You are on page 1of 26

Sang Thu

- Hữu Thỉnh -
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: tên khai sinh là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh 1942, quê ở Tam
Dương, Vĩnh Phúc.
- Hữu Thỉnh là nhà thơ quân đội, ông thường gửi vào thơ những cảm
xúc tinh tế, ngọt ngào.
- Nguồn cảm hứng trong thơ Hữu Thỉnh thường là con người và cuộc
sống nông thôn. Nhiều vần thơ viết về thiên nhiên của ông mang cảm
xúc bâng khuâng, trong trẻo, ghi lại những chuyển biến nhẹ nhàng của
đất trời.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: Thu - 1977, in trong tập thơ “Từ chiến hào
đến thành phố”. Đây là những mùa thu yên bình đầu tiên không có
tiếng bom đạn của chiến tranh vì vậy nhà thơ chiến sĩ nâng niu, trân
trọng từng khoảnh khắc giao mùa.
b. Bố cục: 3 phần.
- Phần 1: Những tín hiệu đầu tiên báo thu về.
- Phần 2: Đất trời sang thu trong không gian rộng và cao.
- Phần 3: Những chuyển biến âm thầm của tạo vật và lòng người
sang thu.
c. Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề được cấu tạo bằng một cụm động từ gợi sự vận động không
ngừng nghỉ của thời gian trong bước chuyển mình từ hạ sang thu. Hữu
Thỉnh không viết về mùa hạ, không viết về mùa thu mà ông viết về
thời khắc giao mùa của vạn vật lúc chớm thu. Đó là nét tinh tế, là
cảm xúc riêng của một con người từng trải, yêu thiên nhiên, đất trời,
mở rộng lòng với quê hương, đất nước.
d. Chủ đề: “Sang thu” được viết bằng những cảm nhận tinh tế về
thiên nhiên, đất trời trong khúc giao mùa từ hạ sang thu, đồng thời
cũng khắc họa một tâm hồn nhạy cảm, xúc động và những suy nghĩ
rất sâu sắc của nhân vật trữ tình trong thời khắc giao mùa.
II. Phân tích:
1. Những tín hiệu đầu tiên báo thu về:
- Mùa thu luôn là người bạn muôn đời của thi sĩ, là nguồn cảm hứng
bất tận trong thi ca và khi viết về mùa thu, các tác giả thường lấy tín
hiệu quen thuộc: Hoa cúc vàng như nắng mùa thu của Xuân Quỳnh,
rặng liễu buồn mang hồn thu Xuân Diệu. Còn Hữu Thỉnh lại chọn
riêng cho mình thời khắc sang thu và những tín hiệu quen thuộc với
đời sống, giản dị và mộc mạc. Phải có một hồn thơ nhạy cảm, phải
lắng mình thật sâu, tác giả mới cảm nhận được những tín hiệu báo thu
về:
+ Hương ổi nồng nàn, thanh khiết quyện với cái se lạnh của gió heo
may lan tỏa trong không gian nơi vườn thôn ngõ xóm. Động từ “phả”
miêu tả hương thơm như sánh lại, luồn vào trong gió và lan tỏa, chạm
khẽ lên da thịt con người. Đó là những vận động nhẹ nhàng của gió
đưa hương.
+ Gió se là những cơn gió heo may mùa thu mát lạnh, thanh khiết
làm lòng người dịu lại.
+ Sương chùng chình giăng mắc nơi ngõ xóm đường thôn mơ hồ,
lấp lánh, cài lên những sợi tơ nhện rung rung được nhân hóa như một
con người dịu dàng, cố ý đi chậm lại, ngập ngừng, quấn quýt nửa muốn
níu giữ mùa hạ, nửa muốn bước sang thu.
+ Ngõ gợi hình ảnh một con ngõ có thật nơi làng quê xanh tươi
với những hàng giậu thưa có những chùm hoa đủ màu sắc nhưng cũng
có thể là là ngõ cửa thời gian đang mở ra để chào đón thu về.
=> Nếu như trong thơ cổ điển, mùa thu hiện lên với những hình ảnh
ước lệ quen thuộc thì Hữu Thỉnh bắt đầu khúc giao mùa bằng hương
ổi, một hình ảnh khá mới mẻ với thơ ca nhưng quen thuộc, gần gũi với
mỗi người dân Việt Nam. Riêng Hữu Thỉnh, hương ổi gắn với bao kỉ
niệm tuổi ấu thơ, là mùi vị quê hương thấm đẫm trong tâm hồn và cứ
mỗi độ sang thu, nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Chính nhà thơ từng
tâm sự “Giữa đất trời mênh mang, giữa khoảnh khắc giao mùa kì lạ
thì điều khiến tâm hồn tôi lay động, giật mình nhận ra, đó chính là
hương ổi. Hương ổi tự nó sốc thẳng vào những miền hoài niệm, gần
gũi trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại thành quý giá
bởi nó là chìa khóa mở thẳng vào tâm hồn mỗi người”.
- Những tín hiệu báo thu về được nhân vật đón nhận bằng những cảm
xúc từ ngỡ ngàng xao xuyến “bỗng” đến mơ hồ, bối rối “hình
như”. Đó là cảm giác bâng khuâng về sự vận động của cuộc đời và
thiên nhiên sang thu mà chỉ một chút vô tình cũng có thể không hay
biết.
=> Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác nhà thơ
đã ghi lại những tín hiệu đầu tiên báo thu về đồng thời cũng khắc họa
được những bâng khuâng, mơ hồ, xao xuyến của con người khi nhận ra
những chuyển biến nhẹ nhàng của thiên nhiên và bức tranh sang thu
không chỉ đọng lại ở đường nét màu sắc mà còn có cả hương thơm lan
tỏa luồn vào trong gió, tràn ngập không gian thanh bình, ấm nóng và
khoáng đạt.

2. Đất trời sang thu trong không gian rộng và cao.


