You are on page 1of 181

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THÙY LINH

KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ


THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THÙY LINH

KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ


THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành đào tạo: Luật Kinh tế


Mã số 9 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Bùi Nguyên Khánh
2. TS. Vũ Đặng Hải Yến

HÀ NỘI - 2020
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng. Các
kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung
thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận án

Trần Thùy Linh


ii

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Bùi
Nguyên Khánh – người hướng dẫn khoa học 1 và TS. Vũ Đặng Hải Yến – người
hướng dẫn khoa học 2, đã tận tình hướng dẫn tác gỉả hoàn thành bản luận án này.

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, các thầy, cô,
anh, chị, em, bạn bè đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và đóng góp
những ý kiến quý báu để tác giả có thể hoàn thành được luận án của mình.
iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i


LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ................................ vi
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH TRONG LUẬN ÁN ......................... vii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 4
5. Những điểm mới của luận án ............................................................................ 4
6. Kết cấu của Luận án ........................................................................................ 5
PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU .............................. 6
1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ...................................... 6
1.1. Những nghiên cứu về lý luận kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường .............................................................................................................. 6
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ......................................... 9
1.3. Những nghiên cứu về xu hướng pháp luật và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.................... 14
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................... 17
3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu .................................................. 20
4. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu ......................................................... 20
4.1. Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 20
4.2. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu đặt ra khi nghiên cứu luận án ........................ 22
KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN ................................................................... 23
CHƯƠNG 1 ..................................................................................................... 24
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT HÀNH VI
LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ...................................... 24
1.1. Kiếm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường .......................... 24
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ............. 24
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường ......................................................................................... 34
1.1.3. Các công cụ kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường .......... 39
iv

1.2. Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ...... 42
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường ............................................................................................................ 42
1.2.2. Mục tiêu kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của pháp
luật cạnh tranh .................................................................................................. 43
1.2.3. Các cách tiếp cận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ....... 46
1.2.4. Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ..... 49
1.3. Mô hình kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trường theo pháp
luật cạnh tranh các nước ................................................................................. 59
1.3.1. Kinh nghiệm của EU ................................................................................ 59
1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ.......................................................................... 62
1.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản ....................................................................... 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................. 66
CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... 67
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
VIỆT NAM ...................................................................................................... 67
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống
lĩnh thị trường ................................................................................................. 67
2.1.1. Quy định về nhận diện doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ........... 67
2.1.2. Quy định về xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ............ 80
2.1.3. Quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường ....................................................................................... 103
2.1.4. Hậu quả pháp lý của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường........... 108
2.2. Thực trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và thực tiễn thi hành
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ........... 114
2.2.1. Thực trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ........................................................... 114
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam .............................................. 123
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc thi hành pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ..... 128
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................... 132
CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 133
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ....................................................................... 133
3.1. Phương hướng hoàn thiện ....................................................................... 133
3.1.1. Đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế, thích ứng với môi
trường kinh doanh toàn cầu và phù hợp với các cam kết quốc tế ....................... 133
v

3.1.2. Duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng, hiệu quả nhưng không
cản trở mục tiêu đổi mới và tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp ........................ 134
3.1.3. Thể hiện rõ hơn yêu cầu về kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy
pháp lý .......................................................................................................... 136
3.1.4. Xác định rõ mối liên hệ giữa Luật cạnh tranh và các Luật chuyên ngành,
đảm bảo chính sách điều tiết ngành trong những lĩnh vực nhất định. ................. 137
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường của Việt Nam ........... 138
3.2.1. Hiện đại hóa phương pháp tiếp cận trong việc xây dựng các quy định về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ..................................... 138
3.2.2. Hoàn thiện quy định về xác định thị trường liên quan .............................. 141
3.2.3. Hoàn thiện quy định về xác định vị trí thống lĩnh thị trường .................... 143
3.2.4. Hoàn thiện quy định về xác định hành vi lạm dụng .................................. 149
3.2.5. Hoàn thiện quy định về các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng ................. 157
3.2.6. Hoàn thiện quy định về cơ chế thực thi ................................................... 160
KẾT LUẬN .................................................................................................... 165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 166
vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CQCT Cơ quan Cạnh tranh


CQLCT Cục Quản lý Cạnh tranh
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
European Court of Justice
ECJ
Tòa án công lý liên minh Châu Âu
European Union
EU
Liên minh Châu Âu
Free Trade Agreement
FTA
Hiệp định thương mại tự do
HCCT Hạn chế cạnh tranh
International Competition Network
ICN
Mạng lưới Cạnh tranh quốc tế
NĐ – CP Nghị định - Chính phủ
VTTLTT Vị trí thống lĩnh thị trường
Organization for Economic Cooperation and Development
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
United Nations Conference on Trade and Development
UNCTAD
Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc
Small but Significant and Non-Transitory Increase in Price
SSNIP
Phép thử độc quyền giả định
Treaty on the Functioning of the European Union
TEFU
Công ước về chức năng của liên minh Châu Âu
vii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH TRONG LUẬN ÁN

Bảng 2.1: Số vụ việc lạm dụng VTTLTT điều tra, xử lý giai đoạn 2006-2017 .....125
Bảng 2.2: Số vụ việc HCCT giai đoạn 2006 – 2016 .............................................126

Biểu đồ 2.1: Số vụ việc HCCT giai đoạn 2006 - 2016 ..........................................126


Biểu đồ 2.2: Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006 - 2014 ...........126
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sự tích tụ kinh tế trong quá trình cạnh tranh, từ những điều kiện tự nhiên
của thị trường như yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự tồn tại của các rào cản
gia nhập thị trường, sự dị biệt của sản phẩm, sự bảo hộ của quyền lực nhà nước... đã
làm hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Những doanh
nghiệp này nắm giữ quyền lực thị trường và thường có khuynh hướng khai thác
quyền lực đó bằng cách tác động mạnh mẽ đến các yếu tố của thị trường (về giá cả,
sản lượng, chất lượng…) để tận thu lợi ích từ khách hàng, người tiêu dùng và triệt
tiêu khả năng cạnh tranh của đối thủ nhằm duy trì vị thế của mình. Hậu quả là, làm
giảm động lực phát triển của nền kinh tế (các doanh nghiệp thống lĩnh vẫn có thể
thu được lợi nhuận tối đa mà không cần cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm…), xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng (quyền lựa
chọn của người tiêu dùng bị hạn chế, do đó phải mua hàng chất lượng kém hơn với
giá đắt hơn do doanh nghiệp thống lĩnh áp đặt….), làm méo mó, giảm tính cạnh
tranh của thị trường (các doanh nghiệp đối thủ bị chèn ép phải rút khỏi thị trường
hoặc không thể gia nhập thị trường). Về mặt lý thuyết, cơ chế tự điều chỉnh của thị
trường có khả năng làm cho vị thế thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp suy yếu
dần và cuối cùng bị triệt tiêu. Nhưng chính những hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường dường như làm vô hiệu hóa cơ chế tự điều chỉnh của
thị trường bằng việc tạo ra những rào cản mở rộng kinh doanh hay rào cản gia nhập
thị trường của đối thủ cạnh tranh, khiến cho doanh nghiệp thống lĩnh né tránh được
sức ép cạnh tranh từ các đối thủ có thể làm lung lay vị thế thống lĩnh của nó hoặc
lạm dụng quyền lực mạnh trên thị trường của mình để bóc lột khách hàng, gây thiệt hại
cho khách hàng. Khi đó, sự can thiệp của Nhà nước đối với thị trường ở mức độ nhất
định là cần thiết để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các chủ thể
kinh doanh, là cơ sở quan trọng cho sự vận hành năng động, hiệu quả của nền kinh
thị trường. Sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường được thực hiện thông qua
nhiều công cụ khác nhau, trong đó, pháp luật cạnh tranh được coi là công cụ quan
trọng và hiệu quả nhất.
Luật cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 2004 với các quy định về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường khá đầy đủ, cụ thể và chi
tiết. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực thi, các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Việc áp dụng các quy định về lạm dụng VTTLTT để xác định doanh nghiệp có
VTTLTT, nhận diện và xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường còn rất
2

khó khăn, phức tạp. Giai đoạn từ 2006 đến 2017 Cục quản lý cạnh tranh (CQLCT),
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam về quản lý cạnh tranh, mới chỉ thụ
lý điều tra được 8 vụ việc về hạn chế cạnh tranh (HCCT), trong đó có 4 vụ việc liên
quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Để khắc phục những bất cập
của luật cạnh tranh 2004, đồng thời, đáp ứng đòi hỏi về hoàn thiện các thể chế kinh
tế thị trường, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu với sự tham gia sâu
rộng của Việt Nam vào các sân chơi chung của khu vực và thế giới như: Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam – EU (EVFTA)… , Luật cạnh tranh 2018 đã được ban hành với nhiều
sửa đổi tích cực liên quan đến kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT. Đến nay, Luật
cạnh tranh 2018 đã có hiệu lực song nhiều nội dung vẫn chưa được hướng dẫn. Vì
vậy, trong bối cảnh giao thời này, việc nghiên cứu, đánh giá các quy định của Luật
cạnh tranh 2004 và nhận thức về nội dung của Luật cạnh tranh 2018 và tìm cách
đưa nó vào cuộc sống là hết sức cần thiết.
Bởi vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu với hy vọng rằng kết quả nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa đáng kể cho cải
cách môi trường cạnh tranh ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn thực thi pháp
luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, luận án hướng
đến mục đích xây dựng các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm soát
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường tại Việt Nam.
Để đạt được các mục đích nghiên cứu cơ bản như trên, nhiệm vụ cụ thể của
luận án gồm:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát hành vi
lạm dụng VTTLTT như phân tích và làm rõ các khái niệm thống lĩnh thị trường, lạm
dụng VTTLTT; mục tiêu kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường của pháp luật cạnh tranh; các học thuyết về kiểm soát hành vi lạm dụng
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường; nội dung điều chỉnh pháp luật cạnh
tranh đối với hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
- Tìm hiểu kinh nghiệm của các hệ thống pháp luật khác (Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản) trong việc kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường để rút ra những bài học cho Việt Nam.
3

- Phân tích, đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân cho việc thực thi
chưa hiệu quả các quy định của luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay về chống lạm
dụng VTTLTT.
- Từ thực tiễn của Việt Nam và một số hệ thống pháp luật được lựa chọn để
nghiên cứu đề xuất định hướng và các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về cạnh tranh;
- Các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của Việt Nam.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của
Việt Nam. Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về về kiểm soát hành
vi lạm dụng VTTLTT của Việt Nam.
- Kinh nghiệm của EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT.
- Các quan điểm khoa học đã được các tác giả cá nhân và các tổ chức công bố
trong các nghiên cứu về cạnh tranh nói chung và hành vi lạm dụng VTTLTT nói
riêng cả trong và ngoài nước.
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT, như vậy sẽ không bao gồm các hành vi lạm dụng quy định riêng cho
doanh nghiệp độc quyền như cách phân chia của Luật Cạnh tranh Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
thực trạng quy định và thực tiễn thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT tại Việt Nam; những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT tại Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản cũng được nghiên cứu để đề
xuất bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến thời điểm hiện tại.
- Phạm vi về văn bản quy phạm pháp luật: Nghiên cứu các quy định về kiểm
soát hành vi lạm dụng VTTLTT trong Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn
thi hành, bao gồm Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh 2018 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
4

4. Phương pháp nghiên cứu


Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, tác giả sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học pháp lý như phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp lịch sử, phương pháp thống kê...trong đó phương pháp nghiên cứu được sử
dụng chủ yếu là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh. Cụ thể:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Việc phân tích trước hết được thực hiện
với các quy định luật thực định để phân tích, giải thích và hệ thống hóa các quy
định cụ thể của các hệ thống pháp luật được nghiên cứu. Mục đích của việc phân
tích – tổng hợp các quy định pháp luật là cung cấp một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về
các quy định liên quan đến kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của các hệ thống
pháp luật có liên quan đồng thời đưa ra đánh giá việc thực thi các quy định đó. Các
nguồn được sử dụng để phân tích bao gồm văn bản pháp luật, án lệ, các học thuyết.
Phương pháp phân tích cũng được sử dụng đối với các vụ việc thực tiễn, án lệ từ
quá trình thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT ở Việt Nam và
một số hệ thống pháp luật điển hình trên Thế Giới. Việc phân tích các tình huống
nhằm tìm hiểu và đánh giá việc áp dụng các quy định liên quan trên thực tiễn, tìm ra
những điểm chưa đầy đủ, những điểm còn bất hợp lý trong các quy ðịnh của pháp
luật. Ðồng thời việc sử dụng case study sẽ bổ trợ cho những lý lẽ, luận giải và kiến
nghị mà nghiên cứu đưa ra.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được dùng để xác định những điểm
giống nhau và khác nhau của các quy định trong các hệ thống pháp luật được
nghiên cứu liên quan đến chống hành vi lạm dụng VTTLTT. Việc so sánh, đối
chiếu nhằm chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và
pháp luật một số nước về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT. Trên cơ sử so sánh,
giải thích và đánh giá, luận án sẽ chỉ ra những giải pháp pháp lý phù hợp cho việc
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT.
5. Những điểm mới của luận án
Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa kết quả nghiên cứu ở các công trình khoa học
của các tác giả đi trước, luận án “Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường theo pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” có những điểm mới như
sau:
Thứ nhất, Luận án đã hệ thống, bổ sung và làm sâu sắc những vấn đề lý
luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Luận án xây
dựng và làm rõ nội hàm khái niệm kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường và pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
5

trường. Luận án cũng đã phân tích và làm rõ khái niệm, mục tiêu, các quan điểm
tiếp cận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và cấu trúc
pháp luật về kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo
pháp luật cạnh tranh.
Thứ hai, Luận án đã phân tích khá đầy đủ, chi tiết và có hệ thống thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam hiện nay. Bằng phương pháp so sánh, luận
án đã chỉ ra những điểm tương đồng, mức độ hội nhập giữa các quy định của
Luật cạnh tranh Việt Nam với Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD và một số
hệ thống pháp luật điển hình về cạnh tranh như Hoa Kỳ, EU.
Thứ ba, Luận án đã phân tích những yêu cầu hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm vừa đảm bảo quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo mục tiêu của pháp luật cạnh tranh.
Trên cơ sở đó, Luận án đã đề xuất những giải pháp mang tính khoa học nhằm
hoàn thiện pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở
Việt Nam trong thời gian tới.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài Mục lục, Mở đầu, Phần tổng quan tình hình nghiên cứu, Kết luận và
Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường và thực tiễn thi hành tại Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam.
6

PHẦN TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU


1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Mặc dù trong thực tế các trường hợp lạm dụng VTTLTT xảy ra khá thường
xuyên nhưng số lượng các công trình nghiên cứu chuyên ngành dành riêng cho
lĩnh vực này có thể được coi là không được dồi dào như đối với các lĩnh vực
khác của pháp luật cạnh tranh. Năm 1890, khi đạo luật Sherman được thông qua
tại Hoa Kỳ, trở thành đạo luật đầu tiên trên thế giới về kiểm soát độc quyền, việc
nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh đã được bắt đầu. Nhưng phải đến đầu những
năm 50 của thế kỷ 20, mới xuất hiện những nghiên cứu đầu tiên về lạm dụng
VTTLTT sau khi các quy định liên quan của Liên minh Châu Âu có hiệu lực.
Các nội dung nghiên cứu có liên quan đến chủ đề lạm dụng VTTLTT chủ yếu
nằm trong những nghiên cứu chung về luật cạnh tranh, chính sách cạnh tranh,
đặc biệt là về luật và chính sách cạnh tranh của Liên minh Châu Âu (EU), Hoa
Kỳ hay nằm trong những nghiên cứu mang tính so sánh giữa luật và chính sách
cạnh tranh của EU và Hoa Kỳ, vốn được coi là hai mô hình cơ bản của pháp luật
cạnh tranh trên Thế Giới.
1.1. Những nghiên cứu về lý luận kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường
Những nghiên cứu về lý luận kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT tập trung
vào làm rõ các khái niệm thống lĩnh thị trường, quan điểm về hành vi lạm dụng
VTTLTT, sự cần thiết và cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị VTTLTT. Trong
các nghiên cứu, thuật ngữ “độc quyền” đôi khi được sử dụng thay thế cho thuật ngữ
“thống lĩnh thị trường” với bản chất không thay đổi.
Về quan niệm hay khái niệm thống lĩnh thị trường. Nghiên cứu của các tác
giả Marcel Canoy, Eric van Damme và Rey “Dominance and monopolization”
(Thống lĩnh và độc quyền) [37] cho rằng, về mặt khái niệm thì thống lĩnh thị
trường (dominance theo cách gọi của luật cạnh tranh EU) hay độc quyền thị
trường (monopoly theo cách gọi của luật chống độc quyền Hoa Kỳ) đều để chỉ vị
trí đặc quyền của một doanh nghiệp, mang lại cho nó khả năng hành động một
cách độc lập với các đối thủ cạnh tranh, biểu hiện ở khả năng dẫn dắt thị trường
của nó. Nghiên cứu cho rằng rất khó xác định rõ ràng được là hiện tượng thống
lĩnh thị trường hay độc quyền sẽ làm suy giảm hay tăng cường phúc lợi xã hội.
Trên thực tế, việc thiết kế chính sách đối với các doanh nghiệp thống lĩnh hay
độc quyền cũng đưa lại hai thái cực. Nghiên cứu minh chứng bằng quan điểm
7

của trường phái Chicago thể hiện quan điểm khá thoải mái với các doanh nghiệp
thống lĩnh/ độc quyền, cho rằng doanh nghiệp thống lĩnh nhìn chung là tốt cho
người tiêu dùng, tạo ra nhiều công ăn việc làm, khai thác tốt và cải tạo quy mô
nền kinh tế. Trái ngược với quan điểm đó, trường phái “châu Âu cũ” (Old
European) thể hiện sự lo lắng về sự tồn tại của các doanh nghiệp thống lĩnh sẽ
cản trở sự vận hành của các quy luật thị trường. Giá cả sẽ được quyết định bởi số
ít các doanh nghiệp, sự cạnh tranh sẽ bị biến dạng, các doanh nghiệp nhỏ sẽ
không có cơ hội tồn tại. Các tác giả cho rằng cần xem xét và tiếp thu tính hợp lý
của cả hai quan điểm. Không có lý do gì để có một thái độ thoải mái đối với các
công ty thống lĩnh. Từ góc độ kinh tế, có nhiều giả thuyết mạnh mẽ cho thấy
rằng các công ty thống lĩnh có động cơ và lợi thế để làm giảm phúc lợi xã hội.
Không có dấu hiệu cho thấy các công ty thống lĩnh đứng ngoài hay là nhân tố
cần thiết để đổi mới, cải cách kinh tế. Quan điểm của các tác giả ủng hộ tự do
cạnh tranh nhưng không coi nhẹ vai trò của chính phủ trong việc can thiệp vào
thị trường khi cần thiết.
Cuốn sách “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền kinh doanh” trong khuôn khổ dự án hoàn thiện môi trường
kinh doanh VIE/97/016 đã định nghĩa “độc quyền trong kinh doanh là việc một
doanh nghiệp hay một tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ”.
Trong cuốn sách “Phân tích và luận giải các quy định của luật cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh" của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và Nguyễn Ngọc Sơn, mặc dù không trực
tiếp đưa ra khái niệm VTTLTT nhưng đã chỉ ra “vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
có thể được hình thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện
tự nhiên của thị trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự biến dị của
sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường; hoặc sự bảo hộ của quyền
lực nhà nước...Trong những trường hợp nói trên, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền
của doanh nghiệp là hợp pháp và đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường,
hay còn gọi là khả năng chi phối các quan hệ thị trường”[22, tr. 11, 12]. Tác giả
Phạm Hoài Huấn và Nhữ Ngọc Tiến trong cuốn sách “Pháp luật chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh về giá”, đã nhìn nhận VTTLTT
từ khả năng khống chế thị trường của doanh nghiệp. Theo đó, “vị trí thống lĩnh thị
trường liên quan đến sức mạnh kinh tế của một doanh nghiệp có khả năng ngăn
8

chặn hữu hiệu cạnh tranh hiện có trên thị trường thông qua việc doanh nghiệp này
có khả năng hành xử trong phạm vi độc lập với đối thủ cạnh tranh[13, tr. 22].
Về khái niệm hành vi lạm dụng VTTLTT và cơ chế kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT cũng được đề cập tại một số công trình nghiên cứu cả trong và ngoài
nước. PGS.TS Nguyễn Như Phát có bài viết “Độc quyền và xử lý độc quyền”
đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật số
8/2004. Bài viết chỉ ra mục đích quan trọng nhất của mảng pháp luật về kiểm
soát độc quyền là chống độc quyền hóa, hạn chế hay thủ tiêu cạnh tranh – động
lực phát triển kinh tế. Pháp luật chống độc quyền không có ý định và khả năng
thủ tiêu triệt để mọi hiện tượng độc quyền trong cơ cấu thị trường. Vẫn biết rằng,
độc quyền sẽ tạo sự sơ cứng cho phát triển kinh tế và vì thế, pháp luật cạnh tranh
luôn tỉnh táo đề ngăn cản và dẹp bỏ mọi toan tính độc quyền hóa. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp cụ thể, vì lý do phải đảm bảo lợi ích công cộng, vì tính
chất và điều kiện đặc thù nhất thời của một ngành hay lĩnh vực kinh tế (thí dụ
sản xuất vũ khí hay các phương tiện bí mật nhà nước) cần thiết và có thể cho
phép duy trì độc quyền trong một lĩnh vực với mức độ và điều kiện nhất định.
Nói về sự cần thiết Nhà nước phải can thiệp vào thị trường trong trường hợp độc
quyền, tác giả cho rằng “khi đối xử với các nhà độc quyền, pháp luật cần nhìn
nhận nó như một sự "thống nhất" tạm thời của của các mặt đối lập, như một sự
"đứng yên" tương đối của sự vật và hiện tượng. Trong trường hợp này, Nhà nước
và pháp luật cần xuất hiện dường như một "bàn tay hữu hình" để tạo đối trọng
với nhà độc quyền.
Luận án Tiến sĩ với đề tài Economic and Legal aspects of the competition
policy from the European Union-Abuse of Dominance Position của Laura Laze
[70] tiếp cận cả từ góc độ kinh tế và pháp lý, trong đó đặc biệt tập trung phân tích
chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT. Theo tác giả, chính sách cạnh
tranh của Liên minh Châu Âu được hình thành nhằm đạt được hai mục tiêu chính:
a) hỗ trợ thị trường trong liên minh (bằng cách cấm phân biệt giá giữa các nước
thành viên, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa để đảm bảo cơ hội bình đẳng, vv…)
và bảo đảm hiệu quả kinh tế (bằng cách duy trì và / hoặc cải thiện sự đa dạng, chất
lượng và giá cả của hàng hóa và dịch vụ được cung cấp trong Liên minh). Tác giả
đã chỉ ra các khía cạnh cụ thể của chính sách cạnh tranh liên quan đến hành vi lạm
dụng của các doanh nghiệp đang nắm giữ VTTLTT. Tác giả cho rằng, mục tiêu
trong chính sách cạnh tranh EU không thể đạt được nếu không có các quy định để
9

điều chỉnh các hành động đơn phương của các công ty đang nắm giữ sức mạnh thị
trường đáng kể làm phá vỡ sự cân bằng thị trường để duy trì hoặc tăng cường vị thế
thị trường của họ. Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh các quy định về lạm dụng
VTTLTT không nên can thiệp hay hạn chế khả năng cạnh tranh mạnh mẽ của các
công ty thống lĩnh trên thị trường, miễn là hiệu ứng của hành vi kinh doanh của họ
có lợi cho người tiêu dùng.
Giáo sư Federico Etro thuộc khoa Kinh tế, Đại học Milan trong bài viết The
Economics of Competition Policy and Dominant Market Position (Khía cạnh
kinh tế của chính sách cạnh tranh và vị trí thống lĩnh thị trường) [57], đã chỉ ra
việc xác định vị trí thống lĩnh cũng như hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh theo Luật cạnh tranh châu Âu đang kéo theo những phân tích kinh
tế mang tính phức tạp. Nghiên cứu cũng phân tích về sự chuyển biến trong chính
sách cạnh tranh dưới góc độ kinh tế học, trong đó VTTLTT được xem là trường
hợp tham chiếu đặc biệt. Tác giả đã đưa ra những quan điểm về các khía cạnh
liên quan trong chính sách cạnh tranh của EU và những tranh luận về những cải
cách của nó. Tác giả cho rằng những tiến bộ gần đây trong lý thuyết kinh tế về
chính sách cạnh tranh và VTTLTT đã nhấn mạnh nhu cầu về cách tiếp cận thận
trọng hơn về chống độc quyền và vai trò dẫn dắt thị trường, đặc biệt là đối với
thị trường công nghệ cao, thị trường mang tính năng động và sáng tạo. Việc
doanh nghiệp nắm giữ thị phần lớn không nên mặc nhiên hiểu là doanh nghiệp
nắm giữ quyền lực thị trường hay có vị trí thống lĩnh, trong khi điều kiện gia
nhập thị trường (cả ở thị trường truyền thống và thị trường công nghệ cao) nên
có một vai trò quan trọng trong việc xác định liệu doanh nghiệp dẫn đầu thị
trường có thể thực hiện hành vi lạm dụng hay không.
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Liên quan đến thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm
soát hành vi lạm dụng VTTLTT ở Việt Nam đã có nhiều bài viết, nghiên cứu, tiêu
biểu phải kể đến các nghiên cứu sau đây:
Bài viết của tác giả Nguyễn Lan Anh với tiêu đề “Xác định thị trường liên
quan và vấn đề nhận dạng vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp theo pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam” [1], đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
7/2009 đã đề cập đến những nội dung pháp lý của việc xác định thị trường liên
quan, ý nghĩa của nó khi nhận dạng thị trường độc quyền và một số những kiến nghị
ban đầu nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định thị trường liên quan ở Việt Nam.
10

Một trong những nghiên cứu nổi bật, bao quát về lạm dụng VTTLTT hiện nay
là “The Law and Economics of Arrtilce 102 TFEU” [76]. Đây là một công trình
nghiên cứu đồ sộ và toàn diện về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT được quy
định tại điều 102 Công ước về chức năng của liên minh Châu Âu (TFEU). Công
trình nghiên cứu gồm có 18 phần, lần lượt giới thiệu, phân tích và làm rõ nguồn
gốc, nền tảng lý thuyết của điều 102 TFEU; các khái niệm cơ bản: thị trường, thị
trường liên quan, VTTLTT, lạm dụng…; các hành vi lạm dụng cụ thể: định giá hủy
diệt, định giá quá mức, từ chối giao kết hợp đồng, bán kèm và bán trọn gói, ép giá,
áp đặt điều kiện bất hợp lý... Các tác giả đã tiếp cận cả từ góc độ kinh tế học và góc
độ khoa học pháp lý để nghiên cứu việc áp dụng các quy định của điều 102 Công
ước về chức năng của liên minh Châu Âu (TFEU) đối với các doanh nghiệp thống
lĩnh thị trường. Những hành vi lạm dụng phổ biến của doanh nghiệp thống lĩnh, độc
quyền được phân tích chi tiết dựa trên cả góc độ tiếp cận từ các nguyên tắc kinh tế,
các vụ việc pháp lý thực tiễn, các bản án, quyết định của các cơ quan tài phán và
các nghiên cứu pháp lý, kinh tế của các học giả.
Eleanor Fox (1986), Monopolization and Dominance in the United States
and the European Community- Efficiency, Opportunity, and Fairness (Độc
quyền hóa và thống lĩnh thị trường ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu – Hiệu quả,
cơ hội và sự công bằng) [53] đã sử dụng phương pháp so sánh để phân tích, đánh
giá giải pháp lý của Hoa Kỳ về chống độc quyền với quy định của Cộng đồng
chung châu Âu về kiểm soát lạm dụng VTTLTT. Tác giả cho rằng các quy định
pháp luật EC về chống lạm dụng VTTLTT được quy định cụ thể hơn so với quy
định tương ứng của Hoa Kỳ. Pháp luật EC quy định rõ cấm các doanh nghiệp có
VTTLTT thực hiện các hành vi định giá quá mức, cấm sáp nhập làm hình thành
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, cấm thực hiện các chiến lược nhằm loại bỏ các
đối thủ cạnh tranh, ngăn cản doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, tước đoạt
quyền tự do lựa chọn của người mua…Luật chống độc quyền Hoa Kỳ cấm các
hành vi làm hình thành độc quyền và những hành vi lạm dụng độc quyền mang
tính phản cạnh tranh, trong đó có thể bao gồm sáp nhập làm hình thành độc
quyền và các hành vi bất hợp lý nhằm loại bỏ các chủ thể kinh doanh khác. Luật
chống độc quyền của Hoa Kỳ thể hiện quan điểm cho rằng một số các chiến lược
kinh doanh nhằm gia tăng thị phần, thậm chí là của các công ty thống lĩnh, có thể
mang lại nhiều lợi ích hơn là gây hại cho người tiêu dùng. Nghiên cứu cũng đưa
ra tranh luận của một số học giả Mỹ ủng hộ quan điểm rằng người tiêu dùng sẽ
11

được bảo vệ tốt nhất nếu quyền tự do của các công ty tư nhân được tôn trọng.
Ngược lại, pháp luật cộng đồng chung lại theo xu hướng chấp nhận giả định hầu
như không thể bác bỏ (virtually exclusive presumtions) rằng hành vi của doanh
nghiệp thống lĩnh nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh sẽ chống lại lợi ích của người
tiêu dùng. Tác giả cũng cho rằng sự khác biệt của hai hệ thống pháp luật sẽ cung
cấp cho nhau những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện.
Nghiên cứu của Elenor M. Fox, Monopolization and abuse of dominance:
Why Europe is different (Độc quyền hóa và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường:
Tại sao ở châu Âu lại khác biệt) [54] đã chỉ ra rằng pháp luật Hoa Kỳ về chống
độc quyền và pháp luật của EU về chống lạm dụng VTTLTT có một số điểm
chung. Luật Cạnh tranh EU và Luật Chống Độc quyền Hoa Kỳ đều chống tất cả
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với mục tiêu bảo vệ cạnh tranh, không bảo vệ
đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng lại nằm ở những điểm
khá cơ bản. Sự khác biệt quan trọng thể hiện ở chỗ pháp luật về chống lạm dụng
của EU mang tính cứng nhắc và có cơ chế can thiệp sâu hơn so với pháp luật
Hoa Kỳ về chống độc quyền. Mặc dù từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước,
pháp luật EU về chống lạm dụng VTTLTT có xu hướng coi trọng hiệu quả kinh
tế đồng thời với việc giữ gìn các mục tiêu, giá trị mang tính xã hội, cộng đồng
khi xem xét, đánh giá hành vi thì pháp luật Hoa Kỳ về chống độc quyền lại càng
có xu hướng ít can thiệp hơn.
Phillip Areeda và Donald F. Turner (1975) có bài viết Predatory Pricing
and Related Practices under Section 2 of the Sherman Act (Định giá hủy diệt và
các hành vi liên quan theo mục 2 của đạo luật Sherman) [77]. Các tác giả cho
rằng mặc dù Đạo luật Sherman từ lâu đã cấm hành vi định giá hủy diệt, nhưng
thực tiễn xử lý các vụ việc về định giá hủy diệt cho thấy sự thiếu rõ ràng trong
các quy định liên quan và đặc biệt là việc phân tích hành vi lại dựa trên rất ít
những phân tích kinh tế cũng là một thiêu sót trong việc thực thi của điều 2 đạo
luật Sherman. Trong bài viết của mình, Giáo sư Areeda và Turner phân tích hành
vi định giá hủy diệt thông qua những phân tích kinh tế của hành vi. Sau khi xem
xét ngắn gọn các khái niệm kinh tế cơ bản liên quan đến đo lường chi phí và tối
đa hóa lợi nhuận, các tác giả xem xét các mối quan hệ giữa giá bán của sản phẩm
và chi phí của nó để xác định một đường phân chia hợp lý giữa giá cả cạnh tranh
hợp pháp và giá được xác định rõ ràng là giá hủy diệt. Sau đó, họ áp dụng khung
phân tích kỹ thuật để phân biệt có định giá hủy diệt hay là giảm giá chung.
12

Pinar Akman (2008) có nghiên cứu Exploitative Abuse in Article 82 EC:


