ quyết định truy tố. Tuy
nhiên, công việc của một Kiểm sát viên luôn tiềm ẩn những xung đột, va chạm với
các chủ thể khác trong tiến trình tố tụng. Họ phải làm việc trong môi trường kỷ luật
lao động nghiêm ngặt, chịu nhiều áp lực, theo chế độ thủ trưởng chế, chịu áp lực
nặng nề về cường độ và khối lượng công việc; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Có thể thấy, Kiểm sát viên có vị trí, vai trò rất quan trọng, thể hiện chức
năng, nhiệm vụ mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ nhưng có ý nghĩa chính trị,
xã hội và tính nhân văn rất sâu sắc. Họ có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có
căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật, nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm

4
sát viên phải chấp hành nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định
của mình. Mọi hoạt động của Kiểm sát viên đều nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ nhà
nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền dân chủ của công
dân.
1.3. Luật sư:
Nghề luật sư ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp
của luật sư nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Theo
Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, “Luật sư là người có
đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. (sau đây gọi chung là khách
hàng)”
Luật sư được biết đến là một ngành nghề có những đặc điểm mang tính đặc
thù. Trước hết phải kể đến tính chất hướng dẫn của nghề Luật sư. Một cá nhân
muốn hành nghề Luật sư phải trải qua quá trình tích lũy kiến thức lâu dài kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình hành nghề. Từ đó, họ sẽ có những hướng dẫn, tư
vấn pháp lý cho khách hàng một cách chuyên nghiệp, hiệu quả hơn. Đặc biệt, nghề
Luật sư mang tính chất phản biện. Luật sư sẽ có những biện luận nhằm phản bác
lại lý lẽ, ý kiến mà họ cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Hơn nữa, những
ý kiến của họ còn đóng góp cho việc hoàn thiện các chính sách, quy định của pháp
luật. Bên cạnh đó, nghề Luật sư còn mang tính trợ giúp thông qua các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến và giáo dục những cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt về
nhân thân, gia đình, hoàn cảnh sống và hoàn cảnh kinh tế… trong việc tuân thủ
pháp luật. Ngoài ra, giúp cho những đối tượng này tìm được công bằng với những
thiệt hại mà họ gánh chịu; giúp cho các bị can, bị cáo nhận thức đúng đắn về các
quy định pháp luật.
Quyền hạn và nghĩa vụ chung của Luật sư được quy định tại Điều 21 Luật
Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012. Cụ thể, Luật sư có các quyền sau

5
đây: Đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật; Hành nghề Luật sư, lựa
chọn hình thức hành nghề Luật sư và hình thức tổ chức hành nghề Luật sư; ...
Đồng thời, Luật sư có các nghĩa vụ sau đây: Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và
các quy định có liên quan trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng; Có thái
độ hợp tác, tôn trọng người tiến hành tố tụng mà Luật sư tiếp xúc khi hành nghề;
Tham gia tố tụng đầy đủ, ... Do vậy, trách nhiệm nghề nghiệp của Luật sư chính là
những chuẩn mực, quy tắc mà Luật sư phải tuân thủ, thực hiện nhằm bảo vệ và
nâng cao uy tín của nghề Luật sư, phản ánh những đặc trưng của nghề Luật sư so
với những nghề khác nói chung và trong nhóm nghề luật nói riêng.

