You are on page 1of 18

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TP.HCM

KHOA KINH TẾ

Giáo viên hướng dẫn: Lê Thị Xoan


Sinh viên thực hiện: Lê Thị Ngọc Ánh
Nguyễn Kim Chúc
Nguyễn Hồ Ngọc Nghi
Nguyễn Ngọc Thi
Nguyễn Thụy Ngọc Thy
Dương Thị Thùy Trang
Huỳnh Nguyễn Uyên Vy

Ngày 7 Tháng 01 Năm 2022

1
Mục Lục

Ưu Điểm Và Thế Mạnh Của Ngành Nông Nghiệp Việt Nam.................................................3


Hiện Trạng Nông Nghiệp.........................................................................................................6
Hạn Chế Của Ngành Nông Nghiệp..........................................................................................8
Những Vấn Đề Cần Được Ưu Tiên....................................................................................... 12
Tài Liệu Tham Khảo............................................................................................................. 17

2
 Ưu Điểm Và Thế Mạnh Của Ngành Nông Nghiệp Việt Nam:
Việt Nam là một dải đất hẹp nằm ở cuối phía đông của bán đảo Đông Dương, tổng diện tích
của cả nước là gấp 1,5 lần so với kích thước của 330,957.6 km2 bán đảo Triều Tiên.Và trải
dài từ bắc xuống nam trong hình chữ S, tương tự như bán đảo Triều Tiên, tổng chiều dài
khoảng 1,650km chiều rộng theo hướng đông-tây của phần rộng nhất của phía bắc và phía
nam khoảng 600km, khu vực trung tâm hẹp nhất chỉ là 50km. Tổng chiều dài mở rộng của
bờ biển là 3,451km. [1]
Do địa hình trải dài từ bắc vào nam nên khí hậu và thổ nhưỡng cũng khác nhau rất đa dạng
nhiệt độ trung bình hàng năm 24,1 ℃ Việt Nam chia nước thành ba khu vực: khu vực phía
Bắc, miền Trung và miền Nam. Nhờ địa hình thuận lợi và khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rất
thích hợp cho sự phát triển ngành nông nghiệp. [2]
Nền nông nghiệp đã luôn đồng hành và gắn bó với Việt Nam khá lâu lúc nước Việt Nam
vẫn chưa được hình thành. Hơn nhiều năm qua nước ta từng bước phát triển, từ một nước
không ai biết đến, nay Việt Nam ta đã được công nhận là một quốc gia có nền độc lập riêng,
tự lực, tự cường. Cũng nhờ nông nghiệp Việt Nam từ một nước chưa phát triển đã dần
“chuyển mình” thành một nước đang phát triển và Chính phủ, Đảng, nhà nước đang cố gắng
phấn đấu thành nước phát triển. Đối với Việt Nam nền nông nghiệp rất quan trọng, là ngành
cốt lõi của nước nhà. [3]
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng
trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ
yếu để tạo ra lương thực, thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp
là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông
sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản. Là một trong những ngày kinh
tế quan trong của nước ta với giá trị sản lượng nông nghiệp đạt 71,473 nghìn tỷ đồng, tăng
1,32% so với năm 2008 và chiếm 13,85 tổng sản phẩm trong nước. Việt Nam đã trở thành
nước phát triển nông nghiệp nổi bậc. Chính vì vậy, mà từ xưa ông bà ta đã chọn nghề nông
là nghề để phát triển kinh tế của đất nước. Để trở thành đất nước có nền nông nghiệp phát
triển nổi bât thì cũng phải nhờ vào các thế mạnh sau:

- Diện tích đất nông nghiệp lớn ( hơn 27,3 triệu ha vào năm 2020).*
- Người dân có kinh nghiệm dồi dào trong các ngành nông nghiệp.
- Khí hậu nhiệt đới của Việt Nam phù hợp với các ngành nông nghiệp.

3
- Có các thiết bị hiện đại để từng bước trở thành nông nghiệp công nghệ cao
- Có thị trường xuất khẩu rộng lớn (44 thị trường trong đó xuất khẩu là 27 thị trường,
nhập khẩu là 17 thị trường (tăng 2 thị trường xuất khẩu và 4 thị trường nhập khẩu so
với năm 2012**, nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan ***).
- Có nguồn nhân lực lao động trẻ dồi dào.

 Từ những thế mạnh trên nước ta đang từ bức phát triển nông nghiệp kết hợp với công
nghệ cao để phát triển hơn so với thế giới.

