You are on page 1of 2

TÓM TẮT BẢN ÁN 21/2017/DS-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH

VÀ CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT


1. Sự kiện pháp lý
- Ngày 29/02/2002, anh H (nguyên đơn) nhận cầm cố quyền sử dụng đất của vợ chồng
ông S, bà Ơ (bị đơn) với diện tích là 05 công đất ruộng tầm 3m (tương đương
6.480m2 tại ấp 5B, xã N, Huyện A, Tỉnh K) với số vàng cố đất là 20 chỉ vàng 24kr
(vàng 9999).
- Khi giao dịch 2 bên có thỏa thuận thời hạn cầm cố từ ngày 29/02/2002 đến ngày
29/02/2004, nếu đến hạn vợ chồng ông S không chuộc đất thì anh H tiếp tục sử dụng.
- Tuy nhiên, do phần đất này nằm trong chu vi đất của vợ chồng ông S nên khi Nhà
nước quy hoạch thì anh không trồng lúa nữa mà cho anh T (con của bị đơn) thuê đến
2016.
- Sau khi hết hạn hợp đồng thì anh T lại giao trả phần đất lại cho vợ chồng ông S. Hiện
phần đất được cầm cố đã trả về vợ chồng ông S nhưng chưa trả lại vàng cho anh H,
- Anh H yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa anh với vợ chồng ông H
và yêu cầu họ trả lại vàng cố đất cho anh.
2. Vấn đề pháp lý:
- Giao dịch của anh H với vợ chồng ông S có vi phạm pháp luật không?
3. Lập luận của nguyên đơn:
- Nguyên đơn (anh H): cho rằng, hiện nay vợ chồng ông S, bà Ơ đã nhận lại đất cầm cố
cho anh rồi nhưng lại vẫn chưa trả 20 chỉ vàng cầm cố đất cho anh. Vì vậy, anh đề
nghị Tòa án hủy hợp đồng giữa anh với vợ chồng ông S, bà Ơ vào ngày 29/02/2002
và yêu cầu họ trả lại cho anh 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999), trả đủ một lần.
4. Lập luận cùa bị đơn:
- Bị đơn (ông S): cho rằng, tại thời điểm anh T không thuê nữa và anh H cũng không
canh tác nên vợ chồng ông đã nhận lại phần đất này rồi. Vì phần đất này nằm trong
chu vi đất của ông chưa có bờ bao riêng. Nay ông yêu cầu mỗi năm trả cho anh H 04
chỉ vàng 24kr đến khi trả đủ 20 chỉ vàng 24kr vì trả một lần 20 chỉ ông không có khả
năng.
- Bị đơn (bà Ơ): bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của chồng bà là ông S
5. Quyết định của Tòa án:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh H: Tuyên bố giao dịch
cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông S, bà Ơ và anh H xác lập ngày 29/02/2002 là vô
hiệu và buộc ông S, bà Ơ có nghĩa vụ trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr (vàng 9999).
Bởi vì theo Điều 179 của Luật Đất Đai quy định về quyền của người sử dụng đất thì
không quy định người sử dụng đất được phép cầm cố quyền sử dụng đất nên giao
dịch giữa anh H và vợ chồng ông S bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ Luật
Dân sự 2015.
- Ghi nhận anh H đã giao và vợ chồng ông S, bà Ơ đã nhận xong 05 công đất cầm cố
cho anh H.
- Còn về yêu cầu của vợ chồng ông S: theo Khoản 2 Điều 131 Bộ Luật Dân sự, các
bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Vợ chồng ông S nhận được của
anh H 20 chỉ vàng thì phải trả lại 20 chỉ vàng. Nếu trong trường hợp anh H đồng ý
với yêu cầu của họ thì Tòa án sẽ ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các bên.
Nhưng anh H không đồng ý nên Tòa án sẽ căn cứ vào quy định pháp luật buộc bị
đơn trả cho anh H 20 chỉ vàng 24kr.
6. Phân tích bản án:
- Đồng tình với quyết định của Tòa án và cho rằng: Hậu quả pháp lý của bản án đã
đúng theo quy định pháp luật, đảm bảo cho việc thiết lập giao dịch được pháp luật
bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của các bên được cân bằng. Trong bản án này, do sau khi
Nhà nước quy hoạch thì anh H đã cho anh T thuê lại. Khi hết hạn hợp đồng thì anh T
đã giao lại phần đất cho vợ chồng ông S. Tức là, tài sản là đối tượng của giao dịch
vẫn được giữ nguyên, có tác động nhưng không ảnh hưởng đến lợi ích của hai bên
nên phần đất này sẽ không trị giá bằng tiền mà trả bằng hiện vật, vợ chồng ông S
cũng sẽ có nghĩa vụ trả lại bằng hiện vật cho anh H

You might also like