- Sau giây phút ngỡ ngàng, xao xuyến, cảm xúc của thi sĩ bắt đầu lan
tỏa, mở ra cái nhìn xa hơn, rộng hơn và thiên nhiên sang thu đã được
cụ thể bằng các hình ảnh rõ nét:
+ Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã ghi được linh hồn cảnh
vật: dòng sông quê hương nơi đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa
giữa ruộng đồng vào thời khắc giao mùa. Sang thu, nước sông nhẹ
nhàng trôi lững lờ - sông chảy dềnh dàng, chậm rãi. Cái “dềnh dàng”
của sông không chỉ gợi dòng chảy êm dịu mà còn mang tâm trạng
của con người đang sống chậm lại như ngẫm ngợi, nghĩ suy.
+ Đối lập với sự vận động của dòng sông là những cánh chim “bắt đầu
vội vã” - cái vội vã mới chỉ bắt đầu của những đàn chim di trú về
phương Nam tránh rét. Không gian trở nên xôn xao, cao rộng, không
có âm thanh nhưng gợi được cái náo nức của cuộc đời.
=> Hình ảnh thơ đối lập rất nhịp nhàng để dựng lên một không gian
ngược chiều: chiều dài bất tận của dòng sông và chiều cao của những
cánh chim. Bức tranh sang thu vừa có những nét nhẹ nhàng, dịu êm
vừa có những nét vội vàng, hối hả. Ý thơ gợi cho người đọc một liên
tưởng khác: Sự chuyển động của dòng sông, của cánh chim phải
chăng là sự chuyển mình của đất nước với những ngã rẽ, những
dòng chảy khác nhau của mỗi cuộc đời người dân Việt Nam. Họ
đang bắt đầu hối hả nhịp sống mới để xây dựng đất nước, quê
hương.
- Hữu Thỉnh rất tài tình khi lấy cái hữu hình “đám mây mùa hạ” để
gợi nhịp bước vô hình của thời gian. Phải chăng mùa hạ là mùa của
những khát vọng tuổi trẻ, của những ước mơ rực cháy; mùa thu là mùa
của đời người lúc xế chiều thư thả, điềm tĩnh và giàu kinh nghiệm. Con
người đứng giữa ranh giới hai mùa - hai thời khắc của cuộc đời bao giờ
cũng có nuối tiếc, ngậm ngùi khi phải giã từ tuổi trẻ để bước sang thu -
sang tuổi xế chiều.
- Đất trời sang thu được nhìn trong không gian yên bình, mở rộng đến
vô cùng. Trời thu trong xanh cao vời vợi, những đám mây mỏng duyên
dáng như dải lụa vắt mình trên bầu trời nửa nghiêng về mùa hạ, nửa
ngập ngừng bước sang thu. Trong thực tế, có lẽ không hề có đám mây
nào giống như một tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời xanh vì mắt
thường đâu dễ nhìn thấy.
=> Đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi, khám phá thơ ca của
Hữu Thỉnh. Nó giống như một bức tranh sang thu vĩnh hằng được tạc
bằng ngôn từ.
3. Lòng người sang thu:
- Các từ chỉ mức độ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt … ghi lại bước
chuyển biến âm thầm của thiên nhiên và bức tranh sang thu cũng dần
đậm nét hơn: nắng vẫn còn nhưng không gay gắt, sấm thưa hơn và
không đủ sức lay động những hàng cây đã bao mùa thay lá.
- Đất trời sang thu khiến con người có nhiều suy ngẫm về cuộc đời:
hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” vừa là hình ảnh nhân hóa vừa ẩn dụ
cho những con người từng trải, giàu kinh nghiệm. Sấm là hình ảnh ẩn
dụ cho những biến động bất thường của ngoại cảnh - những khó khăn,
trắc trở trong cuộc đời.
=> Ý thơ chuyển từ bức tranh sang thu sang bức tranh của lòng người.
Khi con người trải nghiệm nhiều thì sẽ bình tĩnh đón nhận những nỗi
đau, những khó khăn, trắc trở trong cuộc đời và cũng trở nên hiểu đời,
hiểu người, hiểu mình hơn.
* Tiểu kết: Đây là nét đẹp, nét lạ trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ
về thiên nhiên, về đời người trước những thăng trầm, biến đổi. Phải
chăng “Sang thu” đã đưa đến cho tác giả những suy nghĩ sâu sắc để
ông phát hiện ra cuộc đời có những điều thú vị và có những bài học
lắng sâu.
III. Tổng kết.
- Thể thơ 5 chữ, nhịp thơ chậm rãi, lắng sâu, ghi lại được những
tâm sự, suy nghĩ của nhân vật trữ tình khi cảm nhận khoảnh khắc
giao mùa giữa hạ sang thu.
- Bài thơ sử dụng nhiêu hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa đẹp để khắc họa
thiên nhiên sang thu và lòng người sang thu.
- Ngôn từ tinh tế, chân thành và xúc động gợi được cảm xúc, suy tư
và những chuyển biến âm thầm của tạo vật.

Bài tập về nhà: Học thuộc bài thơ và nhớ các ý chính trong nội
dung và nghệ thuật của bài thơ“Sang thu”.
Đề bài: Viết đoạn văn tổng phân hợp phân tích khổ cuối bài
thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Đoạn văn có một câu ghép
và một phép thế dùng để liên kết. Cô Vân: 0912621398
MÙA XUÂN NHO NHỎ
- Thanh Hải -
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Thanh Hải (1930 - 1980), tên khai sinh Phạm Bá Ngoãn.
- Quê: Thừa Thiên Huế.
- Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, Thanh Hải vẫn bám
trụ tại quê hương, vừa cầm súng, vừa cầm bút ngợi ca quê hương, đất
nước tươi đẹp. Ông cũng là một trong số những nhà thơ có công lớn
trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam trong những
ngày đầu.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: tháng 11/1980 – đất nước đang xây dựng cuộc
sống mới với muôn vàn khó khăn, thử thách, khi nhà thơ đang nằm trên
giường bệnh, giữa mùa đông lạnh giá. Vì vậy, bài thơ là tình yêu cuộc
sống, là ước nguyện chân thành của nhà thơ với cuộc đời.
b. Chủ đề: Bằng giọng điệu trong sáng, thiết tha, bài thơ thấm đẫm
cảm xúc yêu thương cuộc đời, gắn bó với quê hương, đất nước.
Đồng thời thể hiện ước muốn được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ”
của đời mình cho mùa xuân lớn của dân tộc.
c. Mạch cảm xúc: Bài thơ bắt đầu từ những cảm xúc hồn nhiên, trong
trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó nói
lên cảm nghĩ về mùa xuân đất nước rồi liên tưởng đến mùa xuân mỗi
cuộc đời và ước nguyện được dâng hiến những gì tốt đẹp nhất cuộc
đời mình cho cuộc đời chung của dân tộc và ngợi ca quê hương đất
nước qua điệu dân ca xứ Huế.
=> Đây là mạch cảm xúc quen thuộc của thơ ca: mượn hình ảnh thiên
nhiên để nói lên tình cảm, mượn mùa xuân để nói cảm xúc xuân.
d. Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề là hình ảnh ẩn dụ độc đáo, tinh tế; là
sáng tạo của Thanh Hải:
- Mùa xuân: là thời khắc thiên nhiên tràn đầy sức sống, là mùa đẹp nhất
trong năm. Vì vậy, mùa xuân là hình ảnh ẩn dụ cho sức trẻ, cho những
gì đẹp nhất cuộc đời con người.
- “Nho nhỏ”: là thái độ khiêm nhường trước những cống hiến của cá
nhân cho cuộc đời chung.
=> Nhan đề khắc họa ước muốn chân thành, tha thiết: muốn làm một
mùa xuân nghĩa là sống đẹp, sống có ích, cống hiến tất cả những gì tốt
đẹp nhất của cuộc đời mình nhưng lại rất khiêm nhường “nho nhỏ” để
góp vào mùa xuân lớn của dân tộc. Như vậy nhan đề thể hiện sự thống
nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, giữa cái tôi và
cái ta. Nhan đề thể hiện đầy đủ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