Nông nghiệp công nghệ cao không chỉ là xu hướng của thời đại mà còn là một trong
những giải pháp cấp thiết hiện nay. Khi mà khí hậu đang dần thay đổi theo chiều
hướng xấu đi, diện tích đất nông nghiệp đang thu hẹp đáng kể, việc ứng dụng giải
pháp nông nghiệp công nghệ cao giải quyết những khó khăn trên bằng các ưu điểm
như sau:

- Tiết kiệm diện tích đất trồng

- Tránh việc lây lan sâu bệnh

- Cách ly với môi trường và thời tiết bên ngoài

- Đảm bảo cây có thể phát triển tốt

- Cung cấp cho cây đầy đủ chất dinh dưỡng và lượng nước cần thiết

- Điều chỉnh ánh sáng hợp lý

- Điều khiển tự động

- Giúp giảm nhân công và chi phí vận hành đáng kể

- Chống thất thoát nước

- Có thể điều chỉnh môi trường theo từng giai đoạn phát triển của cây…

Với những lợi thế đã nêu ở trên, nông nghiệp công nghệ cao đang dần làm thay đổi
bộ mặt nông nghiệp của thế giới và đã giúp không ít quốc gia lọt top xuất khẩu nông
sản, cây trồng – điều tưởng chừng như là không thể. Việc áp dụng mô hình nông
nghiệp công nghệ cao khiến nông sản ngày càng trở nên đa dạng hơn, chất lượng cao
hơn và đảm bảo năng suất phục vụ cho con người. [4]

4
Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành nông nghiệp Việt Nam có thể tự hào vì đã và
đang làm tốt vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo hướng
hiện đại bền vững, đảm bảo an ninh lương thực, dự trữ quốc gia. Nông nghiệp cũng là một
trong những ngành có giá trị xuất khẩu lớn, thu ngoại tệ về cho đất nước. Nông nghiệp Việt
Nam đã có sự trưởng thành vượt bậc, từ chỗ chỉ đủ lương thực phục vụ đời sống hàng ngày,
nhiều khi nhân dân phải chịu cảnh thiếu đói, đến nay chúng ta không chỉ đảm bảo an ninh
lương thực, dự trữ mà còn trở thành là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới. [5]
Đặc biệt, từ năm 2005 tới nay, ngành nông nghiệp đã đạt nhiều thành tựu to lớn, cả nước
xuất khẩu gần 25 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD; vượt chỉ tiêu kế hoạch bình
quân 1 triệu tấn và 1,1 tỷ USD/năm. Giá trị gia tăng của ngành bình quân đạt khoảng 3,7-
4%/năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm Chính phủ đề ra 3 - 3,2%/năm. An ninh lương thực
quốc gia được đảm bảo. Điều đáng ghi nhận là kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng
công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân cư
nông thôn. Năm 2009, thu nhập bình quân mỗi hộ nông thôn đạt 26 triệu đồng, tăng 11 triệu
đồng so với năm 2003; tích lũy bình quân tăng từ 3,5 triệu đồng năm 2005 lên 6,7 triệu
đồng năm 2009. Cả nước hiện có gần 3.000 làng nghề với 1,4 triệu hộ, thu hút trên 11 triệu
lao động; có 120.000 trang trại, quy mô ngày càng mở rộng, góp phần tích cực vào chuyển
đổi cơ cấu sản xuất và tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn… [6]
Chính phủ nhờ đẩy mạnh thâm canh, tập trung tăng năng suất lúa gạo để xóa đói giảm
nghèo đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội, Việt Nam đã trở thành một trong
những nước có sản lượng lương thực bình quân đầu người cao trong nhóm các nước có thu
nhập trung bình. Suất khẩu cũng bùng nổ, hiện Việt Nam là một trong những các nước lớn
nhất về sản xuất lúa gạo, cà phê, điều, hồ tiêu, và các sản phẩm về thủy sản. Tuy tỷ trọng
của ngành nông nghiệp trong GDP cả nước đã giảm trong những năm gần đây, nhưng mức
đóng góp và tăng trưởng vẫn ổn định ở mức 16 - 18 %. Ngành nông nghiệp vẫn đóng góp
vai trò rất quan trọng khi tạo ra trên 40 % tổng việc làm cho lao động cả nước. Năm 2016,
ngành trồng trọt hơi chững lại do tình hình giá nông sản thế giới bất lợi. [7]
Song song đó nước ta vẫn duy trì việc trồng lúa nước bên cạnh còn xen kẻ trồng hoa màu
nhằm hạn chế việc đất bị bạc màu. Trong thời đại công nghệ bùng nổ như thế, nước ta cũng
tiến hành áp dụng những công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế

5
cao cho những trang trại, nâng cao đời sống người dân. Nhờ trình độ canh tác ngày càng
hoàn thiện nên năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất nhiều loại nông sản được nâng cao
rõ rệt. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích tăng mạnh, bình quân cả nước năm 2019 đạt
95,4 triệu đồng/ha đất trồng trọt, tăng 68% so với giá trị sản xuất đạt được năm 2010 là 54,6
triệu đồng/ha. [8]

