You are on page 1of 7

HUYẾT TƯƠNG GIÀU TIỂU CẦU – HUYẾT TƯƠNG GIÀU YẾU TỐ TĂNG TRƯỞNG –

FIBRIN GIÀU TIỂU CẦU


QUY TRÌNH TÁCH CHIẾT VÀ ỨNG DỤNG TRONG DA LIỄU THẨM MỸ
I, Đại cương:
1. Tổng quan quá trình làm lành vết thương
Quá trình làm lành vết thương được chia làm 3 giai đoạn chồng chéo nhau: giai đoạn viêm
(inflammation), giai đoạn tăng sinh (proliferation) và giai đoạn sửa chữa, tái cấu trúc tổ chức
(remodeling).
Đáp ứng đầu tiên khi xảy ra tổn thương ở mô là quá trình viêm. Khi máu thoát khỏi thành mạch
bị tổn thương, tiểu cầu tham gia thực hiện chức năng cầm máu dẫn đến hình thành cục máu
đông làm đầy tổn thương. Lúc này tiểu cầu đã được hoạt hóa cùng với nhiều tế bào (TB) khác
nhau và hạt α của tiểu cầu giải phóng các yếu tố tăng trưởng và các cytokine. Quá trình này hấp
dẫn các TB di chuyển tập trung đến nơi tổn thương, tăng sinh, biệt hóa và tổng hợp các chất
căn bản. Bạch cầu đa nhân trung tính là những TB viêm đầu tiên xâm nhập vào vị trí vết thương,
hình thành sự bảo vệ chống lại quá trình nhiễm trùng cũng như loại bỏ các mô hoại tử. Đời sống
của chúng ngắn, từ vài giờ đến vài ngày. Tiếp theo là các TB đơn nhân và TB lympho T: TB đơn
nhân biệt hóa thành đại thực bào đóng vai trò chính hỗ trợ các TB đa nhân trung tính thực hiện
chức năng cũng như bản thân nó giải phóng ra các yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình viêm.
Đời sống của các TB đơn nhân và lympho kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tháng. Sau đó các TB
gốc nguồn gốc trung mô di chuyển tới khu vực tổn thương, nơi chúng sẽ biệt hóa thành các TB
đặc hiệu tương ứng với mô tổn thương như TB xương, sụn, xơ, các TB mạch máu và mô khác.
Các nguyên bào sợi cũng di cư tới, tăng sinh và sản xuất ra môi trường ngoại bào. TB biểu mô
mạch máu cạnh mô tổn thương cũng tăng sinh, hình thành mạng lưới mao mạch tân tạo hướng
về khu vực thương tổn, khởi động quá trình tăng sinh mạch máu. Gần về cuối giai đoạn viêm, tổ
chức hạt mới hình thành, có màu hồng với đặc điểm là mô giàu mạch máu, nhiều TB xơ, TB
viêm mạn tính nhưng không có tổ chức thần kinh. Đây là môi trường chuyển hóa thuận lợi cho
quá trình sửa chữa mô tổn thương.
Giai đoạn tăng sinh: các mô hoại tử dần bị loại bỏ bởi quá trình trên và được thay thế bởi mô
sống tương tự với mô trước khi bị tổn thương. Các nhân tố tại chỗ, bao gồm các yếu tố tăng
trưởng nguồn gốc tiểu cầu, cytokine, hocmon, chất dinh dưỡng, pH môi trường, áp lực khí oxy,
môi trường điện- hóa học… thúc đẩy quá trình tăng sinh và biệt hóa các TB gốc nguồn gốc trung
mô thành các nguyên bào xương, nguyên bào sụn, nguyên bào sợi và các TB khác cần cho sự tái
tạo mô tương ứng.
Giai đoạn sửa chữa, tái tạo tổ chức: mô mới được tái tạo sẽ thay đổi hình dạng và cấu trúc cho
giống với mô gốc. Tại đây mật độ các tế bào và mạch máu tăng lên, các TB sợi collagen, TB
xương… tăng trưởng. Thời gian của giai đoạn sửa chữa, tái tạo có thể kéo dài nhiều năm.
Kết luận: Như vậy,các tổn thương ở mức độ tối thiểu sẽ phát ra tín hiệu yêu cầu cơ thể sửa
chữa, tân tạo và phục hồi lại các vị trí tổn thương 1 cách mạnh mẽ hơn, điều này tạo nên hướng
đi mới vô cùng tiềm năng trong lĩnh vực thẩm mỹ, đặc biệt là trong trả hoá làn da

2. Quá trình hoạt hóa tiểu cầu giải phóng các yếu tố tăng trưởng:

Tiểu cầu thực chất là một mảnh tế bào được vỡ ra từ tế bào nhân khổng lồ. Sau khi
được phóng thích từ tuỷ xương, chỉ có 60-75% tiểu cầu lưu thông trong máu, phần còn
lại được giữ ở lách.
Số lượng bình thường của tiểu cầu trong máu là 150.000-300.000/mm3.
Đời sống tiểu cầu thay đổi từ vài ngày đến hai tuần.
Tiểu cầu có kích thước 2-4 mm, không có nhân nhưng bào tương có nhiều hạt. Có 2 loại
hạt là:
Hạt alpha chứa PDGF (platelet-derived growth factor) có tác dụng giúp liền vết thương.
Hạt đậm đặc chứa ADP, ATP, Ca2+, serotonin và epinephrine.
Ngoài ra tiểu cầu còn chứa các enzym để tổng hợp thromboxane A2; yếu tố ổn định
fibrin, tiêu thể và các kho dự trữ Ca2+. Đặc biệt, trong tiểu cầu có các phân tử actin,
myosin, thrombosthenin giúp nó co rút. Màng của tiểu cầu chứa một lượng lớn
phospholipid. Bề mặt của tiểu cầu có một lớp glycoprotein ngăn cản nó dính vào nội
mạc bình thường.
Trên cơ sở đó, nếu tập trung được một lượng lớn tiểu cầu vào vùng tổn thương, sự lành
thương sẽ diễn ra nhanh hơn. Bằng cách ly tâm máu tự thân của người bệnh, người ta
tách được phần huyết tương có chứa tiểu cầu ra khỏi máu, nồng độ tiểu cầu trong một
đơn vị thể tích sẽ cao hơn nhiều so với nồng độ trong máu. Công nghệ PRP được phát
triển bởi M. Ferrari vào năm 1987, ông đã dùng PRP như là một thành phần truyền tự
thân sau ca phẫu thuật tim hở. Từ đó đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của
PRP và ứng dụng nó trong nhiều lĩnh vực y khoa
- Các hoạt chất tăng trưởng được tiết ra trong quá trình hoạt hóa tiểu cầu và tác động
trên da:
* PGDF lấy từ tiểu cầu, tế bào nội mô, nhau thai với tác dụng thúc đẩy phát triển của các
mô liên kết tế bào thần kinh, từ đó tăng cường độ ẩm cho da;
* TGF-β gồm các tế bào hoạt mang công dụng chống viêm nhờ khả năng ức chế sản xu ất
cytokine và biểu thức lớp II: MHC, thúc đẩy vết thương trên da mau lành, ức ch ế s ự gia
tăng đại thực bào và tế bào lympho. Nó đã được chứng minh giúp điều hoà sự săn chắc
của da;
* EGF nằm ở tuyến submaxillary và tuyến Brunners, giúp thúc đẩy sự gia tăng của các tế
bào trung mô, thần kinh đệm và biểu mô nên hỗ trợ tái tạo bề mặt da;
* VEGF là yếu tố tăng trưởng mạch máu nội mô, bắt nguồn từ tiểu huyết cầu. VEGF sẽ làm
phát triển và hình thành các mạch máu mới;
* IGF là yếu tố tăng trưởng giống Insulin, được tổng hợp chủ yếu bởi gan và HGF là y ếu tố
tăng trưởng tế bào gan cùng có tác dụng tái sinh trên các tế bào và các cơ quan. Bộ đôi
này hỗ trợ thúc đẩy quá trình liền sẹo trên da
3. Các dạng chế phẩm từ huyết tương giàu tiểu cầu:
3.1: Huyết tương giàu tiểu cầu PRP
Là dạng đầu tiên của các loại chế phẩm từ máu có giàu tiểu cầu, thường dùng ở dạng
Plasma lỏng, có thể dùng được ngay, ví dụ để tiêm trực tiếp vào khớp để điều trị thoái
hoá khớp.
Có rất nhiều quy trình chế tạo PRP với các kỹ thuật ly tâm và dụng cụ khác nhau đã được
nghiên cứu sử dụng và cho ra nhiều sản phẩm PRP với nồng độ tiểu cầu cũng như nồng độ các
yếu tố tăng trưởng khác nhau. Nhưng dù theo qui trình nào, PRP cũng được trích xuất từ máu
tự thân thông qua một chuỗi các bước xử lý mà bước chủ yếu là quay ly tâm, nhằm tách hồng
cầu ra khỏi huyết tương, giữ lại phần bạch cầu, tiểu cầu, fibrin, yếu tố tăng trưởng v.v. trong
dạng lỏng.
3.2: Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng - PRGF
PRGF được coi là PRP thế hệ mới, hiện đại hơn. Nó là một khối huyết tương giàu các yếu
tố tăng trưởng thu được sau khi đã loại bỏ các tế bào có trong máu được lấy từ tĩnh mạch ngoại
vi của bệnh nhân. PRGF cũng có chứa các yếu tố tăng trưởng và các Cytokine khác nhau kích
thích quá trình lành thương của mô mềm và xương. Khác với PRP, PRGF được điều chế ở dạng
khối gelatin dai hơn và có khả năng duy trì khung nâng đỡ.
3.3: PRF (fibrin giàu tiểu cầu)
Là kỹ thuật mới nhất, đơn giản, không cần chống đông hay bất cứ phụ gia nào. Đặc
điểm này kiến cho kỹ thuật được đơn giản hoá, dễ thao tác, ít sai sót khi làm.
Sau khi lấy máu quay ly tâm, fibrinogen được trùng hợp thành mạng lưới fibrin ngay trong quá
trình ly tâm, nó bắt giữ tiểu cầu trong lưới trong khi hồng cầu và bạch cầu lắng xuống nửa dưới
của ống nghiệm. thời gian tính từ khi lấy máu đến khi thu hoạch được PRF khá ngắn, khiến cho
việc thao tác tại phòng khám trẻ nên đơn giản và nhanh chóng. Thực tế, có một phần nhỏ fibrin
hình thành ở dạng phân tán mà không kết hợp được vào mạng lưới, có thể nhìn thấy được
trong ống nghiệm sau khi ly tâm. Phần này nghèo tiểu cầu nên nó ko được sử dụng mà hút bỏ.
(xem hình trong iphone) phần màu trắng vàng là PRF, phần lỏng là huyết tương nghèo tiểu cầu
PPP. Phần PRF có màu đỏ do lưới fibrin bắt giữ hồng cầu nên được cắt bỏ bằng kéo. Sau đó tuỳ
mục đích có thể ép bằng gạc cho dàn mỏng hoặc không ép. PRF đủ dai để có thể khâu được.

II, Quy trình tách chiết PRP:


B1. Lấy máu tĩnh mạch, lượng máu lấy tùy thuộc vào vị trí tổn thương và yêu cầu điều trị. Ví dụ
trong thẩm mỹ cần 2-4ml PRP, khi đó lượng máu cần lấy tương ứng 20 ml (vì thể tích PRP tách
chiết được chiếm khoảng 10% đến 30% thể tích máu toàn phần, tùy vào kỹ thuật áp dụng)
Chất chống đông thường được cho sẵn vào ống lấy máu trước khi lấy máu tĩnh mạch, sau đó
hỗn hợp này lắc đều và đem đi ly tâm. Có nhiều chất chống đông có thể được dùng nhưng hiện
nay có hai chất được áp dụng nhiều nhất trên lâm sàng: ACD-A (anticoagulant citrate dextrose-
A) hay CPD (citrate phosphate dextrose).
B2. Ly tâm nhằm tách hồng cầu và huyết tương nghèo tiểu cầu (Platelet Poor Plasma- PPP) ra
khỏi máu toàn phần, để lại phần lớn tiểu cầu và ít thể tích huyếttương. Nguyên tắc khi ly tâm là
tránh tổn thương tiểu cầu, từ đó đảm bảo chất lượng giải phóng các protein tăng trưởng của
tiều cầu. Về kỹ thuật, bước 1 với lực ly tâm mềm (soft spin) với tốc độ thường từ 1500-
2000vòng/ min (160-1000g) trong thời gian ngắn từ 3-20 phút tùy kỹ thuật; và bước 2 với lực ly
tâm cứng (hard spin) với tốc độ thường từ 3000 – 6000 vòng/ phút (đến 1000- 3000g) với thời
gian khoảng 20 phút. Quá trình ly tâm hai bước: lần đầu (soft spin) để tách hồng cầu ra khỏi
huyết tương, để lại tiểu cầu, bạch cầu và các yếu tố đông máu. Sau ly tâm lần một thường có ba
lớp dịch được tạo ra: lớp dưới cùng chứa hồng cầu (trọng lượng riêng 1,09), lớp giữa chứa tiểu
cầu và bạch cầu còn gọi là lớp buffy coat (trọng lượng riêng 1,06), lớp trên cùng chứa huyết
tương (trọng lượng riêng 1,03). Thể tích lớp giữa chiếm khoảng 10% thể tích máu được lấy sẽ
được ly tâm lần thứ hai (hard spin) nhằm tách tiếp phần huyết tương nữa ra (đây chính là huyết
tương nghèo tiểu cầu - PPP) để lại phần PRP còn lại chủ yếu là tiểu cầu, ít bạch cầu (tùy kỹ thuật
mà bạch cầu có ít hay nhiều), yếu tố đông máu và một thể tích nhỏ huyết tương cùng rất ít
hồng cầu còn sót lại. Trường hợp lấy PRP không có bạch cầu (PL-PRP) thì sau lần ly tâm đầu lấy
không đến lớp hồng cầu- để tránh lấy bạch cầu có nhiều ở lớp buffy coat; trường hợp lấy PRP có
bạch cầu (RL-PRP) thì có thể hút sâu hơn xuống lớp hồng cầu.
Ngoài kỹ thuật ly tâm kinh điển với hai bước, về sau một số tác giả cải tiến kỹ thuật tách PRP
theo hướng đơn giản hơn là ly tâm một lần bằng lực ly tâm thấp (1500 vòng/ phút, tương
đương 400 g) trong thời gian ngắn (5 phút) lấy được PRP dạng lỏng như phương pháp ACP
(Autologous Conditioned Plasma) của Arthrex. Với kỹ thuật quay ly tâm một lần thì sản phẩm
không phải là PRP thực sự, thay vào đó là hỗn hợp PRP và PPP với nồng độ tiểu cầu không cao
bằng kỹ thuật ly tâm 2 lần. Tuy nhiên hiệu quả của sản phẩm ly tâm một lần theo phương pháp
ACP đã được chứng minh trên in vitro và in vivo khi so sánh với các kỹ thuật tách PRP khác.
Theo một số NC, khi lượng PRP chứa nhiều bạch cầu có thể dẫn đến tình trạng bạch cầu hoạt
hóa giải phóng ra MMPs (matrix metalloproteinases) và IL-1β (interleukin) và một số enzym tiêu
protein gây thoái giáng chất căn bản, hủy hoại mô xung quanh, ức chế tăng sinh tế bào. Ngược
lại theo một số NC khác thì bạch cầu có tác dụng chống nhiễm khuẩn và điều hòa miễn dịch, sản
xuất ra VEGF- một yếu tố tăng trưởng quan trọng trong tăng sinh mạch máu. Các tranh cãi đến
nay vẫn còn đang để ngỏ, tuy nhiên hiệu quả của sản phẩm ly tâm một lần theo phương pháp
ACP đã được chứng minh trên in vitro và in vivo khi so sánh với các kỹ thuật tách PRP khác cũng
như so sánh với điều trị bằng acid hyaluronic trong bệnh lý thoái hoá khớp gối.
B3. Hoạt hóa tiểu cầu trong PRP để giải phóng các protein tăng trưởng. Một khi đã tách chiết
được PRP, trong môi trường chống đông dung dịch này sẽ ổn định trong khoảng 8 giờ hoặc lâu
hơn, từ đó cho phép lấy máu trước một thời gian nhất định để chuẩn bị trước khi tiến hành
điều trị. Tuy nhiên đa số tác giả khuyến cáo nên lấy máu ngay trước khi tiến hành điều trị để
đảm bảo tiểu cầu sẽ không bị hoạt hóa sớm, do đó đảm bảo chất lượng tiểu cầu cũng như chất
lượng các protein bài tiết bởi tiểu cầu. Phương pháp hay dùng để hoạt hóa tiểu cầu là cho hỗn
hợp thrombin/ calci clorua vào dung dịch PRP. Thrombin sẽ trực tiếp hoạt hóa tiểu cầu để giải
phóng các protein (đồng thời gián tiếp khởi động quá trình đông máu), calci clorua tách thành
ion calci 2+ hoạt hóa prothrombin thành thrombin bổ xung cho quá trình hoạt hóa và gắn với
citrate trong ACD-A để tạo ra quá trình chống đông. Tuy nhiên theo một số kỹ thuật tách PRP
mới hiện nay không cần hoạt hóa tiểu cầu mà để hoạt hóa tự nhiên như kỹ thuật của Arthrex,
lấy PRP chứa tiểu cầu nguyên vẹn chưa hoạt hóa để tiêm vào vị trí tổn thương, sau đó tiểu cầu
sẽ tự hoạt hóa. Khi cục máu đông được hình thành sẽ khởi động quá trình hoạt hóa tiểu cầu và
ngay lập tức các hạt α của tiểu cầu giải phóng ra các protein. Trong vòng 10 phút đầu sau hoạt
hóa hạt α sẽ bài tiết ra khoảng 70% và trong vòng 1 giờ đầu giải phóng 95- 100% số lượng
protein. Sau đó tiểu cầu sẽ tổng hợp thêm các protein trên để bổ xung vào các hạt α dự trữ
trong bào tương tiểu cầu. Quá trình này diễn ra liên tục cho đến khi tiểu cầu chết (thời gian
sống của tiểu cầu khoảng 5- 10 ngày).
Cho đến nay, phương pháp chuẩn bị PRP đã được báo cáo trong một số bài báo với các quy
trình khác nhau. Tuy nhiên số lượng tiểu cầu cũng như nồng độ các yếu tố trăng trưởng s ẽ khác
nhau phụ thuộc vào quá trình chuẩn bị PRP. Đầu tiên các thuốc chống đông máu nh ư ACD-A
(dung dịch dextrose citrate chống đông máu, dung dịch A) được thêm vào toàn bộ máu để
chống đông máu. Sau khi quay ly tâm các chất hoạt hoá như calcium gluconate được thêm vào
để kích hoạt PRP. Tuy nhiên, các chất phụ gia ngoại sinh này có th ể có tác dụng ph ụ trong môi
trường lâm sàng. Ví dụ, sodium citrate có thể gây ra sự kết tụ của tiểu cầu, dẫn đến số lượng tiểu
cầu không chính xác ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng. Trong khi đó, thrombin xenogeneic và
các chất đông máu khác có thể kích hoạt các phản ứng miễn dịch.
Mặt khác, trong những bộ kit chuẩn bị sẵn có sự hiện diện của thuốc chống đông, bởi v ậy ph ải
cần them một số chất bảo quản để có thể bảo quản được bộ kit cho đến lúc sử dụng.  Việc sử
dụng các bộ kit này chắc chắn sẽ làm tăng chi phí lâm sang của phương pháp PRP.  Để đảm bảo
hiệu quả lâm sàng và tính khả dụng, ít chất ngoại sinh được ưu tiên hơn khi áp dụng PRP trong
môi trường lâm sàng. Do đó, để có một PRP dung trong lâm sang mà không có một chất phụ gia
nào khác là một điều vô cùng lý tưởng. Các nhà khoa học đã nhận thấy rằng, việc bảo qu ản ch ế
phẩm máu ngoài việc sử dụng các chất chống đông thì việc bảo quản ở nhiệt độ lạnh (dưới 4 độ)
cũng sẽ không làm cho máu bị đông. Mặc dù việc bảo quản ở nhiệt độ lạnh trong quá trình
chuyền máu sẽ làm số lượng tiểu cầu giảm đi. Tuy nhiên, đối với phương pháp PRP, m ục tiêu
chúng ta cần là các chất tang trưởng từ quá trình hoạt hoá tiểu cầu. Bởi vậy việc số lượng ti ểu
cầu bị giảm trong quá trình bảo quản sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả của PRP. Hơn n ữa, khi
nhiệt độ thay đổi đột ngột tang lên 37 độ thì quá trình hoạt hoá sẽ diễn ra mà không cần phải sử
dụng các chất hoạt hoá. Vì vậy một phương pháp huyết tương giàu tiểu cầu và không sử dụng
các chất phụ gia khác là PRP kiểm soát nhiệt đã được đề xuất.
Đối với phương pháp t-PRP để duy trì sự ổn định của nhiệt, quá trình này sẽ được thực hiện
trong môi tường nhiệt độ thấp, và tất cả các ống nghiệm, thủ thuật sẽ được đặt trong môi trường
4 độ C trước khi tiến hành. Máu được them vào các ống ly tâm và ly tâm ở 1500 vòng trong 10
phút ở 4oC. Sau đó, toàn bộ huyết tượng sẽ được hút chuyển ra các ống mới và ly tâm 4000
vòng trong 10 phút ở 4oC. 1ml huyết tương dưới cùng kết tủa tiểu cầu sẽ được sử dụng nh ư t-
PRP. T-PRP được chuyến sang ống thuỷ tinh mới và sau đó ủ trong 15 phút ở 37oC để ho ạt hoá
tiểu cầu. Bề mặt thủy tinh được cho là làm quá trình hoạt hóa tiểu cầu diễn ra một cách tự nhiên
mà không cần thêm tác nhân gì. Sau khi tiểu cầu hoạt hóa 5-20p sẽ có hiện tượng kh ối ti ểu c ầu
đông đặc co lại và sản phẩm cuối cùng thu được vẫn là huyết thanh giàu yếu tố tăng trưởng và
xơ fibrin.
III, Ứng dụng của PRP trong da liễu thẩm mỹ và một số lưu ý:
* Ứng dụng:
STT Mục đích Phương pháp
1 Trẻ hóa:
+ Căng bóng -Lăn kim, phi kim, tiêm vi điểm PRP hoặc mix HA

+ Se khit lỗ chân lông - Lăn kim, phi kim mix botox

+ Làm trắng - Lăn kim, phi kim, tiêm vi điểm mix Vitamin C
2 Trị sẹo
3 Chỉnh sửa đường nét -Tiêm vùng dưới mắt làm đầy
-Mix filler tiêm rãnh mũi má

- Trẻ hóa: + lăn kim, phi kim PRP, mix botox se khít lỗ chân lông,
+ tiêm vi điểm PRP, mix HA, mix Vitamin C
- Trị sẹo:
- Làm đầy: tiêm vùng dưới mắt, mix filler tiêm rãnh mũi má,

*Lưu ý khi chỉ định điều trị PRP:


- CCĐ: + Sốt, cảm cúm, phát ban,…
+Không sử dụng thuốc kháng viêm như: Aspirin, Motrin (hoặc bất kỳ loại thuốc
Ibuprofen khác) ít nhất 3 ngày đến 1 tuần trước điều trị.
+Đang hoặc đã sử dụng thuốc có thành phần Corticosteroid (steroid) trong vòng 2 tuần
trước điều trị.
-Ngưng sử dụng của bất kỳ các tác nhân làm loãng máu khác như: Vitamin E, Vitamin A, Gingko
Biloba, tỏi, dầu gan cá, axit béo thiết yếu (EFA và của DHA)…Ít nhất 3 ngày đến 1 tuần trước &
sau điều trị để giảm thiểu vết thâm tím & chảy máu.
-Không sử dụng rượu, cà phê, thức ăn cay, thuốc lá 3 ngày trước & sau khi điều trị (tất cả những
chất này có thể làm tăng nguy cơ bầm tím).
*Lưu ý sau điều trị PRP:
- Không chạm, ấn, chà, hay thao tác bất kỳ nào vào khu vực điều trị ít nhất 8 giờ sau điều trị.
- Tránh sử dụng Asprin, Motrin, Ibuprofen, Aleve (tất cả các tác nhân kháng viêm không
steroid), Gingko Biloba tỏi, dầu gan gá, Vitamin A, Vitamin E, hoặc bất kỳ axit béo thiết yếu
khác ít nhất 3 ngày đến 1 tuần trước & sau khi điều trị. Hãy nhớ rằng, chúng ta đang tạo ra
tình trạng viêm.
- Nếu cảm thấy khó chịu hay đau có thể sử dụng thuốc giảm đau có thành phần
Acetaminophen.

You might also like