You are on page 1of 2

TÓM TẮT

Bản án số: 32/2018/DS-ST


Ngày 20-12-2018
V/v: “Tranh chấp HĐCN Quyền sử dụng đất”
Tóm tắt nội dung vụ án:
Nguyên đơn là ông J Ph T cùng với vợ là bà A Th Ph (L Th H) đại diện ủy quyền bởi anh L Th Ph
Bị đơn là bà L K Đ đại diện bởi Ph H D T
Năm 2004, vợ chồng nguyên đơn mua phần đất diện tích 200m2 của bà L K Đ với giá 3000 USD và ngày
31/5/2004 bà L K Đ có lập giấy cho nền thổ cư.
Đến ngày 02/6/2004 bà L K Đ tiếp tục bán cho nguyên đơn phần đất gắn liền với căn nhà mới xây tổng
diện tích là 1.051,8m2 với số tiền 4000 USD và bà L K Đ có làm giấy nhường đất thổ cư.
Ngày 16/3/2011 bà L K Đ có làm giấy cam kết thể hiện rằng bà đã bán cho nguyên đơn phần đất diện tích
1.251,8m2 và bà chỉ đứng tên dùm, khi nào nguyên đơn về Việt Nam thì bà trả lại nhà và đất.
Hiện nay nguyên đơn đã về Việt Nam và yêu cầu bị đơn giao trả nhà là 200m 2 và đất vườn có diện tích
1.051,8m2 (tổng giá trị là 500.000.000 đồng). Sau đó tại phiên tòa phía nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi
kiện chỉ yêu cầu bà L K Đ hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 550.000.000 đồng.
Nhận định của Tòa án:
Xét thấy việc mua bán giữa nguyên đơn và bị đơn là có thật. Tại bản tự khai ngày 09/5/2018 và các lời
trình bày của bị đơn trong các phiên tòa hòa giải bà cũng thừa nhận là có nhận tiền của nguyên đơn và khi
nào nguyên đơn về Việt Nam thì bà cho nguyên đơn một nền thổ cư, bà cũng thừa nhận căn nhà cấp 4 gắn
liền với phần đất tranh chấp là do bà xây dựng nhưng nguyền tiền là do phía nguyên đơn gửi về. Tuy
nhiên giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004 được lập giữa nguyên
đơn và bị đơn xét về hình thức thì tờ cho đất thổ cư không tuân thủ theo quy định của pháp luật, không
được công chứng chứng thực theo quy định tại Điều 127 của Luật hợp đồng. Hơn nữa ông Ph J T và bà L
Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật đất đai năm 2003 và
Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở
Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài
tại Việt Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có
nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định được sở hữu nhà tại Việt Nam”. “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở
lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu
quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy
cho nền thổ cư ngày 31/5/2004 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân
thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự và căn cứ theo Điều 131
của Bộ luật dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận.

Tổng cộng nguyên đơn đã gửi tiền về cho bị đơn với số tiền 13.950 USD và bản thân bị đơn
cũng thừa nhận là đã nhận số tiền trên và số tiền này quy đổi ra tiền Việt Nam là 329.220.000
đồng và bà đồng ý trả lại số tiền này cho nguyên đơn nhưng tại phiên tòa đại diện bị đơn tự
nguyên trả cho nguyên đơn số tiền 350.000.000 đồng.
Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vô hiệu giấy cho nền thổ cư
ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam kết ngày 16/3/2011 mà các
bên đã xác lập do vi phạm điều cấm của pháp luật. Buộc bà L K Đ hoàn trả cho vợ chồng ông J
Ph T và bà L Th H số tiền 350.000.000 đồng.

Quyết định của Tòa án:

- Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam
kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi phạm điều cấm của pháp luật.

- Buộc bà L K Đ hoàn trả cho vợ chồng ông J Ph T và bà L Th H số tiền 350.000.000 đồng.

You might also like