2. So sánh nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật
sư:
2.1. Những điểm tương đồng thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư:
Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư đều là những người làm công tác pháp
luật, người thực thi pháp luật. Tuy chức danh và tư cách tố tụng của mỗi người có
sự khác nhau, giữa Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư vẫn tồn tại những điểm
tương đồng nhất định, bởi họ cùng hoạt động trong cùng một hệ thống cơ quan bảo
vệ pháp luật, cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Sự tương đồng về đặc thù của các
chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư được thể hiện ở một số điểm như
sau:
Thứ nhất, pháp luật là chuẩn mực, là nội dung và phương tiện hoạt động của
các chức danh tư pháp. Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
định hướng cho hành vi ứng xử của các cá nhân và nhóm xã hội. Đối với ba chức
danh, Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư là đội ngũ hoạt động tư pháp, bảo vệ
pháp luật, lấy pháp luật làm công cụ làm việc với mục tiêu là thực thi pháp luật,
bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động tư
pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Chính điều này đã góp phần không nhỏ để
làm ổn định, xây dựng xã hội lành mạnh.
6
Thứ hai, tính “nhân bản” bao trùm trong đặc thù nghề nghiệp của ba chức
danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư. “Nhân bản” còn có nghĩa là lấy con
người làm gốc, nghĩa là ưu tiên phục vụ con người, quan tâm tới quyền lợi và hạnh
phúc của con người. Đặc thù nghề nghiệp nên những Thẩm phán, Kiểm sát viên và
Luật sư phần lớn có cơ hội tiếp xúc với nhiều người từ mọi ngành nghề, thành
phần, dân tộc, địa vị xã hội khác nhau, nhiều hoàn cảnh khác nhau, ... Điều này đòi
hỏi những người hành nghề luật nói chung cần tiếp cận vấn đề một cách linh hoạt
không khô khan máy móc mà phải xuất phát từ tính “nhân bản”, đặt con người là
trung tâm, vì quyền và lợi ích của con người và muốn đem đến công bằng, hạnh
phúc cho cuộc sống con người.
Thứ ba, tính chuyên môn, nghiệp vụ cao trong hoạt động của các chức danh
tư pháp. Cả ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư đều đòi hỏi trình
độ cao, hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm để đáp ứng được các nhiệm vụ phức tạp.
Điều này đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng xác định trong Nghị quyết số
27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Việc tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt
động tư pháp bởi nó liên quan chặt chẽ đến mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân.” Nghị quyết cho rằng, khi hoạt động tư pháp chưa
được đảm bảo tính chuyên nghiệp sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nền tư pháp và
niềm tin của người dân. Hơn nữa, đặc thù nghề nghiệp mang tính nhân bản như đã
đề cập, mang trọng trách lớn lao với cộng đồng xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền con người, quyền công dân nên tính chuyên môn, nghiệp vụ của cả ba chức
danh lại càng phải được đảm bảo. Với mỗi chức danh nghề nghiệp đều được pháp
luật quy định về tiêu chuẩn hành nghề.
Thứ tư, cả ba nghề Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư đều đòi hỏi khả
năng làm việc độc lập và trách nhiệm cá nhân cao. Khoản 2 Điều 103 chương VIII
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Như vậy, với
chức danh Thẩm phán, sẽ không bị lệ thuộc vào bất kỳ sự tác động nào từ bên
ngoài, cho dù là tác động của cơ quan/quan chức nhà nước. Đối với chức danh

7
Kiểm sát viên, tính độc lập được thể hiện ở việc người đảm nhận chức danh này có
quyền thực hiện những công việc trong thẩm quyền của mình (quy định tại Điều 42
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015) mà không cần phải xin ý kiến chỉ đạo của Viện
trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp. Về phía luật sư, tính độc lập
được nhìn nhận ở nhiều góc độ: độc lập đối với khách hàng (khách hàng nhận
được sự bảo đảm về quyền hưởng dịch vụ pháp lý một cách khách quan, không
xuất phát từ lợi ích cá nhân) và độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng như
Thẩm phán hay Kiểm sát viên. Có như vậy, người hành nghề luật sư mới có thể
đưa ra những căn cứ, lý lẽ hợp tình, hợp lý, “tâm phục, khẩu phục”. Và hơn ai hết,
cả ba chức danh này đều cần có chế độ trách nhiệm cao, họ phải tự mình chịu mọi
trách nhiệm đối với những lời nói, quan điểm của họ trước tòa và pháp luật.
Thứ năm, ba các chức danh tư pháp: Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư
phải tuân thủ theo đúng các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Quy tắc đạo đức ngành
luật tập hợp những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh, kiểm soát,
đánh giá và định hướng hành vi của người làm luật, quan hệ giữa họ với xã hội khi
hành nghề. Ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư đều chịu ảnh
hưởng và được đặt trong khuôn khổ của quy tắc đạo đức này, để từ đó điều chỉnh
hành vi của mình và trau dồi thêm những phẩm chất cần thiết. Tuy vậy, những quy
tắc này chỉ là những quy định chung cho người hành nghề luật và mỗi chức danh
được đề cập trên đều có những quy tắc hành nghề riêng, phụ thuộc vào đặc trưng
của từng chức danh.
Thứ sáu, điểm chung về điều kiện bổ nhiệm, hành nghề Thẩm phán, Kiểm
sát viên, Luật sư. Trước hết, một người khi muốn đảm nhận chức danh Thẩm phán,
Kiểm sát viên hay Luật sư, họ đều phải có bằng cử nhân luật do trường Đại học có
đào tạo ngành luật cấp. Tiếp theo đó, khi đã có bằng cử nhân luật, họ phải tiếp tục
học một khóa đào tạo nghiệp vụ của từng chức danh để lấy chứng chỉ hành nghề.
Đối với từng chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư có quy định chi tiết
về yêu cầu bằng cấp, ngoại hình đặc thù.
Cuối cùng, các chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư có tính bất
khả kiêm nhiệm. Bất khả kiêm nhiệm là một đặc điểm trong hoạt động của nghề

