Professional Documents
Culture Documents
CNHT11
CNHT11
TƯ DUY PHÁP LÝ
70 VỤ ÁN ĐƯỢC CHỌN
TRONG
9000 VỤ ĐƯỢC YÊU CẦU XÉT XỬ
Thẩm phán sẽ thờ ơ, ít quan tâm, không
thể hiện quan điểm mà căn cứ vào luật
định nếu các vụ án đó thiên về kỹ thuật,
hoặc họ đánh giá là không quá quan
trọng.
Nhưng nếu đó là vấn đề phá thai, nội dung
khiêu dâm, quyền hạn của tổng thống đối
với an nình . . . các thẩm phán sẽ thể hiện rõ
quan điểm của mình, rồi mới xem xét các
điều luật.
Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên, Toà án tối cao với
số lượng thẩm phán rất ít, nhưng lại có quyền
hành cao nhất, và có quan điểm cá nhân mạnh
mẽ sẽ tác động đến định hướng của một chính
sách, một quy định có tầm ảnh hưởng to lớn
thông qua các phán quyết của mình.
Ở các toà tiểu bang, câu
chuyện trên vẫn xảy ra, nhưng
được lý giải bằng luật định tốt
hơn nhiều so với toà tối cao.
Ví dụ cụ thể là trong các phiên điều trần về việc đề cử các thẩm phán
cho Toà án tối cao, niềm tin chính trị ngoài pháp luật của thẩm phán
được đề cử ngày càng được quan tâm nhiều hơn, dẫn đến ý thức
CNHT ngày càng tăng. Đó là một điều thành công đáng ghi nhận cho
quan điểm này.
LÝ DO THỨ
BA
Do công tác đào tạo diễn ra hằng ngày ở các
trường luật. Họ dạy sinh viên luật là gì, có bao
nhiêu điều, nội dung của nó ra sao, áp dụng thế
nào, hay nói chính xác là sinh viên sẽ nắm vững
kiến thức, hiểu biết về luật hơn là được học các
yếu tố có thể ảnh hưởng đến các quyết định tự
pháp và cách thức nhận diện ra điều đó.
Ví dụ một thẩm phán đưa ra quyết định dựa trên các yếu tố công bằng, công lý, hoặc dựa
trên các yếu tố cân nhắc của chính sách, hay thậm chí là quan điểm cá nhân của thẩm
phán, nó vẫn được diễn giải bằng ngôn từ của luật chính thống, và luật sư muốn hiểu
được nó, anh ta phải thực sự hiểu ngôn ngữ và các phạm trù phi CNHT mà hệ thống luật
thực sự hoạt động.
LÝ DO THỨ
TƯ
Cuối cùng, và có lẽ là cốt lõi nhất, đó là sự nguy hiểm của CNHT.
Đó là quan điểm của các thành viên phong trào Critical Legal
Studies Movement
(tạm dịch : Nghiên cứu pháp lý phê bình) – xuất hiện vào cuối
những năm 1960, có những ảnh hưởng nhất định trong thập kỷ 70 và
80 – với tuyên bố quan trọng là
“Học thuyết pháp lý tốt nhất được hiểu là sự phản ánh các quyết
định chính trị và hệ tư tưởng ngẫu nhiên”. Nó phản ánh, là một bộ
phận quyền lực chỉ phục vụ lợi ích cho một số giai cấp hay một bộ
phận nhất định trong xã hội.
Nhưng xét trên các khía cạnh khác, thì quan điểm đó lại đi theo con
đường của CNHT. Đó là thừa nhận các quyết đinh tư pháp được đưa
ra không hoàn toàn dựa trên các cơ sở của luật định, và như vậy
điều cần phải tìm hiểu là điều gì tác động thực sự đến quyết định đó.
Duncan Kennedy ( 1942 )
Giáo sư luật tại trường đại học luật Harvard
– nói rằng, các thẩm phán luôn chuẩn bị
sẵn “ các bước “ để với tiêu chí là tôn trọng
nghề nghiệp của mình, ứng phó với các quy
tắc pháp lý rõ ràng nhất ( tạm hiểu là các
thẩm phán luôn chuẩn bị nhiều phương án
để hợp thức hoá quyết định của mình ), lời
nói đó hoàn toàn phù hợp nội dung cốt lõi
của CNHT.
Mark Tushnet ( 1945 ) – Giảng viên luật
Đại học luật Harvard – nhấn mạnh rằng hệ
tư tưởng chính trị là nhân tố chính phần lớn
việc ra quyết định hiến pháp, nó giải thích
cho việc luật hiến pháp Mỹ phù hợp với
luật của các chính trị gia. Tushnet và những
người khác nhấn mạnh rằng ý thức hệ hơn
chính sách, chính trị hơn tính cách, và
những ảnh hưởng xã hội rộng lớn hơn là
bình đẳng trong một vụ việc cụ thể.
Nhưng nếu xét trên quan điểm CNHT, các
yếu tố này có vẻ không đáng kể. Ngày nay,
dù cho dưới bất kỳ hình thức nào, mà trong
đó các yếu tố ngoài luật ảnh hưởng đến quyết
định phán quyết của thẩm phán, nó sẽ được
quy về Nghiên cứu pháp lý phê bình, với cốt
lõi là CNHT năm 1930.
Kết luận, quan điểm Nghiên cứu pháp lý
phê bình khác với CNHT về lý luận pháp
lý, lập luận pháp lý và ra quyết định tư
pháp. Nhưng một mặt nào đó, cách thức
mà các học giả của Nghiên cứu pháp lý
phê bình tiến hành lại giống CNHT.
Vậy những người theo CNHT thời điểm hiện tại không
thể bị lên án hay tôn vinh về những điều sai hay đúng.
Bản chất chủa CNHT là xem xét trong từng lĩnh vực
cụ thể, và phương pháp, cơ sở lý luận để xác định kết
quả pháp lý vẫn là chủ đề nghiêm túc. Kết quả đó sẽ
thay đổi tuỳ theo lĩnh vực, cấp độ và vị trí của việc ra
quyết định tư pháp.
CHƯƠNG IV