You are on page 1of 8

Báo cáo bài thực hành :

Về cây chè và cây cà phê ở Việt Nam

Nhóm : Chiến , Hoàng Nam

Lớp 9C
 Cây chè :
Chè được phát hiện từ 4-5 nghìn năm trước .
Ở Việt Nam chúng ta đã trồng chè từ lâu rồi vì thế
thực dân Pháp đã biết nơi này là một trong những quê
hương của chè nên năm 1924 -1925 họ đã thành lập
một công ty kinh doanh chè và tổ chức trại nghiên cứu
chè ở Phú Thọ để phát triển các đồn điền trồng chè ở
miền Bắc nước ta .
Một cây chè có 3 chu kì . Giai đoạn đầu là giai
đoạn cây non . Ở giai đoạn này, các bụi chè phải trồng
3-4 năm từ khi gieo trồng mới phát triển thành cây
trưởng thành. Sau đó, là giai đoạn cây lớn và giai đoạn
cuối là giai đoạn chè già cỗi. Giai đoạn cây lớn kéo dài
20-30 năm tùy vào giống , điều kiện đất đai , dinh
dưỡng , khai thác . Đây là giai đoạn chè cho năng suất
cao . Sau đó là giai đoạn chè già cỗi . Cây chè suy yếu
dần . Để cây chè phát triển mạnh thì người dân cần
dựa vào những thuận lợi ở khu vực của mình . VD
như ở DHNTB và Tây Nguyên , ở đây có đất feralit,
đất đỏ bazan thuân lợi để trồng cây công nghiệp lâu
năm.
Đồi chè ở Tây Đồi chè TDMNBB
nguyên
Ở vùng Trung Du Miền Núi Bắc Bộ : tỉnh Thái
Nguyên có diện tích trồng chè gần 18.000 ha,
đứng thứ 2 trong cả nước, năng suất chè búp
tươi bình quân đạt gần 100 tạ/ha, sản lượng gần
200.000 tấn. Ở Chè được trồng chủ yếu ở Lâm
Đồng, Gia Lai và Đắc Lắc. Riêng Lâm Đồng là
tỉnh có diện tích trồng chè khá lớn của nước ta,
với khoảng 23,9 ngàn ha, chiếm gần 19% diện
tích chè cả nước; sản lượng chè búp tươi đạt
gần 172 ngàn tấn, sản lượng xuất khẩu gần
10.000 tấn. Thu nhập từ một ha chè của Lâm
Đồng cao nhất nước, trên 280 triệu đồng/ha,
đứng đầu về giá xuất khẩu.
Giá trị chè trên thị trường quốc tế trong những năm
gần đây khá ổn định, bình quân từ 1200 – 1900 USD/
tấn chè đen và từ 200 – 300 USD/ tấn chè xanh, chè
vàng . Chè của Việt Nam được xuất khẩu sang thị
trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, Thị trường
Châu Á: bao gồm các nước Nhật Bản, Trung Quốc,
Đài Loan, Iran, Irắc, Cooet, Ả Rập Thống Nhất… các
nước này chủ yếu nhập chè xanh và chè đen. Thị
trường Tây Âu, Bắc Mỹ có nhu cầu nhập khẩu chè
đen với khối lượng lớn.

 Cà phê :
Theo một truyền thuyết đã được ghi lại trên giấy vào
năm 1671, những người chăn dê ở Kaffa (thuộc
Ethiopia ngày nay) phát hiện ra một số con dê trong
đàn sau khi ăn một cành cây có hoa trắng và quả màu
đỏ đã chạy nhảy không mệt mỏi cho đến tận đêm
khuya. Họ bèn đem chuyện này kể với các thầy tu tại
một tu viện gần đó. Khi một người chăn dê trong số đó
ăn thử loại quả màu đỏ đó anh ta đã xác nhận công
hiệu của nó. Sau đó các thầy tu đã đi xem xét lại khu
vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá
xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Họ uống
nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện
chuyện trò cho đến tận đêm khuya. Như vậy có thể coi
rằng nhờ chính đàn dê này con người đã biết được cây
cà phê. Từ đó người ta bắt đầu trồng và sử dụng thứ
nước uống này như một cách để giữ tỉnh táo trong các
buổi cầu nguyện suốt đêm của tín đồ hồi giáo . Tiếp
theo đó, theo chân các cuộc chinh phục của đế quốc
hồi giáo Ottoman, cà phê dần du nhập vào châu âu,
rồi lan rộng ra toàn thế giới. Tính đến nay cà phê
được xem là thứ thức uống thông dụng bậc nhất trên
toàn thế giới. Mỗi quốc gia, vùng địa lý lại có cách pha
chế và thưởng thức cà phê riêng của mình.
Cây cà phê được người Pháp mang đến trồng ở Việt
Nam từ cuối thế kỷ 19, các đồn điền cà phê đầu tiên
được thành lập ở vùng Kẻ Sở, Bắc Kỳ năm 1888. Sau
đó mở rộng ra Phủ Lý, Ninh Bình rồi vào đến Kon
Tum, Di Linh. Năm 1938 cả nước có 13.000 hecta cà
phê, cung cấp tổng sản lượng 1.500 tấn. Năm 2016 sản
lượng cà phê Việt Nam chiếm 16% sản lượng cà phê
thế giới, giúp cho Việt Nam là nước đứng thứ 2 về xuất
khẩu cà phê, chỉ đứng sau Brasil. Riêng cà phê vối,
Việt Nam là nước đứng đầu về sản lượng.