8
luật không chỉ bảo đảm hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, mà còn góp phần
nâng cao vị trí, vai trò của người hành nghề luật trong xã hội. Nghề luật là nghề
hoạt động dựa trên sự độc lập, trung thực và tôn trọng sự thật khách quan. Điều đó
cũng có nghĩa một người không thể đồng thời kiêm nghiệm hai chức danh nghề
nghiệp khác nhau, dễ ảnh hưởng đến tính khách quan. Người làm luật có thể thay
đổi hoạt động hành nghề nhưng không được phép hoạt động cùng lúc hai nghề liên
quan trong cùng ngành luật. Ví dụ như: Luật sư, công chứng viên, ...
Qua một số điểm tương đồng trên của ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát
viên và Luật sư, ta có cái nhìn tổng quát về các chức danh tiêu biểu trong nghề
luật. Việc xem xét điểm tương đồng này sẽ là bước đệm cho quá trình tiếp thu
những kiến thức về ba chức danh đã được đề cập ở trên.
2.2. Nhưng điểm khác biệt giữa thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư
Tồn tại song song với những điểm tương đồng, mỗi chức danh Thẩm phán,
Kiểm sát viên và Luật sư đều có những đặc trưng riêng biệt. Qua phân tích, ba
nghề luật nêu trên có những đặc điểm khác nhau về mục đích lao động, môi
trường làm việc và giá trị lao động.
2.2.1. Luật sư
a. Mục đích lao động
Với nghề luật sư, mục đích lao động của họ là bảo vệ công lý, quyền tự do,
dân chủ của công dân, để góp phần xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh; thông qua các hoạt động cung cấp những dịch vụ pháp lý như tham gia tố
tụng, tư vấn pháp luật, đại diện pháp lý, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán theo
các quy trình và thủ tục của pháp luật 2; đôi khi Luật sư cũng là người phổ cập các
kiến thức cơ bản về luật pháp cho các công dân để họ có ý thức hơn trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản đối với nhà nước và pháp luật.
b. Môi trường làm việc
Với đặc thù của nghề là cung cấp dịch vụ pháp lý, môi trường làm việc của
ngành luật sư rất rộng và tự do. Khác với Thẩm phán hay Kiểm sát viên là hai chức
danh làm việc gắn liền với các cơ quan nhà nước, Luật sư không có một cơ quan

2
Theo Điều 2 Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012)
9
chủ quản nào. Các luật sư có thể làm luật sư công tại các tòa án, đăng ký vào các
công ty luật hoặc thậm chí có thể tự làm việc một cách độc lập. Cũng vì vậy mà
tính cạnh tranh của ngành này cũng cao hơn hẳn so với hai chức danh tư pháp còn
lại.
c. Sản phẩm lao động
Công việc chính của Luật sư là các hoạt động như cung cấp dịch vụ pháp lý,
soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán... Do đó, các sản phẩm lao động của họ
thường không là một sản phẩm hữu hình mà là sự trợ giúp cho khách hàng như: sự
tư vấn, trợ giúp, sự điều hướng trong hành lang pháp lý, hay đó là những hợp đồng,
văn bản có tính pháp lý… Ngoài ra còn là sự đại diện cho thân chủ trong các phiên
tòa, các vụ án nhằm giúp cho thân chủ đảm bảo quyền và lợi ích của mình.
2.2. Kiểm sát viên
Cùng là những chức danh tư pháp song đặc thù của Kiểm sát viên lại mang
tính đối lập so với Luật sư được thể hiện qua các phiên tòa xét xử với một bên
buộc tội - Kiểm sát viên và bên gỡ tội - Luật sư.
a. Mục đích lao động
Kiểm sát viên có vai trò thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp theo quy định của luật3. Xuất phát từ quyền công tố, mục đích tranh tụng của
Kiếm sát viên là bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát trong cáo trạng, thuyết phục
Hội đồng xét xử đưa ra các quyết định theo ý kiến của mình. Bên cạnh đó, việc
kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng
quyền lực công trong hoạt động tư pháp, nhằm phát hiện vi phạm, kịp thời xử lý,
bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức.
b. Môi trường làm việc
Kiểm sát viên hoạt động trong môi trường tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân, nhận nhiệm vụ từ Viện kiểm sát và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình đang
hoạt động cũng như Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Kiểm sát viên sẽ phải chịu
trách nhiệm trước Viện trưởng về hành vi và hoạt động của mình, tuy nhiên, Kiểm

3
Theo Điều 74 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
10
sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái
pháp luật và báo cáo với cấp trên cao hơn để theo dõi và xử lý.
c. Sản phẩm lao động
Công việc của kiểm sát viên được tựu chung trong hai từ là “giám sát” và
“tố tụng”, cho nên, thành quả công việc của họ chính là những kết quả điều tra và
các bản cáo trạng dựa trên chứng cứ khách; quan qua đó giúp Thẩm phán đưa ra
phán quyết một cách công tâm nhất. Vì vậy, nhờ có Kiểm sát viên, hệ thống pháp
luật Việt Nam được vận hành trơn tru, mọi công việc tòa án đều được giám sát
công khai, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
2.3. Thẩm phán
Trong một phiên tòa, khác với Luật sư và Kiểm sát viên - người đưa ra ý
kiến thì Thẩm phán lại đóng vai trò là người chứng kiến toàn bộ quá trình từ đó
đưa ra phán quyết một cách công tâm, đảm bảo sự thượng tôn pháp luật trong đời
sống xã hội.
a. Mục đích công việc
Nói về Thẩm phán, mục đích công việc được đặt ra với chức danh này chính
là đảm bảo quyền, lợi ích cho cá nhân, tổ chức và đảm bảo sự công bằng của xã
hội; thông qua quyền của Thẩm phán khi nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ
án4. Từ đó đưa ra các quyết định, hình thức xử lý thích hợp với các hành vi vi
phạm pháp luật. Thêm vào đó, mục đích công việc của Thẩm phán nhằm đảm bảo
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự xã hội. Đồng thời, xây dựng hệ thống pháp
luật chặt chẽ, kịp thời dựa trên các bản án và án lệ.
b. Môi trường làm việc
Được đặt trong môi trường làm việc “trung thực và liêm chính”, thẩm phán
nhân danh nhà nước thực thi hoạt động xét xử tại các tòa án, phiên tòa. Với trọng
trách của người bảo vệ và thực thi công lý, thẩm phán luôn phải đối mặt với những
rủi ro, nguy hiểm, cám dỗ do vậy chức danh tư pháp này đòi hỏi nhiều yếu tố, tiêu
biểu như quy tắc đạo đức, nghề nghiệp nghiêm ngặt. Ngoài ra, môi trường lao
động của nghề Thẩm phán gắn với môi trường chính trị pháp lý, pháp luật và luôn

