You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----

MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

TIỂU LUẬN

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ
TƯ ĐẾN LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: Th. Hồ Ngọc Khương


SVTH:
1. Nguyễn Duy Được 22145351
2. Phạm Đức Anh 2145299
3. Tạ Vũ Long 18146333
4. Nguyễn Hoàng Anh Khoa 22110352
5. Nguyễn Khắc Nguyên Chương 20128096
6. Nguyễn Võ Thiện Nhân 20149346

Mã lớp học: LLCT120205_23_1_05

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11, năm 2023


BẢNG ĐÁNH GIÁ PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ NHẬN XÉT CỦA
GIẢNG VIÊN
S Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ Điểm số
T Ký
T
Mở đầu, kết
1 Nguyễn Duy Được 22145351 luận và tổng
hợp word

Phạm Đức Anh Chương 3


2 2145299

Tạ Vũ Long 18146333 Chương 2


3

Nguyễn Hoàng Anh 22110352 Chương 2


4 Khoa

Nguyễn Khắc Nguyên 20128096 Chương 1


5 Chương
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................

Ký Tên
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài..................................................................................................................1
2.Mục tiêu làm tiểu luận.........................................................................................................1
3.Kết cấu của tiểu luận...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ TƯ VÀ KHÁI QUÁT GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM.....................................................2
1.1. Tìm hiểu chung về bối cảnh công nghệ 4.0....................................................................2
1.1.1. Lịch sử phát triển các cuộc cách mạng công nghệ trong lịch sử..............................2
1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành cuộc cách mạng công nghệ 4.0.............................3
1.2. Khái niệm và vai trò của giáo dục và đào tạo...............................................................4
1.2.1. Khái niệm giáo dục.......................................................................................................4
1.2.2. Vai trò của giáo dục......................................................................................................4
1.3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giáo dục hiện nay:....................................5
1.4 Đặc điểm của ngành giáo dục hiện nay...........................................................................8
1.4.1 Tổng quan GĐH Việt Nam...........................................................................................8
1.4.2. Hệ thống cấp bậc giáo dục ở Việt Nam hiện nay.......................................................8
CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN NGÀNH GIÁO
DỤC VIỆT NAM..................................................................................................................14
2.1. Thực trạng ngành giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam
................................................................................................................................................ 14
2.1.1. Chuyển đổi số trong giáo dục.....................................................................................14
2.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao....................................................................15
2.1.3. Hạn chế về cơ sở vật chất...........................................................................................16
2.2. Thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức của ngành giáo dục Việt Nam hiện nay.
................................................................................................................................................ 16
2.2.1. Thuận lợi......................................................................................................................16
2.2.2. Khó khăn.....................................................................................................................18
2.2.3. Cơ hội...........................................................................................................................20
2.2.4. Thách thức...................................................................................................................22
2.3. Những tác động lên lĩnh vực giáo dục..........................................................................23
2.3.1. Tác động tích cực........................................................................................................23
2.3.2. Tác động tiêu cực........................................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài

Giáo dục là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển của một
quốc gia và cả thế giới. Nó không chỉ giúp con người có được kiến thức và kỹ năng
cần thiết để phát triển bản thân, mà còn giúp họ hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh
và đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội. Giáo dục cũng là một công cụ
quan trọng để giảm bớt bất bình đẳng xã hội và tạo ra cơ hội công bằng cho tất cả
mọi người.

Ngoài ra, giáo dục còn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển kinh tế
của một quốc gia. Những người có trình độ giáo dục cao thường có khả năng tìm
kiếm việc làm tốt hơn và có thu nhập cao hơn. Họ cũng có khả năng đóng góp tích
cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước thông qua việc sáng tạo và đổi mới.

Tóm lại, giáo dục là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển của một
quốc gia và thế giới. Nó không chỉ giúp con người có được kiến thức và kỹ năng
cần thiết để phát triển bản thân, mà còn giúp họ hiểu rõ hơn về thế giới xung quanh
và đóng góp tích cực vào sự phát triển của xã hội.

Để góp phần nghiên cứu về giáo dục và đào tạo trong khuôn khổ bài viết
nàyem xin đề cập đến "Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến lĩnh
vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay”.

2.Mục tiêu làm tiểu luận


• Tìm hiểu nền giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
• Làm rõ sức ảnh hưởng của công nghệ 4.0 với nền giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
• Nêu lên những yêu cầu đặt ra với nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong thời
đại 4.0.

3.Kết cấu của tiểu luận


Bài tiểu luận được chia làm 3 chương:

•Chương 1: Giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.

•Chương 2: Những yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

• Chương 3: Tác động và một số ứng dụng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lên
ngành giáo dục.
2

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN


THỨ TƯ VÀ KHÁI QUÁT GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM.

1.1. Tìm hiểu chung về bối cảnh công nghệ 4.0


1.1.1. Lịch sử phát triển các cuộc cách mạng công nghệ trong lịch sử
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1
Bắt đầu vào khoảng năm 1784. Đỉnh cao của cuộc cách mạng công nghiệp đầu
tiên là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách
mạng công nghiệp này bắt đầu với việc phát minh ra động cơ hơi nước của James
Watt vào năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho một cuộc bùng nổ công
nghiệp vào thế kỷ 19 lan rộng từ nước Anh ra khắp Châu Âu và xa hơn nữa là Hoa
Kỳ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất thay thế hệ thống kỹ thuật truyền
thống cũ của thời kỳ nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức cơ
bắp (lao động chân tay), thủy lực, sức gió và sức kéo của động vật... bằng một kỹ
thuật mới hệ thống với nguồn năng lượng là động cơ hơi nước và nguồn nguyên liệu
mới là sắt và than. Điều này dẫn đến lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo nên
sự phát triển vượt bậc của công nghiệp và nền kinh tế. Đó là thời kỳ chuyển đổi từ
sản xuất nông nghiệp sang sản xuất cơ giới hóa dựa trên khoa học thực nghiệm.
(TechInsight, 2023)
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ khoảng năm 1870 cho đến
khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Điểm nổi bật của cuộc cách mạng công nghiệp này
là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của dây chuyền sản xuất hàng loạt quy
mô lớn. Với sự phát triển của điện, giao thông vận tải, hóa chất, sản xuất thép và
(trên hết) sản xuất và tiêu dùng hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
đã tạo nền tảng vững chắc để thế giới phát triển công nghiệp lên trình độ cao hơn
nữa. Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bởi sự phát triển của nền sản xuất cơ khí
hiện đại trong khoảng thời gian 100 năm và bởi sự phát triển của khoa học dựa trên
công nghệ. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự
chuyển dịch sang sản xuất dựa vào điện – cơ khí và tự động hóa. Tạo ra các ngành
công nghiệp mới dựa trên khoa học thuần túy, biến khoa học thành một ngành công
nghiệp đặc biệt. Ảnh hưởng của công nghiệp hóa trong cuộc cách mạng này thậm
chí còn mở rộng sang Nhật Bản sau cuộc Minh Trị Duy tân và thâm nhập sâu vào
Nga, một quốc gia đang trên đà phát triển vào đầu Thế chiến thứ nhất. Cuộc cách
mạng này đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi trên phạm vi toàn cầu.
(TechInsight, 2023)
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào khoảng năm 1969, với
sự ra đời và phổ biến của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử và điện toán
để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng
máy tính hay cuộc cách mạng kỹ thuật số vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet
(thập niên 1990).
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh tế hóa các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và xã hội, giúp giảm chi phí khi sử dụng phương tiện sản
xuất để tạo ra một khối lượng hàng tiêu dùng. Kết quả của nó đã làm thay đổi cơ
cấu sản xuất xã hội cũng như mối tương quan giữa các ngành I (nông - lâm - ngư
3

nghiệp), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của sản xuất xã hội. Làm thay
đổi căn bản lực lượng sản xuất, Cách mạng công nghiệp lần III tác động đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, đặc biệt là ở các nước tư bản phát triển.
(TechInsight, 2023).
 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Cách mạng công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng công nghiệp lần thứ tư) là kết quả
của sự kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh nhằm tạo ra sự hội
tụ kỹ thuật số giữa ngành công nghiệp, doanh nghiệp và các chức năng, quy trình
nội bộ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nổi lên từ cuộc cách mạng thứ ba,
hội nhập các công nghệ, xóa mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. So
với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng này tiến triển với
tốc độ theo cấp số nhân chứ không phải tuyến tính. Quy mô và chiều sâu của những
thay đổi diễn ra trong quá trình phát triển này tạo nên sự chuyển đổi của toàn bộ hệ
thống sản xuất, quản lý và quản trị của hầu hết mọi ngành công nghiệp trên thế giới.
Các yếu tố số trung tâm trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ là: trí tuệ
nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trong lĩnh vực công
nghệ sinh học, Cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung nghiên cứu tạo ra những tiến
bộ trong nông nghiệp, thủy sản, y học, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng
lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới,
máy in 3D, ô tô tự hành, vật liệu mới (graphene, skyrmions, v.v.) và công nghệ
nano. (TechInsight, 2023) (QTKD, 2021).
1.1.2. Khái niệm và lịch sử hình thành cuộc cách mạng công nghệ 4.0
 Khái niệm:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được gọi là Công nghiệp 4.0. Công
nghiệp 4.0 đưa công nghệ kỹ thuật số của những thập kỷ gần đây lên một tầm cao
mới thông qua khả năng kết nối thông qua Internet of Things (IoT), truy cập dữ liệu
thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng. Công nghiệp 4.0
cung cấp cách tiếp cận toàn diện và kết nối hơn với sản xuất. Nó kết nối vật lý với
kỹ thuật số và cho phép cộng tác và truy cập tốt hơn giữa các phòng ban, đối tác,
nhà cung cấp, sản phẩm và con người. Công nghiệp 4.0 mang lại cho chủ doanh
nghiệp quyền kiểm soát và hiểu biết tốt hơn về mọi khía cạnh hoạt động của họ,
đồng thời cho phép họ tận dụng dữ liệu tức thời để tăng năng suất, cải thiện quy
trình và thúc đẩy tăng trưởng. Công nghiệp 4.0 cho phép các nhà máy thông minh,
sản phẩm thông minh và chuỗi cung ứng thông minh, đồng thời làm cho hệ thống
sản xuất và dịch vụ trở nên linh hoạt và đáp ứng khách hàng hơn. Các thuộc tính
của hệ thống sản xuất và dịch vụ với Công nghiệp 4.0 đã được nêu bật. Những lợi
ích mà Công nghiệp 4.0 mang lại cho doanh nghiệp đã được thảo luận. Trong tương
lai, Công nghiệp 4.0 được kỳ vọng sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa và do đó các
công ty phải sẵn sàng chuẩn bị cho sự chuyển đổi liên tục để cập nhật các xu hướng
hiện đại sắp tới. (Nguyễn, 2020)
Lịch sử:
Khái niệm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư lần đầu tiên được đưa ra bởi một
nhóm các nhà khoa học Đức đang xây dựng chiến lược công nghệ cao cho Chính
phủ Đức vào năm 2011. Đức có thể được coi là quốc gia khởi đầu cuộc cách mạng
này. Klaus Schwab, chủ tịch điều hành của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã giới thiệu
khái niệm này tới nhiều đối tượng khán giả hơn trong một tiêu đề năm 2015 trên
báo Foreign Affairs, “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” là chủ đề
4

