Professional Documents
Culture Documents
Giai đoạn trong gan (Tiền hồng cầu): Từ 7- 21 ngày tùy loại Plasmodium.
Khi muỗi đốt người, thoa trùng xâm nhập vào hệ tuần hoàn và lưu hành trong khoảng 30 phút, phần lớn thoa trùng bị thực bào, còn lại một số lọt vào tế
bào nhu mô gan.
Trong tế bào gan, thoa trùng cuộn tròn lại, bào tương và nhân lớn lên rồi sinh sản theo hình thức vô tính. Sau 40-48 giờ xuất hiện những KST nhỏ có
đường kính khoảng 3µm, có 1 nhân con và 1 diềm bào tương, sau đó hình thành nhiều KST gọi là thể phân liệt gan (mô). Những thế phân liệt gan có
kích thước 30-70µm đẩy nhân tế bào gan về một phía và làm tế bào gan to ra. Sau khoảng từ 6-16 ngày tính từ thời điểm nhiễm tùy thuộc chủng loại
KST, vỏ bọc thể phân liệt vỡ ra, giải phóng các mảnh phân liệt gan (merozoit) ra mô xung quanh rồi tung vào máu. Phần lớn các thể merozoite này xâm
chiếm hồng cầu có trong các xoang của gan, một số khác bị thực bào.
P.vivax và P.ovale gây bệnh sốt rét tái phát vì chúng có những loại thoa trùng (sporozoite) khác nhau về cấu trúc gen.
Loại sporozoite phát triển nhanh ngay sau khi xâm nhập vào tế bào gan nên có thời gian ủ bệnh ngắn.
Loại sporozoite phát triển chậm: sau khi vào tế bào gan, chúng không phát triển ngay hoặc phát triển rất chậm, sau nhiều tháng, nhiều năm mới tạo được
các merozoite ở tế bào gan, nên còn được gọi là thể ngủ (hypnozoite). Thể ngủ nằm yên trong tế bào gan dưới dạng đơn nhân trong một thời gian dài,
đến một thời điểm nhất định, những thể ngủ này phát triển và trải qua giai đoạn phân liệt ngoại hồng cầu gây nên cơn sốt rét tái phát lâm sàng.
Ở P.falciparum, P. knowlesi và P.malariae cũng có những loại sporozoite có cấu trúc gen khác nhau, nhưng thời kì tiềm tàng không dài, thoa trùng không
tạo thành thể ngủ mà phát triển trực tiếp thành các thể phân liệt gan. Hiếm gặp trường hợp P.malariae do chu kì phát triển vô tính của KST tiềm tàng
trong hồng cầu được hoạt hóa cũng gây nên hiện tượng tái phát.
Giai đoạn trong hồng cầu: Từ 48-72 giờ tùy loại Plasmodium.
Thể vô tính: Từ tế bào gan, KST SR vào máu, vào hồng cầu ở các dạng: tư dưỡng trẻ (hình nhẫn – ring form) sau đó phát triển thành tư dưỡng già
(Trophozoite) với nhân và nguyên sinh chất lớn, có nhiều hạt sắc tố.
KST tiêp tục phát triển với nhân phân chia thành nhiều mảnh, mỗi mảnh nhân kèm theo một mảnh NSC, xen kẽ giữa các mảnh này là các hạt sắc tố tập
trung hay rải rác gọi là thể phân liệt (Schizonte). Số lượng thể phân liệt có thể từ 6-30 mảnh tùy loài Plasmodium.
Mỗi thể phân liệt phát triển thành KST non, phá vỡ hồng cầu giải phóng KST gây nên cơn sốt lâm sàng. Các KST này lại xâm nhập vào các tế bào HC
khác để tiếp tục sinh sản vô tính.
Chu kì trong hồng cầu kéo dài 48 giờ đối với P.vivax và P.falciparum, 72 giờ với P.malariae và 50 giờ đối với P.ovale, 24 giờ với Knowlesi.
Một số mành trùng phát triển thành thể hữu tính, khi xâm nhập vào hồng cầu mới, các thể này phát triển nhưng nhân không phân chia, nằm trong hồng
cầu cho đến khi được muỗi cái Anopheles hút vào dạ dày thì tiếp tục phát triển trong cơ thể muỗi.
Giao bào chỉ tiếp tục phát triển khi vào cơ thể muỗi thích hợp.
Ở cơ thể người, giao bào P.vivax, P.ovale, P.malariae chỉ sống được vài giờ sau khi đã trưởng thành. Giao bào P.falciparum có thể sống được 1,5-2
tháng, sau đó giao bào tự thoái hóa.
Những ký sinh trùng P.vivax, P.ovale và P.malariae giai đoạn hồng cầu sinh sản và phát triển ở máu ngoại vi. Vì vậy khi xét nghiệm máu ngoại thường
thấy tất cả các thể và cả giao bào ngay từ những cơn sốt đầu tiên của bệnh.
Giai đoạn sinh sản và phát triển trong hồng cầu của P.falciparum và P.knowlesi thường xảy ra trong các mao mạch nội tạng như thể tư dưỡng muộn, thể
phân liệt và các thể giao bào từ gian đoạn 1 đến giai đoạn 3, giao bào giai đoạn 4 mới xuất hiện ở máu ngoại vi, thường sau 8-10 ngày kể từ cơn sốt đầu
tiên. Do đó khi xét nghiệm máu ngoại vi thường chỉ thấy thể nhẫn và thể giao bào, còn các thể khác có thể gặp trong trường hợp sốt rét ác tính hoặc đe
dọa sốt rét ác tính.
Thời gian phát triển KST ở người từ khi muỗi đốt P.falciparum từ 8-12 ngày P.vivax và P.ovale từ 11-21 ngày P.malariae từ 21- 42 ngày
(giai đoạn ủ bệnh)
Nếu không bị tái nhiễm hay không được điều trị P.falciparum: 1-2 năm P.vivax và P.ovale từ 1-5 năm P.malariae từ 3-50 năm
thì KST SR có thể tồn tại trong cơ thể người
10. Đặc điểm cấu tạo chung của ký sinh trùng sốt rét
Cấu tạo gồm 3 thành phần chính: Đặc điểm khi nhuộm Giemsa
Nhân: Tròn, màu đỏ
Nguyên sinh chất: Màu xanh da trời
Sắc tố KST: Hình tròn hoặc hình que, màu nâu ánh vàng nằm rải rác trong nguyên sinh chất.
2. Cơ chế bệnh sinh: Có chế bệnh sốt rét là sự tổng hợp của tất cả các tác nhân kích thích độc hại của KST lên vật chủ.
Do độc tố của KST
Do viêm
Do thiếu dinh dưỡng, thiếu oxy của tổ chức và tế bào, do thiếu máu…
3. Phân loại bệnh sốt rét
Dựa trên cơ sở phân loại sốt rét của WHO, Việt Nam phân loại bệnh sốt rét theo 2 mức độ lâm sàng:
Sốt rét thường – Sốt rét chưa biến chứng
Sốt rét ác tính – Sốt rét có biến chứng
Giai đoạn phát bệnh: Có thể có triệu chứng trước khi sốt: khó chịu, mệt mỏi, đau thắt lưng, mỏi chân tay, ngáp vặt.
Cơn sốt điển hình có 3 giai đoạn: Rét run, sốt cao, vã mồ hôi (thường gặp ở người lần đầu bị bệnh)
Cơn sốt không điển hình: Sốt nhẹ, không thành cơn (gặp ở người sống vùng SR, có miễn dịch với SR).
+ Giai đoạn rét run: Cơn rét 1 tới 2 giờ. Bệnh nhân lạnh toàn thân, cảm giác rét run, nổi gai ốc, răng khua lập cập, mặt xanh mét, mệt lả người, mạch nhanh,
huyết áp giảm.
+ Giai đoạn sốt nóng: Nóng sốt, khoảng 3-4 giờ, da nóng và khô, mặt đỏ và sung huyết, nhức đầu, nhiệt độ 40 – 41°C.
+ Giai đoạn vã mồ hôi: Đổ mồ hôi, từ 2 - 4 giờ. Đổ nhiều mồ hôi ướt cả quần áo, nhức đầu giảm, nhiệt độ giảm nhanh, huyết áp tăng trở lại, mạch chậm, bệnh
nhân cảm thấy phục hồi dần và khỏe.