4
Theo Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014
11
chịu sự kiểm soát của pháp luật cũng như sự giám sát của nhân dân. Điều đó đã
được pháp luật ghi rõ trong khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
c. Sản phẩm lao động
Thẩm phán là người nhân danh nhà nước và pháp luật, đưa ra bản án nhằm
giải quyết vụ việc cụ thể. Mỗi phán quyết của thẩm phán tác động trực tiếp đến tự
do, danh dự, nhân phẩm, tài sản và cả tính mạng con người, tổ chức. Vì vậy, thành
quả lao động của chức danh tư pháp này có ý nghĩa vô cùng lớn, bởi nếu thẩm
phán quyết định sai lầm thì hậu quả để lại sẽ rất phức tạp và khó có thể bù đắp.
Qua những tìm hiểu, phân tích về ba nghề Luật sư, Kiểm sát viên và Thẩm
phán có thể thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa ba ngành nghề qua
đó đưa ra một cái nhìn tổng thể chính xác về mối quan hệ giữa ba chức danh tư
pháp kể trên cũng như những quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà cả ba ngành nghề
phải tuân thủ khi làm việc với nhau.
3. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải
tuân thủ khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp
Như đã nói ở phần trước, ba chức danh ngành Luật gồm Luật sư, Kiểm sát
viên và Thẩm phán đều có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định, tuy
nhiên không thể phủ nhận rằng đây là ba chức danh phổ biến, có mối quan hệ mật
thiết trong hoạt động tư pháp ở nước ta. Việc sở hữu những đặc thù chung liên
quan đến Luật pháp đã đòi hỏi những người hoạt động trong ba chức danh này phải
làm việc cùng nhau trong nhiều tình huống. Một ví dụ điển hình là trong môi
trường tòa án, những người thực hiện các chức danh trên ngồi ở các vị trí khác
nhau, cùng tham gia vào quá trình tố tụng, tranh tụng. Điều đó cho thấy, bên cạnh
những quy tắc nghề nghiệp dành riêng cho từng chức danh, mỗi chủ thể khi tham
gia vào thị trường lao động ngành Luật cũng cần phải đúc rút cho bản thân những
quy tắc đạo đức nghề nghiệp chung, qua đó giúp cho hoạt động tư pháp được thực
hiện với hiệu quả cao nhất. Qua quá trình xem xét, nhóm đưa ra những điểm chung

12
trong yêu cầu về quy tắc đạo đức của các chức danh khi thực hiện hoạt động tư
pháp, cụ thể:
3.1. Ứng xử trên tinh thần tôn trọng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
Trong quá trình hành nghề các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật
sư bắt gặp nhiều trường hợp cần cùng nhau tham gia, hợp tác; do đó quy tắc ứng
xử trên tinh thần tôn trọng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau là một trong những quy tắc
quan trọng nhất để quá trình làm việc được hiệu quả, đưa ra được những quyết
định hợp lý nhất. Hiện nay, pháp luật đã có quy định về quy tắc này cụ thể tại
Điểm b, Điểm c Khoản 1 Điều 10 trong Bộ quy tắc và ứng xử của Thẩm phán;
Khoản 3, Khoản 4 Điều 7 Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên và Mục 26.1 Quy tắc
26 quy định quy tắc chung khi tham gia tố tụng, Mục 27.1 Quy tắc 27 về Ứng xử
tại phiên tòa của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam. Có
thể thấy rằng, tinh thần tôn trọng lẫn nhau khi làm việc chung là cơ sở để giữ gìn
sự tôn nghiêm và chuyên nghiệp trong các hoạt động tư pháp. Thực tế cho rằng các
chức danh nghề nghiệp này đều phải có những đánh giá độc lập về đối tượng, tình
tiết vụ việc, … nhưng khi kết hợp làm việc thì vẫn cần sự tổng hợp ý kiến để đưa
ra được những quyết định phù hợp dựa trên tinh thần giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau.
3.2. Ứng xử trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng công lý
Có thể coi nguyên tắc này là nguyên tắc tối quan trọng đối với cách ứng xử
của những người làm công tác pháp luật, cụ thể được quy định tại Điều 6 Bộ quy
tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán; Quy tắc 2 của Bộ quy tắc đạo đức và ứng
xử của luật sư; Điều 6 Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của kiểm sát viên. Việc tôn
trọng lẫn nhau sẽ giúp mỗi cá nhân họ ý thức được trách nhiệm của bản thân, từ đó
nâng cao sự chuyên nghiệp trong công việc pháp lý của mình. Khi những người
làm công việc pháp lý thực hiện việc ứng xử trên nguyên tắc bình đẳng và tôn
trọng công lý sẽ giúp tính tôn nghiêm được đề cao hơn, đồng thời trở thành tấm
gương sáng trong việc tuyên truyền pháp luật tới công chúng. Không thể phủ nhận
rằng, bất đồng quan điểm trong quá trình cùng hợp tác là điều khó tránh khỏi, tuy
nhiên chính điều đó là cơ sở, nền tảng để gỡ rối vấn đề từ đó tìm ra công lý.