 Hiện Trạng Nông Nghiệp


Năm 2020, mặc dù gặp bất thường về thời tiết, thiên tai, dịch bệnh (dịch tả lợn Châu Phi,
dịch Covid-19 ...), nhưng nhờ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và điều chỉnh cơ
cấu, các ngành NN & PTNT vẫn vượt qua khó khăn. Các "mục tiêu kép" là phát triển ngành
công nghiệp và phòng chống dịch có hiệu quả đã đạt được. Giá trị sản xuất công nghiệp
năm 2020 dự kiến tăng 2,75% so với năm 2019. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,7%; lâm
nghiệp 2,4%; thủy sản tăng 3,3%; GDP toàn ngành dự kiến tăng 2,65%, có lợi cho việc bảo
đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống. Những thay đổi tích cực trong xây dựng thể
chế và cải cách hệ thống hành chính sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Giống
như cây lúa, nhiều loại cây lương thực truyền thống có giá thị trường thấp hơn có xu hướng
giảm diện tích. Về trồng trọt, chuyển đổi khoảng 200.000 ha lúa hiệu quả thấp sang cây
trồng hiệu quả cao, đồng thời tăng cường chuyển đổi cơ cấu giống, đẩy mạnh thâm canh
phòng trừ dịch bệnh, côn trùng gây hại, ứng dụng khoa học. Công nghệ, học hỏi công nghệ
và cơ giới hóa để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. [9]

Trong 10 năm qua, tổng vốn đầu tư của ngành nông nghiệp đã tăng từ 22 nghìn tỷ đồng
lên hơn 231 nghìn tỷ đồng (năm 2018). Sự đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nông
nghiệp thể hiện ở việc tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, gắn kết theo chuỗi giá trị,
gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến xuất khẩu. Tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị và kết
nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Sự gia tăng trong chế biến sản phẩm và nâng cao giá trị
gia tăng đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn cho nông dân Việt Nam. [10]

6
Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
doanh nghiệp của cả nước, có tới 95% doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Lĩnh vực này của Việt Nam cũng chỉ thu hút dưới 1% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), trong khi mức trung bình của thế giới là khoảng 3%. Tính đến cuối năm 2019, đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp chỉ đạt 3,5 tỷ đô la Mỹ, chiếm tỷ trọng rất thấp trong
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Số lượng nhà đầu tư không lớn, trong
đó có Đài Loan, Quần đảo Virgin (Anh), Singapore, Thái Lan và các nước khác đã chiếm
hơn 50% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Đây
là những thách thức rất lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển liên kết
sản xuất theo chuỗi sản phẩm nông nghiệp. [11]

Theo các chuyên gia, 85% -90% nông sản của nước ta được bán ra thị trường thế giới thông
qua trung gian của các “thương hiệu” nước ngoài. Vì vậy, bán giá rẻ, bị ép giá vẫn là tình
trạng phổ biến trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Chưa kể đến các rào cản
chống bán phá giá, môi trường và kỹ thuật. [12]

Ngoài ra, ngành nông nghiệp còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo Cục Kinh
tế hợp tác và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có khoảng 18 triệu lao động nông, lâm, ngư
nghiệp, trong đó đã qua đào tạo 4,31 triệu người. Ước tính đến năm 2030, Việt Nam sẽ có
khoảng 100.000 doanh nghiệp nông nghiệp, 30.000 hợp tác xã, hàng trăm nghìn tổ hợp tác,
trang trại,…, đòi hỏi lượng lớn lao động nông nghiệp. Công tác đào tạo nguồn nhân lực
trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp tuy đã được triển khai nhưng vẫn còn những khiếm
khuyết, yếu kém, chưa thể thích ứng với sự phát triển của kinh doanh nông nghiệp, chưa
đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của ngành nông nghiệp. Hiện cả nước có
7
khoảng 54 cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu và đào tạo liên quan đến nông nghiệp, đào tạo
đại học và sau đại học, khoảng 325 ngành nghề và khoảng 10.000 cử nhân tốt nghiệp mỗi
năm, phục vụ các hoạt động khác nhau trong lĩnh vực nông nghiệp và nông nghiệp. Phát
triển nông thôn. So với số lượng thực tập sinh được yêu cầu thì con số này vẫn còn nhỏ.
Đồng thời, việc trau dồi nguồn nhân lực có đủ kiến thức và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, đòi
hỏi của nền nông nghiệp công nghệ cao có vai trò hết sức quan trọng và cấp thiết. Thực tế
cho thấy, hầu hết nguồn nhân lực được đào tạo chỉ tập trung vào sản xuất sản phẩm, chưa đủ
năng lực tiếp thị, quảng bá sản phẩm, xây dựng và bảo vệ thương hiệu để tạo ra đầu ra và ổn
định nông sản. [13]