Chu kỳ của cơn sốt: P. falciparum: 24 - 48 giờ P. malariae: 72 giờ
P. vivax: 48 giờ P. knowlesi: 24 giờ
Đặc điểm cận lâm sàng của sốt rét chưa biến chứng:
Xét nghiệm huyết học: Giảm số lượng hồng cầu, hematocrit, số lượng tiểu cầu. Số lượng bạch cầu ít thay đổi. Xét nghiệm lam máu tìm thấy KST SR.
Xét nghiệm sinh hóa: Tăng bilirubin, chủ yếu là bilirubin gián tiếp, có thể tăng nhẹ men gan SGOT và SGPT.
Siêu âm: có thể thấy gan to, lách to, nhưng thường mềm, bờ tròn (với những cơn sốt đầu), các xoang gan và lách bị giãn ra chứa các tế bào đại thực bào
và các hồng cầu có KST SR. Nếu bị sốt đi sốt lại nhiều lần có sự tăng sinh lan tỏa của mô liên kết dạng sợi sau đó tổ chức gan, lách trở nên cứng.
Sốt rét ác tính thể đái huyết sắc tố: Là một thể đặc biệt của sốt rét có huyết tán cấp, đái huyết sắc tố, thiếu máu nặng, dễ dẫn tới trụy tim mạch, suy thận cấp.
Bệnh xuất hiện đột ngột
Sốt 40°C, đau lưng dữ dội và kiệt sức.
Bệnh nhân ói ra mật
Nước tiểu đỏ sậm do có nhiều hồng cầu bị vỡ
Số lượng nước tiểu ngày càng giảm, vàng da (do tiêu huyết).
Sức khoẻ suy sụp dần, bệnh nhân vô niệu, đi dần vào hôn mê và chết trong 1/3 trường hợp.
Tiên lượng tốt hay xấu tùy thuộc vào khả năng phục hồi chức năng thận.
Sốt rét ác tính thể rối loạn tiêu hóa (thể giống tả):
Có KST SR P.falciparum hoặc phối hợp có P.falciparum, có cơn sốt rét
Người bệnh nôn mửa thốc tháo
Tiêu chảy nhiều lần, phân toàn nước, không có nhày mũi, máu
Mất nước, mất điện giải nặng
Huyết áp tụt, mạch nhanh, nhỏ, khó bắt
Sốt rét ở phụ nữ có thai: Phụ nữ có thai sống ở vùng sốt rét lưu hành dễ có nguy cơ bị sốt rét ác tính do suy giảm miễn dịch. Các thể lâm sàng thường gặp: thể
não, thể suy thận, thể gan mật, cơn thiếu máu cấp do huyết tán nặng.
Sốt rét bẩm sinh: Hiếm gặp do chỉ xảy ra trong thời kì mang thai mà có sự tổn thương lớp tế bào nhau thai bảo vệ sự ngăn cách máu mẹ và máu thai nhi. Bệnh
xuất hiện ngay sau khi đẻ hoặc 2 ngày sau đẻ với các triệu chứng: sốt, quấy khóc, tiêu chảy, bú kém, vàng da và gan, lách to.
Sốt rét ở trẻ em: Thường gặp ở trẻ sau 6 tháng tuổi với các dấu hiệu về tiêu hóa nổi bật: nôn, tiêu chảy, đau bụng và chướng bụng. Trẻ đờ đẫn kém ăn, sốt cao
39-41°C, có thể sốt liên tục hay dao động kèm thèo dấu hiệu màng não, co giật. Gan, lách sưng to, sờ đau. Thiếu máu xảy ra nhanh, tỷ lệ tử vong cao hơn người
lớn.
4. Thay đổi của cơ thể trong bệnh sốt rét
Thay đổi về lách:
Lách phải tăng cường chức năng để thực bào những hồng cầu bị phá hủy hàng loạt sau cơn sốt và được tiêu đi ở lách. Do quá trình làm việc quá sức lâu
dài, lách sẽ to ra.
Độc tố mà ký sinh trùng này tiết ra làm thần kinh giao cảm làm co mạch bị tê liệt trong khi đó thần kinh đối giao cảm làm giãn mạch hưng phấn. Do đó,
mạch máu giãn ra, máu vào lách nhiều hơn gây hiện tượng sung huyết lách, bệnh nhân cảm thấy lách sưng, căng đau.
Lách chỉ to khi bị nhiễm KST nhiều lần, không được điều trị đúng phương pháp.
Lách to dễ bị dập vỡ khi bị va chạm.