Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ là một trong những đề tài khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn. Người phụ nữ Việt Nam dù ở hoàn cảnh như thế nào vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng trân trọng. Đến với “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ta bắt gặp một người phụ nữ với vẻ đẹp của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người mẹ thương con. Đặc biệt, ta có thể thấy rõ điều đó qua lời giãi bày của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện. Thông qua người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên, người đọc thêm hiểu về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của Văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn mới, khác xa với cảm hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của ông. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài, người đàn bà ấy đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về chuyện đời. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn (in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh Châu, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”. Nguyễn Minh Châu quan niệm rằng: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Điều đó có thể thấy qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm bày tỏ những suy tư về nghệ thuật cùng cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực và con người qua tình huống truyện đầy nghịch lý. Đó là việc nghệ sĩ Phùng bất ngờ phát hiện một cảnh đẹp “trời cho” – cảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển mù sương, làm cho tâm hồn anh như được thăng hoa trong cái đẹp, trong niềm hạnh phúc ngọt ngào. Nhưng rồi chính chiếc thuyền ấy, anh lại bất ngờ chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, khiến cho anh phải sững sờ, kinh ngạc. Đó là việc nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu tìm cách giúp người đàn bà thoát khỏi người chồng vũ phu nhưng họ lại bị ngỡ ngàng trước thái độ nhất quyết từ chối bỏ chồng của người đàn bà ở tòa án huyện... Câu chuyện và diễn biến phức tạp, đầy éo le, nghịch lý của người đàn bà hàng chài giúp họ có những khám phá, phát hiện mới mẻ, sâu sắc về đời sống và con người. Dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài hiện lên với số phận éo le, bất hạnh; là nạn nhân của cái nghèo, cái đói và bạo lực gia đình. Chị gây ấn tượng với người đọc bởi ngoại hình xấu xí, khó nhìn “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Ở chị còn phơi lộ sự nghèo đói nhếch nhác “tấm lưng áo bạc phếch rách rưới nửa thân dưới ướt sũng”. Mới nhìn thoáng qua người đọc nhận thấy điều gì đó bất ổn ở chị, dường như đó là vẻ cam chịu ở con người quen với nhọc nhằn lam lũ, cho nên chị chẳng còn quan tâm gì đến bản thân nữa ngay cả ý định “Đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay xõa lại mái tóc” cũng xao xác tan mau “chị lại buông thõng xuống”. Đi suốt chiều dài thiên truyện, người đọc không hề biết đến tên của chị, khi thì nhà văn gọi bằng “chị ta”, lúc thì gọi bằng “Mụ”, lúc lại gọi là “người đàn bà hàng chài”. Vì sao Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà này? Bởi chị cũng như bao người đàn bà ở vùng biển nghèo khổ này, chị là người vô danh. “Đây chính là một lối viết rất quen thuộc của Nguyễn Minh Châu sau 1975, nhà văn không hề tô vẽ cho nhân vật của mình. Người phụ nữ hiện lên không phải tấm gương lung linh thể hiện phẩm chất lý tưởng của con người. Nhân vật xuất hiện với sự nhẫn nhục câm lặng trước trận đòn tàn bạo của chồng gợi cảm giác bức bối. Nhưng kiên trì theo dõi cuộc đời nhân vật người đọc khám phá ra những vẻ đẹp rất lặng lẽ nhưng đáng trân trọng ở bà” (Đinh Hà Triều). Chị tự nhận thức: vì mình xấu bị cái xấu đeo đuổi như định mệnh, từ lúc còn nhỏ trận đậu mùa để lại di chứng trên mặt chị là những nốt rỗ chằng chịt theo năm tháng, càng lớn lại càng xấu, càng già đi lại càng khó coi. Và vì xấu nên việc có mang với anh hàng chài là một ân huệ. Còn việc hắn đưa chị lên thuyền để chung sống đã đem hắn trở thành ân nhân đối với chị. Vì là ân nhân cho nên chị không thể bỏ. Chị cũng nhận phần thua thiệt về mình “cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Lại thêm thuyền chật con đông nên cuộc sống khốn khó “có lúc phải ăn xương rồng luộc chấm muối”. Trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình, tuy khó khăn nhưng người đàn bà không tỏ ra oán hận chồng. Ngược lại còn bênh vực chồng, bởi chị cho rằng lão chồng chị không xấu “trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, từ ngày lấy chị thì cuộc sống khốn khó, vất vả hơn cho nên lão chồng đã xem việc đánh vợ là một phương thức giải tỏa những bức bí trong lòng. Như vậy chị là người rất hiểu chồng, thương chồng và chị hiểu, chồng chị là nạn nhân của sự đói nghèo, nạn thất học, hắn vừa đáng thương lại vừa đáng trách, đáng trách vì hắn gây ra biết bao đau thương cho người thân, đáng thương vì hắn là nạn nhân. Mặc dù, cuộc sống có nghèo khổ, bị đánh đập thường xuyên nhưng “người đàn bà với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Tuy nghèo khổ, bất hạnh nhưng trong chị hội tụ những phẩm chất vô cùng tốt đẹp, đáng quý và đáng trân trọng. Điều đó được thể hiện qua những lời giãi bày của chị ở tòa án huyện: “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình”. Ở tòa án huyện, lúc đầu thì chị xuất hiện với hình ảnh rụt rè. Chị tìm đến góc công đường để ngồi. Chị ngồi trong thế bị động như một con thú xù lông để tự vệ, mặc dù đã được Phùng và Đẩu cảm thông chia sẻ. Lúc đầu chị xưng hô “Con – quý tòa” sau khi lấy lại được sự thăng bằng thì chị đột ngột chuyển đổi cách xưng hô: “Chị - các chú”. Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh sự thay đổi ngôn ngữ và thân thế người đàn bà với ý nghĩa: Giờ đây chính chị là quan tòa đang phán xét Phùng và Đẩu, dạy cho Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn đời nhìn cuộc sống. Thật thế chăng? Sở dĩ, người đàn bà chấp nhận chuyện bị chồng đánh đập như việc những người đàn bà trên thuyền vẫn chấp nhận chuyện người đàn ông uống rượu là bởi vì chị là một người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, vị tha, chấp nhận tất cả thua thiệt về mình. Khi người đàn bà nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”, đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên và vỡ lẽ đằng sau câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Lão chồng vũ phu ấy đối với chị có hai cái “Ân”: ân huệ và ân nhân. Qua lời kể, người đàn bà hàng chài hiện lên là một người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhục. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, chị đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của chị sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, không né tránh, không phản kháng, không chống trả. Người đàn bà còn bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý mà tiêu biểu là lòng tự trọng, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. là người đàn bà giàu lòng tự trọng. Chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của tên chồng bị thằng Phác và người lạ chứng kiến chị thấy “đau đớn” – vừa đau đớn, vừa xấu hổ nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà trào ra, chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể cả thằng Phác – đứa con yêu của chị và nhất là với một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm, nhưng người đàn bà ấy không hề bận tâm – “một sự nhẫn nhục của con người có nhân cách có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời có một tình thương con vô bờ bến”(Nguyễn Duy Kha). Để con chứng kiến cảnh bố đánh mẹ, và phản ứng lại hành động vũ phu của bố, người đàn bà lúc này cảm thấy đau đớn – vừa dau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. “Đau đớn” vì để con phải chứng kiến cảnh đau lòng, điều đó vô tình làm tổn thương tâm hồn con. “Xấu hổ và nhục nhã” bởi không giữ được mái ấm gia đình hạnh phúc giữa bố và mẹ, có thể người đàn bà ấy hiểu sâu sắc câu nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, tổ ấm của chị không êm ấm là do chị, nên chị “xấu hổ và nhục nhã” với con cũng là lẽ đương nhiên. Sau đó chị “ôm chầm lấy đứa con rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy nó”. Chị ôm nó như một hình thức xoa dịu tâm hồn tổn thương của con, khi chứng kiến tình cảnh này. Và đó là cách duy nhất để chị xin lỗi con, đồng thời xoa dịu đi cảm giác “đau đớn, nhục nhã, xấu hổ” của mình. Chị còn giàu lòng vị tha và sự độ lượng, bởi chị thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biến động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột trong gia đình, là một người chồng, người cha nên chẳng có người đàn ông nào lại dửng dưng, vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời, khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi được chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng, thì chị đã “chắp tay lạy vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa...Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào không đau đớn, nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của người chồng. Nên chị không hề oán trách, không hề căm giận mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đó còn là một người phụ nữa giàu đức hi sinh. Bằng trái tim ấm áp của mình, chị chấp nhận cho chồng đánh để giải tỏa những uât ức, áp lực trong cuộc sống mưu sinh này. Chị cam chịu như một cách trả ơn, vì dù gì thì nhờ có lão, chị mới có một gia đình. Bởi vốn xấu xí, lỡ làng, nếu không có lão, làm sao chị có được những phút giây “có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Chị nhẫn nhục, hi sinh bản thân vì đàn con thơ ngây của chị: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Vượt lên trên tất cả sự tủi nhục và đau đớn, ở người đàn bà tỏa sáng lên là người phụ nữ thương con, thấu hiểu, trải đời và rất sâu sắc lẽ đời. Chị gồng mình gánh chịu đòn roi của chồng là bởi vì những đứa con “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Chị hiểu rằng: bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn đau nhất, người chịu nhiều thiệt thòi nhất chính là những đứa con, đứa có bố thì mất mẹ, có mẹ thì mất bố, chia đàn xẻ nghé. Chị quan niệm rằng: một gia đình hạnh phúc là gia đình đầy đủ các thành viên, dù đâu đó trong gia đình còn nhiều khiếm khuyết. Vì thương con, mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại. Vì thương con và tránh sự tổn thương cho những tâm hồn thơ bé, nên chị đã xin lão chồng đưa chị lên bờ mà đánh. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con trước sự tấn công của loài chim ăn thịt. Chính tình mẫu tử thiêng liêng cao thượng đã chắp cánh cho chị đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui nhỏ nhất “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...” để khỏa lấp những nỗi đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực. Khi thằng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp” vào lưng mẹ, thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào cái lão đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi ngay lập tức “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nên người đàn bà hàng chài phải gửi nó lên rừng với ông ngoại, chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó” Chị thấu hiểu cho sự vũ phu và cọc cằn của người chồng. Chị hiểu chồng và thương chồng, chị cho rằng: Chung quy chồng chị cũng là nạn nhân của sự đói nghèo và nạn thất học mà ra. Bởi rằng, trước kia lão là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Từ ngày lấy chị vì cuộc sống khốn khó, vất vả quá, cho nên lão mới đánh chị như một phương thức giải tỏa “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”. Vì chị đẻ nhiều, thuyền chật con đông nên cuộc sống khó khăn, chật vật cũng từ chị mà ra. Chị chấp nhận lỗi, chấp nhận mọi phần thua thiệt về mình như một lẽ đương nhiên “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Tuy là người phụ nữ quê mùa, thất học nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu, nhưng đã từ chốilòng tốt ấy: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn...cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”; “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả cảu người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị. Chị còn là một người hiểu sâu sắc lẽ đời. Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con còn nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình. Các con chính là niềm vui, niềm hạnh phúc của chị vởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ. ---Qua tác phẩm, ta cũng thấy được cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đó là sự khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều mang tính triết lý sâu sắc. Cuộc sống của người dân hàng chài có nhiều nghịch lí: cuộc sống đông con nhưng lại nghèo khổ; muốn con hạnh phúc, không bị tổn thương những lại thường xuyên phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ... Nhân vật người đàn bà hàng chài vừa nhẫn nhục đến mức phi lí, vừa đáng trách vừa đáng thương nhưng lại mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ... Điều đó đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả quy luật tất yếu lẫn những điều may rủi khó lường. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng gói trọn những suy tư, trăn trở của ông. Đó là gánh nặng mưu sinh giam hãm vợ chồng người dân hàng chài trong cảnh tối tăm, đói khổ, bấp bênh. Điều ấy khiến người chồng trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo. Còn người vợ vì thương con nên nhẫn nhục, chịu đựng sự ngược đãi của người chồng mà chị không hề biết chính việc ấy đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Đằng sau câu chuyện là cái nhìn ấm áp, nhân hậu của nhà văn: sự trân trọng, tin yêu vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự bao dung và can đảm của người phụ nữ. Đó không phải là vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những “hạt ngọc khuất lấp”, lẫn trong lấm láp lam lũ đời thường. Theo ông, tình yêu của người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê vừa là nỗi đau đớn khắc khoải, một mối thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh. Điều này đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho thiên truyện. Một điều cao đẹp hơn nữa nhà văn muốn gửi gắm, đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Con người luôn có những quan hệ chằng chịt phức tạp. Bởi vậy nhìn nhận mọi sự việc hiện tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi, đơn giản, phiến diện, một chiều. Chính vì có cái nhìn phiến diện mà Phùng và Đẩu mới bắt người đàn bà kia bỏ chồng. Khi và chỉ khi thấu hiểu tấm lòng người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ ra. Chính người đàn bà hàng chài đã dạy cho họ bài học về cách nhìn nhận cuộc sống: Cuộc sống muôn hình muôn vẻ nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”. Thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài và những lời giãi bày của chị ở tòa án huyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc một thông điệp về mối quan hệ giữa “nghệ thuật” và “cuộc đời”: Cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng, chứa đựng nhiều nghịch lí cũng như mâu thuẫn. Nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ dễ dàng đưa ra đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản: “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức” – “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước cuộc sống mà phải biết nhìn thấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là người nghệ sĩ chân chính. Đến đây ta càng thấm thía hơn câu nói của nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn – Nam Cao: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”