e. Bố cục:
- Khổ 1: Cảm xúc say sưa, ngây ngất trước mùa xuân thiên nhiên.
- Khổ 2+3: Cảm xúc tự hào, yêu mến mùa xuân đất nước.
- Khổ 4+5: Ước nguyện chân thành, xúc động.
- Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương xứ Huế tươi đẹp.
II. Phân tích:
1. Cảm xúc say sưa, ngây ngất trước mùa xuân thiên nhiên.
* Mùa xuân trong thi ca:
- Vũ Đình Liên đến với bức tranh mùa xuân ấm áp, hồng tươi qua sắc
thắm của hoa đào, sắc đỏ của giấy mực và bóng hình xưa cũ:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
- Ta bắt gặp mùa xuân xanh của Nguyễn Bính mang sắc xanh vời vợi -
sắc xanh của sức sống:
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao lá ở cành.
- “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử lại ấm áp, thơ mộng và tình tứ:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.
* Bức tranh mùa xuân thiên nhiên của Thanh Hải lại đưa ta về với đất
trời xứ Huế vào xuân trong cảm xúc say sưa, ngây ngất:
- Bức tranh mùa xuân thiên nhiên được vẽ bằng vài nét phác họa
nhưng vẫn hiện lên thật đẹp và thơ mộng, mang nét đặc trưng của xứ
Huế kết hợp hài hòa, sống động giữa màu sắc và âm thanh:
+ Không gian cao rộng, khoáng đạt của bầu trời trong xanh thăm
thẳm, mở rộng với cái vô cùng, vô tận của dòng sông gợi liên tưởng
đến những cảm xúc chảy trôi của đời người.
+ Màu sắc của bức tranh hài hòa, dịu mát: Trên nền sông xanh thẳm là
màu tím biếc của hoa lục bình lững lờ trôi. Cảnh sắc như mời gọi,
quyến rũ đến lạ lùng khiến ý thơ cũng mở ra mênh mang. “Bông hoa
tím biếc” có thể là hoa lục bình tím ngắt hai bờ sông, cũng có thể là
hình ảnh người con gái mặc áo dài tím chèo thuyền trên sông Hương -
nét đẹp xứ Huế mộng mơ.
+ Âm thanh của bức tranh rộn rã, ngân vọng và cao vút với tiếng chim
chiền chiện thấm đẫm ánh sáng xuân, lan tỏa trong không gian. Hình
ảnh “Từng giọt long lanh rơi” có thể hiểu là giọt mưa, giọt sương mùa
xuân nhưng có thể hiểu theo phương thức ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác: tiếng chim đọng lại thành hình khối, thành những giọt lấp lánh
ánh sáng và màu sắc.
+ Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ: động từ “mọc” đặt ở đầu dòng thơ
đã khắc họa sức sống trỗi dậy của mùa xuân thiên nhiên.
=> Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc”.
- Cảm xúc say sưa của nhân vật trữ tình trước mùa xuân đất trời thể
hiện qua cái nhìn trìu mến với vạn vật và qua những lời bộc lộ trực tiếp
trong cuộc trò chuyện “ơi, hót chi, mà”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ
còn được thể hiện trong hành động trữ tình đón nhận vừa tha thiết vừa
trìu mến với mùa xuân “Tôi đưa tay tôi hứng”.
=> Cảm xúc say sưa ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời xứ Huế
vào xuân thể hiện mong muốn hòa vào thiên nhiên đất trời trong tâm
tưởng, khiến ta vô cùng khâm phục.
* Tiểu kết: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế được viết bằng sự
thăng hoa của cảm xúc, bằng tài hoa của trí tuệ, vì vậy tác giả đã khắc
họa rõ một bức xuân đẹp, giàu sức sống. Bài thơ được viết tháng
11/1980, khi ấy đất trời giá rét và tác giả đang đối mặt với bệnh tật.
Vậy mà ông vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, vẫn say sưa, ngây ngất,
nâng niu cuộc đời. Điều này khiến người đọc khâm phục và cần thấy
phải sống tốt đẹp hơn.

2. Cảm xúc tự hào, yêu mến trước mùa xuân đất nước.
- Mùa xuân đất nước hiện lên với ý thơ đẹp: Mùa xuân được tạo nên
từ cuộc sống lao động và cuộc sống chiến đấu - công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
+ “Mùa xuân…lưng”: Hình ảnh người chiến sĩ ra trận trên vai, trên
lưng có những cành lá ngụy trang - cành lá mang lộc biếc, chồi non của
mùa xuân thiên nhiên. Từ “lộc” còn làm ta liên tưởng đến sức sống,
thế đứng bất khuất, kiên cường của cả dân tộc trước giặc thù.
+ “Mùa xuân…mạ”: Là bức tranh những con người lao động đang ươm
mầm sự sống trên cánh đồng quê hương. Từ “lộc” không chỉ cho ta
nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với chồi non, lộc biếc từ
những hạt thóc giống đầu mùa mà từ “lộc” còn ẩn dụ cho sức sống bền
bỉ, cần cù của những người lao động mới. Những con người lao động
ấy đã tạo nên mùa xuân đất nước.
+ Điệp ngữ “Tất cả như” và hai từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã gợi
nhịp sống chiến đấu và lao động vội vã, khẩn trương, liên tục không
dừng lại. Đó chính là cuộc sống mới náo nức vọng về trong tâm hồn,
trong tiếng lòng tác giả. Mùa xuân đất nước được làm nên từ những cái
“hối hả”, “xôn xao” ấy của những người đang cầm súng và ra đồng.
- Nhà thơ tin tưởng, tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước dù
trước mắt còn nhiều vất vả, khó khăn. Đất nước hiện lên qua 4000 năm
lịch sử như người mẹ vĩ đại, vất vả, gian lao được so sánh với những vì
sao - một nguồn sáng vĩnh hằng, lấp lánh trường tồn trong không gian
và thời gian. “Sao” cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc, trên
mũ các anh bộ đội. Qua đó, Thanh Hải bộc lộ niềm tin tưởng về một
đất nước Việt Nam anh hùng, mãi mãi trường tồn, vĩnh cửu và tỏa sáng
như những vì sao trên hành trình đi đến tương lai rực rỡ. Phó từ “cứ”
và động từ “đi lên” đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá, niềm
tự hào, lạc quan của cả dân tộc trên con đường tiến lên phía trước đúng
như Huy Cận từng viết về đất nước Việt Nam:
“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.”
=> Vượt lên những khó khăn, gian khổ là cảm xúc lạc quan tin tưởng
qua lời thơ băng băng ngợi ca sức sống quê hương, đất nước khi mùa
xuân về và âm thanh mùa xuân đất nước ngân vọng từ chính cuộc sống
vất vả, gian lao mà tươi thắm vô ngần.
3. Ước nguyện được dâng hiến xúc động, chân thành – mùa xuân của
lòng người.
- Ước muốn của nhà thơ thật giản dị, chân thành và xúc động qua
những hình ảnh tự nhiên. Tác giả mượn hình ảnh tinh túy của thiên
nhiên để diễn tả vẻ đẹp tâm hồn:
+ Muốn làm con chim vô tư cống hiến tiếng hót vui cho cuộc đời.
+ Muốn làm một nhành hoa giữa vườn hoa xuân rực rỡ cống hiến
hương sắc cho đời.
+ Muốn làm một nốt trầm giữa bản hòa ca muôn điệu.
+ Muốn làm một mùa xuân nho nhỏ cống hiến vào mùa xuân lớn của
dân tộc.
=> Ước muốn được lặp lại như một lời khẳng định, khát khao được
cống hiến, sống có ích cho cuộc đời như một lẽ tự nhiên, vô tư không
toan tính.
- Đại từ “ta” được điệp lại như một tâm niệm thiết tha và hết
sức chân thành, không chỉ của riêng tác giả mà còn là khát
vọng chung của nhiều người. Ước nguyện hóa thân đó vô cùng
cháy bỏng nhưng lại âm thầm lặng lẽ “nho nhỏ” dâng hiến cho
cuộc đời chung. Đó là cách nói khiêm tốn, là cách sống cao đẹp
của mỗi người: Muốn làm một mùa xuân nho nhỏ hòa vào
mùa xuân chung của dân tộc và những đóng góp đó lại vô
tư như một lẽ tự nhiên, giống như Tố Hữu từng viết trong
“Một khúc ca xuân”:
“ Nếu là con chim, chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”
=> Như vậy, mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ sáng tạo, cũng là
cách thể hiện khát vọng được dâng hiến “Mỗi cuộc đời đã hóa
núi sông ta” (Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm). Điều đặc biệt
đây không phải khát vọng trong một phút, một giây mà là khát
vọng của cả một cuộc đời không kể thời gian, tuổi tác “Dù
là…tóc bạc”.
* Tiểu kết: Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở
về với cát bụi nhưng không gợn một chút băn khoăn về bệnh
tật và những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ lặng lẽ cháy
bỏng một khát khao được dâng hiến.
4. Lời ngợi ca quê hương, đất nước tươi đẹp qua điệu dân
ca xứ Huế.
- Lời thơ cuối cất lên tiếng hát ngợi ca quê hương đất nước tươi
đẹp qua điệu dân ca xứ Huế dịu dàng, đằm thắm:
+ Khúc Nam ai, Nam bình là điệu hồn của xứ Huế mộng mơ có
buồn thương tha thiết, có sôi nổi, đắm say nghe như một lời giã
biệt để hòa vào vĩnh viễn.
+ Trong làn điệu dân ca, hình ảnh đất nước quê hương tươi
đẹp, thấm đẫm tình người đã gợi lên tình yêu đất nước, tình
yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ qua điệp khúc ngân nga
“Nước non…dặm tình”.
- Phải yêu đời lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ
lúc đó. Điều này làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà
thơ.
=> Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ có hình tượng mùa
xuân mà còn có hình tượng một con người yêu cuộc sống,
say sưa, tha thiết với cuộc sống rồi lặng lẽ, cháy bỏng cống
hiến cho cuộc đời chung.
III. Nghệ thuật
- Thể thơ 5 chữ (thơ tự do) gần với điệu hát dân ca cùng âm
hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết đã gợi tả được nhịp điệu
tâm hồn náo nức reo vui, ngợi ca cuộc sống.
- Hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị nhưng giàu ý nghĩa: hình
tượng mùa xuân có sự phát triển từ mùa xuân đất trời thiên
nhiên đến mùa xuân đất nước và cuối cùng là mùa xuân của
lòng người.
- Bài thơ sáng tạo nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp: ẩn dụ mùa xuân
cho những gì đẹp đẽ nhất, cho thời khắc đẹp nhất cuộc đời…