Back to Basics? (Lạm dụng trục lợi theo điều 82 EC: Quay trở lại các ván đề căn
bản) [78]. Nghiên cứu tập trung làm rõ khái niệm “exploitative abuse” (hành vi
lạm dụng mang tính trục lợi) và xác định vị trí của nó trong quy định của Điều 82
EC, cũng như xác định xem khi nào và trong hoàn cảnh nào thì sự trục lợi được
xem hay nên được xem là lạm dụng. Tác giả cho rằng, mặc dù không còn nghi ngờ
gì nữa, hành vi lạm dụng mang tính trục lợi là hành vi bị cấm theo điều 82EC,
nhưng lại rất hiếm các tài liệu pháp lý, các nghiên cứu học thuật về vấn đề này,
cho thấy sự sống của điều 82 EC chủ yếu thể hiện qua nội dung về lạm dụng loại
trừ. Tuy nhiên, việc xem xét riêng lạm dụng trục lợi hay lạm dụng loại trừ đều
không mang lại ý nghĩa. Bởi việc xem xét áp dụng các quy định về lạm dụng loại
trừ nếu không có sự kết hợp cùng các quy định về lạm dụng bóc lột sẽ dẫn đến kết
quả không mong muốn là chỉ bảo vệ các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
thống lĩnh. Tương tự, việc xem xét hành vi lạm dụng trục lợi độc lập có thể dẫn
đến kết quả không mong muốn là xử lý các hành vi trục lợi từ người tiêu dùng
nhưng lại không gây hại cho cạnh tranh, do đó không thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật cạnh tranh.
Damien Geradin với bài viết The Necessary Limits to the Control of
'Excessive' Prices by Competition Authorities - A View from Europe (Sự cần
thiết phải giới hạn sự điều chỉnh của định giá quá mức bởi các cơ quan cạnh
tranh – Góc nhìn từ châu Âu) [60] Tác giả cho rằng định giá quá mức là dạng
điển hình của hành vi lạm dụng mang tính trục lợi. Sự kiểm soát mức giá cao
dựa trên nguyên tắc đơn giản là trong thị trường cạnh tranh, giá của hàng hóa
hoặc dịch vụ phải bằng với chi phí sản xuất biên, nhưng mức giá đó không được
đảm bảo khi mức giá cân bằng trên thị trường vượt quá mức giá cạnh tranh do có
sự áp đặt quyền lực thị trường bởi người sản xuất một loại hàng hóa - dịch vụ
nhất định nào đó. Trong trường hợp này, mức giá cao sẽ dẫn đến sự phân bố và
sản xuất không hiệu quả. Lợi ích của người tiêu dùng sẽ bị giảm đi và thay vào
đó là lợi ích tăng thêm của người sản xuất (vì người tiêu dùng sẽ phải trả cao hơn
so với mức giá cân bằng trên thị trường cạnh tranh). Trong những trường hợp đó,
việc ngăn chặn các doanh nghiệp khỏi tình trạng cố tình đặt giá cao bằng pháp
luật là cần thiết để đảm bảo hiệu quả sản xuất và sự phân bổ phúc lợi hợp lý. Tác
giả cũng đã đánh giá những khó khăn thực tế đáng kể gặp phải trong việc xác
định liệu một giá cụ thể có phải là quá mức. Những khó khăn này bao gồm: (i)
13

tìm ra một cách thức để xác đinh chi phí đầy đủ và một mức lợi nhuận hợp lý;
(Ii) xác định các tiêu chuẩn thích hợp; và, trong trường hợp xác định là có vi
phạm; (Iii) thiết kế một phương án bù đắp phù hợp. Các quốc gia sử dụng các
cách thức xác định khác nhau và dường như đều chưa phù hợp. Tác giả đưa ra
kết luận rằng quy định cấm áp đặt giá quá mức của các công ty thống lĩnh chỉ
nên được thực thi trong trường hợp ngoại lệ. Điều đó sẽ xảy ra khi xuất hiện
đồng thời các các yếu tố sau đây: tồn tại lâu dài và ở mức độ đáng kể rào cản gia
nhập và mở rộng kinh doanh, việc loại bỏ chính công ty đó là không thể hoặc vô
cùng khó khăn, việc đầu tư và cải tiến kinh doanh có xu hướng bị hạn chế. Ngay
cả trong những trường hợp này, định giá cao có thể không nhất thiết phải là kết
quả của hành vi bóc lột bởi một công ty thống lĩnh bởi bất kỳ sự tăng giá nào có
thể đơn giản chỉ là sự phản ánh các hoạt động thường xuyên của cơ chế thị
trường mà cơ quan cạnh tranh (CQCT) không nên can thiệp.
Thạc sỹ Đoàn Trung Kiên với bài viết Nhận diện hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam [16]. Bài viết
tập trung vào hai vấn đề cơ bản: 1) Khái niệm và cách thức xác định vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền; 2) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
Theo tác giả, việc Luật cạnh tranh xác định các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền như trên là sự tiếp thu và chỉnh lí có chọn lọc các hành vi
bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của pháp luật cạnh tranh của
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đây là một bước tiến trong tư duy
lập pháp và là động thái rất tích cực của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, đưa pháp luật cạnh tranh của chúng ta tiến dần đến chuẩn mực của
thông lệ và luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, việc quy định các hành vi bị coi là
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền đó cũng không thể đủ sức để
kiểm soát được tất cả các hành vi có tích chất lạm dụng vị thế này trên thực tế
mà các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trong một số ngành
đặc thù như bưu chính viễn thông, điện lực, nước sạch, đường không, đường sắt,
than... ở Việt Nam vẫn thực hiện. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần phải có thêm
các cơ chế kiểm soát mới để kiểm soát hữu hiệu vấn đề này.
Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn trong bài viết Hành vi định giá hủy diệt và việc
ứng dụng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam [25] đã phân tích chỉ doanh
nghiệp có quyền lực thị trường mới có đủ năng lực thực hiện và hoàn tất hành vi
định giá hủy diệt. Khi áp dụng những quy định về việc xác định VTTLTT trong
14

pháp luật Việt Nam vào các vụ việc về định giá hủy diệt, chúng ta chỉ xác định
được khả năng chi phối giá trên thị trường (kéo theo nó là khả năng hủy diệt đối
thủ) mà chưa làm rõ năng lực bóc lột khách hàng sau khi việc loại bỏ đối thủ
hoàn tất. Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dường như chưa được
đặt ra trong pháp luật Việt Nam về định giá hủy diệt. Luật Cạnh tranh của Việt
Nam và các văn bản hướng dẫn có cách tiếp cận đơn giản và cứng nhắc hơn các
quốc gia khác trong việc so sánh giá để xác định hành vi định giá hủy diệt. Theo
đó, cơ quan điều tra chỉ cần xác định và tính toán tất cả các chi phí đã được
doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh sản phẩm (không sử dụng các khái niệm chi
phí khả biến hay chi phí cố định làm căn cứ điều tra) và giá bán thực tế của sản
phẩm rồi so sánh chúng với nhau. Do đó, hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ với mức giá gây lỗ mặc nhiên bị coi là định giá hủy diệt nếu doanh nghiệp
thực hiện hành vi có quyền lực thị trường và hành vi đó không thuộc những
trường hợp đặc biệt theo Khoản 2, Điều 23 của Nghị định 116/2005. Các trường
hợp loại trừ được liệt kê khá cụ thể này có thể tạo thuận lợi cho việc áp dụng,
song mặt khác lại làm cho pháp luật thiếu linh hoạt trong khi thị trường luôn vận
động. Tác giả cho rằng, mặc dù quy định về định giá hủy diệt đã có trong Luật
cạnh tranh 2004, tuy nhiên khả năng thực thi pháp luật về định giá hủy diệt tại
Việt Nam còn hạn chế do sự tồn tại của những nhân tố từ thị trường và quy định
pháp luật.
1.3. Những nghiên cứu về xu hướng pháp luật và những giải pháp hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Tác giả Nguyễn Thanh Tú với bài viết Pháp luật về bán giá thấp nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh [30], tác giả cho rằng quy định của luật cạnh tranh
Việt Nam về bán giá thấp nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh tương tự và có xu
hướng theo cách giải quyết của pháp luật cạnh tranh châu Âu nên tác giả kiến
nghị Việt Nam cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành khoản
1 điều 13 Luật cạnh tranh 2004 trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của châu Âu
nhưng có tính đến cách xác quy định của Việt Nam về cách xác định doanh
nghiệp có VTTLTT.
Trong cuốn sách The Concept of Abuse in EU Competition Law: Law and
Economic Approaches [79] (Khái niệm lạm dụng theo luật cạnh tranh của EU:
cách tiếp cận pháp lý và kinh tế), Pinar Akman cho rằng một trong những mục
tiêu của Điều 102 TFEU, là xây dựng tiêu chuẩn để xác định các hành vi lạm
15

dụng và đánh giá tác hại của hành vi lạm dụng là chưa đạt được. Sự thiếu rõ ràng
tạo ra sự không chắc chắn trong hành xử cho các doanh nghiệp và cùng với tình
trạng hiện nay của nền kinh tế trong lĩnh vực này, đặt ra một câu hỏi quan trọng
về tính hợp pháp trong những hành vi của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.
Sử dụng cả cách tiếp cận pháp lý và kinh tế, cuốn sách phân tích những mục tiêu
(có thể có) của Điều 102 TFEU và đề xuất một phương pháp tiếp cận hiện đại để
giải thích khái niệm 'lạm dụng'. Tác giả hướng tới việc thiết lập một khái niệm
bao quát về 'lạm dụng' vừa phù hợp với nguồn gốc lịch sử của quy định, câu chữ
được thể hiện trong quy định, và phù hợp với tư duy kinh tế hiện đại về hành vi
đơn phương. Do đó cuốn sách tập trung xem xét về mục tiêu, phạm vi mà Điều
102 TFEU hướng đến, có thể hướng đến và kể cả nên hướng đến. Nghiên cứu
cho rằng việc tách biệt hành vi lạm dụng mang tính bóc lột/trục lợi và hành vi
lạm dụng mang tính loại bỏ là chủ quan và không có căn cứ. Những kết luận
được tác giả rút ra trên cơ sở vừa xem xét nguồn gốc ra đời của Điều 102 TFEU,
bối cảnh lịch sử của việc thông qua Công ước, các vụ việc pháp luật thực tiễn
liên quan, các chính sách và các nghiên cứu liên quan về lạm dụng bóc lột, cũng
như về lạm dụng loại trừ. Xem xét mục tiêu, kể cả mục tiêu có thể có của điều
102 TFEU như đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội, đặc biệt là phúc lợi của
người tiêu dùng, tác giả còn xem xét cả những xung đột có thể có trong việc đảm
bảo các mục tiêu đó. Theo tác giả, mục tiêu của điều 102 nên được xác định bao
gồm cả việc ngăn chặn những hành vi bóp méo cạnh tranh (bảo vệ quá trình cạnh
tranh) và những hành vi gây thiệt hại cho người tiêu dùng (bảo vệ kết quả của
cạnh tranh). Cuối cùng, tác giả đã có đánh giá cực kỳ nghiêm túc về vấn đề hiện
đại hóa Điều 102 TFEU của Ủy ban châu Âu, trước khi đề xuất một phương
pháp tiếp cận hiện đại về 'lạm dụng' đó là tập trung vào ba điều kiện cần và đủ:
yếu tố trục lợi, loại trừ và không tạo ra hiệu quả kinh tế tích cực.
Luận án tiến sĩ của Trần Thăng Long - Áp dụng luật cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp độc quyền nhà nước – Một nghiên cứu so sánh” (The Application of
Competition Law to Anti-Competitive Behaviours of State Monopolies – A
Comparative Perspective, bảo vệ tại trường ĐH La Trobe, Australia năm 2011) [87]
sau khi làm rõ các vấn đề liên quan đến việc áp dụng Luật cạnh tranh trong điều
chỉnh hành vi HCCT của các doanh nghiệp độc quyền nhà nước. Luận án đã đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hạn chế cạnh tranh, trong đó có các quy
định về lạm dụng VTTLTT đối với các doanh nghiệp độc quyền nhà nước. Đó là
16

các giải pháp về cải cách cơ quan quản lý cạnh tranh theo hướng đảm bảo độc lập
và hiệu lực hơn; Bổ sung các tiêu chí đánh giá kinh tế để xem xét VTTLTT của
doanh nghiệp, chứ không chỉ dựa vào duy nhất tiêu chí thị phần; hoàn thiện và tuân
thủ nghiêm ngặt chính sách cạnh tranh quốc gia, đặc biệt là nguyên tắc cạnh tranh
trung lập.... Luận án là công trình nghiên cứu tổng thể, mang tính khái quát về các
quy định điều chỉnh hành vi HCCT của doanh nghiệp độc quyền nói chung mà
không tập trung đi sâu nghiên cứu riêng về từng hành vi HCCT, trong đó có hành vi
lạm dụng VTTLTT.
Luận án tiến sĩ của Trần Hoàng Nga - Pháp luật chống định giá lạm
dụng của EU, Hoa Kỳ, Việt Nam – So sánh và kinh nghiệm áp dụng cho Việt
Nam” (bảo vệ năm 2011 trong khuôn khổ chương trình Tiến sĩ liên kết Thụy
Điển – Việt Nam) [17] đã đề cập đến các vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật
chống hành vi định giá lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT ở ba hệ thống
pháp luật khác nhau được lựa chọn như: các nguyên tắc cơ bản, khái niệm và các
hành vi định giá lạm dụng cụ thể. Luận án đã đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật cạnh tranh về chống hành vi lạm dụng về giá của doanh nghiệp
có VTTLTT. Cụ thể, tác giả đề xuất các quyết định của cơ quan quản lý cạnh
tranh phải được công bố, phát hành chính thức; hợp nhất hành vi lạm dụng
VTTLTT và vị trí độc quyền; sửa đổi cơ sở xác định VTTLTT; sửa đổi quy định
về định giá quá đáng; quy định về định giá hủy diệt; quy định về phân biệt giá;
quy định về định giá ngăn chặn đối thủ cạnh tranh mới; quy định về chống hành
vi chèn ép giá và hành vi chống thủ đoạn giảm giá/ chiết khấu nhằm hạn chế
cạnh tranh.
Trong cuốn sách "Phân tích và luận giải các quy định của luật cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh" [22], sau khi phân tích các khái niệm, luận giải các quy định về lạm dụng
VTTLTT theo Luật cạnh tranh 2004, các tác giả đã nêu ra những phương hướng đổi
mới và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh. Cụ thể, định hướng cơ bản cho việc thực
hiện pháp luật cạnh tranh là: Pháp luật cạnh tranh và việc thực hiện chúng phải đặt
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; Việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật cạnh
tranh phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể với các chế định pháp luật khác;
Đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thực
thi pháp luật. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất các giải pháp cụ thể cả về hoàn
thiện các quy định và cả về hoàn thiện cơ chế thực thi các quy định của Luật cạnh
17

tranh 2004 về lạm dụng VTTLTT.


Có thể thấy các công trình nghiên cứu trong nước về hành vi lạm dụng
VTTLTT theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam đa phần mới chỉ tập trung phân tích
các hành vi lạm dụng cụ thể mà bỏ ngỏ mối quan tâm đối với các vấn đề mang tính
nền tảng lý luận. Đặc biệt, trong bối cảnh Luật cạnh tranh 2018 mới có hiệu lực,
chưa có các nghiên cứu đánh giá về Luật cạnh tranh 2018, trên cơ sở so sánh để chỉ
ra sự tiến bộ, hợp lý so với Luật cạnh tranh 2004, làm tiền đề cho việc tiếp cận, hiểu
và vận dựng quy định của Luật cạnh tranh 2018 về lạm dụng VTTLTT một cách
toàn diện.
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, về mục tiêu của luật cạnh tranh nói chung và chế định lạm dụng
VTTLTT nói riêng. Xác định mục tiêu thực sự, các công cụ của luật và chính
sách cạnh tranh là gì không chỉ có vai trò quyết định đến sự khác biệt trong pháp
luật cạnh tranh của các nước mà còn xác định phạm vi những hành vi bị coi là
lạm dụng cần phải được điều chỉnh. Trong nhiều nghiên cứu về lạm dụng vị trí
thống lĩnh của nước ngoài, vấn đề về mục tiêu, công cụ của luật cạnh tranh luôn
được đặt ra đầu tiên. Ở Việt Nam những phân tích về mục tiêu thực sự của luật
cạnh tranh nói chung hay chế định lạm dụng VTTLTT nói riêng đặt trong việc
phân tích, đối chiếu với các hành vi cụ thể được luật điều chỉnh chưa được quan
tâm nghiên cứu đầy đủ. Dường như chỉ với các quy định của pháp luật liên quan,
sự thiếu vắng của chính sách ngành trong các ngành kinh tế tập trung chưa có đủ
cơ sở để định hình rõ nét cho một chính sách cạnh tranh thống nhất ở Việt Nam.
Hai là, về khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường. Các hệ thống pháp luật nước ngoài sử dụng các thuật ngữ khác nhau
như thống lĩnh thị trường (dominance) hay độc quyền (monopoly) nhưng đều để
chỉ hiện tượng một hay một nhóm doanh nghiệp có vị thế đặc biệt trên thị trường
với khả năng đưa ra quyết định và hành động một cách độc lập với các đối thủ và
các chủ thể khác của thị trường. Luật cạnh tranh Việt Nam có sự phân biệt giữa
doanh nghiệp có VTTLTT và doanh nghiệp độc quyền. Luật cạnh tranh không
xây dựng định nghĩa VTTLTT mà chỉ đưa ra các tiêu chí, chủ yếu dựa trên mức
thị phần của doanh nghiệp để xác định doanh nghiệp có VTTLTT hay không.
Các công trình nghiên cứu trong nước chưa chú ý đến việc nghiên cứu xây dựng
18

khái niệm doanh nghiệp có VTTLTT để làm nền tảng lý thuyết cho việc phân
tích hành vi của doanh nghiệp. Trong khi các quốc gia sử dụng các tiêu chí khác
nhau để xác định vị trí thống lĩnh (dominant position), độc quyền hay có sức
mạnh thị trường đáng kể như: thị phần (market share), rào cản gia nhập thị
trường (barriers to entry), quy mô của đối thủ (size of competitors), năng lực tài
chính của doanh nghiệp (financial power of enterprise) thì luật cạnh tranh Việt
Nam 2004 lại coi thị phần gần như là tiêu chí duy nhất để xác định vị trí thống
lĩnh của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp. Luật cạnh tranh 2018 tuy có
những thay đổi nhất định song thị phần với ngưỡng cố định vẫn là một tiêu chí
quan trọng để có thể đưa ra giả định không thể bác bỏ về VTTLTT của doanh
nghiệp. Vì thế, các công trình nghiên cứu trong nước cũng mới chỉ tập trung
phân tích cách xác định thị phần trên thị trường liên quan của doanh nghiệp.
Cách tiếp cận của Việt Nam mang tính cứng nhắc, thiếu chính xác, không đủ để
phản ánh chính xác vị thế và khả năng tác động đến thị trường của doanh nghiệp,
do đó, việc nghiên cứu áp dụng các tiêu chí khác (bên cạnh tiêu chí thị phần)
trong việc xác định vị trí thống lĩnh doanh nghiệp là cần thiết.
Ba là, về khái niệm hành vi lạm dụng VTTLTT. Không có một khái niệm
thống nhất về hành vi lạm dụng VTTLTT giữa các hệ thống pháp luật. Phần lớn
pháp luật các nước đều liệt kê các hành vi bị coi là lạm dụng VTTLTT. Những
hành vi được liệt kê như vậy là khác nhau giữa các hệ thống pháp luật nhưng
nhìn chung đều mang tính mô tả, minh họa cho suy đoán của nhà làm luật và
thường không đủ khả năng bao quát hết những hành vi lạm dụng mà doanh
nghiệp có thể thực hiện trên thực tế. Việc liệt kê thường bị coi là sẽ dẫn tới khả
năng bỏ sót hành vi có cùng bản chất với các hành vi được liệt kê. Một số các
nghiên cứu nước ngoài đã cố gắng dựa trên các hành vi được liệt kê trong luật để
tiếp cận bản chất của hành vi nhằm xây dựng một khái niệm có thể bao quát
được tất cả các hành vi lạm dụng. Luật cạnh tranh 2004 cũng lựa chọn cách thức
liệt kê và mô tả hành vi cụ thể bị coi là lạm dụng thay vì xây dựng một khái niệm
mang tính bao quát và đi vào bản chất của hành vi. Các công trình nghiên cứu
trong nước hiện cũng bỏ ngỏ vấn đề này.
Bốn là về nhận diện hành vi lạm dụng VTTLTT. Ở nhiều hệ thống pháp luật,
trong đó có Việt Nam, việc nhận diện hành vi lạm dụng VTTLTT mang tính hình
thức. Vấn đề phân tích để xây dựng các đặc điểm nhận dạng phản ánh được bản
19

chất của hành vi là hết sức cần thiết. Mặc dù vậy, các nghiên cứu trong nước
hiện nay cũng chưa dành sự quan tâm thích đáng cho vấn đề này. Cả trên bình
diện trong và ngoài nước đều chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu
nhằm phân tích và đề xuất các tiêu chí để nhận diện hành vi lạm dụng VTTLTT.
Các hệ thống pháp luật hiện nay chủ yếu liệt kê hành vi và việc xác định các tiêu
chí bám vào bản chất để nhận diện hành vi là cần thiết để tránh việc bỏ sót hành
vi lạm dụng mang tính phản cạnh tranh
Năm là về nguyên tắc xử lý hành vi lạm dụng VTTLTT. Trong suốt một thời
gian dài, các hệ thống pháp luật đều có xu hướng mặc nhiên coi hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/ độc quyền thị trường là vi phạm
pháp luật (per se illegal) và bị cấm. Việc kết luận một doanh nghiệp có
VTTLTT thực hiện các hành vi lạm dụng chỉ dựa trên những phân tích mang
tính hình thức (a form – based analysis), tức là chỉ cần xác định là doanh
nghiệp đã thực hiện hành vi được mô tả, liệt kê trong luật là đủ để kết luận (per
se rule). Xu hướng hiện nay các nước đã nhận thấy tầm quan trọng của việc
xem xét cách tiếp cận dựa trên tính hiệu quả (effects-based approach) và dựa
trên khía cạnh kinh tế (economic approach) trong việc thực thi các quy định về
xác định hành vi lạm dụng VTTLTT. Để thực hiện có hiệu quả chính sách cạnh
tranh của mình, từ năm 2005 Ủy ban châu Âu đã ban hành một loạt các hướng
dẫn mới (Discussion Paper) mang tính cải cách về việc thực thi các quy định về
lạm dụng VTTLTT. Đặc biệt là việc ban hành sách Xanh 2005 (Green Paper
2005) và sách Trắng 2008 (White Paper) cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ trong tư
duy, chính sách cạnh tranh EU, đặc biệt là quy định về lạm dụng VTTLTT. Cho
đến nay việc xử lý hành vi lạm dụng VTTLTT theo luật cạnh tranh vẫn dựa trên
cách tiếp cận mang tính hình thức và áp dụng nguyên tắc cấm mặc nhiên. Từ
góc độ nghiên cứu cũng chưa có công trình nào phân tích khả năng vận dụng
cách tiếp cận mới dựa trên tính hiệu quả (effects-based approach) và dựa trên
khía cạnh kinh tế (economic approach) trong việc thực thi các quy định về xác
định hành vi lạm dụng VTTLTT của Việt Nam.
Có thể kết luận là, các công trình nghiên cứu trong nước mới dừng lại ở
việc phân tích, luận giải và nhận diện hành vi lạm dụng VTTLTT hoặc tiếp cận
đơn lẻ từng hành vi cụ thể mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát
20

hành vi lạm dụng VTTLTT ở Việt Nam, để trên cơ sở đó chỉ ra cơ sở khoa học
của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi
lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT ở Việt Nam hiện nay nhất là trong bối
cảnh Luật cạnh tranh 2018 vừa mới có hiệu lực, nhiều quy định chưa được
hướng dẫn cụ thể.
Từ những đánh giá trên, có thể khẳng định, luận án là công trình nghiên
cứu về vấn đề này một cách toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn pháp lý ở nước
ta hiện nay ở cấp độ luận án tiến sỹ luật học.
3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở tình hình nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu của đề tài, Luận án
sẽ tiếp tục nghiên cứu và làm rõ một cách có hệ thống các vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu và hệ thống hóa các vấn đề lý luận nền tảng của chính sách và
pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT: Khái niệm doanh nghiệp có
VTTLTT; các tiêu chí để xác định VTTLTT của doanh nghiệp; khái niệm hành
vi lạm dụng VTTLTT, phân loại hành vi lạm dụng VTTLTT của doanh nghiệp;
mục tiêu chính sách và pháp luật về lạm dụng VTTLTT; nguyên tắc xử lý hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về khái niệm và nội dung pháp luật
kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT. Xác định cụ thể nội hàm và hệ thống quy
phạm pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, như:
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật về xác định doanh nghiệp có VTTLTT.
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật về nhận diện hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có VTTLTT.
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật về cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng
của doanh nghiệp có VTTLTT.
- Đánh giá tính hợp lý và bất hợp lý của pháp luật hiện hành về kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT và sự cần thiết phải có những quy định điều chỉnh
phù hợp nhằm vừa đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm
bảo mục tiêu của pháp luật cạnh tranh.
- Đưa ra hệ thống quan điểm hoàn thiện và giải pháp cụ thể để hoàn thiện
pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT.
4. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Sự hình thành của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT dựa
trên cơ sở lý thuyết, quan điểm về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Cạnh
21

tranh vừa là quy luật của kinh tế thị trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế
xã hội, đảm bảo các nguồn lực trong xã hội được phân bổ một cách hiệu quả, lợi ích
của người tiêu dùng được bảo vệ. Từ những vai trò quan trọng đó, cần phải bảo vệ
và thúc đẩy sự cạnh tranh tự do, công bằng và lành mạnh trên thị trường.
Về khía cạnh kinh tế học thì quan điểm về thúc đẩy tự do cạnh tranh được bắt
nguồn từ học thuyết bàn tay vô hình của nhà kinh tế học Adam Smith (1723- 1790).
Ông cho rằng, hệ thống cạnh tranh tự do tự nó đã sản sinh ra những quyền lực cần
thiết để điều tiết và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu, công quyền không cần
phải can thiệp quá sâu vào đời sống thị trường. Tuy nhiên, Adam Smith cũng không
loại bỏ vai trò của công quyền trong việc đảm bảo trật tự thị trường. Tuy nhiên, lịch
sử phát triển của kinh tế thị trường đã chứng minh, khả năng điều tiết của bàn tay vô
hình với thị trường chỉ phát huy tác dụng khi thị trường chỉ tồn tại các quan hệ cạnh
tranh lành mạnh và công bằng. Trong trường hợp ngược lại, thị trường cần phải có
thêm bàn tay hữu hình của một thế lực đủ mạnh để ngăn chặn, trừng phạt những
hành vi xâm phạm trật tự cạnh tranh, tính công bằng của thị trường. Nhà nước với
tư cách là chủ thể chính trị nắm quyền lực lớn nhất trong xã hội phải can thiệp để
điều tiết đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh của các chủ thể kinh doanh
trên thị trường.
Quan điểm, lý thuyết về thị trường cạnh tranh cần có sự điều tiết của nhà nước
được các nhà kinh tế học và luật học phát triển từ thế kỷ XIX khi mà sự phát triển
của nền kinh tế tư bản sang giai đoạn độc quyền tư bản với sự xuất hiện của các
doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thị trường kéo theo những hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường gây tác động cản trở tự do cạnh tranh, lành mạnh và công bằng
kéo theo những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Nhà nước bằng
các công cụ, trong đó, pháp luật được coi là công cụ quan trọng nhất, phải đối trọng
với quyền lực kinh tế của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, thực hiện việc
kiểm soát nhằm phát hiện và ngăn chặn những hành vi lạm dụng VTTLTT của
những doanh nghiệp này để duy trì trật tự thị trường, hạn chế những khuyết tật của
tự do cạnh tranh.
Nền tảng lý luận cơ bản cho sự hình thành pháp luật kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT ở Việt Nam là quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, minh bạch. Đặc biệt, gần đây tại Nghị quyết số 05 – NQ/TƯ ngày 01
tháng 11 năm 2016 của Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành TW khóa XII, Nghị
22

quyết số 24/2016/QH14 ngày 08 tháng 11 đều nhấn mạnh nhiệm vụ về cơ cấu lại
nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế giai đoạn 2016 – 2020, trong đó, đặt ra nhiệm vụ xây dựng ‘Đề án tổng thể về
chính sách cạnh tranh quốc gia’.
4.2. Câu hỏi và giả thiết nghiên cứu đặt ra khi nghiên cứu luận án
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và các tài liệu có liên quan đến đề tài trong
và ngoài nước, cùng với sự tham vấn các chuyên gia, thu thập thông tin từ các cơ
quan quản lý cạnh tranh… Luận án được triển khai với các câu hỏi và giả thuyết
nghiên cứu như sau :
Câu hỏi nghiên cứu :
- Thế nào là hành vi lạm dụng VTTLTT ? Thế nào là kiểm soát hành
vi lạm dụng VTTLTT? Kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT có đặc điểm và
mục đích gì?
- Cấu trúc, nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi
lạm dụng VTTLTT như thế nào ?
- Kinh nghiệm của các nước về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT bằng
pháp luật cạnh tranh như thế nào ?
- Thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT tại Việt Nam hiện nay như thế nào ?
- Với những tồn tại, bất cập được nêu ra, cần phải có những phương hướng
và giải pháp gì để hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT
Giả thuyết nghiên cứu là :
- Việc xây dựng nền tảng cơ sở lý luận và hoàn thiện cơ chế kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT có ý nghĩa quan trọng với việc xác lập, duy trì môi
trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh tại Việt Nam.
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT vẫn còn những điểm chưa thực sự phù hợp, còn tồn tại những khoảng
trống pháp lý.
- Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT ở Việt Nam là một trong những yêu cầu của quá trình hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường với một chính sách cạnh tranh đảm bảo được
quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp vừa đảm bảo mục tiêu của luật cạnh
tranh, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
23

KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN

1. Lý luận và pháp luật về kiểm soát hành vi LDVTTLTT là một vấn đề được
quan tâm nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Các nghiên cứu đi trước có ý nghĩa
nhất định cho việc đặt nền móng cho các nghiên cứu tiếp theo, trong đó có Luận án
này. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống,
đánh giá một cách tổng thể các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam về
LDVTTLTT trên cơ sở so sánh với Luật mẫu của UNCTAD và một số nước điển
hình về Luật Cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh Luật cạnh tranh 2018 vừa có hiệu
lực thi hành, nhiều quy định chưa được hướng dẫn cụ thể.
2. Qua việc đánh giá tình hình nghiên cứu đề tài trong và ngoài nước, nghiên
cứu sinh cho rằng việc thực hiện nghiên cứu pháp luật về LDVTTLTT ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết. Nội dung nghiên cứu của luận án là hệ
thống hóa và hoàn thiện những vấn đề lý luận; phân tích và đánh giá các quy định
của pháp luật về kiểm soát hành vi LDVTTLTT ở Việt Nam hiện nay để từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định và cơ chế thực thi pháp luật về kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết quả nghiên cứu của Luận án hy vọng sẽ có ý nghĩa đáng kể cho cải cách môi
trường cạnh tranh ở Việt Nam.
24

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
1.1. Kiếm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.1.1.1. Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường
Cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự vận hành
năng động, hiệu quả của nền kinh thị trường. Việc cạnh tranh của các doanh nghiệp
sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Kết quả là, chỉ
có những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, thu hút được nhiều khách hàng mới có
thể tồn tại trong khi các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ buộc phải rút lui khỏi thi
trường. Quá trình cạnh tranh làm xuất hiện những doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt
thị trường, thay vì bị phụ thuộc, chi phối bởi các quy luật thị trường thì (các) doanh
nghiệp này có thể hành động độc lập, thậm chí tác động ngược trở lại, quyết định
đến các yếu tố của thị trường. Những doanh nghiệp như vậy nắm giữ quyền lực thị
trường (market power) và được gọi là doanh nghiệp có VTTLTT. Đạt được
VTTLTT là mong muốn chính đáng của các doanh nghiệp khi tham gia thị trường.
Do đó, luật cạnh tranh của các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được
VTTLTT.
Từ góc độ kinh tế, VTTLTT được hiểu là “tình trạng mà những chiến lược
kinh doanh của một doanh nghiệp có thể hay có khả năng có ảnh hưởng tiêu cực
đến phúc lợi xã hội” [78, tr. 539]. Khái niệm này phản ánh đặc điểm cơ bản nhất
của thống lĩnh thị trường, đó là hành vi của doanh nghiệp nắm giữ vị trí này có khả
tác động đến thị trường, mà tác động phổ biến nhất là gây thiệt hại về phúc lợi xã
hội. Tuy nhiên, khái niệm này chưa phản ánh được mối quan hệ cơ bản giữa doanh
nghiệp thống lĩnh với các lực lượng khác trên thị trường, cũng như chưa xem xét
đến những tác động khác nhau mà hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường
có thể gây ra cho cạnh tranh ngoài tổn thất phúc lợi nói chung.
Từ góc độ khoa học pháp lý, không có một khái niệm thống nhất giữa các hệ
thống pháp luật khác nhau về thống lĩnh thị trường. Khái niệm thống lĩnh thị trường
trong các hệ thống pháp luật khác nhau được quy định phụ thuộc vào mục tiêu của
chính sách, pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó và thường có xu hướng cụ thể hơn
so với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế của khái niệm này. Việc phân tích khái niệm
thống lĩnh thị trường trong một hệ thống pháp luật nhất định có thể xác định được
25

mục tiêu của chính sách và pháp luật cạnh tranh của quốc gia đó [76, tr.7].
Ở EU, nguồn luật quan trọng điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, liên quan
đến VTTLTT là Điều 82 Hiệp định EC (nay là điều 102 Hiệp định TFEU). Điều
102 TFEU không trực tiếp đưa ra khái niệm thống lĩnh thị trường mà chỉ khẳng
định “các hành vi mang tính chiến lược được thực hiện bởi các doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường, làm loại bỏ cạnh tranh một cách bất hợp pháp, nhằm duy
trì và củng cố quyền lực thị trường” bị lên án. Trên thực tế, khái niệm thống lĩnh
thị trường được Tòa án tư pháp châu Âu (ECJ) phát triển qua thực tiễn giải quyết
các vụ việc. Trong vụ việc Hoffmann-La Roche, ECJ đã nêu quan điểm về vị trí
thống lĩnh thị trường là “Vị trí của doanh nghiệp mang sức mạnh kinh tế có khả
năng ngăn cản cạnh tranh hiệu quả được duy trì trên thị trường liên quan bằng
cách cho phép nó hành xử độc lập ở một mức độ đáng kể không phụ thuộc vào
đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng”[46, đoạn 276].
Tại Hoa Kỳ, các quy định tương tự như quy định tại Điều 82 Hiệp định EC,
điều 102 Hiệp định TFEU được nêu tại Mục 2, đạo luật Sherman [94], đạo luật cơ
bản đầu tiên quy định về chống độc quyền của Hoa Kỳ, thông qua năm 1890. Tuy
nhiên, thay vì sử dụng thuật ngữ “lạm dụng VTTLTT”, mục 2 của đạo luật này đề
cập đến khái niệm độc quyền và nỗ lực để độc quyền, trong đó đã chỉ ra một vài
hướng dẫn cho việc xác định khi nào thì một doanh nghiệp bị coi là độc quyền hay
nỗ lực độc quyền. Theo đó, sức mạnh độc quyền được hiểu là “doanh nghiệp có
khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức giá cạnh tranh và (2) cố tình
gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường”. Trong vụ United States v. Grinell
Corp [96], Toà án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng việc độc quyền bất hợp pháp liên
quan đến hai yếu tố: (1) sở hữu quyền lực độc quyền trên thị trường liên quan, và
(2) việc mua lại hoặc duy trì quyền lực đó một cách cố ý, khác với " sự tăng
trưởng và phát triển như là một kết quả của sự nhạy bén trong kinh doanh, ưu thế
của sản phẩm hoặc là do những điều kiện lịch sử mang lại”.
Luật cạnh tranh Romani quy định về VTTLTT lại chỉ nhấn mạnh yếu tố “khả
năng hành động độc lập”, theo đó thống lĩnh thị trường được định nghĩa là tình
huống mà một chủ thể kinh tế có khả năng, ở một mức độ đáng kể, hành động độc
lập với các đối thủ cạnh tranh thực tế và tiềm năng của nó” [101, tr. 179]. Đối thủ
cạnh tranh tiềm năng được xác định là các chủ thể kinh doanh có khả năng xâm
nhập vào thị trường liên quan với sản phẩm đến từ các khu vực địa lý khác, kể cả
26

hàng nhập khẩu. Khả năng hành động độc lập được xác định dựa trên các yếu tố của
cạnh tranh như giá cả trên thị trường, đầu ra, tính đổi mới, đa dạng và chất lượng
của hàng hóa, dịch vụ.
Tại chương 2, Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD (đã được sửa đổi năm
2017) [92], vị trí thống lĩnh của quyền lực thị trường (dominant position of market
power) được định nghĩa là “tình trạng mà một doanh nghiệp, tự nó hoặc cùng hành
động với một số doanh nghiệp khác ở vào vị trí kiểm soát thị trường liên quan của
một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ cụ thể”
Pháp luật của Canađa coi doanh nghiệp thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp
nắm giữ quyền lực thị trường. Theo pháp luật Canada, “quyền lực thị trường là khả
năng giữ giá cao hơn mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong một khoảng
thời gian đáng kể, thông thường là một năm”. Trong khi đó, pháp luật của Cộng hòa
Pháp sử dụng đồng thời hai cách tiếp cận về quyền lực thị trường là cách tiếp cận
mang tính học thuyết và cách tiếp cận mang tính thực tiễn. Cách tiếp cận thứ nhất
đã áp dụng định nghĩa trừu tượng mà các án lệ đã đưa ra: “doanh nghiệp chiếm vị
trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh tranh thực chất, không
chịu ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường đó”. Thế nên,
thay vì phải tuân theo quy luật của thị trường, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc
độc quyền có thể tự làm luật trên thị trường đó. Cách tiếp cận thực tiễn được hình
thành từ triết lý cho rằng “người lạm dụng không hẳn là người muốn lạm dụng,
nhưng người lạm dụng chắc chắn phải là người có khả năng lạm dụng”. Thế nên,
người ta thừa nhận sự tồn tại của sự thống lĩnh trên một thị trường khi trên thị
trường đó xuất hiện những hành vi mà nếu có cạnh tranh thực chất thì những hành
vi đó đã không thể thực hiện được [13, tr. 233- 234]. Sự khác nhau nói trên đã đưa
đến những khác biệt về căn cứ pháp lý được sử dụng để xác định vị trí thống lĩnh
của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp trong pháp luật của các nước.
Như vậy, mặc dù có cách tiếp cận, quy định khác nhau nhưng các hệ thống
pháp luật đều ghi nhận về bản chất, doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) có vị trí
thống lĩnh hay độc quyền thị trường là doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) nắm giữ
quyền lực thị trường. Quyền lực thị trường cho phép doanh nghiệp (nhóm doanh
nghiệp) hành động độc lập, không phụ thuộc vào các quy luật của thị trường, đối
thủ cạnh tranh, khách hàng, hay người tiêu dùng, nghĩa là nó có khả năng chi phối,
kiểm soát thị trường.
Trong khi luật cạnh tranh các nước chỉ sử một trong hai khái niệm vị trí thống
27

lĩnh thị trường hoặc độc quyền để chỉ cùng một hiện tượng pháp lý thì Luật cạnh
tranh Việt Nam lại có sự phân biệt giữa vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền.
Theo đó, thống lĩnh thị trường và độc quyền đều để chỉ doanh nghiệp có sức mạnh
thị trường đáng kể mà hành vi của nó có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên, “doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên
thị trường liên quan” [24, Điều 25] tức là độc quyền là tình trạng thị trường hoàn
toàn không có sự cạnh tranh, doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ. Trong khi
đó, ở thị trường có doanh nghiệp có VTTLTT, mặc dù doanh nghiệp có VTTLTT
có sức mạnh thị trường đáng kể, có khả năng chi phối, kiểm soát thị trường nhưng
vẫn tồn tại các doanh nghiệp đối thủ, vẫn có sự cạnh tranh nhất định.
Vì mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT
nên trong phạm vi nghiên cứu của Luận án này, doanh nghiệp có VTTLTT sẽ được
hiểu theo cách tiếp cận hẹp hơn của pháp luật Việt Nam, tức là sẽ không bao gồm
doanh nghiệp có vị trí độc quyền.
Như vậy, có rất nhiều cách xác định VTTLTT, nhưng tựu chung lại, có hai
nhóm quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng thống lĩnh thị trường là khả năng
của doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) duy trì tác động HCCT trên thị trường
(chẳng hạn như khả năng loại bỏ đối thủ cạnh tranh). Quan điểm thứ hai cho rằng
quyền lực thị trường là khả năng của doanh nghiệp hành động một cách độc lập với
các đối thủ của nó (mà biểu hiện rõ nhất là khả năng duy trì giá cả trên mức cạnh
tranh mà vẫn thu được lợi nhuận).
Có thể rút ra định nghĩa chung về VTTLTT như sau: Vị trí thống lĩnh thị
trường là vị trí của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị
trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan và
hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.
1.1.1.2. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Dưới góc độ kinh tế, hành vi lạm dụng VTTLTT tồn tại một cách khách quan.
Với mong muốn duy trì và củng cố quyền lực thị trường mà mình đã dày công vun
đắp, các thương nhân thường sử dụng lợi thế có sẵn để làm gia tăng lợi nhuận và ở
mức độ nhất định, việc khai thác lợi thế này của các thương nhân nắm quyền lực thị
trường còn có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng
quyền lực thị trường này phải dừng lại ở giới hạn hợp lý. Nếu vượt qua giới hạn
này, hành vi của các thương nhân nói trên sẽ trở thành hành vi lạm dụng VTTLTT,
28

ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh [28, tr. 66].
Từ góc độ khoa học pháp lý, định nghĩa thế nào là lạm dụng VTTLTT phụ thuộc
vào mục tiêu của luật cạnh tranh mỗi nước. Chắc chắn nếu coi hiệu quả kinh tế là mục
tiêu chính, thì các hành vi làm giảm phúc lợi phải được coi là lạm dụng. Hoặc cho rằng
thương mại công bằng là mục tiêu chính thì hành vi khai thác lợi thế từ vị trí thống lĩnh
để đặt ra điều kiện thương lượng có thể bị coi là lạm dụng [76, tr. 10].
Theo Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc được thông qua ngày
22/04/1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92], “hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để HCCT là hành vi HCCT mà doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó
trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá
mức cạnh tranh”
Luật cạnh tranh EU không có định nghĩa rõ ràng về "hành vi lạm dụng
VTTLTT" thay vào đó, Điều 102 TFEU liệt kê các hành vi nhất định bị coi là lạm
dụng VTTLTT. Tuy nhiên, những hành vi này chỉ là những dạng hành vi lạm dụng
điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Tương tự như khái niệm
VTTLTT, khái niệm lạm dụng VTTLTT cũng được giải thích qua thực tiễn các vụ
việc điển hình. Theo tòa án tư pháp châu Âu (ECJ), hành vi của doanh nghiệp có
VTTLTT có bị coi là lạm dụng hay không căn cứ vào tác động của hành vi đó đối với
môi trường cạnh tranh. Chẳng hạn như trong vụ Hoffmann-La Roche & Co. AG kiện
Ủy ban châu Âu, khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh được xem là: hành vi của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, có tác động đến cấu trúc thị trường, làm suy giảm
mức độ cạnh tranh của thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp khác biệt
với những phương pháp cạnh tranh được sử dụng trong điều kiện cạnh tranh thông
thường của hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở các giao dịch của các thương gia, gây trở
ngại cho việc duy trì mức độ cạnh tranh đang tồn tại trên thị trường hoặc sự gia tăng
mức độ cạnh tranh của thị trường đó [46, đoạn 285]. Như vậy, khái niệm lạm dụng
vị trí thống lĩnh mà ECJ đưa ra đã bám vào bản chất và có khả năng bao quát được
các dạng hành vi lạm dụng cụ thể khác nhau. Do đó, các hành vi lạm dụng được liệt
kê trong Điều 86 hiệp định EC (hiện tại là Điều 102 TFFEU) chỉ là những dạng hành
vi lạm dụng điển hình nhất, chứ không phải là một bảng liệt kê đầy đủ. Quan điểm
này được chỉ rõ trong các vụ việc AKZO [49, đoạn 112], [51]. Trên thực tế, việc xác
định một hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT có phải là lạm dụng hay không phải
dựa trên việc đánh giá tác động của hành vi đó đối với môi trường cạnh tranh. Một
hành vi, dù không nằm trong những trường hợp điển hình được liệt kê tại Điều 102
29

TFEU vẫn có thể bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh nếu nó do một doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường thực hiện và có ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh và người tiêu dùng 2010 của Úc đề cập đến hành vi đơn
phương của các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể, ngưỡng này thấp
hơn so với các doanh nghiệp thống lĩnh.
Cụ thể, Điều 1 Mục 46 của CCA nghiêm cấm các công ty có sức mạnh thị
trường đáng kể lạm dụng sức mạnh thị trường đó trên thị trường liên quan hoặc bất
kỳ thị trường nào khác với một trong các mục đích sau (có thể được xác định bằng
suy luận):
(i) Loại bỏ hoặc làm tổn hại nghiêm trọng đối thủ cạnh tranh;
(ii) Ngăn chặn việc gia nhập thị trường liên quan hoặc bất kỳ thị trường nào
khác; hoặc là
(iii) Ngăn chặn hoặc cản trở hoạt động cạnh tranh trên thị trường liên quan
hoặc bất kỳ thị trường nào khác.
Mục 46 (1AA) cấm các doanh nghiệp có mức thị phần đáng kể trên thị trường
định giá dưới giá thành trong một khoảng thời gian liên tục.
Mục 46A cấm các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể lạm dụng
quyền lực thị trường ở các thị trường xuyên Đại Tây Dương.
Như vậy, có thể quy định theo những cách khác nhau, nhưng quan điểm về
hành vi lạm dụng VTTLTT về cơ bản là tương đồng. Theo đó, hành vi lạm dụng
VTTLTT là hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường và đồng thời đáp ứng
các điều kiện:
- Phản ánh việc thực thi quyền lực thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
- Duy trì, củng cố quyền lực của doanh nghiệp đó, tạo ra tác hại kinh tế cho các
nhà cung cấp, khách hàng hoặc đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh đó, và
- Những tác hại như vậy sẽ không thể được tạo ra nếu hành vi được thực hiện
bởi các doanh nghiệp không có VTTLTT.
Do đó, có thể rút ra định nghĩa chung về hành vi lạm dụng VTTLTT như sau:
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường, khai thác quyền lực thị trường mà nó có để duy trì, tăng cường vị trí
của doanh nghiệp trên thị trường, gây cản trở cạnh tranh, tổn hại cho các đối thủ
và khách hàng của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là hiện tượng riêng có của nền kinh tế thị trường khi mà các doanh
nghiệp có quyền tự do kinh doanh và lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc
30

đẩy sự phát triển của sản xuất, kinh doanh. Lạm dụng VTTLTT thực chất là hành vi
cạnh tranh của các doanh nghiệp có VTTLTT trái pháp luật, đạo đức và văn hóa
kinh doanh, vượt qua ranh giới của quyền tự do kinh doanh. Do vâỵ, có thể nói,
hành vi lạm dụng VTTLTT, cũng như cạnh tranh, là một hiện tượng đặc thù của
kinh tế thị trường.
1.1.1.3. Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Dù có những khác biệt nhất định trong các quy định về hành vi lạm dụng,
song pháp luật của các nước đều thống nhất rằng nhóm hành vi này có ba đặc
trưng sau đây:
a. Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan
Đặc điểm này thể hiện tính đặc thù về chủ thể của hành vi lạm dụng VTTLTT.
Cơ sở để một doanh nghiệp có thể thực hiện được hành vi lạm dụng chính là dựa
vào VTTLTT mà nó có, do đó, nếu hành vi không được thực hiện bởi doanh nghiệp
có VTTLTT thì sẽ không bị coi là hành vi lạm dụng VTTLTT, cho dù hành vi đó
được mô tả trong luật. Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên cần phải chứng minh khi xác định
có tồn tại một hành vi lạm dụng VTTLTT trên thực tế là chủ thể thực hiện hành vi
là doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT.
Đương nhiên một doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) nắm giữ VTTLTT
không có nghĩa là doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) đó vi phạm luật cạnh
tranh, nếu việc có được VTTLTT là hợp pháp. Vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có
thể được hình thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh, từ những điều kiện tự
nhiên của thị trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự biến dị của sản
phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường; hoặc sự bảo hộ của quyền lực
Nhà nước…. [22, tr. 12]. Vị trí thống lĩnh đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị
trường và khả năng chi phối các quan hệ trên thị trường, đặc biệt là thể hiện ở khả
năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (giá cả, chất lượng, sản lượng, nguồn
nguyên liệu…) đối với loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. Thực tế là
cùng một hành vi nhưng được thực hiện bởi doanh nghiệp có VTTLTT sẽ có thể
gây ra những tác động mang tính chi phối đến thị trường nhưng nếu được thực hiện
bởi những doanh nghiệp thông thường lại không có khả năng đó. Bởi vậy, chỉ khi
doanh nghiệp thống lĩnh thị trường tận dụng khả năng chi phối thị trường mà nó có
(nhờ vào việc nắm giữ sức mạnh thị trường hay VTTLTT) để thực hiện những hành
vi gây tác động tiêu cực đến cạnh tranh, cản trở cạnh tranh hiệu quả, công bằng thì
31

Luật cạnh tranh mới cần can thiệp. Lúc này, sự can thiệp của luật cạnh tranh không
có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại hợp pháp của các doanh nghiệp có VTTLTT mà chỉ
là chống lại những hành vi lạm dụng bất hợp pháp của chúng bởi những hậu quả
tiêu cực mà hành vi gây ra cho sự cạnh tranh.
b. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã hoặc đang thực hiện
hành vi lạm dụng gây tác động tiêu cực cho sự cạnh tranh trên thị trường
Hành vi lạm dụng, về bản chất là việc doanh nghiệp khai thác lợi thế mà
quyền lực thị trường đem lại để hạn chế, bóp méo cạnh tranh nhằm trục lợi hoặc
loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Như đã phân tích ở trên, những hành vi này chỉ có thể
thực hiện và gây tác động cho thị trường khi chủ thể tiến hành là doanh nghiệp có
VTTLTT. Tương ứng với lợi thế của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường chính là sự
yếu thế của đối thủ, của khách hàng. Do đó, trong mối quan hệ với doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường, các chủ thể này hoàn toàn ở thế bị động, không có quyền tự
do lựa chọn mà buộc phải chấp nhận sự chi phối hay những điều kiện do doanh
nghiệp có VTTLTT đưa ra. Do đó, các quy định về hành vi lạm dụng thực chất
chính là vạch ra giới hạn cho các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường khi cạnh tranh
trên thị trường. Dưới góc độ pháp lý, các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh có nghĩa
vụ đặc thù là “không được làm giảm mức độ cạnh tranh hiện có trên thị trường”
thông qua việc tận dụng những lợi thế mà nó có do sức mạnh thị trường đem lại.
Quan điểm về nghĩa vụ đặc thù của doanh nghiệp có VTTLTT được ECJ thể
hiện rõ ràng vụ Michelin [51] khi cho rằng:
Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường bản thân nó không phải là một sự
vi phạm mà chỉ có nghĩa là, với bất kể lý do nào mà nó có được vị trí đó, doanh
nghiệp có nghĩa vụ đặc biệt không cho phép hành vi của mình làm giảm hay suy
yếu sự cạnh tranh trên thị trường chung.
Khi doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện những hành vi lạm dụng, tức là vi
phạm nghĩa vụ đặc thù của nó thì môi trường cạnh tranh sẽ không vận hành theo
đúng quy luật hoặc bị cản trở, bị triệt tiêu nên pháp luật cần can thiệp để tái thiết lập
các điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh hoạt động trở lại. Bằng những phương thức
khác nhau, Luật cạnh tranh các nước đều cố gắng chỉ ra một ranh giới rõ ràng cho
việc xác định đâu là hành vi lạm dụng. Chỉ khi nào các doanh nghiệp có VTTLTT
vượt qua giới hạn đó, thực hiện những hành vi bị coi là lạm dụng và bị cấm thì mới
bị xử lý.
Một số nước (trong đó có Việt Nam) liệt kê những hành vi nhất định bị coi là
lạm dụng trong Luật cạnh tranh và doanh nghiệp thống lĩnh thị trường chỉ bị coi là
32

thực hiện hành vi lạm dụng VTTLTT khi thực hiện những hành vi đã được liệt kê
đó. Nhiều nước có cách tiếp cận rộng hơn khi vừa liệt kê những hành vi cụ thể bị
coi là lạm dụng vừa trao quyền cho CQCT trong việc xác định những hành vi không
được liệt kê nhưng vẫn có thể bị coi là lạm dụng thông qua việc đánh giá bản chất
và tác động phản cạnh tranh của hành vi. Các hành vi được pháp luật các nước coi
là lạm dụng được xác định dựa trên tác động hạn chế, bóp méo cạnh tranh, khả năng
giúp doanh nghiệp thống lĩnh duy trì, củng cố quyền lực thị trường, loại bỏ đối thủ
và trục lợi từ khách hàng, người tiêu dùng. Do đó, pháp luật các nước thường phân
chia hành vi lạm dụng thành hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ và hành vi lạm
dụng mang tính trục lợi hoặc phân chia thành hành vi lạm dụng liên quan đến giá và
hành vi lạm dụng không liên quan đến giá.
Cùng nằm trong nhóm hành vi HCCT, là hành vi gây ra tác động tiêu cực cho
cạnh tranh, làm cản trở, triệt tiêu, bóp méo cạnh tranh nhưng hành vi lạm dụng
VTTLTT phân biệt với các hành vi HCCT khác ở phương thức thực hiện. Nếu như
hành vi thỏa thuận HCCT được thực hiện bằng phương thức phối hợp hành động
của các doanh nghiệp thì lạm dụng vị trí thống lĩnh hay quyền lực thị trường lại là
hành vi HCCT mang tính đơn phương của doanh nghiệp thống lĩnh.
c. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi mang tính đơn phương
của doanh nghiệp.
Hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT là hành vi luôn mang tính
đơn phương, không có sự thỏa thuận hay thống nhất hành động với bất cứ doanh
nghiệp nào khác. Kể cả trường hợp nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực
hiện hành vi lạm dụng quyền lực thị trường thì giữa họ cũng không có sự thỏa thuận
hay thống nhất hành động nào, mà bản chất vẫn là hành vi riêng rẽ, đơn phương của
từng doanh nghiệp nhưng tổng hợp sức mạnh của các doanh nghiệp này sẽ gây ra
khả năng tác động hạn chế cạnh tranh mà cần có sự kiểm soát. Trong trường hợp
các doanh nghiệp này thực hiện hành vi trên cơ sở sự thỏa thuận, thống nhất thì
hành vi được thực hiện bởi nhóm doanh nghiệp như vậy phải được xác định là hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và bị điều chỉnh bởi quy định về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh chứ không phải là quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT.
Đặc điểm này giúp phân biệt hành vi lạm dụng VTTLTT với hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế (luôn được thực hiện bởi từ 2 doanh
nghiệp trở lên).
33

d. Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm biến dạng cấu trúc thị trường, cản trở hay
thủ tiêu sự cạnh tranh trên một thị trường xác định.
Lạm dụng quyền lực thị trường luôn gắn với một thị trường cụ thể, có ranh
giới xác định. Doanh nghiệp chỉ có thể có quyền lực trên một vùng thị trường nhất
định và nó chỉ có thể lạm dụng quyền lực trong phạm vi của vùng thị trường đó.
Khi đó, tác động của hành vi HCCT nói chung và hành vi lạm dụng VTTLTT nói
riêng là đến toàn thể thị trường với ranh giới được xác định chứ không phải chỉ
riêng đối thủ cạnh tranh nào trong vùng thị trường đó.
Dù có những khác biệt nhất định, song mục tiêu chung của Luật cạnh tranh
các nước đều là bảo vệ cạnh tranh hiệu qủa trên thị trường. Luật cạnh tranh cấm
hành vi lạm dụng VTTLTT không phải bởi vì nó được thực hiện bởi doanh nghiệp
có VTTLTT hay bởi vì những hành vi ấy mang bản chất khai thác lợi thế mà doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường có mà chính là bởi những hành vi lạm dụng mà doanh
nghiệp thực hiện sẽ gây ra tác động tiêu cực cho cạnh tranh. Cũng giống như các
hành vi HCCT khác, lạm dụng VTTLTT có tính chất và mức độ nguy hại cao hơn
so với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chúng phá vỡ cấu trúc vận động
của bình thường của thị trường, có thể mang đến nguy cơ làm biến dạng hay thủ
tiêu sự cạnh tranh trong nền kinh tế, hay như cách nhìn nhận của Luật cạnh tranh
Việt Nam là chúng “làm giảm, làm sai lệch, làm cản trở cạnh tranh trên thị trường”.
Thực tế, việc thực hiện các hành vi lạm dụng VTTLTT có thể gây ra những
hậu quả khác nhau, tác động đến những đối tượng khác nhau. Đó có thể là những
thiệt hại về lợi ích mà các doanh nghiệp khác, hoặc khách hàng phải gánh chịu,
quyền tự do lựa chọn của khách hàng bị hạn chế, cơ hội cạnh tranh của các đối thủ
bị tước đoạt, …. song nghiêm trọng nhất là làm suy giảm, cản trở tình trạng cạnh
tranh của thị trường. Vì vậy, pháp luật của các nước đều buộc cơ quan có thẩm
quyền phải chứng minh hành vi lạm dụng đã, đang hoặc có thể sẽ gây hậu quả ngăn
cản hay HCCT đáng kể trên thị trường.
OECD cũng đưa ra khuyến nghị về việc xác định hành vi lạm dụng, trong đó
họ cảnh báo rằng chỉ có thể chống lại có kết quả sự lạm dụng quyền lực thị trường,
khi pháp luật và người thi hành nó xác định được “những hành vi cụ thể có thể gây
hại cho cạnh tranh và đánh giá được những tác động toàn diện của chúng trên thị
trường có liên quan [76, tr.160].
Pháp luật một số nước coi chỉ coi hậu quả của hành vi lạm dụng là dấu hiệu
cấu thành của hành vi nhưng không phải là điều kiện cần phải chứng minh để xử lý
hành vi. Điều này thể hiện rất rõ trong quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam 2004
34

khi dấu hiệu hậu quả của hành vi lạm dụng được quy định rất chung chung và hầu
như không đặt ra yêu cầu chứng minh trên thực tế. Trong khi đó, pháp luật của
nhiều nước đặt ra yêu cầu chứng minh hậu quả của hành vi lạm dụng như là dấu
hiệu cấu thành, đồng thời là điều kiện xử lý doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực
hiện hành vi lạm dụng như luật cạnh tranh của Canada, luật cạnh tranh của Pháp.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường
1.1.2.1. Khái niệm kiẻm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Sự tồn tại của các chủ thể có VTTLTT trong nền kinh tế là một tất yếu khách
quan. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường luôn mong muốn và nỗ lực để đạt
được VTTLTT, chính mục tiêu nắm giữ VTTLTT mà các doanh nghiệp hướng đến
là yếu tố, động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Các hệ thống pháp luật đều khẳng định bản thân việc nắm giữ VTTLTT của
doanh nghiệp không phải là sai trái. Tuy nhiên, khi ở vào VTTLTT, các doanh
nghiệp lại có xu hướng thực hiện các hành vi lạm dụng VTTLTT gây ra các tác
động tiêu cực cho thị trường, cho nền kinh tế và do đó, hành vi này trái luật, bị lên
án. Hành vi lạm dụng VTTLTT là hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT khai thác
quyền lực thị trường mà nó có để gây hạn chế cạnh tranh, bóp méo thị trường, xâm
hại đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác và người tiêu dùng. Do đó, các hệ
thống pháp luật đều đặt ra nhu cầu kiểm soát đối với hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp có VTTLTT.
Theo Từ điển tiếng Việt [21, tr. 54], kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn
chặn những gì sai trái. Đây là quan niệm chung về kiểm soát, theo đó, việc kiểm
soát gồm có các nội dung là (i) xem xét, tức là theo dõi, kiểm tra, (ii) từ việc xem
xét, kiểm tra, thực hiện hoạt động đánh giá, nhận diện, tức là phát hiện những hành
vi, những việc có nguy cơ, có dấu hiệu sai trái và (ii) thực hiện việc điều chỉnh, uốn
nắn, ngăn ngừa những hành vi và những việc đã được xác định là có dấu hiệu sai
trái. Từ điển Luật học [31, tr. 264] cũng có quan điểm tương tự, theo đó, kiểm sát là
việc “ xem xét để phát hiện, ngăn ngừa kịp thời việc làm trái với thỏa thuận, với quy
định”. Như vậy, kiểm soát là hành vi pháp lý mang tính chủ động của chủ thể kiểm
soát thực hiện việc theo dõi, giám sát, kiểm tra để phát hiện những hành vi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật của các chủ thể là đối tượng bị kiểm soát, từ đó có hành vi
ngăn ngừa, xử lý, loại bỏ những hành vi trái pháp luật. Kiểm soát là hoạt động có
phạm vi rộng, bao trùm cả hành vi giám sát, kiểm tra, thanh tra. Giám sát, kiểm tra,
thanh tra đều là những hành vi để chỉ việc theo dõi, quan sát có tính chủ động,
35

thường xuyên của chủ thể có thẩm quyền, qua đó phát hiện các vi phạm và thực
hiện các biện pháp tác động cần thiết để các hoạt động được đưa về đúng chuẩn
mực, quỹ đạo, đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Trong
khi đó, hoạt động kiểm soát đòi hỏi chủ thể phải thực hiện cả việc xây dựng các tiêu
chí, nguyên tắc để đối chiếu, nhận diện trước khi thực hiện việc giám sát, kiểm tra.
Không chỉ dừng ở việc thực hiện các biện pháp tác động hay đưa ra các khuyến
nghị như giám sát, kiểm soát còn đòi hỏi chủ thể phải có các biện pháp ngăn chặn,
loại bỏ và xử lý các hành vi sai trái. Như vậy, có thể thấy, hoạt động kiểm soát sẽ
mang lại hiệu quả cao trong quản lý hơn so với việc giám sát, kiểm tra đơn thuần.
Hoạt động kiểm soát được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, với những
phương pháp, mục đích khác nhau ở cả khu vực tư và khu vực công. Có thể là hoạt
động kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp, tổ chức hay hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước….
Kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là hoạt động kiểm soát mà đối tượng bị
kiểm soát là các doanh nghiệp có VTTLTT với mục đích là giám sát, phát hiện và
ngăn ngừa hành vi lạm dụng VTTLTT. Hoạt động này có thể được tiến hành bởi
Nhà nước, bởi chính các doanh nghiệp tham gia thị trường, hay có thể là hoạt động
kiểm soát nội bộ bởi chính các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu
của luận án này, hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT được giới hạn là
hành vi kiểm soát của Nhà nước đối với đối tượng bị kiểm soát là các doanh nghiệp
có VTTLTT để xem xét, phát hiện nhằm ngăn ngừa và xử lý các doanh nghiệp có
VTTLTT thực hiện hành vi lạm dụng gây hạn chế, cản trở cạnh tranh. Với nội dung
như vậy, hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là hoạt động của Nhà
nước được tiến hành đối với các doanh nghiệp trên thị trường nhằm đảm bảo môi
trường tự do cạnh tranh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và người tiêu dùng. Kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT chính là một nội dung của việc thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với thị trường, đối với doanh nghiệp.
Có thể hiểu, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi
của cơ quan nhà nước và các chủ thể có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý
của Nhà nước, tác động đến các doanh nghiệp thông qua các biện pháp, cách thức
khác nhau để theo dõi, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nhằm bảo vệ, duy trì trật tự cạnh tranh,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các chủ thể kinh doanh khác và
người tiêu dùng.
36

Như vậy, chủ thể thực hiện quyền kiểm soát là cơ quan nhà nước có thẩm và
các chủ thể được trao quyền (các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng); đối tượng bị
kiểm soát là các doanh nghiệp có VTTLTT; nội dung kiểm soát là việc theo dõi,
giám sát, phát hiện, khiếu nại hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, ngăn
chặn và áp dụng các biện pháp chế tài để loại bỏ, xử lý các hành vi vi phạm.
1.1.2.2. Đặc điểm của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
- Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm tạo lập, duy trì
và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Với VTTLTT, doanh
nghiệp luôn có xu hướng thực hiện các hành vi thao túng, chi phối thị trường để
củng cố và duy trì quyền lực trên thị trường của mình. Một mặt doanh nghiệp thống
lĩnh thị trường sẽ tạo ra các rào cản để ngăn cản các doanh nghiệp khác gia nhập thị
trường, ngăn cản các đối thủ mở rộng và phát triển kinh doanh, hạn chế, thậm chí
triệt tiêu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp khác. Mặt khác, doanh nghiệp
có VTTLTT sẽ tận dụng lợi thế, vị trí và quyền lực thị trường mà nó có để tăng giá
thành, hạn chế thị trường, trục lợi từ khách hàng, người tiêu dùng, tôi đa hóa lợi
nhuận. Hành vi lạm dụng VTTLTT là sai trái, gây hậu quả tiêu cực cho môi trường
cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Do đó, việc kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT
là cần thiết với mục đích là tạo lập, duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành
mạnh và công bằng. Có thể nói, hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường chính là thể hiện vai trò điều tiết của Nhà nước đối với thị trường.
- Đối tượng của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là các
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Như ở trên đã phân tích, lạm dụng
VTTLTT là hành vi của doanh nghiệp để tác động đến cấu trúc thị trường, kiểm
soát các yếu tố cơ bản, phá vỡ các quy luật của thị trường, áp đặt các điều kiện giao
dịch bất bình đẳng nhằm duy trì, tăng cường vị trí của doanh nghiệp trên thị trường,
gây cản trở cạnh tranh, tổn hại cho các đối thủ và khách hàng của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp thông thường, không nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể
không có khả năng thực hiện được các hành vi gây ra những tác động kể trên. Nói
một cách khác, để thực hiện được các hành vi lạm dụng gây hậu quả tiêu cực cho thị
trường, doanh nghiệp phải có sức mạnh thị trường đáng kể, có khả năng dẫn dắt, chi
phối thị trường hay nói cách khác phải là doanh nghiệp có VTTLTT. Do đó, đối
tượng bị kiểm soát phải là doanh nghiệp có VTTLTT. Cùng là một hành vi nếu
được thực hiện bởi doanh nghiệp có VTTLTT thì cần phải kiểm soát nhưng nếu
được thực hiện bởi các doanh nghiệp khác không có VTTLTT thì không cần phải
kiểm soát.
37

- Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nằm trong giới hạn
của quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền tự do kinh doanh là một
quyền Hiến định, có tính chất quan trọng, cốt lõi trong việc vận hành nền kinh tế thị
trường. Quyền tự do kinh doanh cho phép doanh nghiệp được chủ động quyết định
cách thức, lĩnh vực kinh doanh, quyết định các vấn đề liên quan đến kinh doanh để
tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, tự do kinh doanh là một quyền pháp lý, do đó,
không thể có tự do kinh doanh tuyệt đối mà phải có giới hạn đặt trong khuôn khổ
của pháp luật. Bản thân doanh nghiệp có VTTLTT có quyền tự do kinh doanh,
nhưng việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp thống lĩnh thị
trường không được xâm phạm quyền tự do của chủ thể khác, xâm phạm trật tự cạnh
tranh, xâm phạm các lợi ích được Nhà nước bảo vệ bao gồm lợi ích chung của xã
hội, lợi ích của người tiêu dùng. Kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là phát hiện
và ngăn cản doanh nghiệp thực hiện các hành vi lạm dụng xâm phạm đến trật tự
cạnh tranh, lợi ích của nền kinh tế, xã hội và người tiêu dùng. Bởi vậy, hoạt động
kiếm soát hành vi lạm dụng VTTLTT cùng với các hình thức, cơ chế kiểm soát
khác đối với doanh nghiệp chính là tạo ra ranh giới của quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp,
- Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường dẫn đến hạn chế các
đặc quyền kinh tế của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Bản thân các
doanh nghiệp khi thực hiện các hành vi lạm dụng VTTLTT chính là khai thác các
lợi thế mà quyền lực thị trường mang lại, thực hiện các hành vi mang tính áp đặt,
tác động đến cấu trúc thị trường, tước đoạt quyền lựa chọn của các chủ thể khác trên
thị trường. Những hành vi lạm dụng mà doanh nghiệp có VTTLTT thực hiện có khả
năng gây tác hại cho thị trường chính là nó được thực hiện bởi doanh nghiệp có
quyền lực thị trường. Nếu đặt trong điều kiện không có VTTLTT, những hành vi đó
không thể gây tác hại cho thị trường. Có thể hiểu, việc thực hiện được các hành vi
lạm dụng VTTLTT là nhờ vào những đặc quyền kinh tế mà doanh nghiệp có
VTTLTT có được. Do đó, kiểm soát VTTLTT chính là ngăn cản doanh nghiệp có
VTTLTT thực hiện các hành vi mang tính đặc quyền của nó gây tác hại đến trật tự
cạnh tranh, xâm phạm lợi ích của xã hội, chủ thể khác và người tiêu dùng.
- Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị hạn chế nhất định
về phạm vi do ràng buộc của nguyên tắc tự do kinh doanh. Như đã phân tích, quyền
tự do kinh doanh là quyền quan trọng của doanh nghiệp, đảm bảo sự vận hành của
nền kinh tế thị trường. Do đó, trong hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT từ phía Nhà nước đối với doanh nghiệp, mặc dù là chủ thể mang quyền
38

lực nhưng Nhà nước cũng bị hạn chế nhất định về phạm vi kiểm soát, không được
can thiệp quá sâu vào quyền tự do kinh doanh, quyền tự quyết của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh. Chính điều này đòi hỏi hoạt động kiểm soát hành vi
lạm dụng VTTLTT phải được thực hiện với nội dung, phương pháp và quy trình
riêng. Việc kiểm sát hành vi lạm dụng VTTLTT phải đảm bảo vừa ngăn cản được
các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực hiện các hành vi sai trái, lại vừa không
được can thiệp quá sâu xâm phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tức là
đảm bảo yêu cầu hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích chung của nền kinh
tế, lợi ích người tiêu dùng.
1.1.2.3. Mục đích của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Như đã phân tích ở trên, kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT có thể được
tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau, do đó sẽ có những nội dung, cách thức và
mục đích kiểm soát khác nhau. Với phạm vi nghiên cứu của Luận án là tập trung
vào hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT mà chủ thể kiểm soát là Nhà
nước thì hoạt động kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT nhằm hướng tới những
mục đích sau đây:
- Thứ nhất, kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là để bảo vệ trật tự cạnh
tranh, bảo vệ động lực của nền kinh tế. Hành vi lạm dụng VTTLTT sẽ gây ra các
tác động hạn chế cạnh tranh. Khi ở vào vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh
nghiệp có quyền lực thị trường sẽ khai thác sức mạnh của mình để giải tỏa áp lực
cạnh tranh từ phía các đối thủ, tiếp tục củng cố vị thế thống lĩnh thị trường của
mình. Quy luật cạnh tranh bị bóp méo, mất khả năng điều chỉnh thị trường. Cạnh
tranh là “linh hồn sống của thị trường”, là động lực phát triển của nền kinh tế. Lạm
dụng quyền lực thị trường sẽ dẫn đến bóp méo, triệt tiêu cạnh tranh, khiến thị
trường mất dần sức sống, gây ra những tổn thất rất nghiêm trọng về lâu dài cho nền
kinh tế. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể gây ra những tác động khác ảnh
hưởng đến trật tự, sự ổn định của môi trường kinh doanh, kéo theo những hậu quả
tiêu cực về mặt xã hội như tình trạng bất bình đẳng trong kinh doanh, sự phát triển
kỹ thuật công nghệ bị cản trở, suy giảm chất lượng đời sống, ảnh hưởng đến công
bằng xã hội. Lạm dụng quyền lực thị trường cũng tạo ra một ảnh hưởng không tốt
đến văn hóa kinh doanh. Hoặc khai thác sự nhẹ dạ của người tiêu dùng, hoặc khai
thác sự lệ thuộc của họ, các doanh nghiệp lạm dụng quyền lực thị trường đã ứng xử
một cách “không nhân bản” [21, tr. 23]. Nó cũng cổ xúy cho kiểu kinh doanh cá lớn
nuốt cá bé, một thứ ứng xử mang tính cướp đoạt hoặc áp đặt trong quan hệ giữa các
doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước với việc phát hiện, ngăn chặn và loại bỏ hành vi
39

lạm dụng VTTLTT là để bảo vệ trật tự cạnh tranh, sự ổn định của môi trường kinh
doanh, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế.
- Thứ hai, kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là để bảo vệ phúc lợi xã hội,
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường sẽ
gây tổn thất về phúc lợi xã hội, tước đoạt lợi ích của người tiêu dùng. Doanh nghiệp
thống lĩnh lạm dụng vị trí của mình để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sẽ dẫn tới
sự phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, phá hỏng mục tiêu tối đa hóa thặng dư xã hội.
Nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm giảm sút trong khi giá
thành sản phẩm lại gia tăng. Người tiêu dùng mất quyền lựa chọn khi phải chấp
nhận mức giá cao hơn với chất lượng sản phẩm kém hơn và sự đối xử thiếu công
bằng từ doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Rõ ràng xã hội sẽ phải gánh chịu những
tổn thất kinh tế nghiêm trọng do mức giá cao và sản lượng dưới mức tiềm năng gây
ra. Do đó, việc kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là để ngăn chặn doanh nghiệp
thống lĩnh thực hiện những hành vi khiến cho sản xuất xã hội kém hiệu quả, gây ra
những tổn thất về phúc lợi xã hội.
Nói tóm , lạm dụng quyền lực thị trường cần phải được kiểm soát để bảo vệ
cạnh tranh như một động lực phát triển của nền kinh tế, bảo vệ phúc lợi xã hội và
bảo vệ người tiêu dùng.
1.1.3. Các công cụ kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Với những tác động tiêu cực của hành vi lạm dụng VTTLTT đã được phân
tích ở trên, Nhà nước, với tư cách là người quản lý, điều hành nền kinh tế sẽ phải sử
các công cụ, biện pháp khác nhau để kiểm soát nhằm hạn chế, khắc phục những tiêu
cực mà hành vi lạm dụng VTTLTT của các doanh nghiệp mang lại. Các công cụ
thường được các quốc gia sử dụng bao gồm:
Chính sách thuế
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp. Do đó, các doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường, hay cao nhất là độc quyền thị trường nắm giữ sức
mạnh thị trường luôn có xu hướng lạm dụng vị trí mà nó có để khống chế thị
trường, tăng giá bán nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Bằng việc đánh thuế thật nặng
vào các doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền thị trường để điều tiết thu nhập của các
doanh nghiệp này, Nhà nước muốn hạn chế hậu quả mà hành vi lạm dụng của các
doanh nghiệp này gây ra. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có hạn chế, khi mức thuế
tăng lên thì các nhà độc quyền sẽ nâng giá bán và có xu hướng giảm sản lượng.
Kiểm soát giá cả
Kiểm soát giá là một biện pháp kiểm soát mang tính trực tiếp đối với hành vi
40

của các chủ thể tham gia thị trường. Các quốc gia thường sử dụng công cụ kiểm
soát giá để giới hạn lợi nhuận của một ngành kinh tế nhất định, có mức độ tập trung
cao. Ở những thị trường có mức độ tập trung cao, tồn tại những doanh nghiệp có
VTTLTT. Với mục tiêu cuối cùng và cao nhất là tối đa hóa lợi nhuận, các doanh
nghiệp có VTTLTT thường sử dụng quyền lực thị trường để áp đặt mức giá bất hợp
lý. Việc kiểm soát giá cả, trong chừng mực nhất định sẽ kiềm chế lạm phát, giữ giá
ổn định, ngăn cản được việc lạm dụng VTTLTT của doanh nghiệp để thực hiện
hành vi lạm dụng về giá. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thực tế của một số nước, khi
sử dụng biện pháp này cần cân nhắc thận trọng, bởi lẽ nếu áp dụng máy móc, đặt
toàn bộ hoạt động của nền kinh tế dới sự kiểm soát giá cả chỉ nhằm hạn chế một số
tổ chức độc quyền sẽ dẫn đến hậu quả xấu không lường hết được.
Điều chỉnh độc quyền
Thống lĩnh hay độc quyền thị trường đều là những hiện tượng tồn tại khách
quan trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước không thể sử dụng quyền lực để ngăn
cản hay loại bỏ tuyệt đối sự hình thành và tồn tại của các doanh nghiệp thống lĩnh,
độc quyền thị trường nhưng Nhà nước cần thiết phải sử dụng những biện pháp phù
hợp để kiểm soát nhằm ngăn chặn việc thực hiện các hành vi lạm dụng quá mức sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền do những tác động tiêu
cực mà hành vi gây ra cho thị trường, nền kinh tế và người tiêu dùng. Nhà nước sử
dụng một số biện pháp để để điều chỉnh, hạn chế việc lạm dụng quá mức sức mạnh
thị trường của doanh nghiệp. Nhà nước quy định về công khai tất cả các yếu tố liên
quan đến độc quyền, như là công khai hóa hoạt động, chi phí, lợi nhuận của các
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền từ đó thiết lập chế độ giám sát của Nhà
nước, của xã hội và người tiêu dùng [14 tr. 60]; Nhà nước cũng có thể quy định về
hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi ích của các doanh nghiệp có VTTLTT, quy
định rõ các danh mục và số lượng sản phẩm được phép sản xuất và lưu thông; quy
định điều kiện để khống chế đầu ra, đầu vào, tiêu chuẩn, giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Quốc hữu hoá
Chính phủ quốc hữu hóa và nắm độc quyền sở hữu đối với các doanh nghiệp
độc quyền ở một số lĩnh vực trong nền kinh tế. Về hiệu quả kinh tế, hiện nay người
ta chưa khẳng định được tính hơn hẳn của biện pháp này so với các biện pháp điều
tiết độc quyền khác. Song, thông thường, giải pháp quốc hữu hoá được áp dụng đối
với các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên nhằm bảo đảm cung ứng các loại hàng
hoávà dịch vụ công cộng cho xã hội một cách bình thường. Trong loại biện pháp
này cũng không loại trừ khả năng mà Nhà nước thực hiện việc quốc hữu hóa (theo
41

nghĩa thông thường) với mục tiêu là để sau đó tiến hành tư nhân hóa, hoặc chia nhỏ
nhà độc quyền thành nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau.
Ban hành pháp luật cạnh tranh
Hiện nay hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều đã có pháp luật
cạnh tranh. Các biện pháp pháp lý được áp dụng để chống cạnh tranh không lành
mạnh và chống độc quyền thường được áp dụng bao gồm các biện pháp hành chính,
biện pháp xử lý về dân sự và hình sự như tuyên bố vô hiệu các hợp đồng, thoả thuận
cấu kết các cạnh tranh, tạo thế độc quyền bất hợp pháp, bắt buộc khai báo, công
khai năng lực cạnh tranh theo quy định của pháp luật, buộc chấm dứt hành vi cạnh
tranh không lành mạnh hoặc độc quyền bất hợp pháp và bồi thường thiệt hại đã gây
ra, thu hồi giấy phép kinh doanh, buộc đình chỉ hoạt động kinh doanh, phạt tiền đối
với các hành vi vi phạm pháp luật, tịch thu các khoản lợi đã hưởng bất chính thậm
chí là phạt tù giam có thời hạn đối với người vi phạm.
Với những yêu cầu kể trên, cùng với các thuộc tính của pháp luật, ban hành
pháp luật luôn được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong tay Nhà nước để can thiệp,
điều tiết cạnh tranh một cách có hiệu quả. Pháp luật cạnh tranh được coi là trụ cột
của pháp luật kinh tế công; là "Hiến pháp" của kinh tế thị trường.
Để kiểm soát các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, Nhà nước có thể áp
dụng nhiều biện pháp khác nhau, từ sử dụng các biện pháp hành chính – kinh tế như
chính sách thuế, quốc hữu hoá, kiểm soát giá cả, điều chỉnh độc quyền... cho đến
ban hành pháp luật cạnh tranh. Trong số các biện pháp Nhà nước có thể can thiệp để
kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường thì biện pháp ban hành pháp luật
mang ý nghĩa hiệu quả nhất xuất phát từ chính các thuộc tính của pháp luật. Pháp
luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường chỉ là một bộ phận nhỏ của
pháp luật cạnh tranh nói chung. Nó là bộ phận ra đời muộn hơn so với bộ phận pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh vì lý do phải có quá trình các doanh nghiệp
mới tập trung được sức mạnh kinh tế, trên cơ sở đó doanh nghiệp mới thực hiện
được hành vi lạm dụng và lúc này pháp luật cần được ban hành để điều chỉnh. Các
biện pháp mang tính hành chính – kinh tế đã lý giải vì sao có những trường hợp
ngoại lệ trong việc xử lý vấn đề lạm dụng quyền lực thị trường bằng biện pháp pháp
luật, bởi vì dù ít nhiều thì mỗi biện pháp đều có những ưu thế nhất định mà không
có biện pháp nào có thể thay thế được. Do đó, nó được lựa chọn áp dụng trong một
số những trường hợp cụ thể
42