năm 2016 của cuộc họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos -
Klosters, Thụy Sĩ. Ngày 10 tháng 10 năm 2016, Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố
khai trương Trung tâm Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư tại San Francisco. Cũng
trong năm 2016, Schwab đã xuất bản cuốn sách về Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Schwab tập hợp các công nghệ thế hệ thứ tư, bao gồm phần cứng, phần mềm và
sinh học (hệ thống cyber - physical), đồng thời nhấn mạnh những tiến bộ trong
truyền thông và kết nối. Schwab tin rằng kỷ nguyên này được đánh dấu bằng những
tiến bộ công nghệ đặc biệt trong các lĩnh vực như robot, trí tuệ nhân tạo, công nghệ
nano, điện toán lượng tử, công nghệ sinh học, Internet of Things, điện toán phân
tán, công nghệ không dây thế hệ thứ năm, in 3D và vận tải không người lái. (Anh,
2020).

1.2. Khái niệm và vai trò của giáo dục và đào tạo
1.2.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một cách tiếp nhận về kiến thức, phong tục, các thói quen và những
kỹ năng của con người đã được lưu giữ thông qua các thế hệ bởi hình thức giảng
dạy, nghiên cứu hoặc đào tạo.
Giáo dục có thể do mỗi người tự tìm hiểu và học tập cũng có thể do người khác
truyền dạy. Điều này đồng nghĩa với việc những kiến thức và kinh nghiệm mà cá
nhân con người có được cùng các suy nghĩ, hành động và sự cảm nhận sẽ được coi
là giáo dục.
Đối với mỗi người, giáo dục sẽ được hình thành thông qua nhiều giai đoạn khác
nhau: từ giáo dục cấp mầm non, giáo dục tiểu học cho tới giáo dục trung học và đại
học.
Đào tạo là việc dạy các kỹ năng thực hành, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp
trong một lĩnh vực cụ thể. Mục đích chính của đào tạo là giúp người học lĩnh hội
các kiến thức, tri thức, nghề nghiệp có hệ thống. Với những gì học được, người học
sẽ có thể thích nghi với cuộc sống hiện tại và làm một số công việc. Khác với giáo
dục, đào tạo thường dùng trong trường hợp khi người học đạt đến một độ tuổi nhất
định và hiểu biết một số kiến thức và kỹ năng cụ thể. (Mục tiêu, vai trò và lợi ích
của giáo dục, 2022)

1.2.2. Vai trò của giáo dục


Thứ nhất, giáo dục và đào tạo giúp cho người học phát triển và hoàn thiện nhân
cách đạo đức nghề nghiệp, nâng cao thể chất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Nhân cách con người được hình thành, phát triển thông qua các mối quan hệ tác
động giữa con người với thiên nhiên, với xã hội, với con người, đồng thời thông qua
các mối quan hệ lao động, văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo…., trong đó giáo dục
và đào tạo giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục và đào tạo xác định nội dung, chương trình
nhằm đào tạo nên những con người theo các giá trị, chuẩn mực nhân cách nhất định
và mỗi một thời kỳ lịch sử có những giá trị cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ ấy.
( Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, 2023)
Thứ hai, giáo dục và đào tạo giúp cho người học có tri thức, trình độ chuyên
môn, trình độ tư duy đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. ( Giáo dục và đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, 2023)
Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta
khẳng định: Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận ưu tú nhất của nguồn nhân
5

lực đất nước, bao gồm những người tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối
sống; có trình độ học vấn, chuyên môn cao; có sức khỏe tốt (theo độ tuổi); luôn đi
đầu trong lao động, sáng tạo khoa học, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vậy sự khác nhau căn bản, thể hiện khả năng “đầu
tàu”, “mũi nhọn” và vai trò nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao so với toàn
bộ nguồn nhân lực đất nước là ở năng lực tư duy lý luận. Nhiệm vụ hàng đầu của
giáo dục và đào tạo là trang bị tri thức và trình độ chuyên môn, trình độ tư duy cho
nguồn nhân lực theo mục tiêu, yêu cầu xác định. Trên cơ sở đó, năng lực tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn của người lao động cũng ngày càng phát triển. (Đại hội
đảng toàn quốc lần thứ XII, 2016).
Thứ ba, giáo dục và đào tạo giúp cho người học có được phương pháp làm việc
khoa học và khả năng thích ứng nhanh với biến đổi của môi trường làm việc.
Giáo dục và đào tạo trực tiếp bồi dưỡng cho người học phương pháp làm việc
khoa học và khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường làm việc.
Thông qua giáo dục và đào tạo, phương pháp làm việc khoa học của người học
được hình thành và từng bước nâng cao. ( Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, 2023).

1.3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giáo dục hiện nay:

Đầu tiên, kế thừa các văn kiện quan trọng của Đảng trong các giai đoạn trước
đây, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã đưa ra những quan điểm, định
hướng lớn về phát triển giáo dục chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo
nhu cầu phát triển của xã hội” (Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 2011). Các
quan điểm trên không chỉ thể hiện sự phát triển về nhận thức, tư duy, mà còn kế
thừa chủ trương nhất quán của Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, vừa là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát
xu thế phát triển của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu
phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục yêu cầu phải
“Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực
then chốt để phát triển đất nước” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
2021). Trước đây chỉ đề cập phương hướng chung: “giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Văn kiện lần này yêu cầu xác định rõ mục tiêu của giáo dục trong giai đoạn
tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khoẻ, năng lực,
trình độ, có ý thức cũng như trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và
Tổ quốc và “Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi,
nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát
triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, 2021)Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể
6

chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

Thứ ba, nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học
đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công
nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức
cuộc sống, chăm sóc con người. Trước đây chỉ đề cập: “chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”, điểm mới
lần này nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong
quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú
ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở,
linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ
cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức. Hình
thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.

Thứ tư, cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại
hệ thống trường học, phát triển hài hoà giữa giáo dục công lập và ngoài công lập,
giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số,
biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo.
Đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học trong điều kiện mới, tạo tiền đề và
bảo đảm điều kiện thuận lợi, để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công
bằng thành quả của nền giáo dục. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt
đời. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.

Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung
của thế giới. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
“Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành
những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới” (Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021). Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại
lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
7

Thứ năm, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, như:
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú
trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng
tiếng Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở
trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở
các cấp học.

Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet, truyền hình,
các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. ”Đào tạo con người theo hướng có
đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống,
kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và
hội nhập quốc tế” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021)

Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “Lấy chất lượng và hiệu
quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới miễn học
phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học
cơ sở” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021) Đồng thời, hoàn
thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập phù hợp với xu
thế của thế giới và điều kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội và
các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh hơn yêu cầu thực
hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện
cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện; thí
điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả
học sinh được đến trường.

Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn
trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với
trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường giáo
8

dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm
các tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương
thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học
phổ thông và tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Xây
dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục
và đào tạo.

Thứ tám, đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc
tế, vì vậy yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo
dục và đào tạo. ‘Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai,
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm
nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, 2021). Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao
động. Cùng với đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ
chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
là khâu then chốt, sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm,
thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng
cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Phấn
đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
1.4 Đặc điểm của ngành giáo dục hiện nay
1.4.1 Tổng quan GĐH Việt Nam

Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa
học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.
Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện có đạo đức, tri thức, văn
hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp

Hệ thống GDĐH Việt Nam mang tính phát triển theo hướng đa ngành, đa nghề,
đa địa phương, xã hội hóa. Cả nước có 237 trường đại học, đạt mức bình quân
trường đại học trên đầu người xấp xỉ 1:410.000 (với dân số 97 triệu hiện nay), được
phân làm 2 nhóm chính: công lập 172 trường và tư thục 65 trường; đại học
công lập giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống GDĐH Việt Nam với tỉ lệ hơn
72% tổng số các cơ sở GDĐH (Số liệu thống kê giáo dục năm học 2018-2019,
2020).

Đối với đại học công lập có hai cơ chế hoạt động chính, đó là nhà nước
kiểm soát và tự chủ. Với cơ chế tự chủ các trường đại học sẽ được quyền quyết định
về vấn đề nhân sự, chương trình đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học và chi thu
tài chính. Theo quy hoạch, tổ chức các cơ sở giáo dục đại học gồm các hệ thống
trường đại học tập hợp nhiều trường đại học thành viên cùng với các trường đại học
chuyên ngành, đa ngành và học viện.
9

Đối với đại học tư thục, từ năm 1988 Việt Nam đã có chủ trương xã hội hóa
giáo dục, cấp phép cho đại học tư thục được hoạt động. Đại học tư thục là một
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giáo dục được kiểm soát và quản lí bởi một cá
nhân hoặc một tổ chức trong nước hoặc ngoài nước. Tuy nhiên, kể từ ngày
17/04/2009 Bộ GD và ĐT đã ngừng cấp phép đào tạo nhóm ngành giáo dục, luật,
chính trị, báo chí, công an, quân đội cho các trường đại học tư thục (theo quyết định
số 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).

TPHCM thuộc Bộ Công thương, ĐH Tài chính – Marketing thuộc Bộ


Tài chính, ĐH Tôn Đức Thắng thuộc Tổng Liên đoàn Lao động VN, ĐH Y Dược
TPHCM thuộc Bộ Y tế, ĐH Quốc gia TPHCM và ĐH Quốc gia Hà Nội thuộc
Chính phủ.... Thời gian đào tạo GDĐH gồm bậc đại học và sau đại học từ 9 đến 10
năm, theo lộ trình đại học 4 năm, thạc sĩ 2 năm, tiến sĩ 3-4 năm. Phương pháp đào
tạo theo hệ thống tín chỉ trong GDĐH được áp dụng từ năm học 1993-1994, thay
thế cho học chế học phần trước đây.
1.4.2 Hệ thống cấp bậc giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo
dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo, tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và
phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục,
bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý,
năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp
với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho
việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.