13
3.3. Không lạm dụng chức vụ, quyền hạn, công việc để tác động đến việc giải
quyết, xét xử vụ án nhằm vụ lợi
Trong quá trình xét xử vụ án, lạm dụng quyền hạn để tác động đến việc giải
quyết hay đưa phán quyết nhằm vụ lợi là việc làm cấm kỵ, bị nghiêm cấm. Đối với
thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư, điều này được quy định tại các bộ quy tắc, tại
đây có quy định về những điều không được làm của thẩm phán, kiểm sát viên hay
luật sư ví như: Đối với thẩm phán, Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành
Tòa án nhân dân 2008, tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 quy định: thẩm phán không
được “tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm
cho việc giải quyết, xét xử vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của
pháp luật”. Có thể thấy rằng, việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để tác động giải
quyết vụ án nhằm vụ lợi có thể để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực xong xã hội như
mất đi sự công bằng; thiếu tính khách quan trong hoạt động xét xử, là cơ hội cho
các tổ chức; cá nhân có lợi thế hơn trong xã hội thực hiện các hành vi vi phạm
pháp luật, ... Điều này sẽ dẫn tới việc mất đi trật tự an ninh xã hội, người dân
không còn niềm tin vào các chức danh tư pháp.
3.4. Có lý tưởng chung là hướng tới lợi ích tốt nhất cho đương sự và xã hội trên
cơ sở là thực hiện sứ mệnh công lý
Theo Điều 7 và Điểm e Khoản 1 Điều 10 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của
Thẩm phán; Khoản 4 Điều 3 Quy tắc đạo đức và ứng xử của Kiểm sát viên và Quy
tắc 1 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Luật sư, việc “góp phần bảo vệ công
lý, công bằng”, “bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân”, “luôn đặt lợi ích của Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân và tập thể lên
trên lợi ích của cá nhân mình” là quy tắc mà các chức danh cần tuân thủ khi làm
việc cùng nhau. Đây là một quy tắc quan trọng, giúp các chức danh có tiếng nói
chung trong hoạt động tư pháp. Ba chức danh trên dù hoạt động ở vị trí nào trong
môi trường tư pháp thì mục đích trên hết là đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Quy tắc này được thể hiện thông
qua biểu hiện mà 3 chức danh cần phải thực hiện như giải thích luật, hướng dẫn

14
thủ tục phiên tòa, trợ giúp pháp lý, xác định đúng người có tội, tránh oan sai, …
được đề cập rõ trong nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh này.
3.5. Tự ý thức được phẩm giá và uy tín của mình, lấy đạo đức làm gốc để phát
triển nghề nghiệp, phấn đấu xứng đáng là nơi xã hội gửi gắm niềm tin công lý
Theo Quy tắc 3 của Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Luật sư; Điều 4,
Điều 5, Điều 6 Quy tắc đạo đức và ứng xử của Kiểm sát viên; Điều 4, Điều 7 Quy
tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán, thì 3 chức danh trên đều cần tự ý thức về
sứ mệnh, giữ gìn danh dự, tư cách, uy tín nghề nghiệp của mình. Khi hoạt động tư
pháp tại phiên tòa, khi làm việc cùng nhau, với mỗi chức danh đòi hỏi phải có ý
thức trách nhiệm, tuân thủ nghiêm khắc các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của từng
chức danh. Do vậy, những người hành nghề luật này phải tích cực rèn luyện, bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn, tu dưỡng đạo đức, không vụ lợi nhằm hướng tới
mục tiêu đảm bảo tính thượng tôn pháp luật; có như vậy người dân mới có cơ sở để
gửi gắm niềm tin công lý.
3.6. Trung thực, khách quan với sự thật
Theo Quy tắc 2 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt
Nam; Điều 5 Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán; Điều 5 và Điều 6
Quy tắc đạo đức và ứng xử của Kiểm sát viên, khi làm việc cùng nhau, 3 chức
danh trên cần tôn trọng sự thật khách quan, chí công vô tư, thực hiện nhiệm vụ một
cách đúng đắn, không vì lợi ích cá nhân, không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ
việc. Đối với các chức danh là kiểm sát viên, luật sư khi thực thi nhiệm vụ, phải
giữ cho mình cách đánh giá công tâm, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.
Đặc biệt trong hoạt động xét xử đòi hỏi thẩm phán phải hành xử một cách chuẩn
mực, xét xử đúng người đúng tội, không vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, không
thiên vị hoặc áp đặt định kiến cá nhân chủ quan bất cứ bên nào trong giải quyết vụ
án, vụ việc. Có như vậy, mọi quyết định khi đưa mới thấu tình, đạt lý, khách quan,
nghiêm khắc, nhân văn, từ đó mới gây dựng được niềm tin của toàn thể người dân
vào pháp luật nói chung và các chức danh tư pháp nói riêng.
Do đó, đối với 3 chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư trong quá
trình làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp cần phải tuân theo những quy tắc