1.2. Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường
Như đã phân tích ở trên, việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường của doanh nghiệp là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chung của nền kinh tế,
đảm bảo sự phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng. Thị trường có cơ chế tự điều chỉnh nhưng trong bối cảnh xuất hiện các
doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thì cơ chế tự điều chỉnh của thị trường bị cản
trở bởi sự lạm dụng quyền lực thị trường của những doanh nghiệp này, do đó, Nhà
nước, với tư cách là một chủ thể của quyền lực công, bằng bàn tay hữu hỉnh cần
can thiệp đúng lúc và ở mức độ phù hợp để đảm bảo sự vận hành tích cực của thị
trường. Sự can thiệp của nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp có
VTTLTT chỉ khi những doanh nghiệp này thực hiện những hành vi mang tính lạm
dụng, hay nói cách khác Nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với hành vi lạm
dụng VTTLTT của các doanh nghiệp chứ không ngăn cấm, cản trở hoạt động của
các doanh nghiệp này. Pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện trong cơ chế thị trường,
nơi có hiện diện của tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập hội, vào đúng
thời điểm mà hành vi cạnh tranh đi vượt quá biên giới của quyền tự do kinh doanh
[20, tr. 57].
Nhà nước thực hiện việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường của các doanh nghiệp chính là thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
thị trường, nền kinh tế. Bằng các cách thức, công cụ khác nhau, Nhà nước sẽ phát
hiện, nhận diện các doanh nghiệp có VTTLTT, từ đó giám sát và thực hiện các biện
pháp tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi của các doanh nghiệp
có VTTLTT theo hướng ngăn cản họ thực hiện những hành vi lạm dụng gây tác
động tiêu cực cho thị trường, xâm phạm đến lợi ích chung của nền kinh tế, Nhà
nước và người tiêu dùng. Trong số các công cụ mà nhà nước sử dụng để kiểm soát
hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp thì công cụ pháp luật
được coi là hiệu quả và quan trọng nhất. Bởi chỉ có pháp luật mới quy định cụ thể
trách nhiệm, nghĩa vụ, những hành vi mà doanh nghiệp có VTTLTT không được
làm và có những biện pháp chế tài mang tính cưỡng chế thi hành.
Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của doanh nghiệp là tổng
thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm phát hiện, ngăn ngừa,
loại bỏ và xử lý các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp có
43

VTTLTT gây tác động hạn chế cạnh tranh.


Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là một bộ phận quan trọng
của pháp luật cạnh tranh. Nguồn cơ bản của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT chính là đạo luật cạnh tranh của các quốc gia. Ngoài ra, tùy thuộc
vào đặc điểm riêng của mỗi hệ thống pháp luật mà nguồn của pháp luật về kiểm
soát hành vi lạm dụng VTTLTT còn là các văn bản pháp luật quốc gia khác liên
quan (chẳng hạn như các luật chuyên ngành), thực tiễn xét xử (án lệ), các học thuyết
pháp lý....
Nguồn cơ bản của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của Việt
Nam là Luật cạnh tranh (Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh 2018) và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, hành vi lạm dụng VTTLTT của các doanh
nghiệp ở Việt Nam cũng được điều chỉnh bởi quy định của một số luật quy định về
hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực đặc thù (Luật điện lực, Luật viễn thông,
Luật đấu thầu, Luật sở hữu trí tuệ...).
Có nhiều cơ chế kiểm soát bằng pháp luật khác nhau. Chẳng hạn pháp luật đặt
ra các quy định để nhận diện các hành vi (nhận diện chủ thể, nhận diện cách thức
thực hiện hành vi) và đặt ra quy định ngăn cấm các chủ thể không được thực hiện
các hành vi đó, trong trường hợp các chủ thể vẫn thực hiện các hành vi đã bị cấm thì
bị xử lý và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Pháp luật cũng có thể
kiểm soát theo cách thức mềm mỏng hơn là vẫn cho phép các chủ thể được tiến
hành những hành vi nhất định, tuy nhiên, việc thực hiện hành vi phải đặt dưới sự
giám sát và tuân theo các điều kiện chặt chẽ để đảm bảo không gây ra các tác động
tiêu cực. Đối với cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, các quốc gia thường
lựa chọn theo phương thức thứ nhất, tức là pháp luật nhận diện và ngăn cấm các
doanh nghiệp có VTTLTT thực hiện các hành vi bị coi là lạm dụng. Do đó, đặc
trưng cơ bản của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT là cách tiếp cận
từ mặt trái. Tức là pháp luật quy định về những hành vi mà doanh nghiệp có
VTTLTT bị cấm thực hiện chứ không quy định về quyền và nghĩa vụ, tức là hướng
dẫn các doanh nghiệp có VTTLTT được làm gì hay phải làm gì.
1.2.2. Mục tiêu kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của pháp
luật cạnh tranh
Với vai trò là một bộ phận không tách rời của chính sách và pháp luật cạnh
tranh, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền cũng
hướng đến những mục tiêu chung của chính sách và pháp luật cạnh tranh.
44

Ở Mỹ, sự ra đời của chính sách chống độc quyền (antitrust policy) là sự phản
ứng trước sự hình thành các tập đoàn tư bản lũng đoạn (Trust) làm tập trung sức
mạnh kinh tế, đe dọa sự tồn tại của các doanh nghiệp nhỏ. Chính các doanh nghiệp,
nông dân, hộ buôn bán nhỏ đã vận động (lobbied), yêu cầu Chính phủ Mỹ phải có
hành động bảo vệ họ, cũng như bảo vệ mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho người tiêu
dùng [37, tr 18]. Một số học giả giải thích ý định của các nhà lập pháp Hoa Kỳ với
mục tiêu duy nhất của luật chống độc quyền là phúc lợi của người tiêu dùng, với ý
nghĩa là hiệu quả kinh tế [84, tr. 16], một số khác lại cho rằng nâng cao hiệu quả
kinh tế không phải là mục tiêu duy nhất của Luật chống độc quyền, thậm chí tăng
cường hiệu quả kinh tế còn không phải là mục tiêu chủ yếu của luật chống độc
quyền mà mục tiêu chính của luật chống độc quyền Hoa Kỳ là ngăn cản các doanh
nghiệp đạt được và sử dụng quyền lực hay sức mạnh thị trường (market power) để
buộc người tiêu dùng phải trả giá cao hơn cho hàng hóa và dịch vụ của họ. Các
công ty đã sử dụng quyền lực thị trường một cách không ngay thẳng để tận thu lợi
nhuận từ người tiêu dùng, hành vi này cần bị loại bỏ [85, tr. 58].
Tại Liên minh Châu Âu, nhiều quan điểm cho rằng, sự ra đời của Luật cạnh
tranh EU chủ yếu là vì mục đích chính trị. Chính sách cạnh tranh EU là một công cụ
để đạt được các mục tiêu của Cộng đồng chung, cơ bản là, việc tạo ra một khu vực
thị trường chung với mức sống cao cho tất cả những người dân sống trong đó. Do
đó, trong chính sách cạnh tranh của EC, hai mục tiêu ban đầu được đặt ra là: đảm
bảo hội nhập thị trường chung và nâng cao hiệu quả kinh tế. Phân tích sâu hơn,
nhiều học giả đã chỉ ra, 102 TFEU không chỉ quy định vể vấn đề kiểm soát hành vi
lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT mà nó còn hướng tới việc thực thi các
chính sách trên một phạm vi rộng hơn bao gồm chính sách công nghiệp, xã hội,
chính trị. Trong nhiều vụ việc, các quy định được vận dụng để bảo vệ hoặc dành ưu
ái cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giữ thị trường mở, bảo vệ đối thủ cạnh tranh, bảo
vệ người tiêu dùng hoặc cho phép việc liên kết doanh nghiệp để khai thác lợi thế
công nghệ [80, tr. 27]. Tuy nhiên, từ góc độ thực tiễn, các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn, chẳng hạn, hội nhập thị trường, đơn giản như là sự cấm phân biệt giá cả giữa
các quốc gia, có thể làm triệt tiêu hiệu quả kinh tế. Từ thực tiễn giải quyết các vụ
việc, có thể thấy mục tiêu của chính sách và pháp luật cạnh tranh nói chung và mục
tiêu của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT nói riêng ở EU không
chỉ là bảo vệ quá trình cạnh tranh (chống lại các hành vi HCCT, đảm bảo sự cạnh
tranh công bằng) mà còn bảo vệ kết quả của cạnh tranh (chống lại các hành vi gây
45

thiệt hại cho người tiêu dùng, làm tổn thất phúc lợi xã hội) [80, tr.4]. Rõ ràng điều
102 TFEU quy định cấm các hành vi lạm dụng mang tính trục lợi (exploitative
abuses - những hành vi gây tổn thất cho các đối tác thương mại, khách hàng của
doanh nghiệp thống lĩnh, thậm chí người tiêu dùng) cũng như các hành vi lạm dụng
mang tính loại bỏ (exclusionary abuses – những hành vi lạm dụng gây thiệt hại đến
vị trí cạnh tranh của các đối thủ của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường).
Điểm qua luật cạnh tranh của một số nước khác có thể thấy mục tiêu của pháp
luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT khá đa dạng. Gắn với việc
bảo vệ lợi ích công, các quốc gia đặt ra các mục tiêu: (i) Duy trì cạnh tranh, (ii) Duy
trì tự do kinh tế, (iii) Hiệu quả kinh tế, (iv) Đạt được sự hội nhập thị trường, (v) Tối
đa hóa tổng phúc lợi, (vi) Tối đa hóa thặng dư tiêu dùng. Bên cạnh đó các mục tiêu
khác như: xóa bỏ quyền lực kinh tế, đảm bảo sự gia nhập thị trường dễ dàng, bảo vệ
phúc lợi của các doanh nghiệp nhỏ cũng được đề cập.
Có thể thấy, mặc dù có nhiều điểm khác nhau giữa các quốc gia, nhưng điểm
thống nhất cơ bản giữa các quốc gia về mục tiêu của pháp luật cạnh tranh về kiểm
soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT là không chỉ bảo vệ quá trình
mà còn bảo vệ cả kết quả của cạnh tranh. Trong đó, theo quan điểm cá nhân tác giả,
bảo vệ (quá trình) cạnh tranh nên là mục tiêu trước hết và không thể bỏ sót, cho dù
mục tiêu cuối cùng của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT là gì. Cho dù mục tiêu cuối cùng là tăng cường phúc lợi xã hội hay thặng
dư tiêu dùng thì pháp luật trước hết vẫn phải bảo vệ cạnh tranh, dù cho đó mới là
cạnh tranh tiềm năng. Luật cạnh tranh không phải là công cụ chính sách, pháp luật
duy nhất để đạt được các mục tiêu mong muốn khác nhau của xã hội. Đặc thù của
luật cạnh tranh chính là các quy định liên quan đến hành vi HCCT, hay là các hành
vi mang tính phản cạnh tranh. Do đó, khi xác định các mục tiêu còn lại của luật
cạnh tranh cần cân nhắc và tính đến sự liên hệ giữa mục tiêu đó với mục tiêu bảo vệ
cạnh tranh (chống lại các hành vi phản cạnh tranh). Chẳng hạn về mục tiêu bảo vệ
phúc lợi của người tiêu dùng thì công cụ pháp lý đầu tiên phải là luật bảo vệ người
tiêu dùng. Luật bảo vệ người tiêu dùng có thể tấn công bất cứ hành vi nào chỉ cần
nó gây thiệt hại cho lợi ích của người tiêu dùng, bởi vì mục tiêu của luật bảo vệ
người tiêu dùng là bảo vệ người tiêu dùng. Luật cạnh tranh phải khác luật bảo vệ
người tiêu dùng. Do đó, luật cạnh tranh không thể và không nên tấn công tất cả các
hành vi có hại cho người tiêu dùng, trừ khi hành vi đó có tính HCCT và gây hại cho
cạnh tranh. Ngược lại, việc bảo vệ quá trình cạnh tranh chỉ có ý nghĩa khi mà nó
46

dẫn đến việc đạt được những kết quả mong đợi từ cạnh tranh. Nói cách khác, (quá
trình) cạnh tranh không nên được bảo vệ chỉ vì lợi ích tự thân của chính nó, bởi vì
như vậy sẽ đồng nghĩa với bảo vệ đối thủ cạnh tranh cho những lợi ích riêng của
chúng. Những phân tích này lý giải vì sao bảo vệ cạnh tranh phải bao gồm cả bảo vệ
quá trình cạnh tranh và bảo vệ các kết quả mà cạnh tranh mang lại. Luật cạnh tranh
nên nhằm vào các hành vi bóp méo, cản trở cạnh tranh và do đó, chúng gây hại cho
người tiêu dùng, hay tổng phúc lợi xã hội hay bất kỳ mục tiêu cuối cùng nào được
vạch ra bởi chính sách của nhà nước.
Suy cho cùng, Luật cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem lại lợi ích cho nền
kinh tế, xã hội và người tiêu dùng, thông qua việc đảm bảo cạnh tranh trên thị
trường bằng cách ngăn cản các hành vi hạn chế, cản trở, bóp méo cạnh tranh.
Mục tiêu của luật cạnh tranh trong việc kiểm soát các hành vi của doanh
nghiệp có VTTLTT là ngăn chặn các doanh nghiệp này thực hiện các hành vi lạm
dụng sức mạnh thị trường để hạn chế, loại bỏ cạnh tranh và do đó gây tổn thất cho
phúc lợi xã hội, thiệt hại cho người tiêu dùng. Nói cách khác, việc áp dụng pháp
luật kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT không nhằm xoá bỏ vị trí thống lĩnh của
doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm dụng VTTLTT để trục lợi hoặc để bóp
méo cạnh tranh, tiêu diệt đối thủ cạnh tranh.
1.2.3. Các cách tiếp cận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Ngày nay, việc sử dụng các phân tích, các công cụ kinh tế trong việc áp dụng
luật cạnh tranh là một khuynh hướng chung và thật khó có thể tưởng tượng được bất
cứ phân tích nào về luật cạnh tranh lại tách rời với thực tiễn của nền kinh tế. Xu
hướng này được các nhà kinh tế học và các nhà luật học gọi là "cách tiếp cận kinh tế
"(economic - based approach) hoặc "cách tiếp cận dựa trên tác động của hành vi"
(effects – based approach). Tuy nhiên, cách tiếp cận ban đầu trong việc áp dụng luật
cạnh tranh nói chung và các quy định về lạm dụng VTTLTT nói riêng lại là formed
– based approach. Cách tiếp cận này dẫn đến việc áp dụng nguyên tắc per se rule
trong các quy định về lạm dụng VTTLTT cũng như các quy định về thỏa thuận
HCCT trong pháp luật các nước. Trong hơn một thập niên trở lại đây, các quy định
cấm tuyệt đối của luật cạnh tranh các nước đối với các hành vi nhất định của doanh
nghiệp bị coi là lạm dụng (nguyên tắc per se rule), tuy chậm chạp, nhưng đã dần
dần được thay thế bằng các quy định dựa trên nguyên tắc được gọi là rule of reason.
Tiếp cận dựa trên hình thức hành vi (formed based approach) và nguyên tắc vi
phạm mặc nhiên (per se rules): Theo cách tiếp cận formed based approach, việc
47

đánh giá một hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh liệu có phải là lạm dụng hay
không chủ yếu dựa trên việc xem xét hình thức (biểu hiện) của hành vi có phù hợp
với mô tả trong quy định pháp luật về các hành vi lạm dụng VTTLTT hay không.
Khi hành vi bị xem xét có cấu thành pháp lý phù hợp với hành vi bị coi là lạm dụng
được mô tả trong luật thì hành vi đó mặc nhiên bị coi là lạm dụng VTTLTT mà
không cần phải xem xét hành vi đó có thực sự gây ra những tác động tiêu cực hay
không (per se rules).
Nguyên tắc per se rule được phát triển bởi các học giả thuộc trường phái
Harvard, bắt nguồn từ nghiên cứu của E.S. Mason và sinh viên của ông là J.S. Bain.
Nhóm đã thực hiện nghiên cứu thực nghiệm về các ngành công nghiệp của Mỹ và
rút ra được mô hình “S – C – P” (Structure – Conduct – Performance), theo đó, cấu
trúc thị trường (Structure) sẽ xác định hành vi của doanh nghiệp (Conduct), và hành
vi đó sẽ quyết định hiệu quả thị trường (Performance) [33, tr. 22]. Nguyên tắc này
được xây dựng dựa trên quan điểm là thị trường luôn vận hành theo cách thức
không hoàn hảo, do đó, luật cạnh tranh nên đặt mục tiêu là bảo vệ các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trước các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường.
Mô hình S – C – P cho rằng cấu trúc của một ngành công nghiệp cụ thể sẽ dẫn đến
các dạng hành vi cụ thể của doanh nghiệp. Cách mà họ hành động sẽ dẫn đến những
hậu quả kinh tế nhất định có tác động trực tiếp đến thị trường. Theo logic này, các
học giả của trường phái Harvard cho rằng, các thị trường có sự tập trung cao tạo ra
động lực mạnh mẽ cho các nhà độc quyền hoặc các doanh nghiệp chi phối để thực
hiện những hành vi lạm dụng như là phương thức để củng cố, mở rộng quyền lực
thị trường. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến những biểu hiện tiêu cực của thị
trường như sự phân biệt đối xử, giảm phúc lợi xã hội, hay tạo ra rào cản gia nhập thị
trường…Do đó, cần áp dụng per se rule để cấm tuyệt đối các hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp thống lĩnh thị trường bởi chúng là những công cụ HCCT mạnh mẽ,
mà không cần thiết phải chứng minh là liệu tác động HCCT có thực sự xuất hiện
hay không.
Việc vận dụng nguyên tắc tiếp cận dựa trên hình thức hành vi và nguyên tắc vi
phạm mặc nhiên trong việc đánh giá các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp thống
lĩnh thị trường về cơ bản sẽ tăng cường sự đảm bảo pháp lý đồng thời giảm chi phí
thực thi. Tuy nhiên, việc vận dụng này chỉ có ý nghĩa khi hành vi được đề cập chỉ
có tác động một chiều, nói một cách khác nó gần như là luôn luôn hoặc ngược lại,
hầu như không bao giờ gây ra các tác động tiêu cực đến kết quả của cạnh tranh như
48

gây thiệt hại cho người tiêu dùng hay làm giảm phúc lợi xã hội. Thực tế, hầu hết các
loại hành vi được quy định trong luật cạnh tranh về lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể
có cả tác động chống cạnh tranh và thúc đẩy cạnh tranh và do đó không nên coi là
chúng đương nhiên vi phạm. Rõ ràng, chúng ta nên thận trọng khi can thiệp vào
chức năng của thị trường trừ khi có bằng chứng rõ ràng rằng thị trường đã không
thực hiện tốt chức năng của nó.
Tiếp cận dựa trên tác động của hành vi (effects based approach) và nguyên
tắc lập luận hợp lý (rule of reason)
Việc vận dụng nguyên tắc per se rule trong luật cạnh tranh lần đầu tiên bị chỉ
trích bởi các nhà kinh tế học của đại học Chicago vào những năm 1970. Các nhà
kinh tế học của Đại học Chicago, mà dẫn đầu là G. Stigler, H. Demsetz, R. Bork, R.
Posner và Y. Brozen đã đề xuất học thuyết mới. Mô hình của họ về chính sách cạnh
tranh dựa trên quan điểm là “sứ mệnh của pháp luật cạnh tranh là để duy trì, tăng
cường và củng cố các thể chế kinh tế vững mạnh để buộc các doanh nghiệp kinh
doanh phải đáp ứng người tiêu dùng” [84, tr. 90]. Mục tiêu chính của mô hình được
đề xuất là phúc lợi người tiêu dùng, đạt được thông qua việc thúc đẩy hiệu quả kinh
tế. Nó được thực hiện đầy đủ khi các nguồn lực kinh tế của xã hội được phân bổ
theo cách có thể đáp ứng nhu cầu của hầu hết người tiêu dùng. Với xuất phát điểm
như vậy, các học giả thuộc trường phái Chicago đã chỉ trích cách tiếp cận trước đây
về hành vi lạm dụng VTTLTT. Họ đã chứng minh rằng một số hành vi lạm dụng
nhưng vẫn có tính thúc đẩy cạnh tranh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trên thị
trường cụ thể. Chẳng hạn như hành vi bán kèm hay bán hàng theo gói thường được
các doanh nghiệp sử dụng để giảm chi phí sản xuất và phân phối, cũng như cải thiện
chất lượng sản phẩm. Do đó, việc kết luận một hành vi nào đó của doanh nghiệp
thống lĩnh là lạm dụng và vi phạm luật cạnh tranh cần phải căn cứ vào từng trường
hợp cụ thể, dựa trên những phân tích về tác động của hành vi đối với quá trình cạnh
tranh và kết quả của cạnh tranh. Nguyên tắc này được gọi là “rule of reason”. Tuy
nhiên, quan điểm của trường phái Chicago về rule of reason không ngay lập tức
nhận được sự thừa nhận rộng rãi của các nhà kinh tế. Trường phái hậu Chicago (the
post – Chicago) cho rằng, trong mọi trường hợp, các hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp thống lĩnh vẫn là công cụ để chúng củng cố, tăng cường và mở rộng quyền
lực thị trường, và vẫn phải được thừa nhận là một công cụ HCCT [37, tr. 400]. Qua
nhiều tranh luận, các học giả đều thừa nhận rằng, bản thân một hành vi lạm dụng cụ
49

thể của doanh nghiệp có VTTLTT có khả năng tạo ra cả tác động tích cực và tác
động tiêu cực. Vì vậy, đánh giá cuối cùng về hành vi phải phụ thuộc vào từng hoàn
cảnh cụ thể. Sự mở rộng ảnh hưởng của nguyên tắc rule of reason đồng thời với
việc thừa nhận các mục tiêu mới của luật cạnh tranh là phúc lợi người tiêu dùng và
thúc đẩy hiệu quả kinh tế càng tăng lên. Điều này đòi hỏi các hệ thống pháp luật
phải xem xét lại các phương pháp và tiêu chuẩn cạnh tranh dựa trên các mục tiêu
mới này. Hai sự thay đổi này cùng nhau tạo ra cách tiếp cận mới của luật cạnh tranh
được gọi là "cách tiếp cận dựa trên tính kinh tế" (economic – based approach) hoặc
"tiếp cận dựa trên tác động hành vi” (effects – based approach). Phân tích dựa trên
hiệu quả kinh tế đòi hỏi một cuộc điều tra sâu về kinh tế trong từng trường hợp để
đánh giá tác động của hành vi của các doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường cụ
thể. Bằng việc tập trung vào hiệu quả của hành vi hơn là hình thức của hành vi, thì
các hành vi kinh doanh đa dạng của các doanh nghiệp thống lĩnh nhằm HCCT sẽ ít
có khả năng bị coi là vi phạm luật cạnh tranh hơn. Cách tiếp cận mới này cũng đảm
bảo rằng một số hành vi mang tính HCCT dựa trên cách tiếp cận hình thức (formed
– based approach) sẽ được đánh giá một cách khách quan. Bởi thực tiễn kinh doanh
cho thấy, các hành vi kinh doanh có thể có những tác động khác nhau trong các
hoàn cảnh khác nhau: chúng có thể thúc đẩy đổi mới, cải tiến sản phẩm trong một
số trường hợp trong khi lại có thể bóp méo cạnh tranh trong các trường hợp khác.
Do đó, phương pháp tiếp cận dựa trên tác động của hành vi có thể phân tích các
trường hợp này với trọng tâm vào tác động thực sự của chúng đối với phúc lợi
người tiêu dùng và tăng hiệu quả kinh tế về tổng thể, do đó có thể cung cấp các
phân tích khách quan và chính xác nhất [82, tr. 14].
1.2.4. Cấu trúc pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, độc quyền
các nước tập trung vào 4 vấn đề chính: (1) nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp có VTTLTT; (2) xác định hành vi lạm dụng VTTLTT; (3) quy định hậu
quả pháp lý mà doanh nghiệp có VTTLTT phải gánh chịu khi thực hiện hành vi
lạm dụng bị pháp luật cấm; (4) trình tự, thủ tục xử lý đối với doanh nghiệp thực
hiện hành vi lạm dụng VTTLTT.
1.2.4.1. Nhận diện doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Như trên đã phân tích, doanh nghiệp có VTTLTT là doanh nghiệp nắm giữ
sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường
50

liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người
tiêu dùng. Do đó, để nhận diện doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT
cần xác định được thị trường liên quan và xác định được sức mạnh thị trường mà
doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp đó nắm giữ.
a) Thị trường liên quan
Xác định thị trường liên quan được xem là bước đầu tiên, có vai trò quan trọng,
mang tính quyết định đối với một vụ việc HCCT nói chung và vụ việc lạm dụng
VTTLTT nói riêng. Như trên đã phân tích, các hệ thống pháp luật đều ghi nhận,
doanh nghiệp bị coi là có VTTLTT phải trên một thị trường liên quan xác định.
Trong vụ Volkswagen AG, Tòa án Châu Âu cho rằng:
“Định nghĩa đúng đắn của thị trường liên quan là điều kiện tiên quyết cần thiết
cho mọi phán đoán về hành vi được cho là HCCT, vì trước khi hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh được xác nhận, cần thiết phải thiết lập sự tồn tại của doanh nghiệp
thống lĩnh trên một thị trường nhất định, mà giả định rằng một thị trường như vậy
đã được xác định”. [52, đoạn 230],
Quan điểm này cũng được ghi nhận trong các phán quyết của các Tòa án Hoa
Kỳ liên quan đến các vụ việc về chống độc quyền. Trong vụ Walker Process
Equipments Inc, Tòa án cho rằng
“Không có định nghĩa về thị trường liên quan, không có cách nào để đo
lường khả năng của doanh nghiệp bị cáo buộc làm giảm hạn chế hay phá hủy
cạnh tranh” [99, đoạn 174].
Từ quan điểm kinh tế, việc xác định thị trường liên quan, về cơ bản có thể
giúp đánh giá tác động cạnh tranh của các hành vi kinh doanh cũng như các giao
dịch kinh tế mà doanh nghiệp có VTTLTT thực hiện, bao gồm cả xác định các đối
thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ góc độ pháp lý, thị trường liên quan có ý nghĩa
trong việc đánh giá được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được, thông qua
việc tính toán mức thị phần của doanh nghiệp. Hiển nhiên là, thị trường liên quan
được xác định càng hẹp thì thị phần của doanh nghiệp đang được xem xét càng cao
và do đó doanh nghiệp càng dễ bị xác định là thống lĩnh thị trường, bởi thị phần là
một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định quyền lực thị trường và tác động gây
HCCT đáng kể.
Thực chất, thị trường liên quan bao gồm việc mô tả một loạt các sản phẩm
và không gian địa lý trong đó quyền lực thị trường có thể được thực hiện. Nói
cách khác, xác định thị trường liên quan là xác định phạm vi các sản phẩm thay
thế gần cho một sản phẩm cụ thể và phạm vi không gian địa lý trong đó người
51

tiêu dùng sẽ dễ dàng chuyển sang các nhà cung cấp sản phẩm thay thế khác. Như
vậy, khái niệm thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị
trường địa lý liên quan.
Khái niệm thị trường sản phẩm liên quan trong luật cạnh tranh các nước có
điểm chung là thị trường sản phẩm được xác định bởi khả năng thay thế cho nhau
của hàng hóa từ quan điểm của người mua. Nói cách khác, hàng hóa mà người mua
coi là thay thế được cho nhau thường được coi là nằm trong cùng một thị trường sản
phẩm liên quan, ngược lại, hàng hóa mà người mua không coi là hàng thay thế được
cho nhau thường là ở các thị trường sản phẩm riêng biệt.
OECD đã định nghĩa thị trường liên quan là “một sản phẩm hoặc một nhóm
sản phẩm và một khu vực địa lý trong đó nó được bán sao cho, với giả định, công ty
tối đa hóa được lợi nhuận, là người bán duy nhất các sản phẩm đó trong khu vực đó
có thể tăng giá với một lượng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời trên mức phổ
biến hiện tại [75, mục 125, tr. 54- 55].
Thị trường sản phẩm liên quan đều được hiểu là một phần của thị trường liên
quan áp dụng cho một sản phẩm cụ thể của doanh nghiệp bằng cách xác định tất cả
các sản phẩm thay thế hợp lý cho sản phẩm và bằng cách xác định xem các sản
phẩm thay thế này có giới hạn khả năng tác động đến giá sản phẩm của doanh
nghiệp hay không. Luật cạnh tranh các nước quy định các cách thức cụ thể để xác
định thị trường sản phẩm liên quan. Một số phương pháp xác định thị trường sản
phẩm liên quan được quy định trong luật cạnh tranh của nhiều nước, gồm: Phân tích
khả năng thay thế về cầu của sản phẩm dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm
mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là các sản phẩm có khả năng thay thế cho
nhau; Phân tích khả năng thay thế về cung trong trường hợp ảnh hưởng của khả
năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế về cầu liên quan đến tính
hiệu quả và kịp thời; sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là phép thử nhà độc
quyền giả định.
Trong khi đó, thị trường địa lý liên quan được xem là một thị trường bao gồm
khu vực trong đó các điều kiện cung cấp hàng hóa và cung ứng dịch vụ là đồng nhất
rõ ràng và có thể được phân biệt với các điều kiện cạnh tranh phổ biến trong các
khu vực địa lý lân cận. Việc xác định thị trường địa lý liên quan tương tự như xác
định thị trường sản phẩm liên quan. Thị trường địa lý liên quan được xác định theo
quan điểm của người mua về tính thay thế hoặc khả năng thay thế của các sản phẩm
được sản xuất hoặc bán tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, nếu người mua mua sản
52

phẩm được bán ở một địa điểm chuyển sang mua sản phẩm được bán tại một địa
điểm khác để đáp ứng với mức tăng nhỏ nhưng đáng kể và không nhất thời về giá
thì hai địa điểm đó được xác định là nằm trong cùng một thị trường địa lý liên quan
đối với sản phẩm đó. Tuy nhiên, nếu họ không coi sản phẩm được bán ở một địa
điểm khác là sản phẩm thay thế cho một sản phẩm được bán ở địa điểm kia, thì hai
địa điểm đó nằm ở các thị trường địa lý khác nhau đối với sản phẩm đó. Luật cạnh
tranh các nước xác định giới hạn của thị trường địa lý liên quan dựa trên các yếu tố
như chi phí vận chuyển, thuế quan, các rào cản thương mại khác và kể cả các quy
định hành chính (như quy định về y tế và an toàn, các loại giấy phép…).
b) Xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, nhóm doạnh nghiệp
Sau khi thị trường liên quan đã được xác định thì công việc khó khăn tiếp theo
chính là xác định liệu một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có nắm giữ
VTTLTT, tức là có sức mạnh thị trường đáng kể hay không. Trong các hệ thống
pháp luật khác nhau, mức thị phần cao thường được coi là dấu hiệu cần nhưng chưa
đủ để kết luận về VTTLTT của một doanh nghiệp. Thị phần được hiểu là phần thị
trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh. Do đó, thị phần cao giúp doanh nghiệp tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận nhưng cũng đồng thời là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng
để cho thấy lợi thế cạnh tranh, khả năng tác động đến thị trường của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp nắm được thị phần cao trong thời gian dài trên thị trường, không
cần nhiều chứng cứ cũng có thể giả định rằng doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh.
Ngược lại, với doanh nghiệp có thị phần thấp, CQCT cần thu thập thêm nhiều
chứng cứ để có thể kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Thay
vì đưa ra mức thị phần cao cố định để khẳng định chắc chắn về sự tồn tại của doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường. Một số hệ thống pháp luật mà điển hình là EU thiết lập
mức thị phần chuẩn mà cao hơn hay thấp hơn mức thị phần theo luật định sẽ cho giả
định về việc tồn tại hay không sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, vấn đề phương pháp xác định thị phần của doanh nghiệp cũng không hoàn
toàn thống nhất giữa các hệ thống pháp luật. Thị phần có thể được đo lường bằng
doanh số hiện tại, doanh số trên cả quá trình trong quá khứ của doanh nghiệp hay
thậm chí là khả năng chiếm lĩnh thị trường trong tương lai của doanh nghiệp.
Ngoài thị phần được coi yếu tố quan trọng cần có, các yếu tố quan trọng
khác thường được quy định trong luật cạnh tranh các nước nhằm xác định liệu
một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan hay không, bao
gồm các yếu tố như:
53