Giáo dục phổ thông


Giáo dục phổ thông kéo dài 12 năm và được chia thành 3 cấp: cấp I (tiểu học),
cấp II (trung học cơ sở), và cấp III (trung học phổ thông).
Tiểu học (TH)
Cấp tiểu học bắt đầu năm 6 tuổi đến hết năm 10 tuổi. Cấp I là một cấp học phổ
cập, gồm có 5 trình độ, từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là cấp học bắt buộc đối với mọi
công dân. Học sinh phải học các môn sau: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã
hội (lớp 1, 2, và 3), Khoa học (lớp 4 và 5), Lịch sử (lớp 4 và 5), Địa lý (lớp 4 và
5), Âm nhạc, Mỹ thuật, Đạo đức, Thể dục, Tin học và Công nghệ (lớp 3, 4, 5 bắt
đầu từ năm học 2022-2023), Ngoại ngữ (bắt buộc với lớp 3, 4, 5 và tự chọn với lớp
1, lớp 2 từ năm 2020), Hoạt động Trải nghiệm (kể từ năm 2020). Để kết thúc bậc
tiểu học, học sinh được xét công nhận hoàn thành chương trình Tiểu học bằng các
thành tích được tích luỹ trong 5 năm.
Trung học cơ sở (THCS)
10

Cấp THCS gồm có 4 trình độ, từ lớp 6 đến lớp 9, bắt đầu từ năm 11 đến năm 14
tuổi, bao gồm hệ Trung học cơ sở tại các trường Trung học cơ sở và hệ Trung học
cơ sở tại các Trung tâm giáo dục thường xuyên. Đây cũng là một cấp học phổ cập,
một cấp học bắt buộc để công dân có thể có một nghề nghiệp nhất định (tốt nghiệp
cấp II có thể học nghề hay trung cấp chuyên nghiệp mà không cần học tiếp
bậc Trung học phổ thông).
Học sinh đến trường phải học các môn sau: Toán, Khoa học tự nhiên (từ năm
học 2021), Công nghệ, Ngữ văn, Lịch sử và Địa lý, Giáo dục công dân, Ngoại
ngữ, Thể dục, Âm nhạc và Mỹ thuật, Tin học (tự chọn), Hoạt động Trải nghiệm (kể
từ năm 2021).
Ngoài ra học sinh có thêm một số tiết bắt buộc như: giáo dục ngoài giờ lên lớp,
giáo dục hướng nghiệp (lớp 9)...
Để hoàn thành bậc học này, học sinh phải đăng ký dự xét tốt nghiệp Trung học
cơ sở.
Trung học phổ thông (THPT)

Trung học phổ thông gồm 3 trình độ, từ lớp 10 đến lớp 12, bắt đầu từ năm 15
tuổi đến hết năm 17 tuổi, bao gồm hệ Trung học phổ thông tại các trường Trung học
phổ thông và hệ Trung học phổ thông tại các Trung tâm Giáo dục thường xuyên. Để
tốt nghiệp cấp THPT, học sinh phải tham gia Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tổ chức.
Học sinh muốn được theo học tại các trường trung học phổ thông công lập phải
đăng ký tham dự một kỳ thi tuyển sinh hoặc xét tuyển sinh sau khi học hết
cấp Trung học cơ sở. Kỳ thi này được tổ chức hàng năm, do Sở Giáo dục và Đào
tạo của các địa phương chủ trì. Ở cấp học này, học sinh cũng phải học các môn
tương tự như ở cấp THCS, nhưng có thêm môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh và
bỏ bớt hai môn năng khiếu là Âm nhạc và Mỹ thuật (nhưng mãi đến năm 2022 thì
mới được thêm lại Âm nhạc và Mĩ thuật và thêm môn Hoạt động Trải nghiệm). Tuy
nhiên, học sinh trung học phổ thông vẫn được tham gia một số hoạt động khác như
hướng nghiệp, dạy nghề...

Giáo dục chuyên biệt


Trung học phổ thông chuyên, năng khiếu
Từ năm 1966, hệ thống trung học phổ thông chuyên được lập ra, bắt đầu với
những lớp chuyên Toán tại các trường đại học lớn về khoa học cơ bản, sau đó các
trường chuyên được thiết lập rộng rãi tại tất cả các tỉnh thành. Mục đích ban đầu của
hệ thống trường chuyên, như những nhà quản lý giáo dục mong đợi, là nơi chú
trọng phát triển năng khiếu của học sinh để bồi dưỡng thành nhân tài[8]. Để được
vào học tại các trường chuyên, học sinh tốt nghiệp cấp THCS phải thỏa mãn các
điều kiện về học lực, hạnh kiểm ở cấp THCS và đặc biệt là phải vượt qua các kỳ thi
tuyển chọn đầu vào của các trường này. Tuy nhiên đến nay mục tiêu của các trường
chuyên chỉ dừng lại chủ yếu ở vấn đề thi đỗ đại học.
Hệ thống trường THPT chuyên ở Việt Nam bao gồm 2 hệ: các trường chuyên
trực thuộc các trường đại học (trước đây là các trường chuyên cấp quốc gia) và
các trường chuyên của tỉnh. Hai hệ thống có một số khác biệt:
11

 Phạm vi tuyển sinh:


o Các trường chuyên thuộc các trường đại học: tuyển sinh trong cả nước.
o Các trường chuyên của tỉnh/thành phố: chỉ tuyển sinh trong nội hạt tỉnh/ thành
phố đó (trừ một số trường hợp cá biệt)
 Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia:
o Các trường chuyên trực thuộc các trường đại học: trực tiếp tham gia Kỳ thi
Học sinh giỏi Quốc gia như một tỉnh/thành phố
o Các trường chuyên tỉnh/thành phố: phải tham gia Kỳ thi HSG cấp tỉnh/thành
phố, thường là với các trường chuyên khác và trường THPT hệ thông thường
trong tỉnh/thành phố.
Trong thời kỳ đầu của hệ thống trường chuyên, khi chỉ mới hình thành một vài
lớp phổ thông chuyên tại các trường đại học, mục tiêu này đã được theo sát và đạt
được thành tựu khi mà phần lớn các học sinh chuyên Toán khi đó tiếp tục theo đuổi
các lĩnh vực Toán học, Vật lý, Tin học (máy tính)... Đây là giai đoạn mà hệ thống
trường chuyên làm đúng nhất trách nhiệm của nó. Những học sinh chuyên trong
thời kỳ này hiện đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt tại chốt tại các trường đại
học lớn, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng như là những cá nhân tiêu biểu
nhất của nền khoa học nước nhà
Tuy nhiên, cùng với sự mở rộng của hệ thống trường chuyên mục tiêu ban đầu
của hệ thống này ngày càng phai nhạt. Thành tích của các trường chuyên trong Kỳ
thi học sinh giỏi các cấp, Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia vẫn thường rất cao.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng nguyên nhân chính của những thành tích này
không phải là chất lượng giáo dục mà là phương pháp luyện thi. Tỉ lệ học sinh các
trường chuyên tiếp tục theo đuổi khoa học hay các lĩnh vực liên quan ngày càng
thấp khiến cho giới khoa học Việt Nam không khỏi quan ngại.
Trung tâm Giáo dục thường xuyên
Đây là nơi phổ cập giáo dục dành cho những người có nhu cầu học Chương
trình GDTX cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, hệ Cao đẳng, hệ Đại học,
những người có mong muốn học tiếp khi đã bỏ lỡ việc học, những người đã quá tuổi
có cơ hội đi học lần thứ hai hoặc các đối tượng muốn học bổ sung để hoàn thiện kỹ
năng, kiến thức về nghề nghiệp.
Trường Phổ thông dân tộc nội trú
Đây là các trường nội trú đặc biệt, có thể là THCS hoặc có thể là THPT. Các
trường này dành cho con em các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn về kinh tế – xã hội nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo nguồn cán bộ cho
các địa phương này. Học sinh được ở tại trường và được cấp kinh phí ăn, ở.
Trường giáo dưỡng
Đây là loại hình trường đặc biệt dành cho các thanh thiếu niên phạm tội. Trong
trường, các học sinh này được học văn hóa, được dạy nghề, giáo dục đạo đức để có
thể ra trường, về địa phương sau một vài năm. Các năm trước, các trường loại này
do Bộ Công an Việt Nam quản lý, nhưng bây giờ do Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội quản lý.

Giáo dục tư thục


Theo PGS, TS Bùi Xuân Hải, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh :
12

Hiện nay ở nước ta, các cơ sở giáo dục tư thục đang có vị trí, vai trò rất khiêm
tốn trong hệ thống giáo dục quốc dân. Một trong số các nguyên nhân của thực trạng
này là do những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về trường tư
thục.
Số lượng học sinh, sinh viên các trường tư thục chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với các
trường công lập. Năm 2018, tỷ trọng sinh viên các trường đại học tư thục ở Việt
Nam chỉ chiếm 16% so với 84% của các CSGD đại học công lập (không tính sinh
viên các trường quân đội và công an), một tỷ trọng khá thấp so với mức trung bình
của Đông Nam Á là 41,8%, châu Á là 42,1% và thế giới là 32,9%. Ở một số nước
như Indonesia hay Hàn Quốc, CSGD tư thục đang chiếm tỷ trọng cao hơn công lập
trong đào tạo trình độ đại học và cao đẳng
Điều 47 Luật Giáo dục và Điều 7 Luật GDĐH quy định CSGD tư thục có thể
được thành lập bởi nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài. Chữ “hoặc”
trong hai điều luật này dẫn đến hệ quả là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài không thể cùng nhau đầu tư thành lập CSGD tư thục .
Trường quốc tế
Theo một số ngành chức năng, “theo quy định hiện hành, không có tên gọi
là trường quốc tế” . Tại TP. Hồ Chí Minh, chưa có con số thống kê cụ thể về các
trường tự phong “quốc tế”, cũng chưa có khảo sát chất lượng các trường này, nhưng
nhiều người từng làm giáo dục khẳng định là có tình trạng danh xưng “trường quốc
tế” được áp dụng tràn lan.