 Hạn Chế Của Ngành Nông Nghiệp


Nông nghiệp là một trong những nghề rất được coi trọng ở Việt Nam, không chỉ giúp ổn
định cuộc sống cho phần lớn người dân nơi đây mà còn là nền tảng cho sự phát triển kinh tế
xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề cho sự lớn mạnh của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Tuy nhiên nền sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn là nền sản xuất thô về sản
phẩm, năng suất lao động cũng như là sự cạnh tranh chưa cao, chưa hình thành được các
chuỗi nông sản mạnh, thậm chí một số lĩnh vực, một số ngành vẫn chưa theo kịp sự phát
triển của thế giới hiện đại, bên cạnh đó là chịu ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu nặng nề
như rét đậm, rét hại, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh,… công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất
cập, cơ chế, chính sách chậm được điều chỉnh để đáp ứng đòi hỏi thực tế, đặc biệt là công
tác dự báo, cảnh báo tín hiệu thị trường. Thiếu hụt vốn đầu tư nên cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ sản xuất nông nghiệp khá lạc hậu dẫn đến năng suất lao động của thấp. Sản xuất
nông nghiệp của nước ta về cơ bản vẫn dựa trên lao động thủ công là chính. Ngoài ra, do
hạn chế của việc thiếu vốn đầu tư nên việc mở rộng các ngành, các lĩnh vực sản xuất trong
nông nghiệp đều gặp khó khăn và diễn ra chậm. Tình trạng được mùa rớt giá vẫn còn xảy ra
do chúng ta chưa thực sự làm chủ thị trường đầu ra. Số lượng và giá nông sản xuất khẩu
không ổn định. Chi phí đầu vào tăng cao trong khi giá sản phẩm bán ra lại rất thấp. Cơ chế
chính sách phát triển nông nghiệp chưa rõ ràng, thiếu tính đột phá. Môi trường kinh doanh
nông nghiệp không hấp dẫn. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào
nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yếu cầu phát triển. Công tác quy
hoạch kết cấu hạ tầng cho các vùng sản xuất nông nghiệp chưa đầy đủ. Trình độ khoa học
công nghệ trong lĩnh vực Việt Nam còn quá thô sơ, chi phí để mua công nghệ mới quá lớn.
Đặc biệt khi ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp đòi hỏi người phải có kiến thức rộng
8
trong quá trình sản xuất và đã đạt được một trình độ nhất định. Trong khi đó, lao động trẻ
hiện nay của nước ta có thể tiếp thu nhanh những kiến thức của tiến bộ khoa học công nghệ
thì phần lớn thường tập trung ở các đô thị, thành phố để làm việc còn lại lao động ở nông
thôn là những người già và phụ nữ lớn tuổi. Chính vì vậy, đó là nguyên nhân làm cho quy
trình công nghệ còn hạn chế. Xây dựng nông thôn mới chưa gắn kịp với đô thị hóa, công
nghiệp hóa. Chênh lệch vùng miền giữa nông thôn và đô thị còn cao. Ở cộng đồng chưa
phát huy được nếp sống văn hóa nông thôn. [14]
Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua có đóng góp của nhiều “điểm sáng” về
thâm canh, ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên tham dụng tài
nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm
đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, và bảo
vệ môi trường, dù thời kỳ “đói khát” đã qua từ lâu. Hơn nữa, nông nghiệp lại chưa gắn với
công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ cùng nhau phát triển. Số lượng các
doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít. Vì vậy,
nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang
phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế “được mùa mất giá”, “giải cứu nông
sản” hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh
chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh,
sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ. Hầu hết các loại giống
cây trồng từ lúa, hoa màu, rau quả đến các giống vật nuôi cao sản, máy móc, thiết bị, phần
lớn vật tư nông nghiệp... đều là “hàng ngoại nhập”. [15]

Mô hình sản xuất nông hộ chậm đổi mới. Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông
nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp (Nhóm
Ngân hàng Thế giới, 2016). Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả,
nhưng cũng đã tới ngưỡng kịch trần của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ
chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà
không theo tính hiệu của thị trường. Rõ ràng là, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của
kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế
hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau
Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong
thời đại công nghiệp 4.0. [16]

9
Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm
năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông
thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật
phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Có quá nhiều chính sách đề thu hút nguồn lực vào
nông nghiệp nhưng lại không phát huy được hiệu quả. Tác động tích cực của nhiều chính
sách “cởi trói” trong nông nghiệp và nông thôn dường như đã tới hạn, thậm chí, một số
chính sách lại cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng cho phát triển
nông nghiệp chưa thực sự đổi mới và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các hợp
tác xã và hộ nông dân tiếp cận vốn; tình trạng tính dụng đen vẫn tồn tại, làm suy kiệt sức
sản xuất và bần cùng hóa không ít hộ nông dân. Do cơ chế chính sách thu hút đầu tư vào
nông nghiệp chưa hiệu quả cùng với tình trạng đất đai manh mún nên vẫn chưa có nhiều
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ứng dụng cao. Số doanh nghiệp đầu tư trong
lĩnh vực nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, trong đó số
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông lâm, thủy sản mới chiếm khoảng 1%.
Trong đó, có không ít là các doanh nghiệp nhà nước do được ưu tiên tiếp cận vốn, số doanh
nghiệp tư nhân chưa nhiều, chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng lợi nhuận cao, dễ
sinh lời từ đất đai, từ địa tô và các “lợi lộc” khác. [17]