Cây cà phê có chiều cao 2-4m. Lá cà phê hình oval


thon dài, mặt trên xanh bóng màu đậm, mặt dưới nhạt
màu hơn, cuống lá ngắn.. Rễ cà phê thuộc dạng rễ cọc,
đâm sâu vào đất 1 – 2m, bên cạnh đó còn có hệ thống
rễ phụ tỏa ra xung quanh, nằm sát mặt đất để hút chất
dinh dưỡng. Hoa cà phê có màu trắng, 5 cánh, thường
nở thành chùm. Nếu để tự nhiên hoa sẽ nở rải rác
quanh năm, trong trồng trọt người ta thường tiến
hành tưới vào đầu mùa khô để kích thích hoa ra đồng
loạt. Hoa nở kéo dài 3-4 ngày, thời gian thụ phấn chỉ
vài giờ đồng hồ. Khi hoa nở có mùi thơm rất dễ chịu.
Nếu có dịp du lịch Tây Nguyên vào mùa tưới cà phê,
bạn sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh những trang trại cà
phê đồng loạt nở hoa trắng xóa, tỏa hương thơm ngào
ngạt. Sau khi thụ phấn quả sẽ phát triển trong 7 đến 9
tháng và có hình bầu dục, bề ngoài giống như quả anh
đào. Trong thời gian chín, màu sắc của quả thay đổi từ
xanh sang vàng rồi cuối cùng là đỏ. Thông thường một
quả cà phê chứa hai hạt. Chúng được bao bọc bởi lớp
thịt quả bên ngoài. Hai hạt cà phê nằm ép sát vào
nhau. Mặt tiếp xúc giữa chúng là mặt phẳng, mặt
hướng ra bên ngoài có hình vòng cung. Mỗi hạt còn
được bảo vệ bởi hai lớp màng mỏng: một lớp màu
trắng, bám chặt lấy vỏ hạt; một lớp màu vàng rời rạc
hơn bọc ở bên ngoài. Hạt có thể có hình tròn hoặc dài,
lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh.
Thỉnh thoảng cũng gặp nhưng quả chỉ có một hạt (do
chỉ có một nhân hoặc do hai hạt bị dính lại thành
một).

Cây cà phê sau khi trồng 3-4 năm sẽ ra quả. Những


đợt quả đầu tiên thường gọi là quả bói (hay cà bói) tùy
theo mức độ sinh trưởng, nhu cầu thu hoạch, người ta
thường vặt bỏ hoa không cho đậu trái bói, dồn sức để
cây phát triển cành lá. Năm thứ 4 trở đi mới tiến hành
thu hoạch đại trà. Giai đoạn 1-3 năm gọi là giai đoạn
kiến thiết cơ bản, giai đoạn năm thứ 4 trở đi gọi là giai
đoạn kinh doanh. Thông thường vườn cà phê sau 20-
25 năm, sẽ chuyển sang giai đoạn già cỗi, năng suất
kém, cần phải trồng mới hoặc cắt gốc và ghép chồi để
cải tạo.

Cà phê thu hoạch trong khoảng tháng 10 đến hết


tháng 1 (Dương Lịch), thời gian thu hoạch nhiều nhất
là trong tháng 11. Bà con thường thu hoạch khi quả
bắt đầu chuyển sang màu đỏ, và hái rộ trong tháng 11
tránh những cơn mưa cuối mùa làm rụng trái. Sau khi
thu hoạch cà phê được phơi khô trong nhiều ngày, sau
đó dùng máy xay để tách phần vỏ lấy phần nhân, phần
vỏ còn gọi là trấu có thể tận dụng làm phân hữu cơ.

Cà phê hiện nay được trồng chủ yếu ở khu vực Tây
Nguyên nhờ thích hợp về khí hậu cũng như độ màu
mỡ của đất đai. Các giống chủ yếu là cà phê vối, cà
phê chè, cà phê mít chiếm rất ít, chủ yếu sử dụng làm
gốc ghép. Việc lai tạo ra các giống cà phê cao
sản như cà phê TR4 (cà phê 138), cà phê TR9, cà phê
xanh lùn (cà phê trường sơn TS5)… góp phần nâng
cao năng suất chất lượng cà phê Việt Nam lên rất
nhiều.

You might also like