Giáo dục đại học


Hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam bị phân tán cho nhiều bộ ngành quản
lý. Mỗi bộ trong chính phủ đều có một số học viện, trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và trường nghề. Bộ giáo dục không trực tiếp quản lý toàn bộ hệ
thống đại học mà chỉ đưa ra những quy định hướng dẫn hoạt động của các trường
đại học. Vấn đề nhân sự và tài chính của các cơ sở giáo dục thuộc các bộ sẽ do bộ
chủ quản quyết định. Còn tại các trường tư, vấn đề nhân sự và tài chính sẽ do những
cổ đông sở hữu trường quyết định. Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam tụt hậu so
với các nước trong khu vực
Dự bị đại học
Cần tốt nghiệp cấp trung học phổ thông hay tương đương để có thể trở thành dự
bị đại học.
Các học sinh dân tộc ít người nếu không trúng tuyển vào đại học có thể theo
học tại các trường dự bị đại học. Sau một năm học tập, các học sinh này có thể chọn
một trong các trường đại học trong cả nước để theo học (trừ Trường Đại học Ngoại
thương và các trường thuộc ngành quân sự).
Trung cấp, dạy nghề
Cần tốt nghiệp cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông hay tương đương để có
thể học nghề, trung cấp.
Cao đẳng
13

Cần tốt nghiệp cấp trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, học nghề
hoặc tương đương để có thể học hay liên thông lên cấp cao đẳng.
Sinh viên phải tham gia kỳ thi tuyển sinh trực tiếp vào cao đẳng hoặc điểm thi
vào đại học thấp hơn điểm quy định nhưng lại đủ để vào cao đẳng thì đăng ký vào
học cao đẳng. Chương trình cao đẳng thông thường kéo dài 3 năm. Tuy nhiên, một
số trường cao đẳng có thể kéo dài đến 3,5 năm hoặc 4 năm để phù hợp với chương
trình học.
Đại học
Cần tốt nghiệp Trung học phổ thông, Trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, cao
đẳng hay tương đương để có thể học hay liên thông lên Đại học Theo kết quả giám
sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện chính sách pháp luật về thành lập
trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học, tính đến
nay, cả nước đã có 409 trường đại học, cao đẳng, trong đó có 307 trường được
thành lập mới hoặc nâng cấp trong 10 năm qua. Với số trường mới này, 35 tỉnh,
thành đã có thêm trường đại học, cao đẳng mới; số tỉnh, thành có trường đại học là
40, có trường cao đẳng là 60, có ít nhất một trường đại học hoặc cao đẳng là 62.
Trong số 307 trường đại học, cao đẳng mới, có 245 trường được nâng cấp từ bậc
học thấp hơn; 8 trường được nâng cấp từ khoa trực thuộc đại học quốc gia, đại học
vùng, chỉ có 32 trường xây dựng hoàn toàn mới. Kết quả giám sát cho thấy, các
trường đại học được thành lập trên cơ sở nâng cấp một khoa trực thuộc đại học quốc
gia, đại học vùng hoặc chia tách từ một trường đại học, có ưu thế hơn trong việc
chuẩn bị các điều kiện bảo đảm chất lượng, đặc biệt về đội ngũ giáo viên, năng lực
tổ chức, quản lý thực hiện nhiệm vụ đào tạo. Còn các đơn vị được nâng cấp từ bậc
học thấp hơn, cao đẳng lên đại học và trung cấp lên cao đẳng lại gặp khó khăn rất
lớn trong việc nâng cấp cơ sở vật chất, đội ngũ để đáp ứng yêu cầu đào tạo ở bậc
học cao hơn. Học sinh tốt nghiệp cấp III muốn vào các trường đại học phải tham gia
kỳ thi tuyển sinh đại học. Chương trình bậc đại học của Việt Nam kéo dài từ 4 đến 6
năm; 2 năm đầu là chương trình đại học đại cương, 2 (hay 4) năm sau là chương
trình chuyên ngành. Dù là ngành gì, sinh viên phải học một số tiết về quốc phòng an
ninh. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp bằng đại học với các tên gọi như: cử
nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ, nhạc sĩ,...
Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng 1.700.000 người, số lượng
tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng 500.000 người/kỳ thi. Tuy
nhiên đánh giá chung chất lượng đào tạo giáo dục bậc đại học ở Việt Nam còn thấp,
chưa tạo được sự đồng hướng giữa người học, người dạy, nhà đầu tư cho giáo dục,
người sử dụng lao động và xã hội. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học còn nhiều
trì trệ là nguyên nhân cơ bản của việc chất lượng giáo dục đại học Việt Nam ngày
càng tụt hậu trước đòi hỏi của phát triển đất nước[16]. Thiếu triết lý đúng đắn khiến
giáo dục đại học vẫn đang loay hoay tìm hướng đi. Mọi chỉ số của nền giáo dục đại
học Việt Nam đều kém khá xa so với Thái Lan chứ chưa nói
đến Anh, Mỹ, Nhật, Australia, Singapore.
Từ năm 2000-2007, nhiều học sinh Việt Nam đã đi du học ở các nước phát triển
như: Mỹ, Anh, Úc, Pháp, Đức, Nhật... Riêng năm 2007 đã có 39.700 học sinh đi du
học [18]
Tuyển sinh
14

Tất cả công dân tốt nghiệp trung học (trung học phổ thông hoặc trung học
chuyên nghiệp) đều được tham dự kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hằng năm,
không phân biệt lứa tuổi, thành phần, tôn giáo, dân tộc và quốc tịch. Điểm thi sẽ
được công bố công khai, rộng rãi trên các trang mạng của các trường đại học. Các
thí sinh nếu thấy điểm của mình có sai sót so với dự tính được quyền phúc tra xem
xét lại bài. Các thí sinh nếu đạt từ điểm chuẩn của trường đi ra trở lên được mời làm
các thủ tục nhập học.
Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng, có ưu tiên bằng cách cộng vào tổng điểm thi
một số điểm nhất định đối với các đối tượng sau: con Anh hùng lao động, Anh hùng
Lực lượng Vũ trang nhân dân; của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; con thương binh;
học sinh là người dân tộc thiểu số; học sinh tốt nghiệp trung học tại các cùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi khó khăn về kinh tế - xã hội; học sinh nông thôn.
Dưới đây là các đối tượng được tuyển thẳng:

 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động đã tốt nghiệp trung
học.
 Học sinh là thành viên đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic
quốc tế hàng năm.
 Học sinh đạt giải Nhất trong các cuộc thi học sinh giỏi các môn hằng năm.

Chỉ riêng đối với các trường công an, quân đội thì muốn được dự thi phải đạt
các tiêu chuẩn về lý lịch chính trị, sức khoẻ, mức độ nhạy cảm, phản xạ, năng lực và
phẩm chất đạo đức. Ngoài ra, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng yêu cầu thí
sinh muốn dự thi phải là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Điểm
chuẩn vào các trường công an và quân đội khá cao. Tuy tuyển chọn khắt khe nhưng
vẫn xảy ra gian lận thi cử để vào các trường này.

Giáo dục sau đại học


Cao học
Các cá nhân sau khi tốt nghiệp đại học, có nhu cầu học cao học, vượt qua được
kỳ thi tuyển sinh cao học hằng năm sẽ được tham dự các khoá đào tạo cao học. Thời
gian đào tạo thường là 3 năm, có thể dài hơn hoặc ngắn hơn phụ thuộc vào quy định
của chuyên ngành và của cơ sở đào tạo. Các cá nhân đi học cao học có thể theo hai
diện: tự đi học thì phải trang trải toàn bộ chi phí học tập; cơ quan cử đi học thì sẽ
được cơ quan chi trả chi phí học tập, tuy nhiên, các đối tượng này khi đi học phải có
sự đồng ý của cơ quan cử đi học. Sau khi tốt nghiệp, các học viên cao học được cấp
bằng thạc sĩ.
Nghiên cứu sinh
Đây là bậc đào tạo cao nhất ở Việt Nam hiện nay. Tất cả các cá nhân tốt nghiệp
từ đại học trở lên đều có quyền làm nghiên cứu sinh với điều kiện phải vượt qua kỳ
thi tuyển nghiên cứu sinh hàng năm. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo có sự định
thay đổi trong cách tuyển chọn nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu sinh. Thời
gian làm nghiên cứu sinh thường là 4 năm với người có bằng cử nhân hay kỹ sư và
3 năm với người có bằng thạc sĩ. Tuy nhiên, thời gian làm nghiên cứu sinh còn phụ
thuộc vào ngành học và loại hình học (học tập trung hay không tập trung). Sau khi
hoàn thành thời gian và bảo vệ thành công luận án, các nghiên cứu sinh sẽ được cấp
bằng tiến sĩ.
15

CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN NGÀNH
GIÁO DỤC VIỆT NAM
2.1. Thực trạng ngành giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 ở
Việt Nam
2.1.1. Chuyển đổi số trong giáo dục
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang “làm rung chuyển” hệ
thống giáo dục ở nhiều quốc gia. Hiện nay, khái niệm giáo dục 4.0 đang nổi lên và
gắn liền với nó là giáo dục 1.0, giáo dục 2.0 và giáo dục 3.0. Mỗi khái niệm phản
ánh đặc điểm giáo dục của xã hội công nghiệp tương ứng. Sự nghiệp giáo dục luôn
có trách nhiệm cung cấp những kỹ năng cần thiết cho sự phát triển của xã hội ở mọi
giai đoạn. Ví dụ, giáo dục ở thời kỳ phát triển điển hình là động cơ hơi nước thì
không thể đào tạo được kỹ sư điện. Mỗi giai đoạn phát triển giáo dục được đánh dấu
bằng những thay đổi diễn ra không chỉ về phương pháp, chương trình, đội ngũ giảng
dạy mà còn về tư duy, phương pháp quản lý.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 12 nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng
bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng chú trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng
tinh gọn, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ, ngành nghề. Đa dạng
hóa nội dung, tài liệu học tập đáp ứng yêu cầu các cấp học, chương trình giáo dục
đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ 12 cho thấy quan điểm của Đảng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo từng bước
đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng này. Thời đại công nghiệp 4.0 đòi hỏi giáo
dục 4.0. Tuy nhiên, chuyển đổi giáo dục để thích ứng với thời đại công nghiệp 4.0
không phải là điều dễ dàng. (Bộ TT&TT, 2016).
Trên thực tế, một trong những trăn trở của nhiều người làm giáo dục là dù thiếu
hơn 94.700 vị trí nhưng ngành này vẫn dư thừa hơn 10.300 giáo viên. Nguyên nhân
được đưa ra là tỷ lệ giáo viên có trình độ đào tạo (theo Luật Giáo dục 2019) chưa
đủ. Mầm non là 77.8%, tiểu học là 69.4%, trung học cơ sở là 83.3%, trung học phổ
thông là 99.9%. Chất lượng giáo viên chưa thực sự được đảm bảo, tốc độ tăng dân
số quá nhanh và các môn học mới được bổ sung dẫn đến tình trạng dư thừa và thiếu
giáo viên trầm trọng ở một số vùng. Vì vậy, mỗi giáo viên phải không ngừng nâng
cao năng lực, kỹ năng chuyên môn của mình. (Makeblock, 2020)
2.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Con người sẽ thực hiện những nhiệm vụ mà hệ thống thông minh và robot
không thể giải quyết được. Khi đó, tính sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề sẽ là
yếu tố chính đánh giá năng lực làm việc của con người. Đây cũng là yếu tố duy nhất
khiến con người vượt trội hơn robot và trí tuệ nhân tạo.
Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, môi trường và phương
pháp đào tạo phải thay đổi cho phù hợp, giáo viên phải sử dụng thành thạo các
phương tiện công nghệ, chuyển từ các hình thức dạy học truyền thống sang các hình
thức dạy học ứng dụng công nghệ số. Giáo viên cũng phải tiếp cận và hiểu rõ các
hình thức học trực tuyến như: Học qua các thiết bị điện tử (E-Learning); Học qua
các thiết bị di động (Mobile Learning); Mô hình học kết hợp giữa học trên lớp và
học trực tuyến (Blended-learning); Học theo ngữ cảnh, thông qua các thiết bị định
vị (Context aware u-learning); Học trong các môi trường mang tính tương tác cao
(Collaborative environments). Một số giáo viên có thâm niên còn cần hiểu biết sơ
16