Do ít được đào tạo, nên lao động nông nghiệp thiếu kiến thức khoa học, thiếu kiến thức
quản trị đồng ruộng, quản trị trang trại; lại thêm hệ thống thông tin thị trường chưa phát
triển nên chưa giúp doanh nghiệp và nông dân có quyết định đúng để tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho nguời nông dân, nên phần lớn nông dân nước ta sản
xuất ra sản phẩm hôm nay không biết ngày mai bán cho ai, ở đâu, giá cả thế nào, bao gói ra
sao, thấy hàng xóm trồng thì trồng, thấy hàng xóm nuôi thì nuôi, “muôn sự tại trời”. Ngoài
ra, lao động nông nghiệp vẫn còn dư thừa tương đối ở các vùng sâu vùng xa. Trong khi đó,
ở các vùng ven đô, xu hướng đô thị hóa khiến một bộ phận nông dân mất cơ hội sản xuất
nông nghiệp trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc chuyển đổi ngành nghề, tạo sinh kế
mới phi nông nghiệp. [18]

Việc sử dụng quá nhiều phân bón, nhất là phân đạm trong trồng trọt dẫn đến thừa Nitrat
(NO3) và gây nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng. Việt Nam có khoảng 26 triệu ha đất
nông nghiệp với nhu cầu sử dụng phân bón trung bình mỗi năm khoảng 10 triệu tấn, trong
đó gần 20% phân đạm. Để nâng cao năng suất cây trồng, nông dân đã tăng lượng phân bón

10
gấp 2-3 lần, thậm chí 5-7 lần cho với nhu cầu, dẫn đến dư thừa lượng Nitrat trong rau, củ,
quả.Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, cây trồng chỉ sử dụng
khoảng 40-50% số phân bón, còn lại bị rữa trôi hoặc tồn tại trên các bộ phận khác của cây.
Tập quán lãng phí và bừa bãi trong việc sử dụng đạm hóa chất khiến dư thừa Nitrat và khi
vượt ngưỡng nó sẽ biến thành Nitrit gây nguy hại cho con người. [19]

Biến đổi khí hậu và tình trạng ô nhiễm đất ảnh hưởng rất lớn đối với ngành nông nghiệp
nước ta. Mức độ biến đổi khí hậu những năm gần đây xảy ra nhanh, xâm nhập mặn ở đồng
bằng sông Cửu Long ngày càng diễn biến phức tạp.Lũ lụt hàng năm làm cho đất nông
nghiệp bị xói mòn, không còn hiệu quả canh tác như lúc ban đầu, đặc biệt là trận lũ lụt miền
Trung năm 2021 mới đây đã cuốn trôi tất cả công sức canh tác trồng trọt, chăn nuôi của bà
con nông dân gây ra hậu quả nặng nề cho ngành nông nghiệp nói riêng và nên kinh tế Việt
Nam nói chung. Thời tiết khí hậu nóng bức ở miền Bắc không thuận lợi cho cây lúa phát
triển. Đặc biệt, dịch bệnh xảy ra đối với gia súc, gia cầm có thể lây nhiễm sang người. Việc
bảo vệ, ngăn chặn ngày càng khó khăn do nảy sinh thêm những chủng loại mới. Sản xuất
nông nghiệp Việt Nam trong thời gian dài đã sử dụng quá nhiều phân hóa học làm cho độ
phì đất suy giảm, một khối lượng lớn về đạm, lân đã bị rữa trôi, nước bị ô nhiễm hữu cơ,
hàm lượng Nitrat, Nitrit tăng mạnh làm cho môi trường nước, đất giảm chất lựng và ngày
càng xấu đi. Việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích
tăng trưởng một cách tùy tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường
sinh thái, dẫn đến thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại đến sức khỏe con người.
[20]

Ảnh hưởng gần đây nhất đối với ngành nông nghiệp chính là đại dịch Covid 19. Đại dịch
bùng nổ đã mang lại thiệt hại nặng nề cho nông dân. Do biện pháp bảo hộ, hàng rào kỹ
thuật, truy xuất nguồn gốc,cấm vận và giao thương mua bán trao đổi hàng hóa nhằm ổn dịnh
tình hình dịch đã làm cho tình trạng xuất, nhập khẩu trở nên khó khăn, hàng hóa nông
nghiệp bị tồn đọng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nông nghiệp cả nước. [21]

Đầu tư cho nông nghiệp còn thấp, chênh lệch giữa đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông
thôn với các lĩnh vực khác còn khá cao, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực nông nghiệp. [22]

Vấn đề để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Nhìn
chung phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trong lĩnh vữc nông nghiệp, nông thôn còn
11
chưa đáp ứng được yêu cầu, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt vùng sâu,
vùng xa còn khá lớn.[23]

ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HAY GIÁ TRỊ CỦA NGÀNH SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI THÌ CHÚNG TA CẦN ƯU TIÊN
NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP THIẾT NÀO ?