- Số lượng và thị phần của các đối thủ cạnh tranh


- Đặc thù của sản phẩm liên quan
- Sức mạnh đối kháng của các chủ thể tham gia thị trường khác (chẳng hạn
như sức mạnh của người mua)
- Các đặc điểm của thị trường như môi trường pháp lý, tốc độ thay thế về công
nghệ, sự tồn tại của các đối thủ tiềm năng
- Và quan trọng nhất là các rào cản gia nhập và mở rộng thị trường
Trong các thị trường có rào cản gia nhập và mở rộng thấp, bất kỳ nỗ lực nào
của doanh nghiệp thống lĩnh (thậm chí là một doanh nghiệp độc quyền) để thực
hiện quyền lực thị trường mà nó có được, về mặt lý thuyết, sẽ bị đe dọa bởi sự gia
nhập hay mở rộng thị trường của các đối thủ tiềm năng đang bị hấp dẫn bởi mức
giá cao, lợi nhuận mà doanh nghiệp thống lĩnh đạt được. Sự gia nhập của các đối
thủ cạnh tranh có thể sẽ thu hút khách hàng đến mức làm cho việc tăng giá của
doanh nghiệp thống lĩnh trên cơ sở thực hiện quyền lực thị trường mà nó không
mang lại lợi nhuận. Các rào cản gia nhập và mở rộng thị trường thường được xem
xét bao gồm đặc thù của sản phẩm, các đặc điểm của thị trường như khả năng xâm
nhập vào mạng lưới phân phối, các rào cản pháp lý, sự bảo hộ phát minh, sáng
chế, chi phí chìm và các hành vi mang tính chiến lược của chính các công ty đang
thống lĩnh thị trường…
Các hệ thống pháp luật không chỉ quan tâm, kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT của một doanh nghiệp mà việc thực hiện hành vi lạm dụng của một nhóm
doanh nghiệp nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể cũng được đánh giá là sẽ gây nên
tác động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường. Điều 102 của TFEU quy định cấm
không chỉ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ, mà còn bao
gồm cả hành vi lạm dụng VTTLTT của một nhóm doanh nghiệp: “Bất kỳ hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra bởi một hay nhiều doanh nghiệp (…)”.
Theo luật pháp Châu Âu, nhóm có vị trí thống lĩnh bao gồm hai hoặc nhiều
doanh nghiệp có thể hành động giống nhau một cách riêng lẻ hoặc cùng hành động
như một thực thể liên kết trên một thị trường liên quan cụ thể [42, đoạn 36]. Trên
quan điểm kinh tế học, sẽ là đầy đủ chứng cứ khi các doanh nghiệp áp dụng cùng
một chính sách chung trên thị trường và hành động độc lập đáng kể trên thị trường
với các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng.
Luật cạnh tranh các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt được
VTTLTT. Mục tiêu của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận. Việc nỗ lực thu hút
54

khách hàng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn để gia tăng lợi nhuật là mơ ước và
động lực kinh doanh chính đáng của mọi doanh nghiệp. Hơn nữa sự tồn tại của các
doanh nghiệp thống lĩnh cũng có những tác động tích cực cho nền kinh tế xã hội
như tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra những sản phẩm với chất
lượng tốt, công nghệ cao hơn cho xã hội, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế hợp lý…
1.2.4.2. Xác định các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Qua khảo cứu có thể thấy luật cạnh tranh nhiều nước không đưa ra khái niệm
hành vi lạm dụng VTTLTT, tuy nhiên, có liệt kê các hành vi nhất định mà nếu được
thực hiện bởi doanh nghiệp có VTTLTT thị sẽ bị coi là lạm dụng VTTLTT. Chẳng
hạn trong Luật Canh tranh EU, Điều 82 EC (nay là điều 102 TFEU) liệt kê các hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bao gồm:
- Áp đặt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ
bất hợp lý hoặc các điều kiện thương mại bất hợp lý khác;
- Giới hạn sản xuất, thị trường hoặc sự phát triển kỹ thuật mang lại lợi ích
cho người tiêu dùng
- Áp dụng các điều kiện khác nhau cho các giao dịch tương tự với các bên
giao dịch khác nhau để đặt chúng vào vị trí cạnh tranh bất lợi;
- Giao kết hợp đồng trong đó buộc các bên khác chấp nhận các nghĩa vụ bổ
sung mà xét về bản chất giao dịch hay tập quán thương mại đều không có liên quan
đến đối tượng của hợp đồng.
Đạo luật Cạnh tranh của Vương quốc Anh cũng đưa ra các hành vi tương tự
như trong Luật EU mà nếu các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực hiện sẽ dẫn
đến lạm dụng VTTLTT [89, mục 18].
Tại mục 4(2) Luật Cạnh tranh Ấn Độ 2002 liệt kê các hành vi:
- Trực tiếp hoặc gián tiếp áp đặt một cách bất hợp lý hoặc phân biệt đối xử
các điều kiện mua bán hàng hóa, dịch vụ hoặc giá mua bán hàng hóa, dịch vụ;
- Hạn chế hoặc cản trở sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc sự phát
triển khoa học kỹ thuật mang lại lợi ích cho người tiêu dùng;
- Thực hiện một hoặc một số hành vi dẫn đến cản trở việc gia nhập thị trường;
- Giao kết hợp đồng trong đó buộc các bên khác chấp nhận các nghĩa vụ bổ
sung mà xét về bản chất giao dịch hay tập quán thương mại đều không có liên quan
đến đối tượng của hợp đồng;
- Sử dụng vị trí thống lĩnh trên một thị trường liên quan để gia nhập, bảo vệ,
55

mở rộng vị trí trên thị trường liên quan khác.


Trong khi đó, pháp luật Australia lại không đề cập đến bất kỳ hành vi nào bị
cấm một cách rõ ràng mà chỉ đề cập đến các mục đích mà một công ty không được
tận dụng sức mạnh thị trường đáng kể mà nó có trong thị trường liên quan để đạt
được. Mục 4 Đạo luật cạnh tranh và tiêu dùng 2010 [28] nêu rõ “hành vi lạm dụng
quyền lực thị trường bị cấm là lợi dụng sức mạnh thị trường đáng kể trong một thị
trường cụ thể cho một hoặc nhiều mục đích bị cấm: cụ thể là để loại bỏ hoặc gây
thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc tiềm năng, để ngăn chặn một người
tham gia vào thị trường, đe dọa hoặc ngăn chặn một người tham gia thực hiện hành
vi cạnh tranh”.
Có thể thấy mặc dù có thể có những điểm khác biệt nhất định nhưng pháp luật
cạnh tranh các nước đều quy định những hành vi bị cấm là những hành vi mang tính
chất lạm dụng vị trí thống lĩnh, sức mạnh thị trường để gây ra tác độ loại bỏ, ngăn
cản đối thủ cạnh tranh, HCCT và gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác trên thị
trường. Các hành vi lạm dụng bị cấm theo pháp luật các nước có thể được phân loại
theo nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, cách phân loại xuất phát từ pháp luật Châu
Âu chủ yếu dựa trên các tác động do hành vi gây ra được thừa nhận rộng rãi. Theo
cách phân loại này, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền có thể được
chia thành hai nhóm hành vi chính như sau:
(i) “Hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ đối thủ” là hành vi có tác động ngăn
cản cạnh tranh hiệu quả trên thị trường liên quan bằng cách loại bỏ hoặc cản trở các
đối thủ cạnh tranh hiện tại và/hoặc tăng các rào cản gia nhập thị trường đối với các
đối thủ tiềm năng. Hành vi mang tính loại bỏ trước hết về mặt bản chất phải có khả
năng phong tỏa các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường và trong bối cạnh thị
trường cụ thể, còn có khả năng phát sinh tác động phong tỏa, bóp méo thị trường.
Việc phong tỏa thị trường có thể là ngăn cản việc gia nhập hoặc mở rộng sản xuất
kinh doanh của các đối thủ hoặc thúc đẩy họ rút lui khỏi thị trường. Sự phong tỏa bị
coi là bóp méo thị trường nếu nó có khả năng cản trở việc duy trì mức độ cạnh
tranh hiện có hoặc ngăn chặn sự phát triển cạnh tranh trên thị trường và do đó có
khà năng tác động khiến giá cả tăng lên hoặc duy trì trên mức giá cạnh tranh.
(ii) “Hành vi lạm dụng mang tính trục lợi/bóc lột” là hành vi đối xử không
công bằng hoặc bất hợp lý đối với những bên bị phụ thuộc vào doanh nghiệp thống
lĩnh trong việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường liên quan. Hành vi
của doanh nghiệp thống lĩnh có thể được coi là hành vi mang tính bóc lột khi hành
56

vi này là không công bằng và bất hợp lý đối với những đối tượng phụ thuộc vào
doanh nghiệp thống lĩnh. Những đối tượng này có thể là các khách hàng (khi doanh
nghiệp thống lĩnh định giá quá cao) hoặc các nhà cung cấp của doanh nghiệp thống
lĩnh (khi nó trả một mức giá quá thấp).
Trong hai nhóm hành vi nêu trên, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ được
coi là nghiêm trọng hơn và phản ánh mức độ tác động kinh tế lớn hơn của hành vi
lạm dụng. Tuy nhiên, bảo vệ người tiêu dùng cuối cùng là mục tiêu quan trọng của
pháp luật cạnh tranh và do đó rất cần thiết phải xem xét, đánh giá liệu một hành vi
mang tính loại bỏ trên thực tế có gây thiệt hại cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc
có dẫn đến việc tăng giá hoặc hạn chế sản lượng, hạn chế sự lựa chọn hay không.
Bởi vậy, không có sự phân biệt một cách tuyệt đối giữa hai loại hành vi trên và một
số hành vi lạm dụng khác, chẳng hạn như việc áp dụng điều khoản bán kèm có thể
vừa mang tính bóc lột, vừa mang tính loại bỏ.
1.2.4.3. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường
Về thẩm quyền kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Trong quan hệ pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường thì cơ quan quản lý cạnh tranh là chủ thể thực hiện quyền kiểm soát và
doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT là chủ thể bị kiểm soát. Tuy mô
hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở các nước vẫn có những khác biệt nhất định
nhưng đều thống nhất ở quan điểm cơ quan quản lý cạnh tranh phải là cơ quan độc
lập, chuyên trách, đặc biệt, phần lớn các nước đều vận dụng mô hình quản lý hành
chính về thực thi pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, các cơ quan cạnh tranh của các
nước đều mang tính “lưỡng tính” hay bản chất là “hành chính bán tư pháp”. Chính
cơ quan quản lý cạnh tranh lại là cơ quan điều tra, ra phán quyết xử lý vi phạm, còn
tòa án thực hiện chức năng phúc thẩm các vụ việc do cơ quan cạnh tranh tuyên.
Thực tế ở một số nước như Ý, Hung – ga – ry cơ quan cạnh tranh thường trực
thuộc quốc hội, độc lập với tư pháp và chính phủ. Một số nước khác lại quy định cơ
quan cạnh tranh trực thuộc chính phủ, có vị trí như một cơ quan Bộ hay ngang Bộ.
Chẳng hạn như mô hình cơ quan cạnh tranh ở Nhật Bản, nhiệm vụ quản lý và thực
thi quyền kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT của doanh nghiệp được giao cho
một cơ quan duy nhất là Ủy ban thương mại công bằng Nhật Bản (JFTC). JFTC có
vị trí của một cơ quan cấp bộ trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo mô hình hội
đồng. Các thành viên của JFTC là các chuyên gia luật và kinh tế được Thủ tướng bổ
nhiệm. JFTC thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập mà không chịu sự giám sát hay
57

chỉ đạo, can thiệp của bất kỳ ai. Các nước có mô hình tương tự như Nhật Bản có thể
kể đến Úc, Liên Bang Nga, Đức...
Trong khi đó ở Hoa Kỳ, cả Ủy ban thương mại Liên bang (USFTC) và Cục
Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (USDOJ) đều có thẩm quyền trong việc thực
thi pháp luật chống độc quyền. USFTC là một cơ quan độc lập, báo cáo trực tiếp
trước Nghị viện. Cục Cạnh tranh trực thuộc USFTC có nhiệm vụ giám sát, phát
hiện và điều tra các hoạt động gây hạn chế cạnh tranh nói chung và lạm dụng
VTTLTT nói riêng trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp ở mức độ cao, trên phạm
rộng tới quyền lợi của người tiêu dùng như năng lượng, y – dược, thực phẩm, các
ngành công nghệ cao... Cục Cạnh tranh có trách nhiệm trình Ủy ban xem xét xử lý
các hành vi vi phạm. Khi Ủy ban có quyết định xử lý, cục sẽ thực thi các quyết định
này thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của Tòa án liên bang hoặc theo các
quyết định hành chính. Các lĩnh vực còn lại thuộc thẩm quyền giám sát, điều tra của
USDOJ. Để tránh chồng chéó, hai cơ quan này thường thông tin, tham khảo ý kiến
của nhau trước khi tiến hành điều tra, xử lý bất kỳ vụ việc nào.
Qua nghiên cứu, có thể thấy để thực hiện chức năng kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT, các cơ quan cạnh tranh của các nước đều được quy định thẩm
quyền bao gồm:
- Giám sát thị trường để nhận diện các thị trường có mức độ tập trung cao,
nhận diện các doanh nghiệp có VTTLTT và giám sát hoạt động cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên các thị trường đó;
- Tiếp nhận thông tin từ công chúng, chủ động thu thập thông tin từ thị
trường để phát hiện, điều tra hành vi có dấu hiệu lạm dụng VTTLTT;
- Đưa ra phán quyết, áp dụng các hình thức trách nhiệm để xử lý các hành vi
lạm dụng VTTLTT.
Pháp luật các nước đều quy định các quyền hạn cụ thể cho cơ quan cạnh tranh
trong quá trình thực hiện các thẩm quyền nêu trên. Chẳng hạn quyền được lấy lời
khai, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, chứng cứ. Thậm chí, pháp luật cạnh tranh
Nhật Bản và Hoa Kỳ đều cho phép cơ quan cạnh tranh được thực hiện quyền khám
xét và thu giữ tang vật có liên quan đến các doanh nghiệp là đối tượng điều tra về
hành vi lạm dụng VTTLTT.
Về trình tự, thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Nằm trong nội dung pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, bên cạnh các quy định nội dung về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường bị cấm, pháp luật cạnh tranh các nước còn có các quy định pháp luật hình
58

thức về trình tự và thủ tục tố tụng cạnh tranh nói chung và trình tự, thủ tục xử lý
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói riêng. Pháp luật của đa phần các
nước đều thống nhất quan điểm tố tụng cạnh tranh là tố tụng hành chính. Do pháp
luật các nước trao thẩm quyền kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, cũng là thẩm quyền quản lý cạnh tranh cho các cơ quan khác nhau do đó,
trình tự, thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cũng có những
điểm khác biệt nhất định. Mặc dù vậy, những điểm chung có thể nhận thấy trong
thủ tục xử lý đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong luật cạnh
tranh các nước là:
- Pháp luật các nước đều quy định thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường bao gồm các giai đoạn: Giai đoạn điều tra, giai đoạn xử lý, giai đoạn
giải quyết khiếu nại quyết đinh xử lý và thực thi quyết định giải quyết xử lý hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành điều tra hành vi
lạm dụng VTTLTT bao gồm: đơn khiếu nại về hành vi vi phạm của doanh nghiệp
có VTTLTT; từ phát hiện của chính cơ quan quản lý cạnh tranh qua quá trình thực
hiện giám sát thị trường.
Đối với vấn đề miễn trừ thì mỗi nước có quan điểm khác nhau về ván đề
miễn trừ. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường của các doanh nghiệp được áp dụng điều kiện miễn trừ trách nhiệm khi
thỏa mãn điều kiện:
- Hành vi của doanh nghiệp là kết quả của việc áp dụng, thực thi chính sách
hay quy định pháp luật; hoặc
- Nhằm mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế hoặc đảm bảo việc làm.
Tuy vậy, nhiều nước lại không có quy định về miễn trừ đối với hành vi lạm
dụng VTTLTT (trong đó có Việt Nam). Các nước này quy định hành vi lạm dụng
VTTLTT luôn là hành vi bị cấm, không được hưởng miễn trừ.
1.2.4.4. Hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường
Một điểm chung của hầu hết các CQCT trên thế giới là việc xem phạt tiền như
một hình thức răn đe hơn là biện pháp bồi thường. Cụ thể, phạt tiền không chỉ để
trừng phạt hành vi vi phạm mà còn dùng để ngăn chặn việc thực hiện hành động
phạm pháp tương tự trong tương lai của không chỉ chính chủ thể thực hiện hành vi
mà còn răn đe những đối tượng tiềm tàng có khả năng thực hiện hành vi phản cạnh
tranh khác.
59

Một biện pháp ngăn cản hữu hiệu khác là tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ
hành vi phạm pháp. Trên thực tế rất khó đưa ra mức phạt dạng này vì không dễ để
xác định và chứng minh một khoản lợi nhuận nhất định doanh nghiệp thu được là
do hành vi phạm pháp mà có.
Bên cạnh đó, việc xử phạt tiền cũng có nhiều điểm không thuận tiện. Ví dụ, áp
dụng mức phạt quá cao có thể gây ra kết quả không mong muốn như phá sản và
chính vì thế tác động xấu đến cạnh tranh và thậm chí là nghiêm trọng hơn thế.
Mặc dù pháp luật mỗi quốc gia quy định khác nhau về mức phạt tiền đối với
doanh nghiệp vi phạm, tuy nhiên các CQCT đều phải xem xét một số yếu tố nhất
định để tính toán mức phạt cuối cùng. Trong đó, hầu hết CQCT đều nhận ra rằng
tổng số tiền phạt phụ thuộc vào mức độ vi phạm. Tuy nhiên, một số yêu tố khác có
thể được xem xét (chủ yếu liên quan đến mức độ nghiêm trọng của hành vi vi
phạm), như: mức độ chủ định vi phạm, liệu hành vi vi phạm có được tiến hành một
cách nghiêm túc hay không, đặc điểm của thị trường, khoảng thời gian vi phạm, lợi
nhuận có được từ việc vi phạm v.v… Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có
thể được xem xét khi điều chỉnh mức phạt cơ bản, như: khoảng thời gian của hành
vi, tái phạm, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp trong vụ việc, từ chối hợp tác, cản
trở điều tra v.v… (tình tiết tăng nặng); hợp tác hiệu quả, chấm dứt ngay hành vi vi
phạm, vai trò thứ yếu hoặc bị lôi kéo thực hiện hành vi vi phạm v.v… (tình tiết
giảm nhẹ).
Bên cạnh những hình thức phạt truyền thống, cũng cần lưu ý tới các cách thức
khác để có thể ngăn chặn hành vi vi phạm. Ví dụ, nghĩa vụ phải công khai các hình
phạt bởi vì thiệt hại gây ra cho uy tín của doanh nghiệp có thể là một hình thức ngăn
chặn rất hữu hiệu. Các giám đốc doanh nghiệp có thể bị tạm dừng chức năng hoạt
động trong một thời gian đưa ra. Thậm chí hình thức phạt như yêu cầu bồi thường,
dịch vụ cộng đồng, lệnh không được phép rời khỏi đất nước và giám sát có thể được
áp dụng.
1.3. Mô hình kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trường theo pháp
luật cạnh tranh các nước
1.3.1. Kinh nghiệm của EU
Sự hình thành và phát triển của pháp luật về lạm dụng VTTLTT của liên minh
châu Âu được phản ánh qua các quy định của Hiệp ước EC, Công ước TFEU và
thực tiễn qua hoạt động của ECJ và Ủy ban Châu Âu. Chịu ảnh hưởng đáng kể từ
cách tiếp cận về canh tranh của trường phái Havard, pháp luật về kiểm soát hành vi
60

lạm dụng VTTLTT của EU dựa trên quan điểm đề cao sự can thiệp của Nhà nước
đối với thị trường. Nguyên tắc per se rule với quan điểm việc đánh giá một hành vi
của doanh nghiệp thống lĩnh liệu có phải là lạm dụng hay không chủ yếu dựa trên
việc xem xét hình thức (biểu hiện) của hành vi có phù hợp với mô tả trong quy định
pháp luật về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay không được phản
ảnh qua thực tiễn giải quyết các vụ việc. Khi hành vi bị xem xét có cấu thành pháp
lý phù hợp với hành vi bị coi là lạm dụng được mô tả trong luật thì hành vi đó mặc
nhiên bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà không cần phải xem xét
hành vi đó có thực sự gây ra những tác động tiêu cực hay không. Thời gian gần đây,
có sự thay đổi nhất định trong quan điểm, lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng
VTTLTT ở EU, đặt ra đòi hỏi việc đánh giá các hành vi lạm dụng VTTLTT cần dựa
vào nhiều hơn các phân tích kinh tế để hạn chế sự cứng nhắc của các quy định pháp
luật. Thực tiễn cho thấy các phán quyết của ECJ mặc dù đã dựa trên các phân tích
kinh tế nhiều hơn nhưng vẫn cho thấy xu hướng tiếp cận theo hướng doanh nghiệp
thống lĩnh thực hiện các hành vi thỏa mãn các dấu hiệu trong luật thì bị coi là vi
phạm. Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của EU
đặt ra trách nhiệm đặc biệt cho các công ty trong việc phải kiềm chế những hành
động có thể có tác động chống cạnh tranh trong khi những hành động đó có thể
được khuyến khích cho các công ty nhỏ. Quan niệm này đã được làm rõ trong Vụ
kiện AKZO, trong đó Ủy ban quy định rằng công ty có ưu thế này có quyền cạnh
tranh với các công ty nhỏ khác trên thị trường và có thể loại trừ vì mức độ hiệu quả
cao hơn chứ không phải bằng hành động chống cạnh tranh [49, đoạn 76]. Có nghĩa
là công ty chi phối có một trách nhiệm đặc biệt và không hoàn toàn tự do trong các
quyết định chiến lược của mình đối với các công ty nhỏ khác hoạt động trên thị
trường. Điều 102 TFEU cấm bất kỳ hành vi lạm dụng nào của một hoặc nhiều
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trong thị trường chung hoặc trong một phần đáng
kể của nó “vì bị coi là không tương thích với thị trường chung và nó có thể ảnh
hưởng đến thương mại giữa các quốc gia thành viên". Các hành vi lạm dụng
VTTLTT được liệt kê trong điều luật chỉ là những trường hợp điển hình, thực tiễn
thực thi, đặc biệt là hoạt động xét xử của ECJ luôn có ý nghĩa quan trọng, góp phần
giải thích và hoàn thiện các quy định của Luật cạnh tranh EU về lạm dụng
VTTLTT. Mô hình kiểm soát của liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng VTTLTT
chủ yếu dựa trên nguyên tắc per se illegal với
Về xác định thị trường liên quan
61

Trong rất nhiều vụ việc, ECJ thể hiện quan điểm việc xác định thị trường liên
quan là bước đầu tiên, quan trọng trong các vụ việc HCCT và nó phải được xác định
cả từ góc độ thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Trong vụ
việc Volkswagen AG [52], Tòa án nhận định:
“…định nghĩa đúng đắn của thị trường liên quan là điều kiện tiên quyết cần
thiết cho mọi phán đoán về hành vi được cho là HCCT, vì trước khi hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường được xác định, cần phải thiết lập sự tồn tại của vị trí
thống lĩnh trong một thị trường nhất định, với giả định rằng một thị trường như vậy
đã được xác định”.
Để xác định thị trường liên quan, Ủy ban châu Âu đã đưa ra Lưu ý về Định
nghĩa thị trường liên quan cho các mục đích Luật Cạnh tranh chung [43]. Trong đó
nêu ra nguyên tắc phân tích dựa trên cách tiếp cận kinh tế để hiểu sâu hơn về
phương pháp luận trong định nghĩa thị trường liên quan. Thị trường sản phẩm liên
quan bao gồm tất cả các sản phẩm, dịch vụ có thể thay thế được cho nhau từ quan
điểm của người tiêu dùng, dựa trên đặc điểm của sản phẩm, giá cả và mục đích sử
dụng của chúng. Thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả các khu vực mà các
doanh nghiệp có liên quan đến việc cung và cầu các sản phẩm liên quan, trong đó
có điều kiện cạnh tranh đủ đồng nhất và có thể phân biệt được với các khu vực lân
cận vì điều kiện cạnh tranh khác biệt đáng kể giữa những khu vực này. Phương
pháp xác định thị trường liên quan chủ yếu dựa trên sự thay thế về cầu, bằng việc
xác định tính thay thế hợp lý cho nhau và dựa trên độ co giãn chéo về cầu.
Về doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Quan điểm của EU về vị trí thống lĩnh là vị trí của doanh nghiệp “có khả năng
ngăn ngừa sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường liên quan và có thể hành xử độc
lập với đối thủ cạnh tranh, khách hàng và người tiêu dùng” [46, đoạn 276]. Để xác
định vị trí của một doanh nghiệp, Luật cạnh tranh EU căn cứ hai yếu tố: thị phần
của doanh nghiệp và các yếu tố khác nhằm đảm bảo cho việc củng cố sự thống lĩnh
của nó. Trong đó phân tích thị phần là trọng tâm của việc xác định sức mạnh thị
trường. Tòa án tư pháp châu Âu cho rằng nắm giữ 40-45% thị phần trên trường liên
quan là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp có khả năng tự do hành động, là dấu hiệu
quna trọng nhất trong việc xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
ngay cả khi doanh nghiệp có thị phần đáng kể thì các yếu tố khác như rào cản gia
nhập, tính kinh tế của quy mô và tích hợp theo chiều dọc cũng được phân tích. Tuy
nhiên, bất chấp các gợi ý của các lý thuyết kinh tế mới, sự tồn tại của thị phần cao là
yếu tố quan trọng nhất trong phân tích VTTLTT trong luật cạnh tranh của EU.
62

Về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường


Điều 102 TFEU cung cấp một danh sách các hành vi có thể coi là hành vi lạm
dụng nhưng danh sách này là không bao quát và bất kỳ hành vi nào khác của các
doanh nghiệp thống lĩnh được chứng minh là HCCT đều có thể phải chịu trách
nhiệm theo Điều 102. Mục đích của Điều này không phải để quy định về thị trường
độc quyền mà là hành vi lạm dụng thống lĩnh, độc quyền. Các hành vi lạm dụng
được định nghĩa bởi luật cạnh tranh của EU có thể được phân loại theo hai nhóm
chính: các hành vi mang tính bóc lột, lạm dụng có liên quan đến thị trường độc
quyền và hành vi han chế cạnh tranh mang tính loại bỏ, ngăn cản đối thủ.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh theo Mục 2 Đạo
luật Sherman, theo đó hành vi “độc quyền hoá, nỗ lực độc quyền hoá, kết hợp,
thông đồng với các bên khác để độc quyền hoá đối với bất kỳ lĩnh vực nào trong
hoạt động kinh doanh hoặc thương mại giữa các bang hoặc với nước ngoài” đều bị
coi là bất hợp pháp.
Có những sự khác biệt đáng kể trong triết lý nền tảng của Luật pháp Hoa Kỳ
và Luật pháp Châu Âu về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT.
Mô hình kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT (được gọi là độc quyền theo
Luật chống độc quyền Hoa Kỳ) coi nguyên tắc lập luận hợp lý “rule of reason” là
trung tâm. Ảnh hưởng từ quan điểm của trường phái Chicago, pháp luật Hoa Kỳ về
kiểm soát độc quyền hướng tới mục tiêu duy trì cơ chế thị trường, đảm bảo sự phân
bổ hiệu quả các nguồn lực kinh tế, bảo vệ tối đa phúc lợi người tiêu dùng. Các luật
gia Hoa Kỳ cho rằng việc nỗ lực để có được vị trí độc quyền trong ngành công
nghiệp của mình là mục tiêu chính đáng của bất kỳ nhà kinh doanh nào. Quan điểm
này thể hiện rất rõ trong thực tiễn xét xử của Tòa án Hoa Kỳ. Chẳng hạn như trong
vụ United States v Grinnel Corp [96], Tòa án phân biệt rất rõ sự độc quyền một
cách cố ý do việc sáp nhập, mua lại là đáng bị lên án, trong khi độc quyền là kết quả
của hoạt động kinh doanh thương mại hiệu quả thì có thể thoát khỏi sự áp dụng của
đạo luật.
Về xác định thị trường liên quan
Thị trường liên quan được xác định theo hai khía cạnh: sản phẩm và địa lý.
Toà án Hoa Kỳ xác định thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả các sản phẩm
có khả năng thay thế cho nhau đối với người tiêu dùng về các thuộc tính: chất
lượng, mục đích sử dụng và giá cả. Còn thị trường địa lý liên quan được xác định
bao gồm các khu vực thị trường, nơi người bán hoạt động kinh doanh và trong đó
63

một người mua có thể chuyển sang mua từ một người bán khác.
Phép thử độc quyền giả định sẽ được áp dụng để xác định thị trường liên quan.
Nội dung của phép thử là xác định liệu một nhà độc quyền giả định đối với một sản
phẩm trong một khu vực địa lý nhất định có thể tăng giá mà vẫn có lợi nhuận bằng
cách giả định mức “tăng giá nhỏ nhưng đáng kể và lâu dài” (SSNIP), thông thường
5% trên mức giá cạnh tranh mà không mất đi quá nhiều sản lượng bán cho các sản
phẩm khác hoặc các đối thủ cạnh tranh hoạt động trong cùng khu vực.
Xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Sau khi xác định thị trường liên quan, bước tiếp theo là xác định liệu có tồn tại
hay không doanh nghiệp độc quyền thị trường, tức là nắm giữ sức mạnh độc quyền
hay quyền lực thị trường. Quyền lực thị trường hay sức mạnh độc quyền được định
nghĩa là sức mạnh để kiểm soát giá hoặc loại bỏ cạnh tranh. Việc xác định quyền
lực thị trường thường được dựa trên 3 căn cứ: Thị phần, sự thay thế về cầu và sự
thay thế về cung [64, tr. 236]. Sức mạnh độc quyền có thể được tạo ra từ sự chiếm
giữ thị phần thống lĩnh của một doanh nghiệp trên thị trường liên quan và được bảo
vệ bởi các rào cản gia nhập thị trường.
Sức mạnh độc quyền được định nghĩa là sức mạnh để kiểm soát giá hoặc loại
bỏ cạnh tranh. Sức mạnh độc quyền có thể được tạo ra từ sự chiếm giữ thị phần
thống lĩnh của một doanh nghiệp trên thị trường liên quan và được bảo vệ bởi các
rào cản gia nhập thị trường.
Mặc dù không có ranh giới thị phần chính xác, sức mạnh độc quyền thường
được giả định nếu thị phần của một doanh nghiệp chiếm trên 70%. Tuy nhiên,
doanh nghiệp có thể bác bỏ giả định sức mạnh độc quyền bằng cách chứng minh
không có bất kỳ rào cản gia nhập thị trường đáng kể nào. Mặt khác, nhiều tòa án
liên bang đã đưa ra ngưỡng thị phần 50% là một điều kiện tiên quyết để xác định
dấu hiệu độc quyền.
Về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Một doanh nghiệp đạt được sức mạnh độc quyền một cách hợp pháp không vi
phạm mục 2 Đạo luật Sherman khi tận dụng sức mạnh đó và định giá độc quyền.
Chỉ có hành vi cố tình đạt được hoặc duy trì quyền lực độc quyền thông qua hành vi
định giá huỷ diệt hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới bị cấm.
1.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Hai khái niệm về “độc quyền tư nhân” và “hoạt động cạnh tranh không lành
mạnh” là những căn cứ pháp lý cơ bản của hệ thống pháp luật Nhật Bản điều chỉnh
hành vi của các doanh nghiệp thống lĩnh.
64

Thứ nhất, độc quyền tư nhân bị cấm theo Điều 3 của Đạo Luật về Cấm độc
quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh lành mạnh (Đạo luật), trong đó quy định rằng
“không doanh nghiệp nào được thưc hiện các hành vi độc quyền hoá tư nhân hoặc
hạn chế thương mại bất hợp lý”.
Độc quyền hoá tư nhân được xác định theo Điều 2-5 của Đạo Luật, theo đó,
độc quyền hoá tư nhân là “hành vi kinh doanh được bất kỳ doanh nghiệp nào thực
hiện một cách độc lập hoặc kết hợp, thông đồng với các doanh nghiệp khác hoặc
dưới bất kỳ hình thức nào nhằm loại bỏ hoặc kiểm soát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác, dẫn đến kết quả trái với lợi ích công cộng hoặc HCCT đáng kể
trong một lĩnh vực thương mại nhất định”.
Thứ hai, Điều 19 của Đạo luật này cũng cấm các doanh nghiệp tham gia vào
hành vi đơn phương của một doanh nghiệp khác nhằm hoạt động kinh doanh không
lành mạnh. Các hành vi đó bao gồm định giá huỷ diệt, thương mại độc quyền, bán
kèm, từ chối thương mại hoặc phân biệt đối xử. Quy định cấm đối với hành vi hoạt
động kinh doanh không lành mạnh cũng đề cập đến một loạt các dạng hành vi bao
gồm các phương thức cạnh tranh không lành mạnh bị cấm mà không cần chứng
minh vị trí thị trường của doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa độc quyền tư nhân và hoạt động thương mại không công
bằng không phải lúc nào cũng rõ ràng, và ít nhất về đặc điểm của hành vi bị cấm, có
nhiều chồng chéo giữa hai loại hình trên. Nói chung, độc quyền hoá tư nhân được
sử dụng để điều chỉnh các vi phạm với tác động HCCT một cách nghiêm trọng,
thường được thực hiện bởi một doanh nghiệp có thị phần từ 50 % trở lên trên thị
trường liên quan.
Hành vi mang tính trục lợi và loại bỏ đều được đề cập đến trong khái niệm
“độc quyền hoá tư nhân”, miễn là hành vi được thực hiện nhằm “loại trừ hoặc kiểm
soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác”. “Loại trừ” tương ứng trực tiếp
với hành vi mang tính loại bỏ và “kiểm soát” đề cập đến cả hai nhóm hành vi trục
lợi và loại bỏ.
Nếu một vụ việc có tác động tiêu cực trên thị trường không đủ lớn để quy vào
độc quyền tư nhân, thì quy định về “các hành vi kinh doanh không lành mạnh” được
áp dụng, bao gồm cả hành vi mang tính trục lợi và loại bỏ.
Về xác định thị trường liên quan
Đối với độc quyền tư nhân, Hướng dẫn cung cấp các phương pháp xác định thị
trường liên quan (mục 3: “hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”). Phương pháp tiếp
cận cơ bản nhìn chung là tương tự như kiểm soát sáp nhập, bao gồm xác định sản
65

phẩm hoặc dịch vụ (xem xét mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ, xu hướng giá
cả và khối lượng cung cấp, nhận thức và phản ứng của khách hàng) và xác định khu
vực địa lý (khu vực địa lý nơi diễn ra hoạt động kinh doanh của nhà cung cấp cũng
như thói quen mua sắm của khách hàng, đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ, phương
pháp và chi phí vận chuyển), mặc dù các hướng dẫn không mô tả phép thử SSNIP
như trong hướng dẫn về sáp nhập.
Về xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Luật Chống độc quyền Nhật Bản không định nghĩa trực tiếp về vị trí thống
lĩnh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối với độc quyền tư nhân mang tính loại bỏ, Hướng dẫn đã gián
tiếp quy định tiêu chí thị phần 50%, mặc dù tiêu chí này không được quy định trong
bối cảnh xác định vị trí thống lĩnh do vị trí thống lĩnh không phải là yêu cầu đối với
độc quyền tư nhân mang tính loại bỏ. Hướng dẫn chỉ ra ưu tiên thực thi của JFTC
đối với vụ việc mà thị phần của doanh nghiệp đối với sản phẩm liên quan vượt quá
50% sau khi bắt đầu thực hiện hành vi bị cáo buộc và dẫn đến có tác động lớn đối
với đời sống của người dân”.
Luật Chống độc quyền Nhật bản không quy định ngưỡng thị phần để giả định
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Thị phần chỉ là một trong một loạt các yếu tố
được xem xét để xác định hành vi độc quyền tư nhân. Tuy nhiên, trên thực tế, ngoại
trừ những trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như việc gia nhập thị trường dễ dàng, thì
một doanh nghiệp thường được coi là thống lĩnh nếu có thị phần từ 50% trở lên.
66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