VIẾNG LĂNG BÁC


- Viễn Phương -
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Viễn Phương (1928 – 2005)
- Tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.
- Ông là nhà thơ cách mạng hoạt động ở chiến trường Nam Bộ
suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- Giọng thơ Viễn Phương chân thành, cảm động, thường viết
về đề tài người lính và lãnh tụ.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- 1976, một năm sau kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi,
đất nước hòa bình, thống nhất; lăng Bác được khánh thành.
Nhà thơ cùng đoàn đại biểu từ miền Nam ra miền Bắc, vào
lăng viếng Bác.
- Rút từ tập thơ “Như mây mùa xuân”.
b. Chủ đề: Với giọng thơ trang nghiêm, thành kính, bài thơ thể
hiện lòng biết ơn, niềm tự hào và nỗi xúc động sâu sắc của nhà
thơ cùng toàn thể nhân dân đối với Bác khi hòa vào dòng người
vào lăng viếng Bác.
c. Bố cục: Ba phần
- Phần 1(Khổ 1): Cảm xúc trước lăng Người.
- Phần 2 (Khổ 2,3): Cảm xúc trong lăng khi được gặp Người.
- Phần 3 (Khổ 4): Ước nguyện khi rời lăng.
II. Phân tích:
1. Cảm xúc trước lăng Người.
- Lời thơ mở đầu ngắn gọn như một lời thông báo dồn nén biết bao
cảm xúc của một người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm
mong mỏi bây giờ mới được ra thăm Bác:
+ Tác giả dùng đại từ xưng hô “con - Bác” vừa gần gũi, thân mật, vừa
ấm áp, nghĩa tình. Câu thơ còn có cảm xúc nghẹn ngào vì không gian
miền Nam là không gian của chiến trường lịch sử, không gian trong
tim Bác “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác nỗi
mong cha” (Bác ơi – Tố Hữu).
+ Cách nói giảm, nói tránh: dùng từ “thăm” thay cho “viếng” vừa để
giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát, vừa để khẳng định Bác sống mãi
trong tâm tưởng mỗi con người Việt Nam.
- Hình ảnh hàng tre vừa là hình ảnh có thật vừa gợi nhiều liên tưởng
sâu sắc:
+ Đó là những cụm tre đằng ngà rì rào trong gió đang canh gác giấc
ngủ ngàn thu cho Người. Hình ảnh cây tre cũng là hình ảnh quen thuộc
của quê hương, đất nước.
+ Tre còn là biểu tượng cho tâm hồn, phẩm chất của người dân Việt
Nam qua biện pháp ẩn dụ, nhân hóa. Đó là phẩm chất kiên cường, bất
khuất, đoàn kết trong tranh đấu và thủy chung, tình nghĩa, đùm bọc,
yêu thương trong lẽ sống. Tre “xanh xanh Việt Nam” còn là biểu tượng
cho sức sống trường tồn vĩnh cửu của dân tộc Việt Nam.
+ Từ cảm thán “Ôi!” được tách riêng thành câu đặc biệt biểu thị nỗi
xúc động trào dâng và tình cảm tự hào về quê hương, đất nước, về vị
lãnh tụ vĩ đại.
=> Khổ thơ đầu khắc họa hàng tre để gợi liên tưởng đến hình ảnh dân
tộc Việt Nam sẽ mãi mãi thủy chung đứng cạnh bên Người, sẽ vững
mạnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ dưới tư tưởng và ngọn cờ lãnh
đạo của Người.