bộ về công nghệ điện toán đám mây (Cloud computing) để có thể tạo kho dữ liệu
trực tuyến khi được đơn vị đào tạo phân công. Đồng thời, việc sửa đổi giáo án, cập
nhật kiến thức mới là yêu cầu đối với giáo viên. Áp dụng các phương pháp tích cực
khuyến khích học sinh tính chủ động, tự học, tự tìm tài liệu sẽ phá vỡ tính ì, lệ thuộc
một chiều, tăng tính tương tác giữa học sinh và giáo viên. (Tuấn, 2019)
Cuối cùng, trình độ ngoại ngữ là điều cần thiết để giáo viên có thể hòa nhập với
xu hướng kết nối toàn cầu và giáo dục trên thế giới. Đó cũng là cách để giáo viên
nâng cao kiến thức, mở rộng hiểu biết và cập nhật các phương pháp giảng dạy mới
giúp bài học sinh động hơn, học sinh hứng thú học tập hơn.
2.1.3. Hạn chế về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất là tất cả các cơ sở vật chất được sử dụng vào mục đích dạy, học
và các hoạt động khác liên quan đến tiếp nhận, đào tạo trong nhà trường nhằm hỗ
trợ giáo viên nâng cao chất lượng dạy và học của học sinh, sinh viên. Nâng cao khả
năng tiếp thu, hiểu và trải nghiệm kiến thức, đồng thời rèn luyện, hoàn thiện các kỹ
năng cần thiết trong quá trình học tập tại trường.
Nếu xét tất cả các lĩnh vực, có thể nói cơ sở vật chất của ngành giáo dục vẫn
còn trong tình trạng nghèo nàn, dột nát. Trang thiết bị và phòng thí nghiệm phục vụ
cho việc dạy và học còn thiếu thốn và việc ăn chay còn phổ biến. Số lượng máy tính
có hạn, ở những vùng khó khăn nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa. Điều
kiện dạy và học ở các trường còn kém, rất ít trường đạt chuẩn trường học. Cơ sở vật
chất đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo luôn là vấn đề cấp thiết và cần có
chương trình đầu tư có mục tiêu để đáp ứng. Chương trình giáo dục còn nặng nề,
chưa bám sát yêu cầu của cuộc sống năng động trong kỷ nguyên CMCN 4.0. Nhiều
khía cạnh của các chương trình đại học và đào tạo chuyên nghiệp đã lỗi thời. Cơ sở
vật chất giảng dạy, thực nghiệm, thực hành, nghiên cứu còn thiếu và lạc hậu.
Chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, hiện đại
hóa; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống xã hội, công tác chuyên môn và chưa
chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của sinh viên; thi cử còn cồng
kềnh, tốn kém, một số tỉnh, thành phố vẫn để xảy ra vi phạm trong kỳ thi cấp quốc
gia, điển hình là gian lận vi phạm trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2018 tại Hà
Giang, Hòa Bình, Sơn La. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở nhiều nơi chưa ổn định.
(Long, T.C, 2020)
Với những hạn chế hiện nay về cơ sở hạ tầng và trình độ giáo viên, Việt Nam
cần tích cực tăng cường nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Cần tập trung rà
soát, nghiên cứu các quy định về cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên
giáo dục và đào tạo - với vị thế chính sách, vai trò đầu tàu quốc gia; tăng cường xã
hội hóa giáo dục, nâng cao hiệu quả, đa dạng hóa nguồn tài chính cho phát triển
giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, tăng cường thu hút các nguồn tài trợ từ các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào giáo dục, phát huy quyền tự chủ của
giáo dục đại học theo chủ trương của Đảng và nhà nước; xây dựng hệ thống giáo
dục phổ thông trực tuyến, tận dụng nội dung phong phú của các khóa học MOOC
và các chương trình giáo dục truy cập mở (Open Access) có sẵn để cung cấp đào tạo
miễn phí cho mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi lúc, mọi nơi. Cùng với hệ thống trực
tuyến, các trường trung học nên áp dụng phương pháp đào tạo kết hợp và lớp học
đảo ngược để nâng cao kỹ năng tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và sáng tạo của
học sinh. (Long, T.C, 2020)
17

2.2. Thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức của ngành giáo dục Việt Nam
hiện nay.
2.2.1. Thuận lợi.
Giáo dục được Đảng và Nhà nước ta xem như là quốc sách và ưu tiên hàng đầu
trong việc đầu tư cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm ngân sách nhà nước
(NSNN) chi cho ngành giáo dục tối thiểu là 20% tổng NSNN, tương đương khoảng
5% của GDP (Nga, 2017). Những năm qua, tình hình đất nước khó khăn do dịch
bệnh, NSNN eo hẹp nhưng Nhà nước vẫn hỗ trợ nhiều chính sách cho ngành giáo
dục. Vì thế, trong hơn 70 năm qua đặc biệt là sau hơn 30 năm đổi mới, nền giáo dục
Việt Nam đã có những bước phát triển đáng trân trọng, có những đóng góp quan
trọng vào sự phát triển của đất nước từ những thuận lợi sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới quy mô giáo dục ở Việt Nam đã phát triển đáng
kể. Quy mô tăng nhanh giúp cho số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp và lao động
đào tạo nghề tăng lên khá nhanh nhằm bổ sung lực lượng lao động có trình độ, chất
lượng cao trong việc phát triển kinh tế thị trường trong nước và nước ngoài. Việt
Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi mức độ I vào năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ
sở vào năm 2010. Năm 2017, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi (Nhìn lại hành trình 30 năm công cuộc đổi mới giáo , 2016). Trẻ
mầm non 5 tuổi ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn học phí từ
năm 2018 (Nhìn lại hành trình 30 năm công cuộc đổi mới giáo , 2016).

Thứ hai, chất lượng giáo dục được nâng cao và có những bước phát triển mới.
Đội ngũ giảng viên, giáo viên được tăng cường, trang bị các kỹ năng giảng dạy mới
và cải thiện chất lượng đào tạo phù hợp trong tình hình hiện nay. Trình độ thạc sĩ,
tiến sĩ được đào tạo rộng rãi ở trong và ngoài nước nhờ đó Việt Nam có những dấu
ấn trên các sân chơi trí tuệ thế giới như các kỳ thi Olympic các môn ở quốc tế như
chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA)… Năm 2012, Việt Nam lần đầu
tiên tham gia cuộc thi PISA và xếp thứ 17 về Toán, thứ 8 về Khoa học, thứ 19 về
Đọc. Chúng ta xếp cao hơn cả Mỹ, khi Mỹ chỉ xếp 36 về Toán, 28 về Khoa học và
23 về Đọc. Trong bảng xếp hạng dựa trên Toán và Khoa học do OECD công bố hồi
tháng 5/2015, Việt Nam giành vị trí thứ 12, cao hơn nhiều so với vị trí 28 của Mỹ
(Hạnh, 2013). Việt Nam cũng đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh giỏi tham gia các kỳ
18

thi học sinh giỏi quốc tế, mang về nhiều huy chương cho đất nước. Hệ thống trường
chuyên từ chỗ chỉ có 6 trường thì đến nay đã có ở tất cả 63 tỉnh, thành.

Thứ ba, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là
đầu tư vào các trẻ em ở vùng đồng bằng vùng cao hay trẻ em dân tộc thiếu số. Giúp
các em có cơ hội tiếp cận với kiến thức, Nhà nước ta đã triển khai nhiều dự án như
xây trường học, giảm học phí, xóa đói giảm nghèo ở các vùng khó khăn, đảm bảo
chất lượng đào tạo của các trẻ em ấy được phát triển một cách toàn diện. Đồng thời,
có những chính sách triển khai các dịch vụ giáo dục mới cho các trẻ, giúp các em có
thể tiếp cận được những công nghệ mới nhằm giáo dục thay đổi nhận thức tránh
khỏi các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, nước ta còn có những chính sách đãi ngộ đối
với giáo viên đang hoạt động ở các khu vực này.

Thứ tư, chú trọng các công tác kiểm định giáo dục chất lượng ở bậc đại học.
Tính đến ngày 15/4/2018, đã có 248 cơ sở giáo dục đại học và trường cao đẳng,
trung cấp sư phạm hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Đặc biệt, trong đó có bốn trường
đại học đã được hội đồng cấp cao đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học của Pháp
(HCERES) công nhận đạt chuẩn kiểm định trường đại học. Hai trường được đánh
giá theo tiêu chuẩn của mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á. Ngoài
ra, năm trường có tên trong danh sách những trường tốp đầu của châu Á, ba trường
được gắn 3 sao bởi QS-Stars (Nhạ, Phùng Xuân, 2018).

Thứ năm, tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng cho ngành giáo dục. Các doanh
nghiệp trong nước, đầu tư nước ngoài đang không ngừng đẩy mạnh nguồn vốn vào
các trung tâm, trường học quốc tế để phấn đấu đạt chuẩn quốc gia. Hiện nay, nước
ta có gần 500 trường mầm non, khoảng 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung
học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia (Nhìn lại hành trình 30
năm công cuộc đổi mới giáo , 2016). Cơ sở vật chất tốt đồng nghĩa mới chất lượng
đào tạo được nâng cao, các dịch vụ học tập mới sẽ giúp các em học sinh, sinh viên
học tập hiệu quả nhất.