15
đạo đức và ứng xử nhất định. Và trên đây nhóm đã nêu ra 6 quy tắc cơ bản và quan
trọng nhất.
KẾT LUẬN
Như vậy, từ gì mà nhóm 1 đã tìm hiểu và nghiên cứu về các chức danh thẩm
phán, kiểm sát viên và luật sư, có thể thấy những đặc trưng của các chức danh tiêu
biểu trong nhóm nghề luật. Tuy có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định,
nhưng đặc trưng của nghề đòi hỏi công việc của họ luôn có liên quan chặt chẽ với
nhau, khi làm việc luôn cần tuân thủ những quy tắc nhất định. Hiểu được những
điều này sẽ giúp cho mỗi người hành nghề luật có cái nhìn bao quát và sâu sắc hơn
về ngành nghề của mình, từ đó hoạt động hiệu quả góp phần thúc đẩy hoàn thiện
bộ máy tư pháp của đất nước, phát triển xã hội pháp quyền. Điều này đặc biệt quan
trọng với những người học luật, theo đuổi ngành luật, trong đó có cả chúng ta –
những sinh viên của Trường Đại học Luật Hà Nội. Vậy nên nhóm 1 mong muốn
bản thân mỗi sinh viên luật cần hiểu rõ về ngành nghề của mình học, nghề mà bản
thân sẽ theo đuổi trong tương lai, trau dồi và rèn luyện kiến thức, năng lực và phẩm
chất để xứng đáng với sứ mệnh cao cả của những người “bảo vệ công lý”.

16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
1. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
2. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
3. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
4. Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII số 27-NQ/TW
ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
5. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 02/2002/PL-UBTVQH11 ngày 4
tháng 10 năm 2002 về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân (sửa đổi, bổ
sung năm 2011)
6. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân (ban hành theo
Quyết định số 1253/2008/QĐ-TANDTC ngày 18 tháng 09 năm 2008 của Tòa
án nhân dân tối cao)
7. Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán (ban hành theo Quyết định số
87/QĐ-HĐTC ngày 04 tháng 07 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát
Thẩm phán quốc gia)
8. Quy tắc ứng xử của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án kèm theo Quyết định số
46/QĐ-VKSTC.
9. Quy tắc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ kiểm sát (Ban hành
kèm theo Quyết định số 21/QĐ-VKSTC ngày 07 tháng 02 năm 2023 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
10. Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam (ban hành theo
Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Hội đồng
Luật sư toàn quốc)
Giáo trình:
1. Học viện Tư pháp (2011), Đạo đức nghề luật, NXB Tư pháp
Website:

17
1. Nguyễn Hòa Bình, "Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp,
hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân", truy cập ngày 06/04/2024, https://tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-nen-tu-
phap-viet-nam-chuyen-nghiep-hien-dai-cong-bang-nghiem-minh-liem-
chinh-phung-su-to-quoc-phuc-vu-nhan-dan
2. 1. Lawyer Vs. Judge | Difference & Similarities Of Lawyer Vs. Judge,
Legalfact, truy cập ngày 07/04/2024, Lawyer vs. Judge | Difference &
Similarities of Lawyer & Judge (legalfactpro.com)

18

You might also like