2. Cảm xúc trong lăng khi được gặp Người.


a. Khổ thơ 2:
- Hai câu thơ đầu khắc họa hình ảnh mặt trời có thật sóng đôi
với hình ảnh mặt trời ẩn dụ để ngợi ca sự vĩnh hằng của cuộc
đời Bác:
+ Mặt trời thiên nhiên rực rỡ đem đến sức sống cho muôn
loài và Bác là mặt trời tỏa sáng đem đến sức sống cho dân tộc
Việt Nam. Bác soi đường chỉ lối đưa dân tộc ta thoát khỏi
những đêm đen nô lệ, mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
+ Màu sắc “rất đỏ” nhắc ta về lí tưởng cách mạng của Bác,
một lý tưởng suốt đời hồng thắm vì dân, vì nước. Đó là trái tim
hồng vì Tổ quốc, đồng bào, trái tim son sắc vì lí tưởng cứu
nước, cứu dân.
- Hai câu thơ sau là tấm lòng thành kính, biết ơn, trân trọng của
dân tộc Việt Nam đối với Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
+ Ngày ngày toàn thể dân tộc Việt Nam xếp hàng thành
kính, bồi hồi xúc động trước lăng Người. Nhịp thơ chậm rãi
như những bước chân chầm chậm vào lăng viếng Bác. Dòng
người ấy kết thành những tràng hoa vô tận dâng lên Bác
những gì tốt đẹp nhất. Dòng người vào lăng còn là một ẩn dụ
đẹp, một sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời nhân dân, đất nước
đang nở hoa dưới ánh sáng của Người.
+ “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ cho cuộc
đời Bác: Bác đã sống đẹp như những mùa xuân để làm nên
những mùa xuân thắng lợi cho đất nước. Và cả dân tộc thực sự
biết ơn công lao vĩ đại của Người.
b. Khổ thơ 3: Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang sự xúc
động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
- Bác đang yên giấc giữa vầng trăng sáng dịu hiền - người bạn
tri âm, tri kỉ. Thơ Bác tràn ngập ánh trăng: trăng theo Bác lên
chiến trận “Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận xin
chờ hôm sau”; trăng theo Bác vào nhà lao: “Ngục trung vô tửu
diệc vô hoa/ Đối thử lương tiêu nại nhược hà/ Nhân hướng
song tiền khán minh nguyệt/ Nguyệt tòng song khích khán thi
gia” và giờ đây trăng lại đến dỗ giấc ngủ ngàn thu cho Người.
- Hình ảnh vầng trăng dịu hiền cho ta thấy được tâm hồn
trong sáng, thanh cao của Bác. Bác có lúc vĩ đại như mặt
trời ấm áp, có lúc thanh cao, giản dị, gần gũi như ánh trăng
rằm. Đó chính là biểu tượng rực rỡ, cao siêu, thống nhất với
cái gần gũi, ấm áp trong con người và sự nghiệp của Bác.
- Lời thơ cuối giản dị nhưng bộc lộ tình cảm mãnh liệt nhất:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Trời xanh kia mãi mãi ở trên cao, nó trường tồn như cuộc đời
Bác hóa thân vào thiên nhiên, đất trời và còn mãi trong tâm trí
nhân dân như Tố Hữu từng viết:
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già”
Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không xót thương vì sự ra
đi của Bác là có thật, sự mất mát là có thật. Nỗi đau xót được
nhà thơ biểu hiện cụ thể, trực tiếp “Mà sao nghe nhói ở trong
tim”. Đó là nỗi đau quặn thắt, tê tái trong tận đáy sâu tâm hồn
không chỉ của riêng tác giả mà còn của tất cả chúng ta. Lời thơ
cũng gợi lại giây phút lịch sử năm ấy khi “Đời tuôn nước mắt
trời tuôn mưa”.
3. Ước nguyện và cảm xúc khi rời lăng.
- Khổ thơ cuối đã bộc lộ những cảm xúc trào dâng, mãnh liệt
và cũng chính là cảm xúc của cả dân tộc, đất nước lúc bấy giờ:
+ Những giọt nước mắt đã tuôn rơi trong nghẹn ngào luyến
tiếc vì không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ.
+ Cùng với cảm xúc luyến tiếc là tâm trạng hụt hẫng vì mới
chỉ gần Bác trong phút giây mà đã phải giã biệt. Bác ấm áp và
rộng lớn quá khiến trái tim chúng ta thổn thức.
- Từ cảm xúc và tâm trạng nghẹn ngào, nhà thơ đã ước nguyện
thành kính: đó là ước nguyện của cả dân tộc, nhất là của nhân
dân miền Nam chưa một lần được ra thăm lăng Bác:
+ Điệp ngữ “muốn làm” đã giãi bày được khao khát mãnh
liệt của một con người yêu quý, trân trọng, muốn được cống
hiến tất cả những gì tốt đẹp nhất nhưng cống hiến một cách vô
tư như một lẽ tự nhiên khi ở bên Bác.
+ Hình ảnh “cây tre trung hiếu” xuất hiện khép lại bài thơ
đã gợi hình ảnh quê hương, đất nước luôn đứng mãi bên Người
và trung thành đi theo con đường Người đã chọn. Đồng thời,
hình ảnh cây tre và không gian miền Nam cũng tạo kết cấu đầu
cuối tương ứng để làm trọn vẹn cảm xúc và ý thơ.
=> Lời thơ vừa ngọt ngào đằm thắm, vừa giản dị chân thành
nên có sức cảm hóa tất cả chúng ta: Hãy sống đẹp như những
bông hoa để dâng lên Người. Bài thơ khép lại trong sự xa cách
của không gian nhưng tạo được sự gần gũi trong tình cảm, lí
trí.
III. Tổng kết:
- Giọng điệu thơ trang trọng và tha thiết, ngôn từ chân thực, xúc
động, gợi cảm xúc và hình ảnh.
- Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp để ngợi ca sự vĩ đại và
thanh cao, trong sáng của cuộc đời, tâm hồn Bác.

Bài tập: Viết đoạn văn tổng phân hợp phân tích những ước
nguyện chân thành, xúc động của nhân vật trữ tình trong
bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải. Đoạn văn có sử
dụng một phép lặp dùng để liên kết và một câu hỏi tu từ.
Gạch chân, chú thích. Cô Vân: 0912621398
Câu mở: Thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
đã gửi gắm những ước nguyện chân thành, xúc động –
muốn được dâng hiến mùa xuân của của cuộc đời cho mùa
xuân lớn của dân tộc. Tác giả ước nguyện làm con chim vô
tư cống hiến tiếng hót vui cho cuộc đời, muốn làm một nhành
hoa giữa vườn hoa xuân rực rỡ cống hiến hương sắc và muốn
làm một nốt trầm giữa bản hòa ca muôn điệu. Đặc biệt, ước
nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ cống hiến vào mùa xuân
lớn của dân tộc của nhà thơ thật xúc động. Và uớc nguyện
được lặp lại như một lời khẳng định, một khát khao được cống
hiến, sống có ích cho cuộc đời như một lẽ tự nhiên, vô tư
không toan tính. Đại từ “ta” được điệp lại như một tâm niệm
thiết tha và hết sức chân thành, không chỉ của riêng tác giả mà
còn là khát vọng chung của nhiều người. Ước nguyện hóa thân
đó vô cùng cháy bỏng nhưng lại âm thầm lặng lẽ “nho nhỏ”
dâng hiến cho cuộc đời chung. Phải chăng đây là cách nói
khiêm tốn, là cách sống cao đẹp của mỗi người? Ước muốn
làm một mùa xuân nho nhỏ hòa vào mùa xuân chung của dân
tộc và những đóng góp đó lại vô tư như một lẽ tự nhiên của
Thanh Hải giống như Tố Hữu từng viết trong “Một khúc ca
xuân”:
“ Nếu là con chim, chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”
Như vậy, mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ sáng tạo, cũng là
cách thể hiện khát vọng được dâng hiến “Mỗi cuộc đời đã hóa
núi sông ta” (Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm). Điều đặc biệt
đây không phải khát vọng trong một phút, một giây mà là khát
vọng của cả một cuộc đời không kể thời gian, tuổi tác “Dù
là…tóc bạc”. Lời thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ
trở về với cát bụi nhưng không gợn một chút băn khoăn về
bệnh tật và những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ
lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến.

NÓI VỚI CON – Y PHƯƠNG


I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, người
dân tộc Tày, sinh 1948, mất năm 2022, quê ở Trùng Khánh,
Cao Bằng.
- Thơ Y Phương giống như một bức tranh thổ cẩm giàu màu
sắc, giàu cung bậc cảm xúc yêu thương. Lời thơ phóng khoáng,
mạnh mẽ, chân thật như sông như suối, như tấm lòng những
người con miền núi.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- 1980 - trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
- Bài thơ dành tặng con gái đầu lòng tròn một tuổi và cũng để
dành tặng những con người đồng mình yêu quý.
b. Chủ đề: Bằng giọng thơ trìu mến, thiết tha; lúc khúc chiết,
rành rọt; khi tha thiết, trữ tình, nhà thơ đã khắc họa được
không khí gia đình ấm cúng đồng thời ngợi ca truyền thống
tốt đẹp của quê hương. Đó là sức sống mạnh mẽ, tâm hồn
khoáng đạt, cách sống nghĩa tình, thủy chung của những con
người đồng mình. Từ đó dặn dò và mong ước con sẽ kế tục
xứng đáng những truyền thống tốt đẹp đó.
c. Bố cục: 3 phần.
- Phần 1: Khổ đầu: Cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.
- Phần 2: Khổ hai: Cha tự hào nói với con về truyền thống tốt
đẹp và phẩm chất cao quý của người đồng mình.
- Phần 3: Khổ cuối: Lời dặn dò và mong ước của cha.