1. Luật cạnh tranh của các nước đều không ngăn cản các doanh nghiệp đạt
được VTTLTT bởi đó là mong muốn chính đáng của bất kỳ doanh nghiệp khi tham
gia thị trường. Khi đã nắm giữ VTTLTT thì việc khai thác lợi thế mà mình nắm
giữ là xu hướng mang tính khách quan của các doanh nghiệp thống lĩnh thị
trường. Tuy nhiên, việc sử dụng quyền lực thị trường này phải dừng lại ở giới
hạn hợp lý, không gây tác động tiêu cực đến cạnh tranh. Pháp luật về kiểm soát
hành vi lạm dụng VTTLTT chính là có vai trò vạch ra ranh giới để xác định
hành vi của doanh nghiệp có VTTLTT khi nào bị coi là lạm dụng và bị xử lý.
2. Để có cơ sở đánh giá các nội dung pháp lý liên quan đến pháp luật về kiểm
soát hành vi lạm dụng VTTLTT, Chương 1 của luận án đã phân tích các vấn đề lý
luận về lạm dụng VTTLTT như khái niệm thống lĩnh thị trường, khái niệm và đặc
điểm của hành vi lạm dụng VTTLTT. Chương 1 của luận án cũng đề cập tới nội
dung điều chỉnh của pháp luật về lạm dụng VTTLTT. Các vấn đề về mục tiêu kiểm
soát, các học thuyết về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT và nội dung cơ bản về
kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT theo pháp luật cạnh tranh đã được phân tích.
3. Việt Nam ban hành Luật Cạnh tranh tương đối muộn so với các nước, do đó
việc học tập kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia phát triển trong việc xây dựng
pháp luật về cạnh tranh nói chung, pháp luật kiểm soát các hành vi lạm dụng
VTTLTT nói riêng là một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa. Luận án đã dành một phần
trong Chương 1 để giới thiệu về kinh nghiệm kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT
của một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU. Đây là những nội dung
quan trọng có ý nghĩa tham chiếu và hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT của Việt Nam.
67

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI VIỆT
NAM

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng trí thống
lĩnh thị trường
2.1.1. Quy định về nhận diện doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
2.1.1.1. Xác định thị trường liên quan
Cũng như quy định của luật cạnh tranh nhiều nước trên thế giới, việc xác định
doanh nghiệp có VTTLTT theo luật cạnh tranh Việt Nam trước hết phải bắt đầu
bằng việc xác định thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt
động kinh doanh. Theo Khoản 7, Điều 3 Luật cạnh tranh 2018, thị trường liên
quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc
tính, mục đích sử dụng và giá cả trong khu vực địa lý cụ thể có các điều kiện cạnh
tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận. Như vậy,
thị trường liên quan là tập hợp những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau
nằm trong một khu vực địa lý cụ thể. Sự thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ
được xác định qua đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả. Trong khi đó, khu vực địa
lý cụ thể nơi có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau được xác định
bằng điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa
lý lân cận. Có thể thấy, quy định về thị trường liên quan của Luật cạnh tranh 2018
tương tự như quy định về thị trường liên quan theo quy định của Luật cạnh tranh
2004. Theo đó, thị trường liên quan được xác định theo hai khía cạnh là thị trường
sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Tức là xác định phạm vi những
sản phẩm có thể thay thế cho nhau để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng (thị
trường sản phẩm liên quan) và xác định khu vực địa lý riêng biệt nơi diễn ra sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh các sản phẩm liên quan đó (thị
trường địa lý liên quan).
Việc kế thừa quy định về thị trường liên quan của Luật Cạnh tranh 2018 từ
Luật Cạnh tranh 2004 là hợp lý bởi các quy định này mang tính bao quát, phản ánh
đúng bản chất chung, tương đồng với quan điểm về thị trường liên quan theo Luật
cạnh tranh của các nước trên Thế giới, phù với định nghĩa về thị trường liên quan
trong Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD [92] được quy định tại Điểm (d), Mục
68

I, Chương II, Phần I như sau:


Thị trường liên quan đề cập đến những điều kiện chung trong đó người bán và
người mua trao đổi hàng hóa, nó chỉ ra ranh giới xác định về nhóm người bán và
nhóm người mua của hàng hóa mà trong đó cạnh tranh có khả năng bị hạn chế. Nó
đòi hỏi sự phân định về dòng sản phẩm và không gian địa lý mà trong đó, nhóm sản
phẩm cụ thể, nhóm người bán, người mua tương tác để thiết lập giá cả và sản lượng
của hàng hóa. Nó nên bao gồm tất cả các hàng hóa và dịch vụ có thể thay thế một
cách hợp lý và tất cả những đối thủ cạnh tranh gần mà người tiêu dùng có thể tạm
thời chuyển sang khi có sự tăng giá mang tính lạm dụng hoặc hạn chế với một
lượng không đáng kể.
a) Xác định thị trường sản phẩm liên quan
Để xác định thị trường sản phẩm liên quan cần xác định phạm vi những sản
phẩm có thể thay thế được cho nhau nhìn từ quan điểm cầu. Trên thực tế, các nước
thường áp dụng đồng thời hai phương pháp có liên quan chặt chẽ và bổ sung cho
nhau trong việc xác định thị trường sản phẩm liên quan là khả năng thay thế hợp lý
trong việc sử dụng (the reasonable interchangeability of use) và độ đàn hồi chéo
của cầu (the cross elasticity of demand). Như đã phân tích ở trên, quan điểm về thị
trường sản phẩm liên quan là “thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay
thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” được giữ nguyên từ Luật
cạnh tranh 2004 đến Luật canh tranh 2018 cho thấy Việt Nam đã và đang áp dụng
hai phương pháp này. Việc căn cứ vào: (i) đặc tính của sản phẩm (ii) mục đích sử
dụng và (iii) giá cả của sản phẩm để xác định thuộc tính có thể thay thế cho nhau
của hàng hóa, dịch vụ tức là dựa trên việc đánh giá khả năng thay thế về cầu, tức là
nhìn nhận từ góc độ nhu cầu của người tiêu dùng. Trong đó, xem xét tính thay thế
cho nhau về mục đích sử dụng và đặc tính của sản phẩm chính là xem xét khả năng
thay thế hợp lý trong việc sử dụng và khả năng thay thế về giá của sản phẩm chính
là xác định độ đàn hồi chéo của cầu. Như vậy, để xác định thị trường sản phẩm liên
quan vấn đề quan trọng chính là xác định được phạm vi những sản phẩm đáp ứng
được thuộc tính có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
Việc xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của sản phẩm cũng như thuộc
tính có thể thay thế cho nhau của sản phẩm dựa trên những yếu tố này không được
Luật cạnh tranh 2018 quy định cụ thể. Theo Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2018,
Chính Phủ có trách nhiệm quy định chi tiết nội dung này. Quy định như vậy là hợp
lý, bởi lẽ, phương pháp xác định thị trường liên quan là vấn đề kỹ thuật chuyên sâu,
đòi hỏi nhiều đánh giá chi tiết theo lý thuyết kinh tế nên cần được Chính Phủ quy
69

định chi tiết và hướng dẫn thi hành tại Nghị định. Trong tương lai, việc xây dựng
các quy định cụ thể về vấn đề này cần lưu ý khắc phục những hạn chế của Luật
cạnh tranh 2004, đó là:
Đối với các tiêu chí dùng để xem xét thuộc tính có thể thay thế cho nhau về
đặc tính cần xây dựng quy định để đảm bảo xem xét khả năng thay thế cho nhau
về đặc tính của sản phẩm dùng được cho cả hàng hóa và dịch vụ chứ không như
các quy định của Luật cạnh tranh 2004 chỉ có thể xem xét được đối với hàng hóa
vì được dựa trên một số (nhiều) tính chất về vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật,
tác dụng phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống nhau [5, Khoản 2,
Điều 4]. Đặc biệt khi mà bối cảnh thị trường ở Việt Nam hiện nay cho thấy xu
hướng HCCT diễn ra phổ biến hơn ở các ngành dịch vụ khi mà ¾ vụ việc lạm
dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị điều tra, xử lý đều diễn ra trong ngành dịch
vụ (vụ việc Vinapco, vụ việc Megastar, vụ việc AB tours).
Đối với thuộc tính có thể thay thế cho nhau về giá cả, Luật cạnh tranh 2004 đã
ứng dụng thử nghiệm SSNIP (thử nghiệm mức tăng giá nhỏ nhưng đáng kể hay thử
nghiệm doanh nghiệp độc quyền giả định) một cách không đầy đủ. Về yếu tố mức
tăng giá giả định, kinh nghiệm các nước đều quy định quy định mức tăng giá phải
có ngưỡng tối đa (để đảm bảo nhỏ) và có ngưỡng tối thiểu (để đảm bảo đáng kể),
trong đó, phần lớn các nước (Hoa Kỳ, Canada, Úc, EU, Anh, Niu Di Lân…) chọn
mức tăng giá giả định 5%- 10%. Kinh nghiệm thực thi của Luật cạnh tranh các nước
đều đánh giá mức tăng giá đó là phù hợp để phản ứng của người tiêu dùng có thể
phản ánh chính xác sự thay đổi nhu cầu của thị trường [17, tr. 19]. Như vậy có thể
thấy, quy định của Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam hiện nay về mức tăng giá giả
định quá 10%, tức là không khống chế ngưỡng tối đa, không đảm bảo được yếu tố
nhỏ là rất không hợp lý. Về phản ứng của người tiêu dùng, Luật cạnh tranh 2004
quy định tỷ lệ trên 50% của 1000 mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng là đủ
để đại diện cho nhu cầu của thị trường là rất khó đạt được. Với phép thử tăng giá
giả định đưa ra rõ ràng sẽ rất dễ dẫn đến kết quả là mặc dù có trên 50% của 1000
người tiêu dùng được hỏi sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác nhưng tỷ lệ người
tiêu dùng chuyển sang mua từng sản phẩm đều không đạt trên 50% và như vậy, theo
quy định của Luật cạnh tranh 2004 sẽ không thể kết luận một sản phẩm nào đó là có
thể thay thế cho sản phẩm bị điều tra. Thực tế điều tra vụ việc liên quan đến khiếu
nại của công ty Tân Hiệp Phát (THP) về việc Công ty liên doanh nhà máy bia Việt
Nam (VBL) đã lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường bia cao cấp để ngăn cản
việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới (vụ bia) đã cho thấy
70

ngưỡng trên 50% trong tổng số lượng mẫu ngẫu nhiên 1000 người tiêu dùng là quá
cao, cho kết quả trái ngược với kết luận của CQCT nếu dựa trên đánh giá khả năng
thay thế cho nhau về đặc tính và mục đích sử dụng của sản phẩm, cũng như không
phù hợp với thực tiễn thị trường [19]. Về vấn đề này, Luật cạnh tranh một số nước,
tiêu biểu như Hoa Kỳ, EU không đưa ra một ngưỡng tỷ lệ cố định để xác định phản
ứng của người tiêu dùng đủ để đại diện cho nhu cầu của thị trường hay để kết luận
về giới hạn của thị trường liên quan. Ứng dụng của thử nghiệm SSNIP chính là để
xác định độ co giãn của cầu. Các nước này theo quan điểm nếu kết quả thử nghiệm
cho thấy số lượng người tiêu dùng có khả năng chuyển sang mua các sản phẩm thay
thế tương ứng với doanh số bị mất đi đủ để làm cho việc tăng giá không mang lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp bán hàng hóa, dịch vụ đang bị điều tra thì các hàng hóa
dịch vụ thay thế sẽ được thêm vào phạm vi của thị trường liên quan [20, tr. 35]. Bên
cạnh đó, quy định của Luật cạnh tranh 2004 về khảo sát phản ứng của người tiêu
dùng để xác định thị trường sản phẩm liên quan việc khảo sát sẽ được tiến hành với
1000 người theo mẫu thống kê ngẫu nhiên từ người tiêu dùng thực tế tại khu vực địa
lý liên quan [5, Khoản 5, Điều 4 ] cho thấy việc xác định thị trường địa lý liên quan
sẽ phải được thực hiện trước khi xác định thị trường sản phẩm liên quan. Điều này
là ngược lại với cách xác định thị trường liên quan được áp dụng phổ biến trên Thế
giới là việc xác định thị trường sản phẩm liên quan được thực hiện trước khi xác
định thị trường địa lý liên quan.
Các yếu tố khác được Luật cạnh tranh 2004 quy định có thể được xem xét để
xác định khả năng "có thể thay thế cho nhau" của hàng hóa, dịch vụ. bao gồm (i) tỷ
lệ thay đổi của cầu đối với một hàng hóa, dịch vụ khi có sự thay đổi về giá của một
hàng hóa, dịch vụ khác; (ii) thời gian cung ứng hàng hóa, dịch vụ ra thị trường khi
có sự gia tăng đột biến về cầu; (iii) thời gian sử dụng của hàng hóa, dịch vụ và (iv)
khả năng thay thế về cung. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết có thể xác định
thêm nhóm người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan không thể chuyển
sang mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa,
dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng
hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp. Các yếu
tố kể trên được quy định quá chung chung, không thể hiện được các căn cứ, cách
thức xác định, ý nghĩa và ngưỡng của từng yếu tố để kết luận về thuộc tính có thể
thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, quy định về các yếu tố này rõ ràng
là không khả thi.
Một hạn chế nữa của Luật Cạnh tranh 2004 về thị trường sản phẩm liên quan
71

là quy định khả năng thay thế cho nhau của hàng hóa, dịch vụ phải được xem xét
“cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả”. Việc đánh giá cả ba tiêu chí đối với
bất cứ sản phẩm, dịch vụ nào dẫn đến kết luận về khả năng thay thế cho nhau của
các sản phẩm, dịch vụ không phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp các sản phẩm có mục đích sử dụng, giá cả có
thể thay thế cho nhau nhưng về đặc tính lại không thể thay thế cho nhau vẫn có thể
được người tiêu dùng lựa chọn thay thế cho nhau và thực tế là chúng là hai sản
phẩm cạnh tranh với nhau.
b) Xác định thị trường địa lý liên quan
Xác định thị trường địa lý liên quan suy cho cùng là việc đi tìm kiếm những
căn cứ để đánh giá tâm lý của người tiêu dùng có sẵn sàng chuyển thói quen mua
sản phẩm ở một địa điểm nào đó sang mua sản phẩm tương tự ở địa điểm khác hay
không [25, tr. 34]. Do đó, nguyên tắc xác định thị trường địa lý liên quan tương tự
như đối với thị trường sản phẩm liên quan. Tức là, thị trường địa lý cần được xác
định bởi quan điểm của người mua về khả năng thay thế cho nhau của các sản phẩm
được sản xuất hoặc bán tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, nếu người mua sản
phẩm được bán ở một địa điểm, để đáp ứng với mức tăng nhỏ nhưng đáng kể và
không nhất thời về giá, chuyển sang mua sản phẩm được bán tại một địa điểm khác,
thì hai địa điểm đó được xác định là nằm trong cùng một thị trường địa lý liên quan
đối với sản phẩm đó. Ngược lại, nếu họ không coi sản phẩm được bán ở một địa
điểm là sản phẩm thay thế cho một sản phẩm được bán ở địa điểm kia, thì hai địa
điểm đó nằm ở các thị trường địa lý khác nhau, đối với sản phẩm đó. Theo Khoản 1
Điều 9 Luật Cạnh tranh 2018: “Thị trường địa lý liên quan là khu vực địa lý cụ thể
trong đó có những hàng hóa, dịch vụ được cung cấp có thể thay thế cho nhau với
các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý
lân cận”. Quy định này gần như được giữ nguyên so với định nghĩa thị trường địa
lý liên quan được quy định tại Điều 3, Luật cạnh tranh 2004. Tương tự như việc xác
định thị trường sản phẩm liên quan, cả Luật cạnh tranh 2018 và Luật cạnh tranh
2004 đều định nghĩa thị trường địa lý liên quan từ quan điểm của người mua về khả
năng thay thế cho nhau của những sản phẩm được sản xuất hoặc được cung ứng tại
khu vực địa lý nhất định được đặc trưng bằng điều kiện cạnh tranh có sự khác biệt
đáng kể với các khu vực địa lý nhất định. Cũng giống như quy định về thị trường
sản phẩm liên quan, Luật cạnh tranh 2018 chỉ đưa ra khái niệm và giao nhiệm vụ
cho Chính Phủ quy định chi tiết về các căn cứ, tiêu chí cụ thể để xác định thị trường
địa lý liên quan. Việc quy định chi tiết về vấn đề này chắc chắn sẽ trên cơ sở kế
thừa những yếu tố hợp lý nhưng đồng thời cũng cần khắc phục những điểm chưa
72

hợp lý của Luật cạnh tranh 2004 về vấn đề này.


Luật cạnh tranh 2004 xác định thị trường địa lý liên quan của sản phẩm đang
xem xét trước hết chính là Khu vực địa lý có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp
tham gia phân phối sản phẩm liên quan, sau đó được mở rộng ra Khu vực địa lý lân
cận đủ gần có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp khác tham gia phân phối sản
phẩm liên quan. Tính đặc thù của điều kiện cạnh tranh trên khu vực địa lý liên quan
và sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận được xác định khi: (i) chi phí
vận chuyển và thời gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa tăng không quá 10%
hoặc (ii) có sự hiện diện của một trong các rào cản gia nhập thị trường. Như vậy,
mức chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển giữa các địa điểm trong khu vực
được suy đoán là được người tiêu dùng chấp nhận nếu nó không làm giá bán lẻ sản
phẩm tăng quá 10%. Rào cản gia nhập thị trường cũng là yếu tố quan trọng vạch ra
ranh giới xác định cho khu vực địa lý liên quan, bao gồm: rào cản công nghệ (sáng
chế, giải pháp hữu ích, …); rào cản pháp lý (quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước, các quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ…); rào cản
tài chính; Thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu; tập quán người tiêu dùng và một
số rào cản gia nhập thị trường khác. Nếu tồn tại các rào cản lớn gây cản trở đối với
việc tham gia sản xuất, phân phối của các nhà cung cấp khác vào khu vực địa lý
đang xem xét, thì khu vực địa lý này được xem là một thị trường địa lý riêng biệt,
khác biệt đáng kể so với các khu vực lân cận khác và ngược lại.
Về cơ bản quy định về thị trường địa lý liên quan của Luật Cạnh tranh 2004
tương đối tương đồng với pháp luật của nhiều nước khi dựa trên các yếu tố như chi
phí vận chuyển, thời gian vận chuyển, rào cản gia nhập thị trường. Tuy nhiên, các
yếu tố được xem xét để xác định ranh giới của thị trường địa lý liên quan là chưa
đủ, từ kinh nghiệm các nước cho thấy, ngoài các yếu tố kể trên, pháp luật các nước
còn xem xét chi phí, thời gian để người tiêu dùng mua hàng hóa, dịch vụ tại địa
điểm khác, đặc điểm của chính hàng hóa, dịch vụ và khu vực địa lý đang cung ứng
hàng hóa, dịch vụ được xem xét.
Chẳng hạn, trong vụ việc Aéroports de Paris [53], CQCT đã xác định dịch vụ
mặt đất sân bay phải được cung ứng tại mỗi sân bay, do đó, việc giới hạn thị trường
địa lý liên quan là chỉ là các cơ sở của địa phương là phù hợp.
Ngoài ra, việc xác định một ngưỡng cố định bằng mức chi phí vận chuyển và
thời gian vận chuyển giữa các địa điểm trong khu vực được suy đoán là được người
tiêu dùng chấp nhận nếu nó không làm giá bán lẻ sản phẩm tăng quá 10% là không
phù hợp. Liên quan đến tỷ lệ tối đa chi phí vận chuyển trên giá trị sản phẩm mà
73

người tiêu dùng sẵn sàng chịu là bao nhiêu không thể có câu trả lời đơn giản và duy
nhất chung cho mọi trường hợp vì nó liên quan đến quan điểm, cách nhìn nhận từ
người tiêu dùng. Kinh nghiệm các nước vẫn sử dụng phép thử dựa trên đánh giá độ
co giãn về cầu để xác định chứ không ấn định một mức tỷ lệ tối đa cố định mà suy
đoán là người tiêu dùng chấp nhận như Luật Cạnh tranh Việt Nam.
Quá trình áp dụng Luật Cạnh tranh 2004 đã có những tranh cãi xoanh quay
việc xác định thị trường liên quan trong vụ việc Bia [11]. Trong vụ việc này,
CQLCT đã xác định thị trường liên quan là các sản phẩm bia trên phạm vi toàn
quốc. Dẫn đến việc xác định bị đơn là Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam
(VBL) chỉ có thị phần nằm trong khoảng từ 18,2% - 22, 4%, nằm dưới ngưỡng
30%, do đó, không có VTTLTT và mặc dù thực hiện hành vi yêu cầu khách hàng
của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới, song không thể kết luận hành
vi của VBL là lạm dụng VTTLTT. Kết luận của CQLCT về thị trường liên quan
trong vụ việc được cho là thiếu chính xác [22] và thực tế là hành vi của VBL đã có
tác động cản trở cạnh tranh, o ép đối thủ, dẫn đến cái “chết thảm” sau quãng đời
ngắn ngủi của Bia Laser [3]. Trên Thế Giới, vụ việc giấy bóng kính cellophane của
Mĩ cũng thường được nhắc đến như là một sai lầm trong xác định thị trường liên
quan. Vụ việc liên quan đến việc công ty Du Pont de Nemours & Company độc
quyền cung cấp giấy bóng kính cellophane vi phạm điều 6 của luật chống độc quyền
Sherman. Tòa án tối cao Mĩ đã xác định thị trường sản phẩm liên quan trong vụ này
là thị trường của các loại giấy bao gói, kể cả giấy bao kính cellophane với lý do là
người tiêu dùng có thể chọn lựa các loại giấy bao khác nhau. Tuy nhiên phán quyết
này đã chịu nhiều sự chỉ trích cho rằng tòa đã xác định thị trường quá rộng dẫn đến
sai lầm trong việc đánh giá đúng sức mạnh thị trường của công ty Du Pont.
2.1.1.2. Các căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp
Việc xác định sự vật, hiện tượng nói chung cũng như các hiện tượng pháp
lý nói riêng thường dựa vào khái niệm và các dấu hiệu nhận diện, đặc điểm riêng có
của sự vật, hiện tượng đó. Tuy nhiên, đối với việc xác định VTTLTT của một doanh
nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) theo Luật Cạnh tranh 2018 lại chỉ có thể dựa trên
các dấu hiệu nhận diện (các căn cứ). Bởi vì, Luật cạnh tranh 2018 của Việt Nam
không đưa ra định nghĩa mà chỉ nêu các căn cứ để xác định VTTLTT của doanh
nghiệp. Có thể thấy, định nghĩa về VTTLTT mặc dù không được quy định trong
Luật cạnh tranh của một số nước nhưng vẫn được xây dựng, dẫn chiếu qua hoạt
động hướng dẫn, giải thích, thực thi của các CQCT. Chẳng hạn, như đã chỉ ra trong
kinh nghiệm của EU, ECJ qua hoạt động xét xử của mình đã xây dựng định nghĩa
74

VTTLTT là vị trí của doanh nghiệp “có khả năng ngăn ngừa sự cạnh tranh có hiệu
quả trên thị trường liên quan và có thể hành xử độc lập với đối thủ cạnh tranh,
khách hàng và người tiêu dùng”. Luật mẫu về cạnh tranh là một nỗ lực của
UNCTAD, tại Chương 2, mục I (b) cũng đã đưa ra khái niệm về VTTLTT. Thiếu
sót về việc không có định nghĩa về VTTLTT ít nhiều ảnh hưởng đến việc xác định
VTTLTT cả về mặt lý luận và trên thực tế.
Thông thường, các căn cứ để xác định VTTLTT của doanh nghiệp là những
yếu tố có khả năng đo lường được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đặt trong
tương quan với năng lực của các đối thủ cạnh tranh trong giới hạn của một thị
trường liên quan cụ thể. Có một số căn cứ phổ biến được sử dụng để xác định
VTTLTT của doanh nghiệp mà Luật Cạnh tranh các nước thường sử dụng, bao gồm
thị phần, các rào cản gia nhập thị trường, quy mô của các đối thủ, năng lực tài chính
của doanh nghiệp…Trong một số hệ thống pháp luật (Đức, Úc, Ấn Độ), các căn cứ
xác định VTTLTT được quy định trong luật cạnh tranh trong khi một số hệ thống
khác, các căn cứ lại được xác định thông qua các án lệ (EU, Anh, Hoa Kỳ). Luật
cạnh tranh 2018 của Việt Nam căn cứ vào thị phần và sức mạnh thị trường đáng kể
để xác định VTTLTT của doanh nghiệp.
Thị phần trên thị trường liên quan
Theo Khoản 1 Điều 10 Luật cạnh tranh 2018, thị phần của doanh nghiệp trên
thị trường liên quan được xác định theo một trong bốn cách là dựa trên tỷ lệ giữa (i)
doanh thu bán ra, (ii) doanh số mua vào, (iii) số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra,
hoặc (iv) số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của doanh nghiệp với tất cả các
doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Trong đó, cách tính thị phần dựa trên doanh
thu và doanh số được Luật cạnh tranh 2018 kế thừa từ quy định của Luật cạnh tranh
2004 còn cách tính dựa trên số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra/ mua vào được bổ
mới. Việc bổ sung căn cứ xác định thị phần như trên đã khắc phục hạn chế của Luật
Cạnh tranh 2004 về xác định thị phần trên thị trường liên quan do chỉ dựa trên
doanh thu bán ra, doanh số mua vào của doanh nghiệp. Thực tế, một doanh nghiệp
có thể kinh doanh cùng lúc nhiều loại hàng hóa, dịch vụ, tức là doanh thu, doanh số
mua vào của doanh nghiệp có thể được hình thành từ việc tham gia vào nhiều thị
trường liên quan khác nhau của doanh nghiệp đó. Do đó, cần phải thực hiện việc
bóc tách các số liệu trong sổ sách kế toán để xác định doanh thu, doanh số mua vào
làm căn cứ tính thị phần trên một thị trường liên quan nhất định. Điều này rõ ràng là
không đơn giản. Đặc biệt, trên một số thị trường liên quan đặc thù như thị trường
cho thuê phim, thị trường dịch vụ internet, thị trường truyền hình trả tiền, thị trường
75

sữa, thị trường vận tải hành khách… việc xác định doanh thu của doanh nghiệp để
tính thị phần là rất khó khăn, phức tạp, khó có thể thực hiện được hoặc có thể gây ra
nhiều tranh cãi. Đối với những thị trường như vậy, các CQCT trên thế giới thường
tính thị phần của doanh nghiệp dựa trên các yếu tố khác thể hiện đặc trưng của
ngành như sản lượng bán, năng lực sản xuất…
Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là thay vì sử dụng doanh số đối với cả đầu ra
(doanh số bán ra) và đầu vào (doanh số mua vào) như Luật Cạnh tranh của nhiều
nước để xác định thị phần của doanh nghiệp thì Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam
lại sử dụng căn cứ là doanh số mua vào và doanh thu bán ra. Doanh thu, theo quy
định tại khoản 1 Điều 10 được xác định theo chuẩn mực kế toán Việt Nam. Theo
chuẩn mực số 14, trong hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam thì doanh thu là tổng
giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các
hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp. Nó được xác định
bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu được hoặc sẽ thu được (doanh số bán ra)
sau khi trừ (-) các khoản chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá
hàng bán và giá trị hàng bán bị trả lại. Như vậy, doanh thu và doanh số là khác
nhau. Về cơ bản, doanh số lớn hơn doanh thu, dùng để chỉ giá trị hàng hóa, dịch vụ
đã được bán ra, trong khi doanh thu là để chỉ gía trị kinh tế mà doanh nghiệp đã thu
về được sau khi cung ứng, hàng hóa dịch vụ. Luật cạnh tranh các nước đều tính toán
thị phần dựa trên lượng hàng hóa dịch vụ bán ra hoặc mua vào có thể tính theo giá
trị (doanh số bán ra, mua vào) hoặc tính theo số lượng (số đơn vị bán ra, mua vào).
Như vậy, quy định hiện nay của Luật Cạnh tranh 2018 về cách xác định thị phần
còn chưa tương thích với các nước và có thể gây ra bối rối do sự không thống nhất
về đại lượng được sử dụng cho đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, có thể thấy quy định của Luật Cạnh tranh 2018 mới chỉ nêu ra
nguyên tắc chung trong việc xác định thị phần của doanh nghiệp, các vấn đề chi tiết
liên quan đến việc xác định thị phần được giao cho Chính phủ chịu trách nhiệm quy
định chi tiết theo quy định tại Khoản 5 Điều 10 Luật Cạnh tranh 2018.
Sức mạnh thị trường đáng kể
Về bản chất, doanh nghiệp có VTTLTT là doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường đáng kể. Theo Điều 26, Luật cạnh tranh 2018, sức mạnh thị trường đáng kể
được xác định dựa vào một số yếu tố:
- Tương quan thị phần giữa các doanh nghiệp trên thị trường liên quan;
- Sức mạnh tài chính, quy mô của doanh nghiệp;
- Rào cản gia nhập, mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp khác;
76

- Khả năng nắm giữ, tiếp cận, kiểm soát thị trường phân phối, tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ hoặc nguồn cung hàng hóa, dịch vụ;
- Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật;
- Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng;
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
- Khả năng chuyển sang nguồn cung hoặc cầu đối với các hàng hóa, dịch vụ
liên quan khác;
- Các yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động
kinh doanh.
Sức mạnh thị trường đáng kể thể hiện khả năng của doanh nghiệp có thể tác
động đáng kể đến thị trường. Có thể thấy, Luật cạnh tranh 2018 quy định các yếu tố
để xác định sức mạnh thị trường đáng kể nêu trên là các yếu tổ làm hình thành
những lợi thế đặc biệt mà doanh nghiệp có được so với các đối thủ cạnh tranh, các
yếu tố thể hiện tương quan của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan hay các
yếu tố giúp doanh nghiệp duy trì sức mạnh thị trường. Các tiêu chí thể hiện tính
khách quan, có khả năng phản ánh đúng diễn biến cạnh tranh trên thị trường, phản
ánh đúng thực lực cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Các tiêu chí này
nằm trong hệ thống các tiêu chí đánh giá sức mạnh thị trường được sử dụng rộng rãi
bởi các CQCT các nước và được Mạng lưới CQCT quốc tế khuyến nghị [19]. Quy
định của Luật cạnh tranh 2018 đã thể hiện cách tiếp cận phù hợp với bản chất kinh
tế của sức mạnh thị trường. Việc Luật cạnh tranh 2018 sử dụng tiêu chí có sức
mạnh thị trường đáng kể thay khả năng gây HCCT một cách đáng kể được quy định
trong Luật cạnh tranh 2004 là sự tiến bộ, thể hiện ở hai điểm:
- Thứ nhất, về bản chất, doanh nghiệp có VTTLTT là doanh nghiệp có sức
mạnh thị trường đáng kể và bản thân doanh nghiệp có VTTLTT không phải lúc nào
cũng thực hiện hành vi nhằm gây HCCT. Sức mạnh thị trường đáng kể là mức độ
cao của sức mạnh thị trường thể hiện trước hết qua mức giá mà doanh nghiệp có thể
tăng để thu lợi nhuận và khoảng thời gian mà mức giá đó có thể được duy trì. Trong
bối cảnh thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, các doanh nghiệp đều nỗ lực dị biệt
hóa sản phẩm của mình để thu hút khách hàng, do đó, mỗi doanh nghiệp đều có sức
mạnh thị trường nhất định để có thể tác động đến gía cả của sản phẩm của mình ở
mức độ nhất định. Vì thế, chỉ những doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể
mới có thể nắm giữ VTTLTT. Bởi vậy, việc Luật cạnh tranh 2018 sử dụng “sức
mạnh thị trường đáng kể” chứ không chỉ là “sức mạnh thị trường” thay cho tiêu chí
“khả năng gây HCCT một cách đáng kể” là phù hợp.
77

- Thứ hai, như đã phân tích ở trên, các tiêu chí được sử dụng để xác định sức
mạnh thị trường đáng kể theo quy định của Luật cạnh tranh 2018 là phù hợp, và đã
được pháp luật các nước sử dụng rộng rãi. Trong khi đó, Đặc biệt, các tiêu chí để
xác định sức mạnh thị trường đáng kể theo Luật Cạnh tranh 2018 là hợp lý. Trong
khi đó, quy định về khả năng gây HCCT một cách đáng kể được coi là điểm hạn
chế khá lớn của của Luật cạnh tranh 2004 khi được xác định dựa trên các tiêu chí
như: Năng lực tài chính của doanh nghiệp; Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân
thành lập doanh nghiệp; Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát
hoặc chi phối hoạt động của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ
của doanh nghiệp; Năng lực tài chính của công ty mẹ; Năng lực công nghệ; …[
Những tiêu chí này phản ánh những lợi thế của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh nhưng không đồng nghĩa với việc chắc chắn có kết quả kinh doanh tốt, có
khả năng gây HCCT. Các tiêu chí này cũng chỉ thể hiện yếu tố nội sinh của doanh
nghiệp, do đó, nếu không đặt trong mối tương quan so sánh với các đối thủ trên thị
trường liên quan sẽ không có ý nghĩa trong việc đánh giá là doanh nghiệp có khả
năng gây HCCT một cách đáng kể hay không.
Tuy việc sử dụng các tiêu chí để đánh giá sức mạnh thị trường đáng kể theo
quy định của Luật cạnh tranh 2018 như phân tích ở trên là hợp lý nhưng việc liệt kê
các tiêu chí mà không đưa ra mức định lượng cho từng tiêu chí cho thấy, trái ngược
hoàn toàn với phương pháp dựa trên tiêu chí thị phần, đây là phương pháp định tính,
hoàn toàn không có yếu tố định lượng bổ trợ. Quy định này trao cho cơ quan có
thẩm quyền trách nhiệm tự đánh giá và quyết định về việc doanh nghiệp có thống
lĩnh thị trường hay không.
Ngoài ra, quy định thị phần và sức mạnh thị trường đáng kể là hai căn cứ riêng
để xác định VTTLTT theo Luật cạnh tranh Việt Nam có thể dẫn đến cách hiểu thị
phần và sức mạnh thị trường đáng kể là các yêú tố độc lập với nhau. Điều này là
không hợp lý vì thực chất thị phần là một trong những yếu tố phản ánh sức mạnh thị
trường của doanh nghiệp.
2.1.2.2. Cách xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp
Luật cạnh tranh 2018 kế thừa Luật cạnh tranh 2004 khi quy định VTTLTT đối
với trường hợp một doanh nghiêp và nhóm doanh nghiệp. Theo Điều 24 Luật cạnh
tranh 2018, một doanh nghiệp được coi là có VTTLTT nếu có sức mạnh thị trường
đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Trong khi đó,
nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động
gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định
78

theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có tổng thị phần thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên
quan;
b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên
quan;
d) Năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường
liên quan.
Như vậy, Luật cạnh tranh 2018 cũng vừa sử dụng tiêu chí định tính (có sức
mạnh thị trường đáng kể) và tiêu chí định lượng (thị phần) để xác định VTTLTT
của một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp, khác với quy định của Luật cạnh
tranh 2004 khi chỉ dùng tiêu chí thị phần để xác định VTTLTT của nhóm doanh
nghiệp. Bên cạnh quy định mới về sức mạnh thị trường đáng kể thay cho tiêu chí
khả năng gây HCCT một cách đáng kể, các quy định về xác định VTTLTT của
nhóm doanh nghiệp đều thể hiện sự tiến bộ đáng kể của Luật cạnh tranh 2018 so với
Luật cạnh tranh 2004. Ngoài các trường hợp nhóm hai doanh nghiệp, nhóm ba
doanh nghiệp, nhóm bốn doanh nghiệp đã được quy định từ Luật cạnh tranh 2004,
Luật cạnh tranh 2018 quy định thêm trường hợp nhóm năm doanh nghiệp trở lên,
tức là, không khống chế số lượng doanh nghiệp tối đa trong nhóm doanh nghiệp
thống lĩnh. Đặc biệt, Luật cạnh tranh 2018 đã quy định loại trừ doanh nghiệp có thị
phần ít hơn 10% trên thị trường liên quan nằm trong nhóm doanh nghiệp có
VTTLTT. Quy định này hợp lý, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Trên
thực tiễn, đối với một thị trường có cấu trúc gồm 1 hoặc 2 doanh nghiệp có thị phần
lớn và rất nhiều doanh nghiệp có thị phần nhỏ thì việc các doanh nghiệp nhỏ luôn
phải nghiên cứu, xem xét các động thái của doanh nghiệp lớn để có biện pháp kinh
doanh phù hợp là điều rất tự nhiên và không ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
cạnh tranh. Nếu coi bất kỳ một hành động nào của doanh nghiệp nhỏ tương tự như
doanh nghiệp lớn là hành vi cùng hành động nhằm gây HCCT là điều bất hợp lý.
CQCT chỉ giám sát và xử lý đối với hành động của nhóm các doanh nghiệp đều có
thị phần lớn trên thị trường. Đây cũng là thực tiễn chung của các nước có quy định
về hành vi của nhóm doanh nghiệp có VTTLTT.
Mặc dù có những tiến bộ nhất định so với Luật cạnh tranh 2004 nhưng quy
định về xác định VTTLTT của doanh nghiệp của Luật cạnh tranh 2018 vẫn còn một
số điểm chưa hợp lý:
79