Như chúng ta cũng đã biết, nông nghiệp là một ngành giữ vai trò quan trọng ở một đất nước
có khí hậu nhiệt đới (nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa) như Việt Nam chúng ta. Mà hơn
thế, nông nghiệp còn là ngành góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế của nước ta.
Sản xuất nông nghiệp không chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho nước nhà mà còn là yếu tố
thiêt yếu trong nền kinh tế quốc dân. [24]
Trong suốt chặng đường đổi mới, từng ngày, cùng với đó là sự phát triển chung của nền
kinh tế trên toàn thế giới, tốc độ tiêu thụ, sản xuất và xuất khẩu cả nước ta trong ngành nông
nghiệp có tốc độ phát triển cao. Có một số mặt hàng cũng đã giữ vai trò đảm bảo an ninh
lương thực nước nhà và thuộc nhóm những loại lương thực trong ngành nông nghiệp đứng
đầu trong ngành xuất khẩu như : gạo, cà phê, trà ... [25]
Phân tích về các nước xuất khẩu gạo năm 2021 so với năm 2020, Bộ Nông nghiệp Mỹ đưa
ra dự báo, Việt Nam sẽ đạt 6,4 triệu tấn, tăng 233 nghìn tấn; Thái Lan đạt 6,1 triệu tấn, tăng
gần 400 nghìn tấn và Ấn Độ đạt 15,5 triệu tấn, tăng 940 nghìn tấn. Với dự báo trên, Việt
Nam sẽ vẫn tiếp tục đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo. Nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo tiếp tục là
Ấn Độ, còn Thái Lan đứng thứ 3. [26]
Tuy vậy, bên cạnh đó việc lưu thông và tiêu thụ sản phẩm của nền nông nghiệp nước ta
cũng đang gặp phải những khó khăn và những thử thách lớn về giá cả, chất lược. [27]
Vậy chúng ta cần phải làm gì để nâng cao được hiệu quả, giá trị của ngành nông nghiệp
nước ta ?
 Đối với thị trường trong nước :
 Tạo mặt bằng giá cả hợp lí cho người tiêu dùng trong nước
 Khuyến khích tiêu dùng để tiêu thụ, đẩy mạnh tiêu thụ trong nước với châm ngôn
“Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”
 Cải thiện giá trị nông sản với hiệu suất và chất lượng cao, tương đối đồng đều, an
toàn và tươi ngon.

12
 Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chính phủ tại trung ương và địa phương, sự
phối hợp này cũng vô cùng quan trọng vì có những quy trình thông quan mà liên
quan đến nhiều nơi, từ nhiều người phụ trách cơ sở hạ tầng liên quan đến thương
mại và giao thông đến những người chịu trách nhiệm kiểm tra vệ sinh.
 Thúc đẩy việc sử dụng công nghệ đột phá vào nền nông nghiệp trong nước để đưa
ra được chất lượng sản phẩm cao
 Giải pháp để Việt Nam có thể hội nhập sâu rộng hơn vào các thị trường toàn cầu và
trong nước. Chúng tôi mong muốn được tăng cường các hoạt động phân tích, hỗ trợ
kỹ thuật và hỗ trợ cho vay hiện nay đối với Chính phủ và nhân dân Việt Nam. [28]
 Đối với thị trường ngoài nước :
 Mở rộng lưu thông trở nên quyết định đối với việc giải phóng hàng hóa nông sản
thực phẩm đã được sản xuất đến kỳ thu hoạch
 Đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, đổi mới hệ thống canh tác
 Đa dạng các hoạt động xúc tiến thương mại
 Tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp với hộ nông dân sản xuất hàng
nông sản theo chuỗi giá trị từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ
 Đẩy mạnh hỗ trợ xúc tiến đầu tư và xây dựng thương hiệu đối với hàng nông sản
xuất khẩu
 Tạo điều kiện thuận lợi để các nhà sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam tham
gia vào những khâu ngoài sản xuất, tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng nước
ngoài. [29]
Chúng ta cần ưu tiên tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết:

Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển với mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình
quân từ 3,5 - 4,0%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020, thu nhập hộ gia đình nông thôn tăng
lên 2,5 lần so với năm 2008; nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc lên 45% vào năm 2020,…
Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách liên quan. [30]

Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển với mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình
quân từ 3,5 - 4,0%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020, thu nhập hộ gia đình nông thôn tăng
lên 2,5 lần so với năm 2008; nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc lên 45% vào năm 2020,…
Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách liên quan. [31]

13
Quyết định số 2194/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển giống cây nông, lâm nghiệp, vật
nuôi, giống thủy sản đến năm 2020.

