Professional Documents
Culture Documents
Nang Xương Hàm
Nang Xương Hàm
Kramer (1974) định nghĩa nang là một khoang bệnh lý có chứa dịch, bán
dịch, khí và không được tạo thành do sự tập trung của mủ. Hầu hết nang liên quan
đến biểu mô, tuy nhiên không phải là tất cả.
Nang của vùng miệng và hàm mặt không liên quan đến biểu mô như là nang
tuyến nước bọt mang tai, nang phình mạch trong xương (aneurismal bone cyst),
nang xương đơn độc (solitary bone cyst). Tuy nhiên, đa số những nhà bệnh học
thích gọi những nang không liên quan đến biểu mô là “giả nang” (speudo-cysts).
Một số tác giả như Reichart, Philipsen (2004) thích gọi là “ khoang” (cavities) hơn
“nang”
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO (1992), phân loại nang vùng hàm mặt như
sau:
(b). Xuất phát từ ngoại bì (ectoderm) trong quá trình hình thành mặt (non-
odontogenic)
I. Phân loại nang xương hàm:
II. Dấu hiệu lâm sàng đặc trưng của nang xương hàm:
Phát triển chậm, làm di chuyển răng bên cạnh nhiều hơn là làm tiêu chân
răng
Không có dấu hiệu lâm sàng trừ khi nang phát triển làm biến dạng mặt hay
nhiễm trùng
Khi nang phá hủy xương và ra mô mềm làm sưng phồng mặt, ấn vào thấy
căng, co giãn được ( compressive and fluctuant swelling)
Thiếu răng
Mất răng
Thường phát hiện tình cờ qua chụp X quang hay nang phát triển lớn làm biến dạng
giải phẫu vùng mặt
III. Cận lâm sàng
X quang có hình ảnh vùng thấu quang có bờ viền rõ, mảnh và thường liên
quan đến răng nguyên nhân
Chọc hút:
Dịch nang trong, có màu vàng chanh, óng ánh tinh thể cholesterol
Chẩn đoán nang xương hàm chủ yếu dựa vào dấu hiệu lâm sàng và dấu hiệu
trên phim X quang. Tuy nhiên để chẩn đoán nang xương hàm thuộc loại nào thì
chúng ta phải dựa vào giải phẫu bệnh học
Chẩn đoán phân biệt giữa nang và các tổn thương giả nang (speudocysts)
Chẩn đoán phân biệt giữa nang và các tổn thương dạng nang (cystic lesion),
tổn thương giống nang (cyst-like lesion) như U nguyên bào men dạng nang
(cystic ameloblastomas), nang răng vôi hóa (calcifying odontogenic (ghost
cell) cyst)
V. Điều trị
Chỉ định:
Nang nằm ở những vị trí không thể lấy bỏ toàn bộ màng nang được như
trường hợp nang ở cành lên xương hàm dưới
Tạo điều kiện cho răng có thể mọc được
V.2. Phẫu thuật lấy toàn bộ màng nang và răng nguyên nhân (enucleation)
Tách lấy toàn bộ màng nang, khâu kín thì đầu: trong trường hợp nang nhỏ
V.3. Cắt nang và xử lý phần xương xung quanh (enucleation and treatment of
adjacent bone)
Thân răng nằm trong lòng nang của răng ngầm trong xương do sự mở rộng
của bao răng. Nang dính vào răng ở cổ răng
Nang phát triển âm thầm, gây phá hủy xương làm biến dạng mặt
Trường hợp nang bội nhiễm thì có triệu chứng đau, sưng phần mềm xung
quanh nang
X quang cho hình ảnh thấu quang một buồng có chứa thân răng nằm bên
trong, răng nguyên nhân có thể bị đẩy khỏi vị trí bình thường
Trên X quang chúng ta có thể dể dàng phân biệt giữa nang chân răng và
nang thân răng. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phân biệt giữa nang thân răng
với nang răng sừng hóa (OKCs) và U nguyên bào men (Ameloblastoma)
trong trường hợp nó bao phủ cả thân răng
Quá trình phát triển của nang dẫn đến sự giãn rộng của bao răng (dental
follicle). Yếu tố gây khởi phát những thay đổi này vẫn còn chưa rõ. Tuy
nhiên, có một sự liên kết chặt chẽ giữa thất bại của quá trình mọc răng và
việc hình thành nang thân răng
Có một chút hoài nghi rằng nang thân răng phát triển xung quanh thân răng
của răng ngầm, tuy nhiên nguyên nhân thất bại của việc mọc răng là do sự hình
thành nang chân răng
Điều trị:
Nếu răng ngầm vẫn còn nằm đúng vị trí và còn khoảng trống cho răng mọc
lên thì tiến hành phẫu thuật khâu lộn túi
Nang sừng hóa xương hàm ít gặp tuy nhiên rất đáng chú ý bởi vì không
giống như đa số những tổn thương nang khác, nang sừng hóa rất hay tái phát sau
khi điều trị cắt bỏ
Nang phát triển không có triệu chứng cho đến khi phá hủy xương gây biến
dạng mặt hay bội nhiễm
OKC có thể là thể một buồng tuy nhiên đa số là nhiều buồng với hình ảnh
đặc trưng dạng vỏ sò (scalloped)
Chân răng của răng kế cận trong trường hợp nang lớn có thể bị di chuyển,
tuy nhiên nang thường phát triển bên dưới các chân răng và quanh chân răng ống
thần kinh răng dưới
Đôi khi OKC phát triển bao quanh một răng tám ngầm do đó cần phải phân
biệt với ngang quanh thân răng
Ngoài ra cần phải phân biệt giữa OKC với u nguyên bào men
Người ta cho rằng OKC có khả năng phát triển từ biểu mô phát sinh răng
bao gồm lá răng, biểu mô còn sót lại của cơ quan men trước khi thành lập răng.