Thứ sáu, có nhiều chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng xã hội học tập.
Mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên tiếp tục được củng cố, phát triển vì thế các
nghiên cứu quốc tế cũng đánh giá cao thành tựu của giáo dục Việt Nam. Việt Nam
19

và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục và theo Ngân
hàng Thế giới nêu rõ rằng sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục
của Việt Nam và Trung Quốc (ÁNH & LAN THƯƠNG, 2018). Nghiên cứu của tác
giả Hai-Anh H. Dang và Paul W. Glewwe về giáo dục Việt Nam trong 20 năm qua
cho thấy rằng mặc dù vẫn đang còn ở mức độ thu nhập trung bình thấp nhưng Việt
Nam đã vượt trội so với phần lớn các nước trong các cuộc thi đánh giá, tỷ lệ học
sinh đến trường cũng như số lượng năm học được hoàn thành (ÁNH & LAN
THƯƠNG, 2018).

2.2.2. Khó khăn.

Có nhiều thuận lợi cũng đi đôi với những khó khăn và hạn chế. Giáo dục Việt
Nam vẫn chỉ tập trung cải cách tập trung bậc phổ thông, thiếu giải pháp đồng bộ bởi
môi trường giáo dục chưa thích nghi với những chuyển biến mới của công nghệ 4.0
hiện nay. Những khó khăn cụ thế ấy là:

Thứ nhất, hiện nay số lượng giáo viên thừa, thiếu vẫn còn là vấn đề chưa thể
giải quyết. Việc đổi mới cần đi đôi với chất lượng giáo viên phải cao để đáp ứng các
nhu cầu của thời đại công nghệ mới, vì thế việc thiếu, thừa giáo viên giữa các môn
học hiện nay rất phổ biến. Minh chứng là ngày 12/8, tại Hội nghị tổng kết năm học
2021-2022 và triển khai nhiệm vụ năm học mới, Bộ Giáo dục và đào tạo thông tin
cả nước còn thiếu 94.714 giáo viên các cấp, đồng thời thừa giáo viên cục bổ ở các
địa phương, cấp học (Bình, Như, 2022). Tình trạng như thế theo quy định của
Chương trình giáo dục 2018 tỷ lệ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu. Đặc biệt, ở cấp
tiểu học việc thiếu giáo viên tiếng Anh, tin học. Dù đã chuyển sang ngành công
nghiệp 4.0 nhưng chất lượng đào tạo về công nghệ vẫn chưa tốt, bởi việc đào tạo ở
các cấp tiểu học rất khó cùng với việc lương của giáo viên không được cao so với
các ngành nghề khác (Bình, Như, 2022).Vì thế, nhiều giáo viên đã chuyển sang
ngành nghề khác có thu nhập cao hơn để có thể trang trải cho cuộc sống của họ.

Thứ hai, dù đã có những chính sách hỗ trợ nhưng nhìn chung cơ sở vật chất,
trường lớp học, trang thiết bị vẫn còn hạn chế và bị xuống cấp trầm trọng. Bên cạnh
đó, việc chuyển biến mới của công nghệ 4.0 làm cho nhiều dịch vụ giáo dục vẫn
còn chưa thề đáp ứng kịp cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là ở các vùng cao, vùng
sâu vùng xa. Nguồn kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất vẫn còn hạn hẹp, cùng với đó
20

là công tác xã hội hóa giáo dục chưa thật sự triệt để. Thực tế tỷ lệ chi ngân sách cho
giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP, cao
hơn nhiều nước khác trong khu vực (Nga, 2017). Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế, cơ
bản chỉ đủ để đáp ứng một phần chi tiền lương và các chi phí thường xuyên khác.
Việc cải thiện cơ sở vật chất trong môi trường giáo dục rất quan trọng, nó giúp các
em học sinh, sinh viên học tập được hiệu quả hơn, cũng như việc trang bị các trang
thiết bị hiện tại giúp phục vụ cho các em học sinh, giáo viên những phương thức
dạy học mới mẻ. Vì thế, để có đủ kinh phí và giảm áp lực chi tiêu tư ngân sách nhà
nước. Nhà nước cần đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực giáo dục, đào tạo, đặc biệt trong
đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật – công nghệ và dạy nghề.

Thứ ba, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngành giáo dục Việt Nam,
tình hình dịch phức tạp khiến các em học sinh, sinh viên phải học tập ở nhà. Tuy đã
chuyển đổi số nhưng công tác giảng dạy vẫn còn nhiều bất cập. Việc tổ chức các
lớp học online khiến các giáo viên chưa quen so với việc giảng dạy truyền thống, từ
đó chất lượng giảng dạy phần nào sẽ giảm ảnh hưởng đến các em học sinh, sinh
viên trong quá trình học tập. Không chỉ giáo viên, các em học sinh, sinh viên cũng
gặp rất nhiều khó khăn trong công tác học tập. Đặc biệt, là các em có hoàn cảnh khó
khăn, vùng sâu vùng xa không thể trang bị các thiết bị công nghệ để phục vụ cho
học tập trong giai đoạn này. Điều ấy, khiến các em dễ nhàm chán, từ bỏ việc học. Vì
thế, đội ngũ giảng viên cần phải trang bị nhiều kiến thức về việc dạy trực tuyến
cũng như là tìm hiểu và tiếp cận công nghệ trong giai đoạn công nghệ 4.0. Đồng
thời giáo dục các em học sinh, sinh viên về những nỗi khổ của quá trình giáo dục
trong tình hình này.

Thứ tư, cách đánh giá, phương pháp dạy vẫn còn nhiều thiếu sót dẫn đến chất
lượng sinh viên ra trường chưa đạt yêu cầu. Song song, nội dung và thời lượng các
môn học cần phải điều chính hợp lý, cân đối và tránh lặp lại, gây nhàm chán. Thực
tế, khối lượng chương trình của bậc phổ thông rất nặng về mặt lý thuyết, chưa gắn
liền với thực hành, không phù hợp với khả năng tiếp thu của các lứa tuổi nhỏ, đặc
biệt là các học sinh tiểu học, trung học cơ sở. Bên cạnh đó, là áp lực thi cử, dễ làm
cho các em chứng bệnh thành tích, học vẹt, thụ động, đối phó. Điều này dẫn đến
chất lượng đầu ra của các trường bị giảm, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường
chưa tìm được việc làm con nhiều, vì thế nhiều học sinh sau khi hoàn thành bậc
21

giáo dục phổ thông đã chọn con đường đi du học. Theo thống kê của Bộ Giáo dục
và Đào tạo ghi nhận con số sinh viên du học đạt 130.000 sinh viên vào năm 2016,
số lượng tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2011-2016 (Lê, 2023). Tình hình du học
quá nhiều cho thấy giáo dục đại học trong nước không còn đủ chất lượng so với nền
giáo dục ở nước ngoài.
Thứ năm, công tác xử lý các vi phạm trong giáo dục còn chậm trễ. Công tác xử
lý các vi phạm chưa nghiêm ở các địa phương. Điển hình là trong việc học trực
tuyến trong mùa dịch Covid-19, nhiều sự cố như việc các hacker đã đột nhập vào
các lớp học online để gây rối trật tự tuy đã được xử lý nhưng vẫn còn chưa triệt để.
Bên cạnh đó, công tác truyền thông, xử lý thông tin vẫn còn chậm trễ, chưa đồng
bộ. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần phải có những giải pháp hợp lý để xử lý các vấn
nạn trong giáo dục như trên.

2.2.3. Cơ hội.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đem lại cho nhân loại nhiều những trải
nghiệm mới mẻ. Không những thế nó còn tạo ra nhiều cơ hội cho ngành nghề khác
nhau, trong đó có ngành giáo dục. Cụ thể là:

Thứ nhất, những ngành mới xuất hiện đi đôi với đó là nhu cầu đào tạo những
ngành nghề ấy rất lớn. Điển hình là các ngành liên quan đến công nghệ thông tin, trí
tuệ nhân tạo, IoT… Những ngành này cần nguồn lực rất lớn để phát triển, theo
Chính phủ thì vào năm 2020, nước ta đã có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp tương
đương với 1 triệu cán bộ công nghệ thông tin. Hiện nay, dân số khoảng 60% trong
độ tuổi lao động, ít nhất 20 năm nữa Việt Nam vẫn còn ở thời kỳ dân số vàng
(Hùng, 2018). Nhưng nguồn lực về mảng công nghệ thông tin với trình độ và tay
nghề cao vẫn còn hạn chế. Vì thế ngành giáo dục đang có cơ hội rất lớn trong việc
đào tạo các thế hệ trẻ về mảng công nghệ thông tin.

Thứ hai, hiện nay Việt Nam có khoảng 78,59% người sử dụng Internet và đã
vượt mục tiêu kế hoạch năm 2023 (Lê, 2023). Việc này cho thấy chuyển đổi công
nghệ 4.0 được hưởng ứng rất tốt. Song việc đào tạo giáo dục những ngành liên quan
đến công nghệ mới sẽ trở nên dễ dàng hơn, vì người dân đã tiếp cận được với
Internet, nghĩa là họ đã có tư duy về việc sử dụng công nghệ. Nhiều tập đoàn lớn
trên thế giới dựa vào nền tảng này để tranh thủ đầu tư vào Việt Nam như Fujitsu,
22

Intel, Samsung,… (Hùng, 2018) Việc này sẽ đáp ứng đủ nhu cầu việc làm cho các
sinh viên mới ra trường. Cũng như nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam
trong các ngành công nghệ kỹ thuật.

Thứ ba, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách ủng hộ việc đào tạo giáo dục về
chuyển đổi số. Minh chứng là ngày 04-11-2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế (Nhạ, Phùng Xuân, 2018). Điều này cho thấy nước ta cũng đang rất quan
tâm đến vấn đề chuyển đổi số trong giáo dục, việc này rất tốt vì có thể thúc đẩy
nhiều nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao trong công cuộc phát triển đất
nước.

Thứ tư, chuyển đổi sang thời kì công nghệ mới nên việc trau dồi và cập nhật
những kiến thức mới là rất cần thiết. Xu hướng những người lao động trình độ cao
sẽ không dừng lại ở việc học đại học, họ sẽ càng muốn tìm hiểu sâu hơn về công
nghệ mới này. Từ đó, tạo nên những lao động có trình độ chuyên môn cực cao,
đồng thời những tư duy cũ sẽ dần thay đổi, môi trường giáo dục sẽ không còn khô
khan, máy móc mà sẽ trở nên thực tế hơn.