Ngày ban hành: 25/12/2009, ngày có hiệu lực: 25/12/2009

Nhằm nâng cao năng lực hệ thống nghiên cứu, chọn tạo, chuyển giao, sản xuất, cung ứng
giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp, giống thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để tăng nhanh năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh, hiệu quả
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và thu nhập của nông dân một cách bền vững, đề án
này đã đề ra một số biện pháp sau:

1. Quy hoạch hoàn thiện hệ thống nghiên cứu, sản xuất và cung ứng giống từ trung ương
đến cơ sở gắn với vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa phương hoàn thiện quy
hoạch hệ thống nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất và cung ứng giống, đảm bảo đủ giống tốt,
chất lượng cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản.

a) Đối với nông nghiệp: quy hoạch và đầu tư tăng cường năng lực các trung tâm giống, các
doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ gia đình gắn kết với các viện khoa học và công nghệ
(KH&CN) vùng để thực hiện đồng bộ từ khâu nghiên cứu, chọn tạo, nhân và sản xuất giống
xác nhận cho sản xuất đại trà trên địa bàn;

b) Đối với lâm nghiệp: kiện toàn lại tổ chức quản lý hệ thống rừng giống quốc gia. Quy
hoạch và đầu tư tăng cường năng lực các trung tâm khoa học lâm nghiệp quốc gia ở các
vùng, xây dựng 3 vườn ươm giống hiện đại tại 3 vùng; địa phương có diện tích trồng rừng
từ 10.000 ha/năm trở lên xây dựng một vườn ươm giống quy mô phù hợp; hỗ trợ các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế xây dựng vườn ươm;

c) Đối với thủy sản: quy hoạch và tăng cường đầu tư năng lực các trung tâm giống quốc gia,
giống cấp I và trung tâm thủy sản cấp tỉnh; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nâng cấp, xây dựng
mới các trại giống thủy sản, gắn kết từ nghiên cứu, chọn tạo, nhân, gây, chuyển giao và
nhân nhanh giống cho sản xuất đại trà.

Trong đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất giống tập
trung áp dụng công nghệ cao phát triển giống, mức tối đa không quá 50%; sản xuất giống
gốc hỗ trợ 1 lần không quá 50% chi phí sản xuất giống gốc, đầu dòng, siêu nguyên chủng,

14
giống cụ kỵ, giống ông bà, giống bố mẹ đối với giống lai và không quá 30% chi phí sản
xuất giống lai đối với một số loại giống cần khuyến khích. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân
đầu tư sản xuất giống gốc, giống siêu nguyên chủng, giống nguyên chủng, giống bố mẹ (đối
với các giống lai), cây đầu dòng, giống cụ kỵ, giống ông bà, đàn hạt nhân, đàn nhân giống,
vườn giống cây lâm nghiệp, rừng giống, giống mới sử dụng công nghệ cao được vay vốn tín
dụng đầu tư phát triển nhà nước theo quy định hiện hành; Quỹ phát triển khoa học và công
nghệ quốc gia và quỹ phát triển khoa học và công nghệ địa phương dành kinh phí cho các
dự án thử nghiệm về sản xuất, chế biến giống. Ưu tiên cho áp dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ về giống thuộc các thành phần kinh tế. [32]

Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững

Ngày ban hành: 10/06/2013, ngày có hiệu lực: 10/06/2013

Với mục tiêu duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng
năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu; nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư
dân nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực; tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên,
giảm phát thải khí nhà kính và các tác động tiêu cực khác đối với môi trường, khai thác tốt
các lợi ích về môi trường, quyết định này đã đề ra một số biện pháp như: nâng cao chất
lượng quy hoạch, rà soát, gắn chiến lược với xây dựng quy hoạch, kế hoạch, quản lý giám
sát nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với quy hoạch; khuyến khích, thu hút đầu tư tư
nhân; nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đầu tư công; ưu tiên đầu tư công trong nông
nghiệp; cải cách thể chế; phát triển đối tác công tư, hợp tác công tư; tiếp tục sửa đổi, hoàn
thiện hệ thống chính sách.

Định hướng chung về kinh tế là tập trung khai thác và tận dụng tốt lợi thế của nền nông
nghiệp nhiệt đới; xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn theo hình thức
trang trại, gia trại, khu nông nghiệp công nghệ cao, đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về
an toàn vệ sinh thực phẩm, kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản
và tiêu thụ sản phẩm, với chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm có lợi thế và khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới: cà phê, cao su, lúa gạo, cá da trơn, tôm, hạt tiêu, hạt điều,
các loại hải sản khác, các loại rau, quả nhiệt đới, đồ gỗ.... Đồng thời, duy trì quy mô và
phương thức sản xuất đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng đối với các sản
15
phẩm, nhóm sản phẩm có nhu cầu nội địa lớn nhưng khả năng cạnh tranh trung bình như
các sản phẩm chăn nuôi, đường mía... Hoàn thiện thể chế cho phát triển nông nghiệp theo
định hướng thị trường; đổi mới và phát triển hệ thống quản lý và hệ thống tổ chức sản xuất,
kinh doanh.

Các tổ chức thực hiện bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; Bộ Tài chính; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Công Thương; Bộ Tài nguyên và Môi
trường; Bộ Y tế; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các địa phương. [33]

Quyết định số 644/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để
phát triển các cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị khu vực nông nghiệp nông thôn.

Ngày ban hành: 05/05/2014, ngày có hiệu lực: 05/05/2014

Đề án có mục tiêu hỗ trợ và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
nông thôn Việt Nam tham gia và phát triển mạng lưới liên kết, sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh trong
một số chuỗi sản phẩm nông nghiệp tăng ít nhất là 5% vào năm 2018 so với 2013; xúc tiến
và hỗ trợ xây dựng được ít nhất 2 thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, có khả năng cạnh
tranh trên thị trường và hướng tới xuất khẩu; tăng cường được mối liên kết trong chuỗi cung
ứng các sản phẩm nông nghiệp tiềm năng; nâng cao vai trò và năng lực của các tổ chức hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ
trợ các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Đề án đã triển khai các cấu phần bao gồm: hình thành và phát triển một số chuỗi giá trị sản
phẩm nông nghiệp điển hình; nâng cao năng lực quản lý cho các doanh nghiệp nằm trong
chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; liên kết và phát triển doanh nghiệp trong các khu, cụm,
vườn ươm trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp từ sản xuất đến phân phối và tiêu dùng;
xúc tiến phát triển sản phẩm, hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp; hỗ trợ tiếp
cận thị trường cho các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị; nâng cao khả năng hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng trong chuỗi
giá trị.

Các tổ chức thực hiện bao gồm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Các Bộ: Kế
hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Khoa học và Công
nghệ, Tài chính; các viện nghiên cứu, trường đại học, các câu lạc bộ, các hiệp hội, các
16
doanh nghiệp nhỏ và vừa và các cơ quan có liên quan; các doanh nghiệp tham gia chuỗi liên
kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ hoạt động ở địa bàn nông thôn đáp ứng đủ các điều kiện của
chương trình, đề án. [34]

[1]-[3]&[5]-[6]: https://baotintuc.vn/kinh-te/the-manh-nong-nghiep-viet-nam-tren-truong-
quoc-te-20110104173533147.htm

[4]: *: Thực trạng tăng trưởng xanh trong nông nghiệp của Việt Nam (tapchitaichinh.vn)

**: laodongxuatkhaunhatban.vn/thi-truong-xuat-khau-cua-viet-nam.html

***: Gạo Việt đã xuất khẩu đi hơn 150 thị trường, cơ hội tiếp tục rộng mở | VOV.VN

[7]: https://www.a-c.com.vn/vn/nong-nghiep/6-diem-nhan-lon-trong-buc-tranh-nganh-
nong-nghiep-viet-nam-2512.htm

[8]: https://dangcongsan.vn/kinh-te/nong-nghiep-tiep-tuc-la-the-manh-cua-viet-nam-
554903.html

[9]-[13]: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nganh-
nong-nghiep-viet-nam-82695.htm

[14]-[18]: https://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Nong-nghiep-Viet-Nam-Nhung-van-de-
ton-tai-26635

[19]-[20]: https://www.tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/42992/phat-trien-nong-nghiep-
viet-nam--thanh-tuu-va-han-che.aspx

[22]-[23]: http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-qua-
gan-15-nam-thuc-hien-nghi-quyet-trung-uong-7-khoa-x-ve-nong-nghiep-nong-dan-nong-
thon.html

[26]: https://vneconomy.vn/viet-nam-van-xep-tren-thai-lan-ve-san-luong-gao-xuat-khau-
2021.htm
[28]-[29]: https://www.worldbank.org/vi/news/speech/2019/11/25/logistics-assisting-the-
enhancement-of-value-of-agro-products
17
 https://bacgiang.onetouch.edu.vn/2021/09/10/mo-hinh-san-xuat-nong-nghiep-cong-
nghe-cao-hieu-qua/
 http://svec.org.vn/index.php/nghien-cuu/Nghien-cuu-Trao-doi/Canh-tranh-trong-luu-
thong-de-nang-cao-hieu-qua-tieu-thu-nong-san-thuc-pham
 https://kinhtevadubao.vn/mot-so-giai-phap-nang-cao-gia-tri-hang-nong-san-xuat-khau-
chu-luc-o-tinh-dak-nong-hien-nay-20366.html
https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/820611/nang-cao-hieu-qua-tham-gia-chuoi-gia-
tri-toan-cau-doi-voi-nong-san-viet-nam.aspx

[30]-[34]: http://iasvn.org/tin-tuc/Chinh-sach-uu-tien-phat-trien-nong-nghiep-7603.html

18

You might also like