Tuy nhiên thật khó thuyết phục khi độ tuổi xuất hiện OKC vào giai đoạn trung
niên. Những giả thuyết về nguồn gốc của biểu mô nang sừng hóa vì vậy vẫn còn là
suy đoán
Một số bằng chứng cho thấy rằng OKC có bản chất là khối tân sinh
(neoplasm)
Nguyên nhân có thể do khiếm khuyết hay thiếu gen ức chế tăng sinh tế bào
(tumour suppressor gene)
Điều trị:
Kế hoạch điều trị tùy thuộc vào kích thước của nang và thể một buồng hay
nhiều buồng.
Nếu nang một buồng hay nhiều buồng nhỏ thì nạo bỏ toàn bộ màng nang và
xử lý bề mặt xương
Nang càng lớn thì khả năng tái phát càng cao do khó lấy bỏ hết màng nang.
Những răng có liên quan đến nang phải nhổ bỏ
Trường hợp nang quá lớn thì có chỉ định cắt bỏ đoạn xương và phục hồi
bằng ghép xương
Ngày nay, việc điều trị bảo tồn đã được đặt ra. Kết hợp giữa điều trị mở
thông nang với lấy bỏ toàn bộ nang
Đây là nang hay gặp nhất trong nang xương hàm, chiếm 65-70%
Tuổi hay gặp nhất từ 20-60 tuổi, hiếm khi gặp trước 10 tuổi
Giống như các loại nang xương hàm khác, nang phát triển chậm mà không
có bất kì triệu chứng nào. Khi có nhiễm trùng có dấu hiệu sưng đau, tăng
kích thước của nang do hiện tương phù nề
Răng nguyên nhân bị đổi màu do chết tủy lâu ngày. Các răng kế cận có thể
bị chết tủy, nằm không đúng với vị trí mọc lên ban đầu, lung lay nhẹ do sự
phát tiển lan rộng của nang
Nhiễm trùng của tủy răng kích thích sự tăng sinh của tế bào còn sót lại
Malassez. Giai đoạn đầu của quá trình hình thành nang khi một đám tế bào biểu
mô tập trung ở vùng chóp chân răng gọi là U hạt (Granuloma). Các tế bào này chịu
sự kích thích của quá trình viêm, tăng tiết dịch tập trung vào trung tâm của U hạt
hình thành nang.
Nếu nhiễm trùng được loại bỏ trong giai đoạn nang có kích thước từ 1-2 cm
thì có thể không cần phải phẫu thuật
Nang chân răng và nhiều loại nang khác mở rộng kích thước theo hình cầu,
ở bất cứ ví trí nào mà nó có thể phát triển được, điều đó chứng tỏ áp lực bên trong
lòng nang là một yếu tố phát triển. thông thường áp lực bên trong lòng nang
khoảng 70cm nước, cao hơn áp lực bên trong mao mạch
Dịch nang:
Dịch nang thường là chủ yếu là nước và có màu trắng đục (Opalescent), đôi
khi sánh và có màu vàng nhạt với tinh thể cholesterol. Về mặt tế bào học trong
dịch nang còn có chứa protein, xác tế bào bạch cầu, tế bào biểu mô bị bong ra, sợi
fibrin
Dấu hiệu Xquang:
Có hình ảnh vùng cản quang tròn, bờ rõ. Răng nguyên nhân có chân răng
nằm trong lòng nang. Chân răng của các răng kế cận có thể bị dịch chuyển, chết
tủy do sự phát triển lớn của nang
Có nhiều nguyên nhân gây tổn thương thấu quang ở xương hàm. Nang chân
răng thường được chẩn đoán dựa vào lâm sàng và Xquang ngoài ra có thể thăm dò
bằng chọc hút dịch nang
Tuy nhiên một số khối u như u nguyên bào men hay u di căn xương hàm có
thể gây nhầm lẫn trong chẩn doán
Điều trị:
Thuận lợi:
Lành thương tốt, ít gây biến chứng
Lấy toàn bộ màng nang cho phép xét nghiệm tế bào học chính xác
Khó khăn: