Professional Documents
Culture Documents
electrophin mạnh hơn) => dễ bị tấn công bởi nucleophin ( điện tích âm) vì hệ liên hợp
Liên kết C = O trong chuỗi bên acylamino không dễ bị tấn công nucleophin, bởi
vì, như điển hình của các amid (vì CO-NH là hệ liên hợp pi-xích ma-e tự do), nguyên
tử nitơ có thể đưa e tự do của nó vào nhóm cacbonyl làm cho nó trở thành electrophite
yếu hơn, Tương tự, liên kết C = O trong chuỗi bên của axit cacboxylic, hoặc ion
cacboxylat, không dễ bị tấn công nucleophin vì nguyên tử oxy có thể đưa cặp đơn lẻ
của nó vào nhóm cacbonyl liền kề => Trong số ba liên kết C = O trong penicilin,
phản ứng thủy phân. Cơ chế phản ứng là phản ứng thay thế acyl nucleophin, tạo thành axit
peniciloic, không có hoạt tính kháng sinh mong muốn - penicilin trở nên vô dụng.
The acylamino side-chain can open the β-lactam ring
Ngoài ra, chuỗi phụ acylamino có thể giúp hỗ trợ việc mở vòng của vòng β-lactam. Nó có thể
hoạt động như một nucleophile bên trong và tấn công β-lactam carbonyl tạo thành chất trung
gian rất căng, sau đó mở ra để phá vỡ vòng β-lactam. Điều này làm cho penicilin không hoạt
Thay đổi chuỗi CO-NH bên để tạo thành penicillin ổn định hơn
Để giảm hoặc ngăn chặn sự tham gia của chuỗi bên acylamino và quá trình tự hủy, các nhà
nghiên cứu đã đặt một nhóm thế rút điện tử trong chuỗi bên. Nhóm này hút electron và làm
cho nhóm cacbonyl amide trở thành nucleophile yếu hơn, ít có khả năng phản ứng với β-
lactam carbonyl. Ví dụ, penicillin G dễ bị 'tự hủy' hơn penicillin V, hoặc
phenoxymethylpenicillin
Penicillin V chứa oxy trong nhóm thế Ph-O, chất này kéo mật độ điện tử ra khỏi nhóm
amit cacbonyl và do đó làm giảm tính nucleophile => giảm phản ứng với vòng β-lactam.
Vì penicilin V đủ ổn định để tồn tại trong điều kiện nước có tính axit trong dạ dày
=> dùng dưới dạng viên nén (thường được bệnh nhân ưa thích), penicilin G thì dùng
bằng đường tiêm.