II. Đọc hiểu:


1. Cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng:
- Con được lớn lên trong tình yêu thương và sự nâng đón,
mong chờ của cha mẹ:
+ Nhịp thơ 2/3 cùng cấu trúc đối xứng và biện pháp nghệ thuật
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khắc họa một không khí gia đình
ấm áp, hạnh phúc. Lời thơ có âm điệu tươi vui, quấn quýt qua
các hình ảnh cụ thể “Chân phải bước tới cha/Chân trái bước tới
mẹ/ Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười”. Từng
bước đi, từng tiếng nói cười của con đều được cha mẹ chăm
chút đón nhận.
+ Cha còn nhắc về ngày cưới - kỉ niệm thiêng liêng và trọng
đại đánh dấu tình yêu trong sáng và hạnh phúc của cha mẹ. Đó
là khởi nguồn mọi tình yêu thương dành cho con: “Cha mẹ mãi
nhớ về ngày cưới”
-> Nói với con về cội nguồn sinh dưỡng, cha muốn nhắc con về
tình cảm ruột thịt, về công lao trời biển của cha mẹ, của gia
đình mà con phải khắc cốt ghi xương.
- Con còn được lớn lên trong cuộc sống lao động tươi vui, lạc
quan của người đồng mình:
+ Cuộc sống lao động cần cù, nhịp nhàng gắn với niềm vui qua
hình ảnh: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. Các
động từ “đan, cài, ken” vừa diễn tả động tác khéo léo trong lao
động, vừa diễn tả được niềm vui lạc quan của những người
đồng mình.
+ Tiếng hát câu cười chan hòa trong không gian sống, vương
vấn cả những vách nhà.
- Con còn được lớn lên trong sự đùm bọc, chở che của núi
rừng quê hương và những con người đồng mình giàu tình
nặng nghĩa:
+ Rừng núi quê hương thật ân tình và cũng thật thơ mộng
“Rừng cho hoa”. Hoa là vẻ đẹp thiên nhiên mà rừng ban tặng
nhưng cũng có thể hiểu hoa là đời sống tâm hồn, là niềm vui,
là nguồn sống hàng ngày. Như vậy thiên nhiên đã nuôi dưỡng
con người cả về tâm hồn và lối sống.
+ Hình ảnh “Con đường cho những tấm lòng” là hình ảnh
đặc biệt sâu sắc nhưng được tư duy theo lối mộc mạc, chân
chất: Trên con đường gập ghềnh sỏi đá, người đồng mình đã
gặp nhau để chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và trao cho nhau
những yêu thương cùng những tấm lòng thơm thảo.
=> Cội nguồn sinh dưỡng của con thật đủ đầy, gần gũi. Cha
nhắc con về cội nguồn để khơi dậy trong con tình yêu và lòng
tự hào về gia đình - nơi khởi nguồn sự sống.
2. Cha tự hào nói với con về phẩm chất tốt đẹp và truyền
thống văn hóa của người đồng mình.
a. Phẩm chất tốt đẹp:
Người đồng mình thương lắm con ơi
- Từ yêu quý, trân trọng ở khổ một đến thương xót, đồng
cảm cho những vất vả đắng cay ở khổ thơ này chính là dòng
cảm xúc rất đỗi tự nhiên, là những tình cảm trọn vẹn, đủ đầy
mà Y Phương dành cho những con người quê hương. Từ
“thương” trùng xuống, lắng lại chất chứa những suy tư bởi nếu
không có sức sống bền bỉ mãnh liệt, người đồng mình sao có
thể vượt qua nhọc nhằn vất vả, sao có thể bước đi trên gập
ghềnh sỏi đá.
- Những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình được hiện
lên trong mong ước của cha:
+ Người đồng mình còn nhiều vất vả gian khó, nhiều nỗi buồn
và trắc trở nhưng ý chí rộng dài như chiều kích của thiên
nhiên “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”
+ Người đồng mình sống thủy chung, nghĩa tình với nơi
“chôn rau cắt rốn”: Sống trên đá…
+ Sống phóng khoáng, dũng cảm, chân thật, mộc mạc, tràn
ngập niềm vui và lòng lạc quan: Sống như sông, như
suối…cực nhọc.
+ Người đồng mình giàu lòng tự trọng, không sống tầm
thường, nhỏ bé. “Chẳng mấy ai…”
=> Sức sống mạnh mẽ, khoáng đạt của người đồng mình chính
là sức sống của quê hương. Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng
gợi nhiều hình ảnh, nhiều yêu thương và cả cảm xúc ngợi ca tự
hào: cuộc sống người đồng mình còn nhiều vất vả, khó nhọc
“lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, bền bỉ,
thủy chung và khoáng đạt.
b. Truyền thống văn hóa của quê hương:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
- Lời thơ gói gọn phẩm chất tự lực, tự cường của người đồng
mình. Họ xây dựng quê hương và duy trì truyền thống văn hóa
với những tập quán tốt đẹp:
+ Nghĩa tả thực: “Đục đá kê cao” là hành động có thật thường
thấy trong cuộc sống sinh hoạt, lao động của những con người
quê hương – họ đục đá kê cao ngôi nhà, bản làng của mình để
tránh nguy hiểm. Quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng
được hiểu là nơi ở, ngôi nhà, bản làng.
+ Nghĩa ẩn dụ: “Đục đá kê cao” muốn nói lên tinh thần tự
hào, tự tôn và ý thức bảo tồn cội nguồn của mỗi người con
quê hương. Chính tình yêu lao động và những phẩm chất tốt
đẹp đã giúp người đồng mình vượt qua khó khăn gian khổ để
sống thủy chung, tình nghĩa, giàu lòng tự trọng. Cách sống này
đã giúp họ xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp cho quê
hương.
3. Lời dặn dò và mong ước của cha:
- Từ những phẩm chất của người đồng mình, cha ước mong
con sống tình nghĩa, thủy chung; sống phóng khoáng, cao đẹp;
biết chấp nhận và vượt qua khó khăn, thử thách bằng ý chí,
nghị lực và niềm tin trong con.
- Lời thơ cuối chính là lời dặn dò và mong ước của cha: Con
phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, tự hào về
người đồng mình – tuy cuộc sống còn “thô sơ da thịt” - ẩn dụ
cho vất vả, nghèo đói, nhưng họ không hề nhỏ bé – cách sống
tầm thường - về tâm hồn, ý chí. Cha hi vọng con sẽ lấy những
phẩm chất đó làm hành trang vững bước vào đời.
- Hình ảnh “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con khắc
ghi: người đồng mình chân chất, mộc mạc, còn nghèo khó vất
vả nhưng luôn mang trong mình lẽ sống cao đẹp. Vì vậy trên
đường đời, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng
với người đồng mình. Con không bao giờ được sống “nhỏ bé”
- ẩn dụ cho cách sống tầm thường, dù cuộc đời còn nhiều
chông gai.
- Hai tiếng “Nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và
niềm tin cha đặt nơi con: con hãy tự tin mà vững bước trên
đường đời bởi sau lưng con luôn có gia đình, quê hương; bởi
trong tim con luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của
người đồng mình.
III. Tống kết:
1. Nội dung: Ghi nhớ - SGK
2. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do. Mạch cảm xúc tự nhiên cùng cách nói giàu
hình ảnh tạo nên ý thơ vừa mộc mạc chân thành vừa giàu sức
khái quát.
- Các biện pháp nghệ thuật kết hợp với câu thơ dài ngắn khác
nhau diễn tả xuất sắc cách sống, cách nghĩ, cách cảm của người
miền núi.
- Giọng thơ tha thiết, trìu mến; lúc bay bổng nhẹ nhàng, lúc
khúc chiết, rành rọt; lúc mạnh mẽ, sắc nhọn tạo nên sự cộng
hưởng hài hòa trong từng cung bậc cảm xúc của người cha.

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI – LÊ MINH KHUÊ.


I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Lê Minh Khuê, sinh 1949, quê ở Tĩnh Gia – Thanh Hóa.
- Chị là nhà văn, nhà báo, từng là thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn.
- Lê Minh Khuê có sở trường viết truyện ngắn với ngòi bút miêu tả tinh
tế, sắc nhọn, đặc biệt chị có biệt tài khắc họa tâm lí nhân vật nữ. LMK
đã từng tâm sự: “Chúng tôi quen những bữa ăn chỉ năm phút, quen
một tuần không tắm vì ra suối địch rải hơi độc và quen chỉ ít phút
nữa sẽ không gặp một người đồng đội mà chúng tôi yêu quý.”
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: 1971, trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống
Mĩ vô cùng gian khổ và ác liệt, đặc biệt trên tuyến đường Trường Sơn,
nơi tập trung nhiều nhất bom đạn và sự bắn phá của giặc Mĩ.
b. Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề “NNSXX” gợi nhiều liên tưởng sâu sắc:
+ Những ngôi sao xuất hiện trên mũ các anh bộ đội, trên lá cờ Tổ quốc
là biểu tượng cho lòng dũng cảm, cho phẩm chất cách mạng sáng
ngời của những cô gái thanh niên xung phong.
+ Những ngôi sao yên bình của Hà Nội, trong những câu chuyện cổ
tích mà Phương Định hay mơ về là biểu tượng cho tâm hồn mộng mơ
trong sáng của những người con gái dũng cảm.
+ Tính từ “xa xôi” thể hiện một điều khó nắm bắt, khó nhận ra.
-> Vẻ đẹp của những cô gái TNXP là vẻ đẹp lặng lẽ giống như những
ngôi sao lấp lánh ẩn hiện trong rừng già Trường Sơn. Họ đã âm thầm
cống hiến sức trẻ của mình cho đời xanh dân tộc. Họ chính là thế hệ
huyền thoại của thời kì chống Mỹ. Như vậy, nhan đề thể hiện đầy đủ
tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
c. Ngôi kể: Ngôi thứ nhất - nhân vật chính Phương Định xưng “tôi”,
“chúng tôi”
- Tác dụng:
+ Giúp câu chuyện chân thực, sống động, có sức thuyết phục bởi người
kể là người trực tiếp chứng kiến và tham gia chiến đấu.
+ Giúp nhân vật điều chỉnh được nhịp kể đồng thời khắc họa được đời
sống tâm hồn phong phú của những người con gái thanh niên xung
phong tuổi đời còn rất trẻ.
d. Tóm tắt tác phẩm:
Trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, giữa một vùng trọng
điểm, tổ trinh sát mặt đường gồm ba cô gái trẻ: chị Thao, Phương Định
và Nho; họ nhận nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm: phá bom, san lấp hố
bom và thông đường cho xe qua. Các cô luôn phải đối mặt với hiểm
nguy “chạy trên cao điểm cả ban ngày, …thần kinh căng ra như chão,
tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng họ không mất đi niềm vui hồn
nhiên và tâm hồn mộng mơ trong sáng của tuổi trẻ. Họ gắn bó, đoàn
kết và yêu thương nhau như ruột thịt dù mỗi người một nét cá tính.
Trong một lần phá bom, Phương Định đã thể hiện sự bình tĩnh, dũng
cảm và lòng tự trọng của người con gái Hà thành “Tôi sẽ không đi
khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”. Khi Nho bị thương, chị
Thao và Phương Định đã hết lòng lo lắng, chăm sóc. Một cơn mưa đá
vụt đến vụt đi gợi trong lòng PĐ bao mộng mơ, hoài niệm và khát vọng
cháy bỏng về cuộc sống hòa bình.

II. Phân tích:


1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu:
- Họ sống trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng
trọng điểm - nơi tập trung nhiều nhất bom đạn của kẻ thù.
- Công việc của họ đặc biệt nguy hiểm: chạy trên cao điểm giữa
ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy
bay địch để phá bom, san lấp hố bom, thông đường cho xe qua.
-> Đây là những công việc thường ngày của ba cô gái – công việc
gian khổ, chịu nhiều hi sinh mất mát, phải mạo hiểm với cái chết,
đòi hỏi lòng dũng cảm và tinh thần bình tĩnh, tỉnh táo.
2. Vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn của ba cô gái:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
- Họ đều có phẩm chất dũng cảm, kiên cường:
+ Luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ phá bom và hoàn thành tốt nhiệm
vụ mà không cần sự trợ giúp của đơn vị.
+ Dám đối mặt với thần chết bằng tinh thần quả cảm và thái độ
bình tĩnh, không hề run sợ. Sau mỗi đợt đánh bom, tổ trinh sát lại
lao lên đường làm nhiệm vụ. Không biết bao nhiêu lần họ bị bom
vùi, bị thương nhưng họ vẫn nói về công việc một cách bình thản
“Quen rồi.”
- Họ có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ: Trên con đường
TS, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng để thông, mạch tuyến
đường, những nữ thanh niên xung phong luôn sẵn sàng cho việc ra
trận địa và công việc luôn được họ hoàn thành với tiêu chí: đặt
công việc lên trên tính mạng.
- Họ có tình đồng đội, đồng chí đoàn kết:
+ Họ hiểu tính tình, sở thích của nhau nên thương nhau như ruột
thịt
+ Họ quan tâm và chăm sóc nhau rất chu đáo: Khi Nho bị thương,
chị Thao và PĐ căng thẳng, đau đớn như chính mình bị thương.
PĐ hoảng hốt và cảm thấy hoang mang trước nỗi đau của đồng
đội. Nhưng tất cả có chung một suy nghĩ: nỗi đau ấy không của
riêng ai và nước mắt đứa nào rơi lúc này xem như bằng chứng của
một sự tự nhục mạ.
=> Trong nỗi đau và trong hiện thực chiến tranh khốc liệt, người
đọc thấy được ý chí kiên cường, tình cảm ấm nóng của những
người đồng đội.
b. Vẻ đẹp tâm hồn:
- Những nữ thanh niên có tâm hồn mộng mơ, trong sáng, lạc quan
và yêu cuộc sống:
+ Họ không ngừng mơ ước về cuộc sống hòa bình, về bầu trời Hà
Nội có những ánh sao đêm, có căn gác nhỏ và cuộc sống đời
thường, gần gũi bên những người thân yêu.
+ Họ lạc quan và yêu đời cất lên tiếng hát vui tươi, xoa dịu những
căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. Những bài hát mang vẻ đẹp
tâm hồn nữ tính, tha thiết yêu cuộc sống.
- Họ mang trong mình lý tưởng sống đẹp: Họ sống và chiến đấu với
mục đích bảo vệ đất nước quê hương, đem lại cuộc sống hòa bình
cho dân tộc, đúng như PĐ đã nói: “Thực tình trong suy nghĩ của
tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng
nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”.
3. Những nét đẹp riêng của ba cô gái:
* Xây dựng hình ảnh những người con gái TNXP, LMK rất tinh tế
khi chắt lọc được những nét đẹp riêng của những nữ anh hùng để
họ không mờ nhạt với biết bao những người chiến sĩ anh hùng. Họ
vẫn là những cá nhân độc lập, để lại những cảm xúc và ấn tượng
rất riêng.
a. Chị Thao:
- Chị là tổ trưởng của của tổ trinh sát nên luôn gương mẫu, quyết
đoán khi giao nhiệm vụ. Chị cũng là chiến sĩ dũng cảm, táo bạo và
rất chắc chắn khi thực hiện nhiệm vụ phá bom.
- Chị có những ước mơ thiết thực sau khi đất nước hòa bình.
Trong cuộc sống chiến trường, chị luôn vượt qua mọi gian khổ
nhưng cũng rất nhạy cảm khi sợ máu và vắt.
- Chị hát không hay “giọng chua loét” và không thuộc lời bài hát
nhưng rất thích chép lời bài hát, say mê chép cả những lời PĐ bịa
ra. Chị thích làm điệu “lông mày tỉa nhỏ như que tăm…”
b, Nhân vật Nho:
- Trong công việc, Nho là một chiến sĩ quả cảm, kiên cường
và bản lĩnh. Phẩm chất này được bộc lộ khi cô bị thương:
Nho đã dũng cảm trước nỗi đau. Vết thương không làm cô
yêu đuối và cô vẫn bình thản chìa tay xin PĐ những viên đá
sau cơn mưa.
- Vì ít tuổi nhất nên tính cách của Nho rất trẻ con. Cô thích
tắm và thích ăn kẹo. Mỗi khi Nho ở dưới suối bước lên,
trông cô “giống như một que kem mát mẻ”. Cô đã làm dịu
mát những giây phút căng thẳng của chiến trường.
c. Nhân vật Phương Định:
* Hoàn cảnh sống và chiến đấu:
- PĐ là người con gái HN vào chiến trường đã ba năm nhưng trong
cô chưa bao giờ mất đi vẻ hồn nhiên, trong sáng, mộng mơ. PĐ
thường mơ về một bầu trời HN yên bình, nơi đó có những ánh sao
đêm, có gia đình và những người thân yêu.
- PĐ cũng mang nét kiêu kì của người con gái Hà thành và lòng tự
trọng của một người chiến sĩ giữa chiến trường khốc liệt.
- Trong con mắt của chính mình, cô tự nhận là người con gái đẹp
“nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá” – cái cổ cao như
đài hoa loa kèn, đôi bím tóc dày, tương đối mềm, còn đôi mắt thì
các anh chiến sĩ nói “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”
=> Giữa chiến trường ác liệt, PĐ vẫn hiện lên tuyệt đẹp: cô dũng
cảm, bất khuất trong công việc và không ngừng mơ ước về tương
lai.
* Phẩm chất: Phương Định có phẩm chất của một người lính anh
hùng, điều này được thể hiện trong một lần phá bom:
- Cô có tinh thần trách nhiệm cao với công việc: luôn bình tĩnh
nhận nhiệm vụ với những hành động chuẩn xác, nhạy cảm:
+ Lòng tự trọng thống nhất với nét kiêu hãnh của người con gái Hà
Nội khiến cô quyết định không đi khom “khi có thể cứ đàng hoàng
mà bước tới.”
-> Cô nhạy cảm trước ánh mắt của các chiến sĩ đang dõi theo mình
và bình tĩnh, tự tin, không còn sợ hãi khi bắt đầu thực hiện nhiệm
vụ nguy hiểm.
+ Phương Định dùng xẻng đào đất dưới quả bom, vỏ quả bom
nóng, một dấu hiệu chẳng lành. Cô cảm nhận sự nguy hiểm bằng
tất cả các giác quan: “Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào
da thịt tôi” – tiếng động sắc lạnh là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác đã diễn tả được tâm trạng căng thẳng của PĐ. Sau đó cô
đã lấy lại được bình tĩnh để rồi quyết đoán trong công việc. Cô
thấy mình làm quá chậm và tự động viên mình phải thực hiện
nhiệm vụ nhanh hơn.
+ Nghe tiếng còi của chị Thao, PĐ cẩn trọng thực hiện nhiệm vụ
một cách chuẩn xác, bình tĩnh rồi chạy về chỗ ẩn nấp. Về nơi an
toàn, cô vẫn hồi hộp lo sợ bom sẽ không nổ và làm cách nào để
châm mìn lần thứ hai. PĐ có nghĩ đến cái chết, nhưng một cái chết
mờ nhạt, không cụ thể. Trong cô lúc này chỉ có một suy nghĩ: làm
thế nào để hoàn thành nhiệm vụ.
-> LMK đã khắc họa cụ thể, sống động cảm giác căng thẳng, sắc
nhọn đến rợn người khi PĐ cận kề cái chết. Và sự khốc liệt của
chiến tranh đã tôi luyện một cô gái nữ tính, nhạy cảm thành một
nữ anh hùng bản lĩnh, dũng cảm.

* Tâm hồn: PĐ có vẻ đẹp nữ tính, ẩn chứa chiều sâu tâm hồn.


Trong tâm hồn cô còn có sự ngạo nghễ vượt qua bom đạn tàn
khốc:
- Cô tự đánh giá mình là người con gái đẹp và cô cũng rất ý thức
được vẻ đẹp nữ tính của mình. Đặc biệt, sự ngạo nghễ vượt lên
gian khổ được khắc họa ở đôi mắt kiên cường, cái nhìn xa xăm
diệu vợi gợi khát vọng tuổi trẻ, khát vọng hòa bình. “Còn đôi mắt
tôi thì các anh lái xe nói: Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”
- Cô luôn lạc quan, mộng mơ giữa bom đạn của kẻ thù: Vào chiến
trường đã ba năm nhưng những kỉ niệm về một thời hồn nhiên, vô
tư bên gia đình luôn sống dậy trong cô. Nó vừa là niềm khao khát
vừa làm dịu mát tâm hồn cô trong những giờ phút căng thẳng,
khốc liệt của chiến trường. Đó là những giấc mơ về bầu trời HN, về
căn gác nhỏ lấp lánh ánh sao đêm, hoa trong công viên, những ngôi
sao trong câu chuyện cổ tích…
- Cô hồn nhiên, yêu cuộc sống: Cô thích hát, thuộc nhiều bài hát.
Tiếng hát cất lên hòa với tiếng bom đạn của kẻ thù đã thể hiện
những cảm xúc trong sáng, khát khao giành độc lập của nữ anh
hùng. Những bài hát dân ca mềm mại dịu dàng hay những hành
khúc trên con đường ra trận đã thấm đẫm tâm hồn PĐ để cô yêu
cuộc đời và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Cô quý trọng, yêu thương đồng đội của mình và luôn sống có lý
tưởng: PĐ chăm sóc Nho rất chu đáo và hiểu rõ tâm trạng của chị
Thao trong một lần Nho bị thương. Với Đại đội trưởng, chỉ nói
chuyện qua điện thoại nhưng cô hiểu rõ từ cách ăn nói đến đặc
điểm riêng. PĐ còn quý trọng tất cả những chiến sĩ trên con đường
ra trận: “Trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông
minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,
có ngôi sao trên mũ.”
=> Tâm hồn PĐ vừa phong phú vừa mang nét đẹp nữ tính và có
chiều sâu. Cô mãi là hình ảnh người con gái Hà thành đáng yêu,
dũng cảm. Cô là hình bóng của một thời kì lịch sử mang nét đẹp
lấp lánh, kín đáo như những ngôi sao rất xa nhưng cũng rất gần
gũi, bình dị.
III. TỔNG KẾT:
1. Nội dung: GN – SGK
2. Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật (kể chuyện) phù hợp với nhân
vật kể chuyện - một cô gái trẻ, có tâm hồn phong phú, có lý tưởng
sống cao đẹp và nét nữ tính mộng mơ. Ngôi kể đã tạo nên một
giọng điệu tự nhiên, đôi chỗ mang tính chất khẩu ngữ nhưng vẫn
có nét tinh tế, nữ tính.
- Câu văn ngắn: nhiều câu rút gọn và câu đặc biệt đã khắc họa
được không khí gấp rút, khốc liệt của chiến trường. Nhịp văn
nhanh phù hợp với sự khẩn trương, căng thẳng trong công việc khi
cái chết luôn cận kề. Có những đoạn hồi tưởng của PĐ, câu văn
dài, nhịp kể chậm rãi gợi những kỉ niệm thiếu nữ hồn nhiên, vô tư
cùng những lắng đọng trong tâm hồn người con gái.
- Tác giả thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt
là việc miêu tả tâm lí nhân vật nữ.

You might also like