Thứ nhất, việc xác định VTTLTT của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp hoặc
là chỉ dựa vào tiêu chí thị phần hoặc là chỉ dựa vào việc xem xét doanh nghiệp/
nhóm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể mà không sử dụng kết hơp hai
tiêu chí này sẽ không phản ánh đầy đủ, toàn diện và chính xác vị trí của doanh
nghiệp trên thị trường. Bởi lẽ, thị phần chỉ là một trong nhiều yếu tố được xem xét
để đánh giá khả năng tác động đến thị trường, thể hiện doanh nghiệp có sức mạnh
thị trường nhưng ngược lại, thị phần lại là biểu hiện rõ ràng và quan trọng nhất.
Như vậy có thể thấy cách tiếp cận hình thức chỉ dựa trên thị phần để giả định về
VTTLTT vẫn được giữ nguyên từ Luật cạnh tranh 2004 đến Luật cạnh tranh 2018.
Mặc dù có nêu cả hai phương pháp định lượng và phương pháp định tính để xác
định VTTLTT của một doanh nghiệp, nhưng cả Luật Cạnh tranh 2004 và Luật cạnh
tranh 2018 lại tách hai phương pháp này để sử dụng riêng mà không sử dụng kết
hợp. Doanh nghiệp có thị phần dưới 30% (có thể là rất nhỏ vì luật không khống chế
mức tối thiểu) nhưng nếu được chứng minh là có sức mạnh thị trường đáng kể vẫn
được xem là doanh nghiệp có VTTLTT. Ngược lại, chỉ cần doanh nghiệp có thị
phần từ 30% trở lên, không cần chứng minh thêm bất kỳ yếu tố nào sẽ bị coi là
doanh nghiệp có VTTLTT. Ngưỡng thị phần 30% được coi là giả định không thể
bác bỏ về thị phần (rebuttable market share presumptions) rằng một doanh nghiệp
có VTTLTT mà không cần thêm bất kỳ một bằng chứng kinh tế nào khác. Ngưỡng
thị phần 30% được OECD đánh giá là quá thấp, không linh hoạt và hiển nhiên hầu
hết doanh nghiệp bị vướng, kể cả những doanh nghiệp không có sức mạnh thị
trường [19, tr. 48]. Tuy nhiên, có quan điểm lý giải rằng, ngưỡng thị phần 30%
cũng có thể chấp nhận được trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay khi mà
quy mô của các ngành kinh tế còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh
đều là doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Nhưng như trường hợp được OECD
nêu ra, trong trường hợp, một thị trường chỉ có 2 nhà cung cấp, khi doanh nghiệp
mới gia nhập thị trường nắm giữ thị phần 30% có thể vẫn là doanh nghiệp yếu vì
còn có doanh nghiệp thứ 2 trên thị trường có thị phần lớn hơn hai lần họ. Tương tự,
một nhà cung cấp một sản phẩm hoàn toàn mới có thể nắm giữ thị phần 100%, vẫn
chật vật phát triển thị trường cho sản phẩm của mình. Đối với vấn để này, kinh
nghiệm các nước đều coi thị phần là tiêu chí quan trọng đầu tiên song cần thiết phải
kết hợp với các yếu tố khác để có thể có được một kết luận hợp lý về vị trí thống
lĩnh của doanh nghiệp trên thị trường. Một doanh nghiệp chiếm giữ một thị phần
lớn, trong những trường hợp nhất định, có thể không có khả năng lạm dụng quyền
lực thị trường (khi rào cản gia nhập thị trường thấp hoặc không có). Ở các hệ thống
80

pháp luật khác, điển hình như pháp luật Hoa Kỳ hay liên minh Châu Âu, Luật cạnh
tranh không đưa ra ngưỡng thị phần cố định để khẳng định chắc chắn doanh nghiệp
là thống lĩnh thị trường mà chỉ sử dụng mức thị phần để đưa ra giả định về khả năng
thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp, giả định đó có thể bị bác bỏ sau khi xem xét
các yếu tố khác.
Thứ hai, thị phần không được quy định xem xét trong một khoảng thời gian,
cũng như không được chỉ ra cụ thể là tính tại thời điểm nào, thời điểm doanh nghiệp
thực hiện hành vi hay thời điểm tiến hành việc điều tra. Nói cách khác, thị phần
theo quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam được xem xét ở trạng thái tĩnh. Thị
phần của doanh nghiệp luôn biến động theo thời gian, nếu chỉ xem xét ở trạng thái
tĩnh như hiện nay cũng không phản ánh chính xác về sức mạnh thị trường của
doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với những thị trường có tính năng động, thì mức thị
phần của một số doanh nghiệp đầu tiên gia nhập thị trường có thể khá cao trong
khoảng thời gian đầu, nhưng chưa chắc doanh nghiệp đó đã có sức mạnh thị trường,
bởi vị trí của họ dễ bị thay đổi khi có sự gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh
tranh mới.
2.1.2. Quy định về xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
2.1.2.1. Định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Về khái niệm lạm dụng VTTLTT, Khoản 5 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018 quy
định “Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là hành vi
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền gây tác động hoặc
có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh”. Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh
2018 liệt kê các hành vi lạm dụng VTTLTT bị cấm bao gồm 6 nhóm hành vi cụ thể
(quy định từ điểm a đến điểm e) và nhóm hành vi lạm dụng VTTLTT bị cấm theo
quy định của luật khác. Như vậy, không phải tất cả các hành vi được thực hiện bởi
doanh nghiệp có VTTLTT, gây tác động hoặc có khả năng gây tác động HCCT đều
bị cấm, mà chỉ các hành vi lạm dụng được liệt kê cụ thể tại Khoản 1 Điều 27 Luật
cạnh tranh 2018 và Luật khác mới bị cấm. Mặc dù quy định tại điểm g, Khoản 1
Điều 27 về Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của
luật khác có vẻ như là một điều khoản quét, nhằm dự liệu, “quét” hết tất cả các hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường chưa được liệt kê trước đó, nhưng thực chất
quy định này lại không thực sự là một điều khoản quét. Bởi điều khoản quét phải là
điều khoản chung nhưng phản ánh được tính chất đặc trưng nhất của hành vi là dẫn
đến hoặc có thể dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh, ngăn cản việc tham gia hoặc
mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác hoặc gây ra hoặc có khả năng gây ra
81

thiệt hại cho khách hàng. Rõ ràng, quy định về hành vi lạm dụng VTTLTT của Luật
cạnh tranh 2018 vẫn mang tính đóng khung như Luật cạnh tranh 2004. Điều này là
không phù hợp với thực tiễn nền kinh tế thị trường đang phát triển rất sôi động của
Việt Nam, các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp sẽ rất tinh vi, đa dạng, thay đổi
nhanh chóng mà quy định đóng khung sẽ bỏ sót các hành vi trên thực tế rõ ràng có
tác động HCCT nhưng lại không được ghi nhận trong luật. Xu hướng luật cạnh
tranh nhiều nước trên Thế Giới cũng không đặt ra quy định đóng khung về hành vi
lạm dụng VTTLTT. Các nước đều liệt kê danh mục các hành vi bị coi là lạm dụng
VTTLTT, tuy nhiên, những danh mục này được tuyên bố là mang tính minh họa và
không hạn chế, tức là bất kỳ hành vi nào dù không nằm trong danh mục đó nhưng
mang tính HCCT đều phải chịu trách nhiệm. Luật cạnh tranh EU cũng liệt kê danh
mục các hành vi bị coi là lạm dụng VTTLTT. Tuy nhiên, qua rất nhiều vụ việc như
vụ Tetrapak Interational SA [20], vụ Continental Can [21], ECJ đã tuyên bố rằng
danh mục đó là sự liệt kê không đầy đủ.
Trong vụ Continental Can, Tòa án đã nhấn mạnh rằng:
Việc giải thích điều 82 của Hiệp ước EC nên dựa trên các giả định và mục tiêu
chung của toàn bộ Hiệp ước. Điều 82 đặt ra các hành vi khác nhau của doanh
nghiệp mà bị coi là lạm dụng. Trong khi sự thật là cụm từ 'nói riêng' (In particular)
đã thể hiện rõ ràng danh sách này là không đầy đủ, nó chỉ mang tính ví dụ về hành
vi có thể cấu thành lạm dụng vị trí thống lĩnh, bằng cách đó tiết lộ ý định của nhà
lập pháp và ngầm chỉ ra những tình huống mà nhà lập pháp dự tính [21, p. 225]
2.1.2.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cụ thể
a) Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có
khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Hành vi này được quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 27 Luật cạnh tranh
2018 và tương ứng với hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn
bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh được quy định tại Khoản 1, Điều 13 Luật cạnh
tranh 2004. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ theo
quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam tương ứng với hành vi định giá hủy diệt
(predatory pricing) trong pháp luật EU hay Hoa Kỳ và nằm trong nhóm các hành vi
mang tính loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Đạo luật chống độc quyền của Nhật Bản
không có điều khoản cụ thể nào được thiết kế riêng cho hành vi định giá hủy diệt.
Tuy nhiên, hành vi định giá hủy diệt vẫn có thể bị cấm theo các điều khoản liên
quan đến hành vi phân biệt giá, bán giá thấp bất hợp lý và độc quyền tư nhân.
82

So với quy định của Luật cạnh tranh 2004, Luật cạnh tranh 2018 đã có điều
chỉnh thay dấu hiệu mục đích của hành vi là “nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh”, vốn
là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan, rất khó chứng minh bằng dấu hiệu hậu quả của
hành vi là “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh” là dấu
hiệu thuộc mặt khách quan, dễ dàng chứng minh hơn. Tuy nhiên, về cơ bản căn cứ
để xác định hành vi lạm dụng bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn
bộ theo Luật cạnh tranh 2018 được giữ nguyên theo Luật cạnh tranh 2004, đó là vẫn
dựa trên việc so sánh giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và giá thành (chi phí) toàn
bộ của hàng hóa, dịch vụ.
Về giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đây là yếu tố đầu tiên của phép so
sánh giá – chi phí nhằm kết luận về hành vi. Thực tế, các doanh nghiệp không chỉ
có một mức giá bán duy nhất đối với hàng hóa, dịch vụ. Trong Luật cạnh tranh
2018 chưa nêu rõ giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ là mức giá nào, giá bán lẻ
hay giá bán buôn hay trong trường hợp nào thì là giá bán lẻ, trường hợp nào thì là
giá bán buôn và trong trường hợp doanh nghiệp bán với mức giá khác nhau giữa các
khu vực trong cùng một thị trường địa lý hoặc có sự chênh lệnh về mức giá bán ở
những thời điểm khác nhau thuộc thời kỳ điều tra thì xác định mức giá như thế nào
để làm căn cứ so sánh với chi phí.
Về giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ (cũng là chi phí toàn bộ bình
quân, Avarage Total Cost – ATC), đây là mức chuẩn để xác định hành vi định giá
có phải là hủy diệt hay không được quy định từ Luật cạnh tranh 2004 và hiện vẫn
được giữ nguyên trong Luật cạnh tranh 2018 là không hợp lý. Quy định này cho
thấy quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam là doanh nghiệp bán hàng hóa dưới
giá thành toàn bộ hiển nhiên là phải chịu lỗ. Xét về bản chất kinh tế, quan điểm này
là không chính xác. Lý thuyết kinh tế chỉ ra doanh nghiệp chịu lỗ khi giá bán thấp
hơn chi phí cận biên (Marginal cost). Lý luận về hành vi định giá hủy diệt theo pháp
luật cạnh tranh các nước đều thừa nhận quan điểm này. Tuy nhiên, do nhiều lý do,
đặc biệt là do sự phức tạp trong việc tính toán chi phí này, luật cạnh tranh các nước
đều sử dụng chi phí biến đổi bình quân (Average Variable Cost - AVC) làm ngưỡng
để thực hiện kiểm chứng giá – chi phí trong việc đánh giá hành vi định giá hủy diệt.
Có thể dễ dàng tìm thấy trong các vụ việc lạm dụng VTTLTT ở EU, chi phí
biến đổi bình quân được sử dụng là ngưỡng để xác định hành vi định giá hủy diệt.
Chảng hạn như trong vụ AKZO [48], với mức giá bán thấp hơn chi phí biến đổi bình
quân, ECJ đã cho rằng:
Doanh nghiệp thống lĩnh thị trường không có lợi nhuận khi áp dụng mức giá
83

đó, ngoại trừ việc áp dụng là để loại bỏ đối thủ cạnh tranh để rồi sau đó cho phép nó
tận dụng vị trí độc quyền để tăng giá bán [48, p. 71].
Đặc biệt, thời gian gần đây, xuất hiện xu hướng ngày càng nhiều các quốc
gia chuyển sang sử dụng chi phí tránh được bình quân (Avarage Avoidable Cost
– AAC) [13]. Lý luận và án lệ cả hai hệ thống pháp luật trụ cột về cạnh tranh của
Thế Giới là EU và Hoa Kỳ đều sử dụng chi phí này [20]. Điều này cho thấy, đối
với hành vi định giá hủy diệt, pháp luật Việt Nam quy định ngưỡng kiểm soát
chặt hơn và bất hợp lý với doanh nghiệp thống lĩnh thị trường khiến cho cùng
một hành vi định giá của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường nếu theo luật cạnh
tranh Việt Nam sẽ là hành vi định giá hủy diệt, còn theo pháp luật cạnh tranh các
nước doanh nghiệp chưa chắc vi phạm, vì cả hai ngưỡng chi phí AVC và ACC
luôn thấp hơn ATC.
Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn Luật cạnh tranh 2018 cũng cần lưu ý
tránh lặp lại hạn chế đã gặp trong Luật cạnh tranh 2004, đó là quy định giá thành
toàn bộ là tổng của (i) các chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ
hoặc giá mua hàng hoá để bán lại và (ii) chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo
quy định của pháp luật. Trong đó, chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa,
dịch vụ bao gồm chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản
xuất chung còn chi phí lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ là toàn bộ các chi phí
phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Như vậy cả chi phí
sản xuất và chi phí lưu thông đều bao gồm cả chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Cách phân chia chi phí như vậy là dựa trên giai đoạn của quá trình kinh doanh mà
không dựa trên tính chất của từng khoản chi phí và thực tế việc định rõ đâu là chi
phí sản xuất và đâu là chi phí lưu thông là rất khó trong một số trường hợp, việc
phân chia chi phí thành chi phí cố định và chi phí biến đổi như quy định của nhiều
nước hiện nay xem ra là hợp lý và rõ ràng hơn.
Hậu quả của hành vi này, theo quy định của Luật cạnh tranh 2018 chưa thể
hiện rõ là yếu tố có cần chứng minh hay không. Nếu kế thừa cách quy định của
Luật cạnh tranh 2004 là cách tiếp cận dựa trên hình thức thì hậu quả của hành vi
theo Luật cạnh tranh 2018 cũng giống như mục đích của hành vi theo Luật cạnh
tranh 2004 sẽ là yếu tố không cần chứng minh. Điều này khác với cách tiếp cận hiện
nay của luật cạnh tranh nhiều nước khi quy định ngoài việc thực hiện so sánh giá –
chi phí thì các yếu tố khác như khả năng bù lỗ của doanh nghiệp thống lĩnh, tác
động, mục đích của hành vi,… cũng là một yếu tố hay yêu cầu mà CQCT phải phân
84

tích để kết luận về hành vi [65]. Bởi lẽ, định giá hủy diệt có thể là một chiến lược
kinh doanh thành công chỉ khi thị trường đáp ứng những điều kiện nhất định. Trong
đó, cấu trúc thị trường phải tồn tại doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp thống
lĩnh với mức thị phần cao và có sự hiện diện của rào cản gia nhập và rào cản tái gia
nhập thị trường. Ngoài ra, thực tiễn hiện nay, các doanh nghiệp thường xuyên tổ
chức các đợt khuyến mại bán hàng với giá bán thấp hơn giá thành có thể để kích
cầu thu hút khách hàng đơn thuần, cũng không loại trừ chính là một chiêu trò để
bán giá thấp nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh, những chủ thể mới gia nhập thị
trường, những đối thủ có tiềm lực tài chính kém hơn. Luật cạnh tranh Việt Nam
chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Thực tiễn các CQCT của nhiều nước trên
Thế Giới đều đã xử lý hành vi khuyến mại giảm giá như là hành vi định giá hủy
diệt. Ngay cả ở một quốc gia Nam Phi như Zim – Ba – Buê cũng đã ghi nhận vụ
việc xử lý hành vi khuyến mại giảm giá thấp hơn giá thành là hành vi định giá hủy
diệt. Vụ việc liên quan đến hành vi của công ty National Breweries, công ty bia
quốc gia của Zim – Ba – Buê, với thị phần đang nắm giữ là 90% và có mạng lưới
phân phối rộng khắp cả nước đã tổ chức chiến dịch khuyến mại bia ở Chiredzi, nơi
có Công ty TNHH Nesbitt Brewery (Pvt), một công ty nấu bia nhỏ mới gia nhập
thị trường. Chiến dịch khuyến mại kéo dài từ tháng 5 năm 1999 đến tháng 4 năm
2000, với mức giá bán thấp hơn chi phí sàn bình thường tại thị trấn đó. Hành vi
của National Breweries sau đó đã được chứng minh là định giá hủy diệt theo
khoản 2 mục 2 của Đạo luật cạnh tranh 1996 của Zim – Ba - Buê [68].
b) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá
bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng
Nhóm hành vi này được quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh
2018, gồm các hành vi độc lập là áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa bất hợp lý và ấn
định giá bán lại tối thiểu. Đặc điểm chung của nhóm hành vi này là doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường lạm dụng sức mạnh thị trường để tác động đến yếu tố giá của
hàng hóa, dịch vụ làm chúng trở nên méo mó, không phản ánh đúng giá trị kinh tế
của hàng hóa, dịch vụ dẫn đến hậu quả của hành vi là gây ra hoặc khả năng gây ra
thiệt hại cho khách hàng, tức là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hành vi này là
các khách hàng của doanh nghiệp khi mà thiệt hại họ phải gánh chịu hoặc có thể
phải gánh chịu từ hành vi này sẽ được chuyển thành lợi nhuận bất chính của doanh
nghiệp thống lĩnh. Quy định của Luật cạnh tranh 2018 về nhóm hành vi này về cơ
bản tương tự như quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật cạnh tranh 2004. Sự thay đổi
85

duy nhất trong quy định của Luật cạnh tranh 2018 so với Luật cạnh tranh 2004 về
nhóm hành vi này là nhà làm luật mở rộng dấu hiệu hậu quả của hành vi bị cấm
không chỉ là gây ra thiệt hại cho khách hàng mà còn có thể mới chỉ là nguy cơ gây
hậu quả (có khả năng gây ra) thiệt hại cho khách hàng. Điều này cho thấy Luật
cạnh tranh 2018 thể hiện sự can thiệp sớm hơn đối với hành vi lạm dụng, từ khi
thấy hành vi có nguy cơ gây thiệt hại chứ không cần phải có hậu quả thực tế là gây
thiệt hại.
Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây ra hoặc có khả năng
gây ra thiệt hại cho khách hàng
Bản chất lạm dụng của hành vi này thể hiện ở chỗ, mức giá mua, giá bán hàng
hóa, dịch vụ vốn phản ánh giá trị kinh tế của sản phẩm và trong môi trường cạnh
tranh nó đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa bên mua và bên bán thì trong điều kiện
HCCT, doanh nghiệp thống lĩnh thị trường lợi dụng quyền lực thị trường mà nó có
để áp đặt mức giá có lợi cho mình, xâm phạm nguyên tắc công bằng trong thương
mại, thực hiện sự đối xử bất hợp lý với khách hàng, đối tác, là những bên phụ thuộc
vào doanh nghiệp thống lĩnh. Vấn đề quan trọng nhất để xác định có hay không có
hành vi áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý chính là xác định tính chất “bất hợp lý”
của mức giá mà doanh nghiệp thống lĩnh đưa ra. Việc xác định tính chất “bất hợp
lý” trong trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh là người “mua hàng hóa, dịch vụ” sẽ
là giá mua thấp bất hợp lý, còn trong trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh thị trường
là người “bán hàng hóa, dịch vụ” sẽ là giá bán cao bất hợp lý. Trường hợp doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường có giá bán hàng hóa, dịch vụ thấp bất hợp lý thì sẽ xem
xét theo hành vi “Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới gía thành toàn bộ hoặc “Bán
hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường”.
Luật cạnh tranh 2018 không quy định cụ thể thế nào là mức giá mua, giá bán
hàng hóa dịch vụ bất hợp lý hay dựa vào những căn cứ nào để chứng minh là hành vi
áp đặt giá của doanh nghiệp thống lĩnh gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho
khách hàng. Cách tiếp cận của Luật cạnh tranh 2018 về vấn đề này trái ngược với
cách quy định quá chi tiết, với cấu thành pháp lý phức tạp và bộc lộ nhiều điểm
không phù hợp của Luật cạnh tranh 2004. Cụ thể:
- Về xác định thế nào là mức giá mua bất hợp lý: Luật cạnh tranh 2004 [5
Khoản 1, Điều 27] so sánh mức giá mua với giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch
vụ đặt trong bối cảnh là hàng hóa, dịch vụ không có sự thay đổi về chất lượng so
với trước đó và không có sự xuất hiện của các điều kiện khách quan, bất thường chi
phối đến giá của hàng hóa, dịch vụ. Có thể thấy mức giá chuẩn để đánh giá tính chất
86

bất hợp lý của giá mua mà doanh nghiệp thống lĩnh đưa ra chính là giá thành sản
xuất của hàng hóa, dịch vụ chứ không phải là mức giá cạnh tranh của hàng hóa dịch
vụ được quyết định bởi thị trường hay giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ đó.
Quy định này cho thấy pháp luật đang cố bảo vệ người bán một cách bất hợp lý và
mục đích bảo vệ này thực tế cũng là không đủ. Rõ ràng, tính hợp lý của hành vi từ
người mua (đặt giá mua) lại được xem xét từ góc độ của người bán (chi phí hay giá
thành sản xuất của người bán). Người mua đặt giá mua sẽ theo sự tính toán của
riêng họ trong bối cảnh thị trường cụ thể, đương nhiên sự tính toán để đặt ra mức
giá hợp lý đó không buộc phải biết được giá thành sản xuất của bên bán, vốn cũng
là yếu tố riêng của bên bán. Mặt khác, nếu để thực hiện mục tiêu bảo vệ bên bán
(yếu thế hơn trước doanh nghiệp thống lĩnh là bên mua) thì việc quy định gián tiếp
là giá mua phải đặt ra ngang hoặc cao hơn giá thành sản xuất cũng không đủ để đảm
bảo người bán sẽ không bị lỗ vì giá thành sản xuất chỉ là một phần trong toàn bộ chi
phí để sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đặc biệt, quy định này không dựa trên
lý thuyết kinh tế về cơ chế hình thành giá. Bởi lẽ giá thực tế của sản phẩm không
chỉ được hình thành dựa vào chi phí sản xuất thực tế mà còn bị chi phối bởi tình
hình thị trường và mức giá hợp lý phải là mức giá cạnh tranh do thị trường quyết
định. Giá là yếu tố cạnh tranh cơ bản của thị trường, làm thế nào để giá sản phẩm
bán ra không cao hơn mức giá cạnh tranh của thị trường mà vẫn có lợi nhuận (bù
đắp được chi phí sản xuất và có lãi) chính là áp lực mà các doanh nghiệp phải vượt
qua, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng vượt qua thành công. Doanh nghiệp
thống lĩnh đặt ra mức giá mua có thể dưới giá thành sản xuất của người bán này
nhưng vẫn có thể là mức giá cạnh tranh của thị trường, tức là trên thị trường vẫn có
những người bán khác sẵn sàng bán với mức giá đó mà không hề bị thiệt hại. Do đó,
không thể quy kết việc doanh nghiệp thống lĩnh đặt ra giá mua hàng hóa, dịch vụ
thấp hơn giá thành sản xuất là bất hợp lý và là hành vi lạm dụng. Thêm vào đó, các
điều kiện kèm theo của so sánh cũng không rõ ràng và thiếu tính thực tế. Điều kiện
(i) Chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch
vụ đã mua trước đó, sẽ được hiểu là hàng hóa, dịch vụ đã mua trước của cùng người
bán đó hay của người bán bất kỳ và (ii) Không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai,
địch họa hoặc biến động bất thường làm giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch
vụ trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối
thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó thì việc so sánh mức giảm của giá bán buôn
hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan với giá thành sản xuất của
người bán nào, bởi lẽ không thể có giá thành sản xuất chung của cả thị trường liên
87

quan mà mỗi người bán sẽ có gía thành sản xuất riêng.


- Về xác định mức giá bán bất hợp lý: Giá bán của hàng hóa dịch vụ sẽ được
xem xét để đánh giá có bất hợp lý hay không nếu có dấu hiệu tăng giá bán [5,
Khoản 2 Điều 27]. Phép so sánh sẽ được thực hiện giữa giá bán lẻ trung bình của
hàng hóa, dịch vụ trong trong ít nhất 60 ngày liên tiếp với giá bán của hàng hóa,
dịch vụ trước thời điểm bắt đầu tăng giá. Quy định như vậy thực chất chỉ có thể
nhằm xác định việc tăng giá là bất hợp lý chứ không nhằm xác định việc ấn định giá
bán là cao bất hợp lý. Rõ ràng giá bán của hàng hóa, dịch vụ được cấu thành từ chi
phí và bị chi phối bởi điều kiện cạnh tranh của thị trường nhưng khi xem xét liệu
giá bán có cao bất hợp lý hay không thì pháp luật cạnh tranh Việt Nam lại không hề
xem xét đến yếu tố chi phí và mức giá cạnh tranh của thị trường. Qua đó có thể
khẳng định quy định về định giá quá mức chưa bám vào đúng bản chất của hành vi.
Thêm vào đó, quy định về điều kiện để thực hiện phép so sánh này là “cầu về hàng
hóa, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực
sản xuất của doanh nghiệp” và “không có biến động bất thường làm tăng giá thành
sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày
liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá” cũng thể hiện cấu thành pháp lý phức tạp, khó
khả thi và có lỗ hổng. CQCT sẽ có trong việc xác định một loạt các yếu tố gồm cầu
về hàng hóa, dịch vụ; công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp
thống lĩnh và giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ; phải chứng minh tại thời
điểm doanh nghiệp tăng giá, cầu của hàng hóa, dịch vụ được xem xét không tăng
đột biến so với cầu của hàng hóa, dịch vụ trước đó và không vượt quá công suất
thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp, đồng thời chứng minh giá thành
sản xuất của hàng hóa, dịch vụ trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi
bắt đầu tăng giá không tăng quá 5% so với trước đó. Các yếu tố cần xem xét và
chứng minh rõ ràng là không đơn giản và mất nhiều thời gian. Có thể nói, việc xem
xét hành vi áp đặt giá bán bất có hợp lý hay không theo quy định của Luật cạnh
tranh Việt Nam phải đặt trong một tiến trình, với thời gian kéo dài đến 60 ngày. Tuy
nhiên, ỏ một số lĩnh vực, chẳng hạn như lĩnh vực thời trang, nông sản, dịch vụ cho
thuê phòng ở các địa điểm du lịch, chiếu phim… hoạt động kinh doanh đối với mỗi
sản phẩm thường được tiến hành trong khoảng thời gian ngắn và người tiêu dùng
thường có xu hướng muốn được sử dụng ngay khi các sản phẩm vừa mới ra mắt,
còn các doanh nghiệp phải tính toán sao để đảm bảo lợi nhuận cho sản phẩm trong
khoảng thời gian ngắn đó. Vì vậy, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu của người tiêu
dùng, việc các doanh nghiệp đặt ra mức giá bán hàng hóa, dịch vụ vào đầu mùa, hay
88

ngay khi sản vừa ra mắt cao hơn so với mức giá sau đó hay mức giá của các sản
phẩm tương đương trước đó là hoàn toàn bình thường, là chiến lược kinh doanh thu
lợi nhuận mà mọi doanh nghiệp đều áp dụng và được khách hàng, người tiêu dùng
chấp nhận một cách tự nhiên. Trong khi đó, theo chiều hướng ngược lại, chỉ cần
một trong các điều kiện của phép so sánh không thỏa mãn hoặc mức tăng giá không
quá 5% và trong thời gian dưới 60 ngày thì không đủ cơ sở để xác định hành vi là
bất hợp lý. Đây chính là lỗ hổng mà các doanh nghiệp hoàn toàn có thể dễ dàng tận
dụng. Cụ thể: Trong điều kiện thị trường bình thường, doanh nghiệp thống lĩnh, độc
quyền có thể thực hiện việc tăng giá bán từ từ với biên độ không quá 5 % trong thời
gian chu kỳ 2 tháng mà không bị coi là vi phạm hoặc trong trường hợp cầu về hàng
hóa, dịch vụ tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản
xuất của doanh nghiệp hoặc có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất
của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% thì doanh nghiệp có VTTLTT có thể tăng giá
thoải mái mà không bị coi là vi phạm.
- Về dấu hiệu hậu quả của hành vi: Dấu hiệu này, theo Luật cạnh tranh 2004 là
dấu hiệu mang tính chất suy đoán, không cần chứng minh. Nói cách khác, việc nhận
dạng nhóm hành vi này chỉ dựa trên các dấu hiệu mô tả của hành vi mà không dựa
trên đánh giá tác động thực sự của hành vi.
Rõ ràng cách tiếp cận của Luật cạnh tranh 2018 đã thể hiện sự tiến bộ so với
Luật cạnh tranh 2004 trong việc khắc phục việc mô tả chi tiết, với cấu thành phức
tạp, thiên về định dạng hành vi mà không bám vào bản chất và đánh giá tác động
của hành vi. Cách quy định hiện nay của Luật cạnh tranh 2018 đồng nghĩa với việc
trao quyền rất lớn cho CQCT trong việc chủ động xem xét, đánh giá hành vi mà
không bị giới hạn bởi các quy định định dạng hành vi mang tính đóng khung. Tuy
nhiên, cách tiếp cận mới này rõ ràng cũng sẽ mang lại những nguy cơ về sự tùy tiện
trong xem xét, kết luận về hành vi, đặc biệt, không có giá trị cao trong việc cảnh
báo cho các doanh nghiệp có VTTLTT về nguy cơ vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Hành vi lạm dụng Ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây
ra thiệt hại cho khách hàng
Lý do của việc doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện hành vi ấn định giá bán lại
tối thiểu là nhằm đảm bảo sự thống nhất về mặt bằng giá trong hệ thống phân phối,
bán lẻ sản phẩm của doanh nghiệp thống lĩnh. Tuy nhiên, từ góc độ cạnh tranh,
hành vi này của doanh nghiệp thống lĩnh một mặt can thiệp trực tiếp đến quyền tự
do quyết định mức giá của các nhà phân phối, nhà bán lẻ, một mặt sẽ gây ra tác
động cản trở sự cạnh tranh về giá giữa các nhà phân phối, nhà bán lẻ cùng bán sản
89

phẩm của doanh nghiệp thống lĩnh.