2.2.4. Thách thức.

Nước ta có nhiều cơ hội trong việc đào tạo giáo dục trong thời kì công nghệ 4.0
nhưng bên cạnh đó vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức như là:

Thứ nhất, thực tế hiện nay số lượng trẻ được tiếp cận với giáo dục chưa cao vẫn
còn.
có tình trạng thất học, bỏ học… Đặc biệt là những gia đình có hoàn cảnh khó khăn,
hay ở các vùng sâu vùng xa và người khuyết tật. Bởi việc giảng dạy cũng như đưa
các trang thiết bị hiện đại lên các vùng cao rất khó, việc ấy đòi hỏi rủi ro rất cao
đồng thời khả năng tiếp cận giáo dục của họ cũng rất khó khăn bởi nhiều yếu tố
khách quan.
Thứ hai, giáo dục ở Việt Nam vẫn còn quá nặng nề về mặt lý thuyết mà chưa
thực sự mang tính chất thực tế, phát triển năng lực phẩm chất của người học. Bên
cạnh đó, đội ngũ giảng viên chưa đồng đều, hệ thống cơ sở vật chất còn nhiều hạn
23

chế. Những điều trên sẽ dẫn đến môi trường giáo dục trở nên xuống cấp, chất lượng
đào tạo đi xuống. Dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ kinh phí cho giáo dục nhưng với
những sự thay đổi từng ngày của công nghệ thì vẫn chưa đủ cho một nền giáo dục
của Việt Nam hiện tại. Nền giáo dục 4.0 cần phải có những dịch vụ hiện đại để có
thể đáp ứng nổi các nhu cầu của nền công nghệ hiện nay

Thứ ba, chất lượng đầu ra của giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế để có
thể đáp ứng được những yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức…
Nguyên nhân là do phương pháp giáo dục chưa thật sự bức phá, vẫn còn vận hành
theo mô hình truyền thống, còn nhiều thiếu sót trong quá trình truyền đạt kiến thức.
Trường lớp chỉ đưa ra những kiến thức nho nhỏ, nhưng bỏ quên đi việc vận dụng
những kiến thức ấy để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Điển hình, một số bộ
phận giáo viên truyền đạt những kiến thức hời hợt, làm cho nhiều học sinh chưa thể
nắm rõ bản chất. Vì thế để có thể đạo tạo nguồn nhân lực có trình độ cao trong thời
đại 4.0 hiện nay, không những học sinh, sinh viên mà đội ngũ giáo viên cũng phải ra
sức học tập, phát triển tư duy đổi mới, lấy giáo dục cũ làm nền tảng để phát triển
nền giáo dục mới.

Thứ tư, đội ngũ quản lý giáo dục, cũng như đội ngũ giáo viên vẫn còn chưa
quen với các nền tảng hiện đại, điều ấy làm chất lượng đào tạo đi xuống. Đồng thời
lượng giáo viên từ bỏ ngành nghề để chạy theo những công việc khác càng gia tăng,
điều này ảnh hướng đến nguồn nhân lực đào tạo giáo dục một cách trầm trọng. Mặc
dù nhà nước đã có những chính sách ưu đãi nhưng với tình hình hiện nay với khoản
phí ấy vẫn không đủ trang trải.

2.2.3. Cơ hội.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đem lại cho nhân loại nhiều những trải
nghiệm mới mẻ. Không những thế nó còn tạo ra nhiều cơ hội cho ngành nghề khác
nhau, trong đó có ngành giáo dục. Cụ thể là:

Thứ nhất, những ngành mới xuất hiện đi đôi với đó là nhu cầu đào tạo những
ngành nghề ấy rất lớn. Điển hình là các ngành liên quan đến công nghệ thông tin, trí
tuệ nhân tạo, IoT… Những ngành này cần nguồn lực rất lớn để phát triển, theo
Chính phủ thì vào năm 2020, nước ta đã có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp tương
đương với 1 triệu cán bộ công nghệ thông tin. Hiện nay, dân số khoảng 60% trong
24

độ tuổi lao động, ít nhất 20 năm nữa Việt Nam vẫn còn ở thời kỳ dân số vàng.
Nhưng nguồn lực về mảng công nghệ thông tin với trình độ và tay nghề cao vẫn còn
hạn chế. Vì thế ngành giáo dục đang có cơ hội rất lớn trong việc đào tạo các thế hệ
trẻ về mảng công nghệ thông tin.

Thứ hai, hiện nay Việt Nam có khoảng 78,59% người sử dụng Internet và đã
vượt mục tiêu kế hoạch năm 2023. Việc này cho thấy chuyển đổi công nghệ 4.0
được hưởng ứng rất tốt. Song việc đào tạo giáo dục những ngành liên quan đến
công nghệ mới sẽ trở nên dễ dàng hơn, vì người dân đã tiếp cận được với Internet,
nghĩa là họ đã có tư duy về việc sử dụng công nghệ. Nhiều tập đoàn lớn trên thế
giới dựa vào nền tảng này để tranh thủ đầu tư vào Việt Nam như Fujitsu, Intel,
Samsung,… Việc này sẽ đáp ứng đủ nhu cầu việc làm cho các sinh viên mới ra
trường. Cũng như nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam trong các ngành
công nghệ kỹ thuật.

Thứ ba, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách ủng hộ việc đào tạo giáo dục về
chuyển đổi số. Minh chứng là ngày 04-11-2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Điều này cho thấy nước ta cũng đang rất quan tâm đến vấn đề chuyển đổi
số trong giáo dục, việc này rất tốt vì có thể thúc đẩy nhiều nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn cao trong công cuộc phát triển đất nước.

Thứ tư, chuyển đổi sang thời kì công nghệ mới nên việc trau dồi và cập nhật
những kiến thức mới là rất cần thiết. Xu hướng những người lao động trình độ cao
sẽ không dừng lại ở việc học đại học, họ sẽ càng muốn tìm hiểu sâu hơn về công
nghệ mới này. Từ đó, tạo nên những lao động có trình độ chuyên môn cực cao,
đồng thời những tư duy cũ sẽ dần thay đổi, môi trường giáo dục sẽ không còn khô
khan, máy móc mà sẽ trở nên thực tế hơn.

2.4. Một số giải pháp cải tiến nền giáo dục trong điều kiện cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam.
25

Để giải quyết các thách thức đặt ra trước đó, chúng ta cần phải có những giải
pháp phù hợp để có thể giải quyết các vấn đề trên. Dưới đây là các giải pháp được
đặt ra:

Thứ nhất, vai trò của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục rất quan
trọng nên ta cần phải chú trọng việc thay đổi nhận thức của bộ phận này. Bởi vì
trong giai đoạn 4.0 trách nhiệm trong việc lựa chọn nội dung giáo dục, sử dụng tối
đa những nguồn tri trong xã hội, cũng như là việc vận dụng các phương tiện dạy học
hiện đại của giáo viên rất quan trọng. Đội ngũ giáo viên luôn phải cập nhật và làm
mới những ý tưởng của mình, từ đó thúc đẩy, tìm tòi và tạo điều kiện cho người học
phát triển. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý cũng cần đổi mới, vì hiện nay xuất
hiện những hình thức dạy – học mới nên cần phải đòi hỏi công tác thay đổi kịp thời
để bắt kịp với những nhu cầu của giáo dục. Ngoài ra, cần phải tăng cường phân cấp,
phân quyền và sự chuyên nghiệp trong vấn đề chuẩn hóa đội ngũ quản lý giáo dục ở
các cấp.

Thứ hai, cần nhanh chóng đổi mới các mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, phương pháp đánh giá kết quả học tập để đáp ứng đủ nhu cầu
của xã hội. Vì thế, cần phải đầu tư mạnh mẽ vào các công nghệ hiện đại tiên tiến, áp
dụng các phương thức đào tạo trực tuyến cho các đội ngũ giáo viên. Cần phải đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng và đào tạo giáo viên theo hướng “học phải đi đôi với
hành”, tăng cường các hoạt động tiếp cận với những trang thiết bị hiện đại trong
thời đại công nghệ 4.0. Bởi khi các trường có những chương trình đào tạo chất
lượng, với những phương pháp giảng dạy thú vị kết hợp với công nghệ sẽ tạo nên sự
hấp dẫn người học, vì thế cần nâng cao nguồn lực cho hoạt động nâng cao năng lực
và chất lượng của đội ngũ giáo viên. Cách mạng công nghệ 4.0, chính là động lực
để các trường thử thách khả năng sáng tạo của mình, cho nên các trường cần phải
chú trọng tăng cường việc dạy học kết hợp với những yếu tố thực tế, đồng thời cải
thiện phương pháp dạy học truyền thống và mạnh dạn tích hợp các công nghệ mới
trong quá trình đào tạo.

Thứ ba, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ giáo dục, thông qua
việc xây dựng cơ chế, chính sách cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
các đầu tư nước ngoài của thể hộ trợ cho giáo dục. Ngoài ra, cần phải có những
26

chính sách thu hút nhân tài, áp dụng các hình thức hợp tác với các chuyên gia quốc
tế trong công việc giảng dạy. Đẩy mạnh hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để
cùng hỗ trợ trong việc thúc đẩy nền giáo dục, triển khai các dịch vụ giáo dục hiện
đại, trang bị các công nghệ nghệ hiện đại để chất lượng đào tạo được nâng cao. Đặc
biệt, cần đào tạo đội ngũ giáo viên những kỹ năng tích hợp những công nghệ mới
vào thực tiễn từ đó giúp hoạt động giảng dạy trở nên hấp dẫn và thu hút.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ trong vấn đề dạy học và công tác
quản lý giáo dục. Cần xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các trường để xây dựng
các hình thức hợp tác trong hoạt động giảng dạy. Quan trọng cần phải gắn kết việc
học viên có thể vừa học vừa hành và tiếp cận với những công nghệ mới. Bên cạnh
đó, cần phải có những buổi tọa đàm để các trường có thể trao đổi cũng như giao lưu
với các công nghệ mới ở trong và ngoài nước. Cần tích cực tham gia các công tác
tìm tòi và học hỏi các phương pháp học cũng như giảng dạy của các chuyên gia
nước ngoài, từ đó áp dụng để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.

Thứ năm, Nhà nước cần thu hút và sử dụng những nguồn đầu tư nước ngoài
nhằm tăng cường chất lượng đào tạo giáo dục, hội nhập kinh tế. Điều này sẽ giảm
áp lực của ngân sách nhà nước đồng thời giúp ích rất nhiều trong việc mở trộng quy
mô giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, từ đó chất lượng đầu ra của
giáo dục sẽ dần được cải thiện. Mọi người sẽ dần tin tưởng vào các cơ sở trong
nước, bởi những khả năng tiếp cận công nghệ vượt bậc của các tổ chức ngoài nước,
không nhựng thế mà còn được người dân công nhận về độ uy tín và có khả năng
đào tạo ra những lao động trình độ cao.
27

KẾT LUẬN

Hiện nay, tốc độ lan tỏa của cách mạng công nghiệp 4.0 trong nền kinh tế rất
lớn, ở mọi lĩnh vực, đặt ra thách thức chưa từng có đối với lực lượng sản xuất xã
hội. Nó sẽ thay đổi bức tranh của thị trường lao động, làm thay đổi mạnh mẽ nhu
cầu về nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề và trình độ. Yêu cầu đặt ra với nền giáo
dục hiện nay là cần đáp ứng nhu cầu xã hội, cần đào tạo ra những người lao động có
đủ kỹ năng mới để thích nghi với biến đổi nhanh chóng của môi trường sản xuất,
kinh doanh. Nếu như trước đây, nội dung đào tạo chỉ chú trọng vào việc truyền tải
kiến thức hàn lâm, thì hiện nay những kiến thức đó đã trở nên lạc hậu, thậm chí vô
dụng trong nhiều môi trường doanh nghiệp, xí nghiệp năng động. Cách mạng công
nghiệp 4.0 đòi hỏi người lao động cần có đủ kiến thức cơ bản các kỹ năng và khả
năng tự học trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Các nội dung đó bao gồm: các
kiến thức và kỹ năng tư duy phản biện, khả năng ứng phó với thay đổi, khả năng
làm việc sáng tạo; kỹ năng về thể chất: kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng về xã hội:
giao tiếp, ứng xử, giải quyết xung đột, làm việc theo nhóm, tạo lập và duy trì quan
hệ…
Giáo dục trong kỷ nguyên số 4.0 là quá trình chuyển đổi giáo dục từ trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Sự vươn lên
và phổ biến của IoT (Internet vạn vật) đã giúp người học chủ động tiếp cận nguồn
tri thức khắp mọi lĩnh vực. Vai trò người thầy đã có sự thay đổi từ người giảng dạy
theo cách truyền thống (đọc và chép) sang người hướng dẫn, định hướng nhằm phát
triển tối đa tư duy sáng tạo, chủ động của học sinh, đây cũng là ý nghĩa của cách
mạng 4.0 trong giáo dục. Cách mạng 4.0 trong giáo dục nói riêng, cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 nói chung đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với ngành
giáo dục nước nhà. Từ sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 vào giáo
dục thì người học dù đang ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện truyền
thống cũng như thư viện điện tử của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Đến
những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến qua những ứng dụng để giúp
người học tiếp cận kiến thức vô cùng nhanh chóng và tiện lợi không cần phải đến
lớp học. Những chuyển đổi trên dần trở thành xu hướng phát triển mới trong quá
trình hội nhập số để giúp chúng ta tiến gần hơn với mục tiêu phát triển và xây dựng
công dân toàn cầu - công dân số.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


28

Đại học kinh tế công nghiệp Long An. (2019, 3 12). Retrieved 12 4, 2023, from
https://daihoclongan.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-tuc-chung/1588-thay-doi-phuong-ph
%C3%A1p-day-va-hoc-truoc-tac-dong-cach-mang-cong-nghiep-4-0.html
Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. (2023, 10 16). Retrieved 3 12,
2023, from Tạp chí giáo dục lý luận: https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?
portalid=33&tabid=19&distid=3454&name=Giao-duc-va-dao-tao-nguon-nhan-luc-
chat-luong-cao-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-trong-ky-nguyen-so
Mục tiêu, vai trò và lợi ích của giáo dục. (2023). Hà Nội.
4 cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử . (2021, 8 20). Andrew university.
Retrieved 2023, from https://andrews.edu.vn/4-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-trong-
lich-su-the-gioi/
ÁNH, N. N., & LAN THƯƠNG, N. (2018, 9). GIÁO DỤC VIỆT NAM: THỰC
TRẠNG VÀ THÁCH THỨC. Retrieved 11 24, 2023, from
https://hcma1.hcma.vn/content/tintuc/Lists/News/Attachments/23969/8%20Ng
%20Ng%20Anh%20-%20Ng%20K%20L%20Thuong.pdf
Anh, X. (2020). Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 - Industry 4.0 là gì? Retrieved
from https://niics.gov.vn/goc-nhin-chuyen-gia/cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4-
industry-40-la-gi
Bình, Như. (2022, 8 26). Thiếu giáo viên ảnh hưởng đến sự công bằng trong tiếp
cận giáo dục của học sinh. Retrieved 11 24, 2023, from https://thanhnien.vn/thieu-
giao-vien-anh-huong-den-su-cong-bang-trong-tiep-can-giao-duc-cua-hoc-sinh-
1851491966.htm
Bộ TT&TT. (2016). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Retrieved from https://mic.gov.vn/atantt/Pages/TinTuc/115770/Nghi-quyet-dai-hoi-
dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XII-cua-dang.html
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII. (2016, 1 28). Retrieved 12 3, 2023, from Báo
điện tử- Đảng cộng sản Việt Nam:
https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-den-dai-hoi/dai-hoi-dai-
bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-124
Hạnh, H. (2013, 12 4). Kết quả đánh giá học sinh Việt Nam gây bất ngờ cho cả Thế
giới. Retrieved 11 24, 2023, from https://dantri.com.vn/giao-duc/ket-qua-danh-gia-
hoc-sinh-viet-nam-gay-bat-ngo-cho-ca-the-gioi-1386632436.htm
Hùng, T. M. (2018, 9 27). Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục của Việt
Nam. Retrieved 11 24, 2023, from http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-
hoc-40/tac-dong-cua-cuoc-cach-mang-4-0-toi-giao-duc-cua-viet-nam-4307
Lê, P. (2023, 6 30). Tỷ lệ người sử dụng Internet Việt Nam đã vượt mục tiêu kế
hoạch năm 2023. Retrieved 11 24, 2023, from https://www.vnmedia.vn/cong-
nghe/202306/ty-le-nguoi-su-dung-internet-viet-nam-da-vuot-muc-tieu-ke-hoach-
nam-2023-50a1f4f/
Long, T.C. (2020). Những thành tựu và hạn chế của giáo dục và đào tạo trong quá
trình thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013. Retrieved from
https://truongchinhtritohieu.haiphong.gov.vn/Bai-viet-chuyen-de/Nhung-thanh-tuu-
va-han-che-cua-giao-duc-va-dao-tao-trong-qua-trinh-thuc-hien-Nghi-quyet-so-29-
NQTW-ngay-04112013-86125.html
Makeblock. (2020). Những thách thức của giáo dục trong thời đại 4.0. Retrieved
from https://note.com/makeblockvn/n/n615062d8aa58
Mộc Trà. (2023, 11 22). giaoduc.net,vn. Retrieved 12 4, 2023, from Để thực hiện
thành công đổi mới GD cần trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt:
29

https://giaoduc.net.vn/de-thuc-hien-thanh-cong-doi-moi-gd-can-tren-duoi-dong-
long-doc-ngang-thong-suot-post238577.gd
Mục tiêu, vai trò và lợi ích của giáo dục. (2022, 11 21). Retrieved 12 3, 2023, from
IPER: https://iper.org.vn/muc-tieu-vai-tro-va-loi-ich-cua-giao-duc/
Nga, Đ. T. (2017, 10 29). Đầu tư của nhà nước cho giáo dục, đào tạo: Thực trạng
và một số đề xuất, Tạp chí Tài chính, tháng 10, 2017. Retrieved 11 24, 2023, from
https://tapchitaichinh.vn/dau-tu-cua-nha-nuoc-cho-giao-duc-dao-tao-thuc-trang-va-
mot-so-de-xuat.html. Thời gian truy cập 24/11/2023
Nguyễn, V. (2020). Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là gì? Cơ hội và thách thức
khi nó ra đời. Retrieved from https://blog.webico.vn/cuoc-cach-mang-cong-nghiep-
4-0-la-gi-co-hoi-va-thach-thuc-khi-cuoc-cmcn-lan-4-ra-doi/
Nhạ, Phùng Xuân. (2018, 8 12). Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Retrieved 24 11, 2023, from https://tuyengiao.vn/nghien-
cuu/ly-luan/giao-duc-viet-nam-trong-boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-
thu-tu-114162
Nhìn lại hành trình 30 năm công cuộc đổi mới giáo . (2016, 1 13). Nhìn lại hành
trình 30 năm công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo. Retrieved 11 24, 2023, from
https://baovephapluat.vn/van-hoa-xa-hoi/giao-duc/nhin-lai-hanh-trinh-30-nam-
cong-cuoc-doi-moi-giao-duc-va-dao-tao-44035.html
QTKD. (2021). 4 cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử thế giới. Retrieved
from https://andrews.edu.vn/4-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-trong-lich-su-the-gioi/
Số liệu thống kê giáo dục năm học 2018-2019. (2020). Số liệu thống kê giáo dục
năm học 2018-2019.
TechInsight. (2023). Lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp. Retrieved from
http://khoadl.tdc.edu.vn/lich-su-cac-cuoc-cach-mang-cong-nghiep.html
Ths. Nguyễn Thanh Hiền. (2018, 12 14). Học viện cảnh sát nhân dân. Retrieved 12
4, 2023, from Giáo dục trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0:
http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/giao-duc-trong-thoi-dai-cach-
mang-cong-nghe-4-0-mot-so-van-dung-trong-giang-bai-quan-diem-chinh-sach-cua-
dang-va-4629
Tuấn, V. (2019). "Giáo dục 4.0” và những yêu cầu, giải pháp đổi mới giáo dục lý
luận chính trị trong các trường đại học hiện nay. Retrieved from
http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/giao-duc-4-0-va-nhung-yeu-
cau-giai-phap-doi-moi-giao-duc-ly-luan-chinh-tri-trong-cac-truong-dai-hoc-hien-
nay-5549
Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. (2011). Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, 77.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, 136.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, 234.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, 233.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, 138.
Viện Hàn lâm khoa học và xã hội Việt Nam. (2018). Tác động của cách mạng 4.0
đối với giáo dục. Hà Nội: https://vass.gov.vn/tap-chi-vien-han-lam/tac-dong-cua-
cach-mang-cong-nghiep-40-doi-voi-giao-duc-38#:~:text=Ng%C3%A0y%20nay
30

%2C%20do%20s%E1%BB%B1%20t%C3%A1c,c%C3%A1c%20gi%C3%A1o
%20vi%C3%AAn%20c%C3%B9ng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng.

You might also like