Về nhóm hành vi này, Luật cạnh tranh 2018 đã có sửa đổi. Cụ thể, Điểm b,
Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh 2018 quy định cấm doanh nghiệp có VTTLTT
thực hiện hành vi “...Ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra
thiệt hại cho khách hàng”. Như vậy, luật cạnh tranh 2018 đã sửa cụm từ gây thiệt
hại cho khách hàng thành gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng.
Với quy định của Luật cạnh tranh 2018 cho thấy hành vi lạm dụng được kiểm soát
sớm hơn, ngay khi xác định hành vi có khả năng (nguy cơ) gây ra thiệt hại cho
khách hàng chứ không cần phải có hậu quả là gây ra thiệt hại cho khách hàng thì
mới bị coi là vi phạm. Quy định cho thấy ngoài dấu hiệu chung về chủ thể là doanh
nghiệp (nhóm doanh nghiệp) thống lĩnh thị trường, cần làm rõ dấu hiệu về hành vi
thế nào là ấn định giá bán lại tối thiểu và dấu hiệu về hậu quả hành vi là gây ra hoặc
có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng. Việc làm rõ các dấu hiệu thuộc cấu
thành của hành vi theo Luật cạnh tranh 2018 cần khắc phục những hạn chế của Luật
cạnh tranh 2004, cụ thể:
- Về dấu hiệu hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu, mô tả hành vi của Luật
cạnh tranh 2004 cho thấy hành vi này chỉ cấm doanh nghiệp thống lĩnh ấn định giá
bán lại tối thiểu đối với hàng hóa mà bỏ sót dịch vụ. Theo đó, “ấn định giá bán lại
tối thiểu”, tức là “việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ
bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước” [5, Khoản 3, Điều 27]. Thực
tiễn từ vụ việc Megastar, cách thu “tối thiểu” của Megastar áp dụng cho các doanh
nghiệp thuê phim thực chất chính là buộc các doanh nghiệp thuê phim không thể
bán vé với giá thấp hơn 25.000 đồng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuê phim lại
không thể khiếu nại Megastar về hành vi này bởi Luật cạnh tranh 2004 giải thích
hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu là hành vi khống chế không cho phép các nhà
phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước, tức
là không cấm đối với dịch vụ, mà thuê phim để chiếu lại là dịch vụ.
- Về dấu hiệu hậu quả của hành vi là gây thiệt hại cho khách hàng theo Luật
cạnh tranh 2004 là mang tính suy đoán. Việc xác định hành vi, theo Luật cạnh tranh
2004 chỉ căn cứ vào biểu hiện của hành vi mà không cần chứng minh hậu quả “gây
thiệt hại cho khách hàng”. Điều này thể hiện cách tiếp cận mang nặng tính hình thức
của Luật cạnh tranh 2004.
c) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho
90

khách hàng
Luật cạnh tranh 2018 quy định hành vi Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa,
dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc
có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng tại Điểm c, Khoản 1 Điều 27.
Nhóm hành vi này bao gồm 3 hành vi khác nhau nhưng có đặc điểm chung là
đều là hành vi của doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) thống lĩnh thị trường có tính
chất tự giới hạn sản xuất, phân phối hàng hóa, giới hạn thị trường, giới hạn sự phát
triển kỹ thuật công nghệ và yếu tố hậu quả là gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt
hại cho khách hàng là dấu hiệu chung cho cả 3 hành vi.
Về đặc trưng riêng của từng hành vi:
- Hành vi Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ có bản chất là hành
vi cắt giảm hoặc giới hạn khả năng cung ứng sản phẩm trên thị trường về mặt sản
lượng, khối lượng hoặc chủng loại sản phẩm v.v… Hành vi này tạo ra sự khan hiếm
giả tạo về nguồn cung sản phẩm, tạo sự tăng giá hoặc tránh sự rớt giá. Mục đích
cuối cùng của hành vi này là làm biến động quan hệ cung cầu theo hướng có lợi cho
doanh nghiệp trong giao dịch với khách hàng, tận thu lợi nhuận từ việc tăng giá sau
khi đã hạn chế khả năng cung ứng sản phẩm.
- Hành vi Giới hạn thị trường có bản chất là chỉ cung ứng, phân phối sản phẩm
cho những vùng thị trường, hay nhóm khách hàng nhất định (giới hạn thị trường
mua) hay chỉ mua sản phẩm từ những vùng thị trường hay nguồn cung nhất định
(giới hạn thị trường bán). Hành vi này gây suy giảm cạnh tranh giữa các nhà phân
phối, giá bán lại được duy trì ở mức cao nhất mà từng thị trường có thể chấp nhận,
tước đoạt quyền mở rộng phạm vi kinh doanh của các nhà phân phối hoạt động hiệu
quả, làm triệt tiêu quyền chọn lựa của người tiêu dùng, nhưng rộng hơn, có thể gây
thiệt hại cho hoạt động ngoại thương. Hành vi lạm dụng này sẽ khiến cho những
nhà phân phối hoạt động hiệu quả khó có thể hạ thấp chi phí bằng cách tăng quy mô
hoạt động.
- Hành vi Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ là việc doanh nghiệp thực
hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ
hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ khoa học hoặc kỹ thuật vào hoạt động kinh
doanh. Hành vi này chủ yếu liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ, làm giảm động cơ
của các doanh nghiệp trong việc tăng cường cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng
dịch vụ.
Đặc trưng riêng của từng hành vi còn thể hiện qua các dạng biểu hiện cụ thể,
cách thức thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay quy định tại Luật Cạnh tranh 2018 về
91

nhóm hành vi này mới chỉ dừng ở mức độ quy định chung, gọi tên hành vi, các vấn
đề liên quan đến các dạng thức, biểu hiện cụ thể của từng hành vi, phương thức thực
hiện là bằng hành vi đơn phương, tự thân của chính doanh nghiệp thống lĩnh tác
động lên khách hàng hay thông qua việc áp đặt đối với bên thứ ba đều chưa được
ghi nhận.
Nhóm hành vi này cũng đã được quy định tại Khoản 3 Điều 13 Luật cạnh
tranh 2004 và được quy định chi tiết tại Điều 28 Nghị định 116/2005. Tương tự như
nhóm hành vi ấn định giá nêu trên, sự thay đổi của Luật cạnh tranh 2018 so với
Luật cạnh tranh 2004 hiện chỉ dừng ở mức độ bổ sung thêm hậu quả tiềm năng (có
khả năng gây ra) thiệt hại cho khách hàng vào cấu thành của hành vi.
Các vấn đề về dạng thức, biểu hiện của từng hành vi theo Luật Cạnh tranh
2004 đã được quy định cụ thể tại Nghị định 116/2005, những điểm hạn chế trong
quy định của nhóm hành vi này theo Luật Cạnh tranh 2004 cần được khắc phục
trong văn bản hướng dẫn của Luật Cạnh tranh 2018 sắp tới.
Về hành vi Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, Khoản 1 Điều 28
Nghị định 116/2005 đề cập đến 3 dạng cơ bản, và dễ nhận biết của hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm, đó là: Cắt, giảm
lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan; Ấn định lượng cung
ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo khan hiếm trên thị trường; Găm hàng lại
không bán để gây mất ổn định thị trường. Quy định như vậy không phản ánh hết các
dạng hành vi lạm dụng có bản chất hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, ngoài những hành vi hạn chế sản xuất, phân phối
hàng hóa, dịch vụ như đã được liệt kê theo Luật Cạnh tranh Việt Nam, còn có
những dạng hành vi khác như hạn chế về chủng loại sản phẩm; đầu cơ, tích trữ; cố
tình kéo dài thời gian cung ứng hàng hóa, dịch vụ...
Về hành vi Giới hạn thị trường, Khoản 2 Điều 28 Nghị định 116/2005 đề cập
đến các dạng hành vi: Chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong một khu vực địa lý
nhất định; Chỉ mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung nhất định trừ
trường hợp các nguồn cung khác không đáp ứng được những điều kiện hợp lý và
phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên mua đặt ra. Đây mới chỉ là
những dạng hành vi giới hạn thị trường theo lãnh thổ, theo nhóm khách hàng, thực
tiễn hoạt động cạnh tranh và kinh nghiệm điều chỉnh của các nước còn có các
dạng hành vi giới hạn thị trường theo lượng hàng hóa phân bổ cho từng nhà phân
phối/ bán lẻ hay đối tác, tức là giới hạn mang tính định lượng. Đặc biệt, kinh
92

nghiệm của EU cho thấy, việc doanh nghiệp thống lĩnh thị trường giới hạn thị
trường cung ứng thông qua mạng lưới phân phối cũng được coi là hành vi lạm
dụng giới hạn thị trường. Chẳng hạn như trong vụ việc Volkswagen AG [51], với
mục đích là tạo sự tách biệt giữa các thị trường tiêu thụ, tránh việc khách hàng từ
Áo và Đức đổ dồn vào mua xe ở Ý (do giá xe của hãng ở Ý thấp hơn ở Áo và
Đức), Volkswagen AG đã thực hiện hành vi phân chia thị trường bằng cách buộc
các nhà phân phối ở Ý từ chối bán xe hơi Volkswagen và Audi cho người nước
ngoài. Volkswagen AG đe dọa ngừng cung cấp nguồn hàng cho nhà phân phối nào
ở Ý có bán xe cho khách hàng nước ngoài đồng thời cắt giảm một cách có hệ
thống mức lợi nhuận và mức thưởng của những nhà phân phối bán hàng ngoài khu
vực mà họ đã được bố trí, cũng như hạn chế việc giao sản phẩm cho các nhà phân
phối Ý. Hành vi này của Volkswagen AG đã được Ủy ban Châu Âu kết luận là
hành vi lạm dụng phân chia thị trường và bị xử phạt 90 triệu EUR. Tuy nhiên,
hành vi này nếu chiếu theo Luật Canh tranh 2004 sẽ không bị xác định là hành vi
lạm dụng giới hạn thị trường, vì Luật cạnh tranh Việt Nam quan điểm nhóm hành
vi này phải diễn ra trong quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp thống lĩnh và các
khách hàng của họ. Nói cách khác, hành vi giới hạn thị trường phải là sự tự giới
hạn của doanh nghiệp thống lĩnh.
Về hành vi Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ, theo Khoản 3, Điều 28
Nghị định 116/2005 có những dạng cụ: Mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng; Đe dọa hoặc ép buộc người đang
nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu
đó. Điểm chung trong các dạng hành vi được liệt kê theo Khoản 3 Điều 28 Nghị
định 116/2005 là doanh nghiệp thực hiện hành vi không phải là chủ sở hữu, tác giả
của các đối tượng sở hữu công nghiệp, là người đang thực hiện việc nghiên cứu
phát triển, kỹ thuật công nghệ nhưng lạm dụng VTTLTT mà nó có để cản trở khả
năng phát triển, kế thừa, ứng dụng các nghiên cứu, thành tựu khoa học, công nghệ.
Kinh nghiệm các quốc gia cho thấy, hành vi cản trở sự phát triển kỹ thuật công nghệ
đa dạng hơn. Chẳng hạn, trong vụ Intel, Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ
(FTC) đã kết luận hành vi của Tập đoàn Intel sử dụng sức mạnh độc quyền của
mình để từ chối cung cấp thông tin kỹ thuật cần thiết cho đối tác để phát triển hệ
thống máy tính dựa trên bộ vi xử lý Intel là cản trở sự phát triển kỹ thuật, công
nghệ. Mặc dù Intel đã bảo vệ quan điểm của mình bằng cách khẳng định tập đoàn
này chỉ đơn thuần quan tâm đến việc bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của họ đối với
93

các vi mạch xử lý do họ nắm giữ quyền chủ sở hữu song FTC cũng khẳng định
trong một vài trường hợp thì chủ sở hữu có thể bị bắt buộc chuyển giao quyền đó để
đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng. Hay trong vụ việc liên quan đến hành vi từ
chối cung cấp thông tin của Microsoft [32], ECJ và CFI đều khẳng định việc từ chối
cung cấp thông tin về liên kết và tương thích (rất cần thiết cho hoạt động kinh
doanh trên thị trường thứ cấp) của Microsoft cho các đối thủ cạnh tranh và cho phép
họ sử dụng các thông tin đó để phát triển và phân phối các sản phẩm cạnh tranh
khác trên thị trường hệ điều hành máy tính chủ đã cấu thành hành vi lạm dụng
VTTLTT cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ. Về nguyên tắc, việc từ chối giao
dịch nói chung, hay từ chối chuyển giao quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ nói
riêng của một doanh nghiệp thống lĩnh thị trường không vi phạm pháp luật cạnh
tranh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, việc từ chối đó sẽ cản trở việc
duy trì hoạt động cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường, cản trở sự xuất hiện của
sản phẩm mới có sự phát triển về mặt kỹ thuật, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của
người tiêu dùng.
d) Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn
đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị
trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
Hành vi lạm dụng áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch
tương tự nhau của doanh nghiệp có VTTLTT còn được gọi là hành vi phân biệt đối
xử của doanh nghiệp có VTTLTT. Hành vi lạm dụng VTTLTT trong trường hợp
này được thực hiện với các đối tác thương mại khác nhau (khách hàng hoặc nhà
cung cấp) thông qua các điều khoản và điều kiện giao dịch của doanh nghiệp thống
lĩnh với họ. Hậu quả trước hết của sự phân biệt đối xử bởi doanh nghiệp có
VTTLTT là một số đối tác bị đặt vào tình thế bất lợi, trong khi một số đối tác khác
có thể có được những ưu thế cạnh tranh nhưng không bằng sự nỗ lực của chính họ.
Thực tế, các đối tác của doanh nghiệp thống lĩnh là đối tượng của hành vi lạm dụng
này chính là các đối thủ cạnh tranh của nhau khi họ cùng có những giao dịch tương
tự với doanh nghiệp thống lĩnh. Do đó, phân biệt đối xử là hành vi mang tính can
thiệp, bóp méo trật tự cạnh tranh giữa các đối thủ (cùng là đối tác của doanh nghiệp
thống lĩnh) trên thị trường. Các khách hàng, nhà cung cấp của doanh nghiệp thống
lĩnh buộc phải chấp nhận các điều khoản mà doanh nghiệp thống lĩnh đặt ra và rơi
và tình trạng bất lợi về cạnh tranh với đối thủ của mình (cũng là khách hàng hay nhà
cung cấp của doanh nghiệp thống lĩnh nhưng được hưởng những điều khoản có lợi
94

hơn). Hành vi phân biệt đối xử do doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện cũng mang lại
kết quả tối đa hóa lợi nhuận cho chính nó, khi các điều kiện thương mại khác nhau
được đặt ra và doanh nghiệp có thể khai thác lợi ích kinh tế nhiều hơn từ các khách
hàng với những khả năng đáp ứng khác nhau. Dạng cụ thể điển hình của hành vi
phân biệt đối xử mà được quy định trong hầu hết Luật Cạnh tranh các nước là hành
vi phân biệt giá (Price Discrimination). Ngoài ra, một số dạng hành vi phân biệt đối
xử khác như phân biệt đối xử về tỷ lệ giảm giá, chiết khấu, phí, dịch vụ sau bán
hàng…cũng được quy định trong luật cạnh tranh một số nước.
Tại Luật cạnh tranh 2018, hành vi phân biệt đối xử được quy định tại Điểm d,
Khoản 1, Điều 27, theo đó, doanh nghiệp lạm dụng VTTLTT bị cấm Áp dụng điều
kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng
dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ
doanh nghiệp khác. Quy định của Luật cạnh tranh 2018 đã hạn chế phạm vi điều
chỉnh đối với các hành vi lạm dụng phân biệt đối xử của doanh nghiệp có VTTLTT.
Theo đó, chỉ những hành vi phân biệt đối xử mang tính loại bỏ mới bị coi là vi
phạm theo Luật Cạnh tranh 2018, còn những hành vi phân biệt đối xử nhưng nhằm
mục đích trục lợi (nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp thống lĩnh thị
trường, khi các điều kiện thương mại khác nhau được đặt ra và doanh nghiệp có thể
khai thác lợi ích kinh tế nhiều hơn từ các khách hàng với những khả năng đáp ứng
khác nhau) hoặc có tác động bóp méo trật tự cạnh tranh nhưng không dẫn đến hoặc
có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường
hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác thì sẽ không bị coi là vi phạm. Chưa kể, với dấu
hiệu hậu quả như vậy, sẽ có những khó khăn nhất định trong việc định dạng giữa
hành vi phân biệt đối xử với hành vi Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị
trường của doanh nghiệp khác được quy định tại Điểm e, Khoản 1 Điều 27 Luật
Cạnh tranh 2018 (sẽ được phân tích ở phần sau).
Trong khi đó, theo Khoản 4, Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004, hành vi phân biệt
đối xử của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường được hiểu là Áp đặt điều kiện thương
mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong
cạnh tranh, với dấu hiệu mục đích (chứ không phải hậu quả) của hành vi là gây ra
sự bất bình đẳng trong cạnh tranh. Như vậy, điểm bất hợp lý của hành vi phân biệt
đối xử theo Luật Cạnh tranh 2004 là ở dấu hiệu mục đích (thuộc mặt chủ quan khó
chứng minh) bằng một điểm bất hợp lý khác là thay bằng dấu hiệu hậu quả nhưng
lại là đặc điểm hạn chế phạm vi chịu sự điều chỉnh của hành vi.
Yếu tố quan trọng trong định dạng hành vi phân biệt đối xử là xác định điều
95

kiện thương mại khác nhau (bị phân biệt đối xử) và giao dịch tương tự nhau. Về vấn
đề này Luật Cạnh 2018 mới chỉ dừng ở mức gọi tên hành vi. Trong khi đó, Luật
cạnh tranh 2004 đã quy định cụ thể về vấn đề này [5, Điều 29]. Về điều kiện thương
mại khác nhau, đó là điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng.
Còn tính chất tương tự của giao dịch có hai tiêu chí là giá trị giao dịch tương tự nhau,
hoặc là tính chất của hàng hóa, dịch vụ tương tự nhau. Hành vi phân biệt đối xử của
doanh nghiệp có VTTLTT theo Luật Cạnh tranh 2004 không bao gồm hành vi áp
đặt các điều kiện thương mại tương đương với các giao dịch không giống nhau mà
không có lý do khách quan như Luật cạnh tranh EU, nhưng tương đồng với cách
tiếp cận của Luật Chống độc quyền Hoa Kỳ về vấn đề này [2]. Quy định của Luật
cạnh tranh 2004 quá chi tiết và bộc lộ những điểm không hợp lý. Bởi lẽ, không đủ để
xác định hai giao dịch là tương tự nếu chỉ căn cứ vào sự tương tự về giá trị giao dịch
hoặc sự tương tự về tính chất của hàng hóa, dịch vụ. Chẳng hạn doanh nghiệp thống
lĩnh có giao dịch bán sản phẩm A cho doanh nghiệp X và có giao dịch bán sản phẩm
B cho doanh nghiệp Y với tổng giá trị của mỗi giao dịch đều bằng 500 triệu đồng thì
không thể nói là giao dịch của doanh nghiệp với X và Y là tương tự nhau (do có giá
trị giao dịch tương tự nhau). Hoặc trường hợp doanh nghiệp thống lĩnh bán sản phẩm
A cho cả X và Y với giá trị giao dịch lần lượt là 500 triệu đồng và 2 tỷ đồng thì chỉ
dựa vào tính chất của sản phẩm tương tự nhau (đều là giao dịch bán sản phẩm A)
cũng không thể nói đây là hai giao dịch tương tự nhau. Kể cả, hai giao dịch là tương
tự nhau về giá trị, về tính chất của hàng hóa, dịch vụ nhưng được thiết lập ở những
thời điểm khác nhau với bối cảnh thị trường khác nhau thì cũng không thể khẳng định
là tương tự nhau để đòi hỏi doanh nghiệp thống lĩnh phải đối xử với khách hàng như
nhau. Về vấn đề này, Luật Cạnh tranh Liên minh Châu Âu (Luật cạnh tranh EU) có
các quy định chặt chẽ hơn, theo đó, việc đánh giá tính tương tự của các giao dịch phải
dựa trên việc xem xét, so sánh nhiều yếu tố mà trước hết là đối tượng (tính chất và giá
trị), về khối lượng, số lượng giao dịch, về tính thường xuyên, về thời gian thiết lập và
thực hiện giao dịch. Ngoài ra, có thể tính đến cả chi phí tiếp thị và vận chuyển, điều
kiện hoa hồng, khuyến mãi, dịch vụ khách hàng và các nghĩa vụ của khách hàng [3].
Chỉ cần có sự khác biệt một cách đáng kể về một trong những yếu tố trên thì việc áp
dụng các điều kiện thương mại khác nhau có thể được chấp nhận, và hành vi của
doanh nghiệp thống lĩnh sẽ không bị coi là lạm dụng.
Về dấu hiệu áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau, pháp luật cạnh tranh
Việt Nam quy định, các điều kiện thương mại bao gồm: điều kiện mua, bán, giá cả,
thời hạn thanh toán, số lượng. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh lại không có quy định cụ
96

thể để xác định biểu hiện phân biệt đối xử đối với từng điều kiện thương mại đó.
Thực tế, không có các giao dịch hoàn toàn giống nhau, và do đó, doanh nghiệp
thống lĩnh không có nghĩa vụ đưa ra các yếu tố về điều kiện mua bán, giá cả, số
lượng, phương thức thanh toán là hoàn toàn như nhau cho các giao dịch. Điều đó có
nghĩa là, với các giao dịch tương tự nhau, việc đưa ra các điều kiện thương mại
tương tự nhau không có nghĩa là hoàn toàn giống nhau mà là khác nhau nhưng
không đáng kể để được gọi là tương tự nhau. Và sự khác nhau thế nào là không
đáng kể, vẫn chấp nhận được và không tạo ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh
giữa các khách hàng của doanh nghiệp thống lĩnh là vấn để quan trọng cần làm rõ.
Quan điểm của Luật cạnh tranh EU thể hiện qua thực tiễn giải quyết các vụ việc về
phân biệt giá của ECJ cho thấy, khi mức giá hay phí khác nhau áp dụng cho các
khách hàng khác nhau không dựa trên sự tùy ý mà dựa trên các tiêu chí khách quan,
kể cả sự tồn tại của các tình huống hoặc hoàn cảnh khách quan khác nhau thì đều
được coi là sự biện minh hợp lý cho sự khác biệt [4].
e) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng
hoá, dịch vụ, hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng
dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ
doanh nghiệp khác
Nhóm hành vi này được quy định tại Điểm đ, Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh
tranh 2018, bao gồm 2 hành vi:
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá,
dịch vụ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia,
mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; và
- Yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến
ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh
nghiệp khác.
Phân tích các quy định của Luật Cạnh tranh 2018 cho thấy nhóm hành vi này
có các đặc điểm chung sau đây:
- Hành vi xảy ra trong giao dịch hợp đồng giữa doanh nghiệp (nhóm doanh
nghiệp) thống lĩnh thị trường với doanh nghiệp khác, khách hàng;
- Dựa trên sự bất bình đẳng về vị thế giữa các bên trong quan hệ hợp đồng,
doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) có VTTLTT là bên có ưu thế hơn thực hiện sự áp
đặt, chi phối quan hệ hợp đồng theo hướng tạo ra rào cản để ngăn cản doanh nghiệp
97

khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác khỏi thị trường.
Trong khi ở hành vi thứ nhất, điều kiện mà doanh nghiệp thống lĩnh áp đặt cho
doanh nghiệp khác là điều kiện được đưa ra ở giai đoạn ký kết, đàm phán hợp đồng
thì ở hành vi thứ hai, những điều kiện mà doanh nghiệp thống lĩnh yêu cầu (áp đặt)
cho doanh nghiệp khác là điều kiện ràng buộc được thể hiện trong chính nội dung
hợp đồng giữa hai bên.
Với dấu hiệu hậu quả, tác động của hành vi là dẫn đến hoặc có khả năng dẫn
đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh
nghiệp khác đã xác định rõ về bản chất nhóm hành vi này theo quy định của Luật
Cạnh tranh 2018 thuộc nhóm hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ. Điều này có thể
sẽ dẫn đến những khó khăn trong định dạng giữa nhóm hành vi này với hành vi
được quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh 2018 Ngăn cản việc
tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác.
Trong khi đó, hành vi Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua
bán hàng hoá, dịch vụ, hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng quy định tại Khoản 5 Điều 13
Luật Cạnh tranh 2004 và được hướng dẫn chi tiết tại Điều 30 Nghị định 116/2005
về mặt câu chữ có vẻ tương tự như hành vi đang được đề cập và phân tích, nhưng
thực chất, hành vi theo quy định của Luật cạnh tranh 2004 không được xác định về
mặt hậu quả, do đó, có thể là hành vi mang tính loại bỏ, có thể là hành vi mang tính
trục lợi tùy từng trường hợp. Theo mô tả tại Khoản 1 Điều 30 Nghị định 116/2005,
Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch
vụ có thể là hành vi tương tự như hành vi giao dịch độc quyền hay hợp đồng điều
kiện được quy định trong pháp luật EU, Hoa Kỳ và nhiều nước khác hoặc hành vi
giới hạn thị trường nhằm HCCT đã được phân tích ở trên. Trong trường hợp là dạng
hành vi giao dịch độc quyền, Hành vi này ngăn cản khách hàng là nhà phân phối
bán các sản phẩm của nhà sản xuất khác hoặc ngăn cản khách hàng là các nhà sản
xuất mua hàng hóa từ một nhà cung cấp khác. Ở đây hàng hóa, dịch vụ không được
nêu rõ là cùng hay không cùng thị trường liên quan với hàng hóa, dịch vụ do doanh
nghiệp thống lĩnh sản xuất, cung ứng. Do đó, nó có thể là hành vi mang tính loại bỏ,
nếu hàng hóa, dịch vụ khác là cùng thị trường liên quan với hàng hóa, dịch vụ do
doanh nghiệp thống lĩnh sản xuất, cung ứng và hành vi này bản chất là hành vi dựng
lên rào cản gia nhập, mở rộng thị trường. Còn khi hàng hóa, dịch vụ khác là không
cùng loại với hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp thống lĩnh sản xuất, cung ứng thì
98

hành vi này nhằm phục vụ cho chiến lược thị trường của doanh nghiệp thống lĩnh
bằng cách hạn chế nguồn cung, cầu hàng hóa, dịch vụ để đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp ở mức độ cao nhất. Bởi vậy, nếu Luật Cạnh tranh 2018 kế thừa cách mô tả
các dấu hiệu nhận dạng hành vi này của Luật cạnh tranh 2004 thì hàng hóa, dịch vụ
khác ở đây phải được hiểu là hàng hóa, dịch vụ cùng thị trường sản phẩm liên quan
với hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp thống lĩnh sản xuất, cung ứng. Trong trường
hợp là dạng hành vi giới hạn thị trường nhằm HCCT thì việc giới hạn thị trường ở
hành vi này là doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện thông qua việc áp đặt hành vi của
khách hàng chứ không phải là hành vi tự giới hạn thị trường của doanh nghiệp
thống lĩnh. Luật cạnh tranh của các nước xếp hai hành vi này vào nhóm hành vi giới
hạn thị trường tác động phân chia thị trường, phân chia nhóm khách hàng mà hành
vi gây ra dẫn đến HCCT. Nhà phân phối sẽ bị hạn chế quyền tự do trong lựa chọn
địa điểm bán hàng và khách hàng mua lại, đồng nghĩa với việc họ bị hạn chế khả
năng cạnh tranh với nhà phân phối khác ở một khu vực khác. Bản chất hành vi này
không mang tính loại bỏ, do đó, không thể có hậu quả dẫn đến hoặc có khả năng
dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ
doanh nghiệp khác. Do đó, hành vi này sẽ không thể nằm trong nhóm các hành vi
Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch
vụ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở
rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác theo Luật Cạnh tranh 2018.
Còn đối với hành vi Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, Khoản 2 Điều 30 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP giải thích “là hành vi gắn việc mua bán hàng hoá, dịch vụ là đối
tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc
người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm
ngoài phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng”. Về bản chất doanh nghiệp thống lĩnh
ràng buộc doanh nghiệp khác phải thực hiện thêm các nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi
cần thiết để thực hiện hợp đồng, trong đó điển hình là nghĩa vụ phải mua hàng hoá,
dịch vụ khác từ chính nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước, thường được
gọi là giao dịch bán kèm. Suy cho cùng, hành vi này cũng cùng bản chất với hành vi
Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch
vụ, các dạng hành vi cụ thể của từng hành vi theo mô tả của Nghị định 116/2005
hoàn toàn có thể phù hợp với việc mô tả định dạng cho hành vi kia, sự khác biệt chỉ
duy nhất nằm ở việc điều kiện áp đặt được đưa ra khi đàm phán, giao kết hay được
99

đưa trực tiếp vào trong hợp đồng. Sự khác biệt đó không nhất thiết phải dẫn đến
việc định danh thành hai hành vi riêng, có thể gây bối rối trong quá trình áp dụng,
thực thi. Kinh nghiệm các nước cũng không tách thành hai hành vi riêng biệt, chẳng
hạn như trong Luật Cạnh tranh EU, ngoài việc liệt kê các hành vi lạm dụng về giá;
hạn chế sản lượng, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ;
hành vi phân biệt đối xử thì loại hành vi lạm dụng cuối cùng được quy định tại Điều
102 (d) TEFU là hành vi buộc bên còn lại trong giao kết hợp đồng chấp nhận các
nghĩa vụ bổ sung, mà xét về bản chất hay tập quán thương mại, không liên quan
đến đối tượng của hợp đồng mà hành vi điển hình cho nhóm hành vi này là hành vi
bán kèm.
Mô tả định dạng của nhóm hành vi này, như phân tích có rất nhiều dạng hành
vi có thể gây bối rối cho quá trình áp dụng vì khả năng nhầm lẫn với nhóm hành vi
Hạn chế sản lượng, giới hạn thị trường đã được phân tích ở trên, kể cả với hành vi
Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác sẽ được
phân tích dưới đây và với cách quy định hiện nay của Luật Cạnh tranh 2018, hạn
chế này vẫn tiếp tục được giữ lại, thậm chí còn rõ ràng hơn với dấu hiệu hậu quả
dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng
thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác.
f) Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác
Hành vi Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp
khác được quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh 2018 là một hành
vi lạm dụng mang tính loại bỏ. Về bản chất, đây là hành vi lạm dụng được thực hiện
bởi chủ thể là doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có VTTLTT, hướng tới đối
tượng là các doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường liên quan (đối thủ
cạnh tranh mới) và cả những doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường (đối thủ hiện
hữu), bằng cách tạo ra những rào cản có tác động ngăn cản, kìm hãm, loại bỏ doanh
nghiệp khác. Với cách quy định của Luật Cạnh tranh 2018 nhấn mạnh vào tác động
của hành vi là ngăn cản việc tham gia thị trường hoặc mở rộng thị trường của doanh
nghiệp khác thì không có sự giới hạn cho các dạng hành vi của doanh nghiệp thống
lĩnh. Tức là, chỉ cần là hành vi có tác động HCCT, ngăn cản việc tham gia thị
trường hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác đều bị coi vi phạm và nằm
trong nhóm hành vi này. Điều này đặt ra vấn đề, hành vi đang phân tích đã bao trùm
hai nhóm hành vi vừa phân tích ở trên là:
- Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn
đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị
100

trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;


- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả
năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại
bỏ doanh nghiệp khác.
Điều này về xét về kỹ thuật lập pháp là không hợp lý. Do đó, chỉ có khả năng
hiểu hành vi Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp
khác theo hướng là các dạng hành vi khác, không rơi vào (loại trừ) trường hợp hai
nhóm hành vi kể trên.
So với hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh
tranh mới được quy định tại Khoản 6, điều 13, Luật Cạnh tranh 2004 có thể thấy,
quy định của Luật cạnh tranh 2018 về hành vi này có những điểm tiến bộ nhất định,
khi mở rộng đối tượng bị tác động bởi hành vi ngăn cản. Nếu như Luật cạnh tranh
2004 chỉ quy định đối tượng của hành vi là đối thủ cạnh tranh mới mà bỏ sót trường
hợp đối tượng bị tác động bởi hành vi này là đối thủ cạnh tranh hiện hữu trên thị
trường thì trong Luật cạnh tranh 2018 đối tượng bị tác động gồm cả doanh nghiệp
tham gia hoặc mở rộng thị trường tức là bao gồm cả đối thủ cạnh tranh mới và đối
thủ cạnh tranh đang hiện hữu trên thị trường liên quan.
Để xác định được liệu doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị
trường có thực hiện hành vi ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của
doanh nghiệp khác hay không, điều quan trọng cần xác định được doanh nghiệp đã
dựng lên những rào cản nào và liệu những rào cản đó có tác động ngăn cản, kìm
hãm, loại bỏ đối thủ hay không? Luật cạnh tranh 2018 không quy định cụ thể về các
rào cản hay hình thức mà doanh nghiệp bị coi là thực hiện để ngăn cản việc tham
gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác. Điều này có thể hiểu là bất kỳ
rào cản hay hình thức nào có tác động ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị
trường của doanh nghiệp khác (loại trừ hai nhóm hành vi thuôc Điểm d và đ, Khoản
1 Điều 27 Luật cạnh tranh 2018). Cách quy định của Luật cạnh tranh 2018 khác với
cách quy định liệt kê các dạng hành vi của Luật cạnh tranh 2004, bao gồm các hành
vi:
- Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới;
- Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp
nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới;
- Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập
101

thị trường nhưng không thuộc trường hợp bán dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh.
Quy định của Luật cạnh tranh 2004 có những hạn chế nhất định, cụ thể:
- Thực chất hành vi yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ
cạnh tranh mới và hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng
bán lẻ không chấp nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới
không có sự khác biệt nằm ở bản chất hành vi mà nằm ở cách thức thực hiện, ở mức
độ của hành vi là yêu cầu hay là đe dọa, cưỡng ép và ở phạm vi đối tượng bị tác
động bởi hành vi là khách hàng (bao gồm cả người bán, người mua trong quan hệ
với doanh nghiệp thống lĩnh) hay các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ (là những
người mua trong quan hệ với doanh nghiệp thống lĩnh). Do đó việc tách thành hai
hành vi riêng biệt như vậy là không cần thiết.
- Việc liệt kê chi tiết các hành vi tạo như quy định tại Nghị định hướng dẫn
Luật cạnh tranh 2004 sẽ dẫn tới bỏ sót hành vi có bản chất ngăn cản, loại bỏ doanh
nghiệp khác nhưng không được mô tả trong quy định. Như đã phân tích ở trên, thực
chất Nghị định hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2004 mới đề cập đến rào cản về giá (bán
hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường)
và rào cản phi giá duy nhất là cản trở đối thủ cạnh tranh tiếp cận hệ thống phân
phối, khách hàng (cưỡng ép khách hàng không giao dịch với đối thủ cạnh tranh
mới). Tuy nhiên, doanh nghiệp thống lĩnh hoàn toàn có thể sử dụng các rào cản
khác thông qua các giao dịch độc quyền, giảm giá vì lòng trung thành, ...
- Mô tả của hành vi mới bám vào biểu hiện bên ngoài mà chưa phản ánh được
đúng bản chất lạm dụng của hành vi có thể dẫn tới quy chụp cho hành vi không có
bản chất lạm dụng là vi phạm. Chẳng hạn đối với hành vi “Bán hàng hóa với mức
giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường nhưng không thuộc
trường hợp bán dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh” thì xét từ
góc độ kinh tế, không mọi trường hợp định giá của doanh nghiệp đều có thể kết
luận là bất hợp pháp. Ở đây, doanh nghiệp có thể bán giá bằng hoặc cao hơn giá
thành toàn bộ, nghĩa là doanh nghiệp vẫn có lãi hoặc hòa vốn, hoặc trong bối cảnh
cần thanh lý hàng tồn, hết mùa vụ, nhằm mục đích khuyến mại, kích cầu... thì
không thể coi là bất hợp pháp, cho dù mức giá doanh nghiệp đưa ra có thể khiến cho
các doanh nghiệp khác không thể gia nhập thị trường.
Trên thực tế, CQCT Việt Nam đã từng điều tra một vụ việc liên quan đến hành
vi ngăn cản việc tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới. Vụ việc liên quan
102

đến khiếu nại của công ty TNHH Thương mại dịch vụ Tân Hiệp Phát (THP) đối với
công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam (VBL) đã thực hiện hành vi Ngăn cản
việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới. THP cáo buộc VBL đã ký kết
các hợp đồng độc quyền với một số điểm bán bia trên toàn quốc với điều khoản yêu
cầu chỉ được bán bia của VBL mà không được bán sản phẩm bia của các đối thủ
cạnh tranh khác khiến cho sản phẩm bia của THP không thể thâm nhập vào thị
trường. Qua điều tra CQCT đã kết luận hành vi nêu trên của VBL chính là “yêu cầu
khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới”, tuy nhiên, do
không đủ chứng cứ chứng minh VTTLTT của VBL nên CQCT đã không kết luận
VBL vi phạm hành vi lạm dụng VTTLTT ngăn cản việc tham gia thị trường của
những đối thủ cạnh tranh mới.
Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về vấn đề này có thể thấy:
(i) các nước thường quan tâm nhận diện hành vi lạm dụng này thông qua các
hiện tượng giao dịch độc quyền, từ chối giao dịch hay giảm giá vì lòng trung thành;
(ii) việc xem xét hành vi phải dựa trên cơ sở nguyên tắc lập luận hợp lý (rule
of reason), nghĩa là trên cơ sở cân bằng lợi ích thúc đẩy cạnh tranh cũng như tác
động phản cạnh tranh của hành vi. Không phải bất kỳ trường hợp nào doanh nghiệp
thống lĩnh thực hiện hành vi giao dịch độc quyền, từ chối giao dịch hay giảm giá vì
lòng trung thành cũng bị cấm và/hoặc bị xử lý vi phạm;
(iii) quy định các nước không đi sâu vào chi tiết đối tượng bị ngăn cản, loại
bỏ, tức là giống như quy định của Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam, đối
tượng bị tác động có thể là đối thủ cạnh tranh mới, nhưng cũng có thể là các đối
thủ đang hiện hữu trên thị trường (chứ không chỉ là đối thủ cạnh tranh mới như
Luật Cạnh tranh 2004);
(iv) Quy định của các nước cũng không đi sâu vào mức độ thực hiện hành vi là
yêu cầu hay đe dọa hay cưỡng ép như Luật Cạnh tranh 2004 mà tập trung vào tác
động của hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường có làm ngăn cản, loại bỏ
đối thủ trên thực tế hay không;
g) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của
luật khác.
Quy định này cho thấy, không chỉ Luật cạnh tranh mới quy định về các hành vi
lạm dụng VTTLTT mà các luật khác cũng có thể quy định về các hành vi lạm dụng
đặc thù trong từng lĩnh vực chuyên ngành khác nhau. Quy định này là phù hợp khi
mà hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng tinh vi, trong bối cảnh các
103

lĩnh vực kinh tế đa dạng, nhiều lĩnh vực mang tính đặc thù, phức tạp cao thì hành vi
lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT trong lĩnh vực đó cũng có những biến dạng
mà có thể Luật cạnh tranh không thể bao quát hết được. Tuy nhiên, do hạn chế về
thời gian, thời lượng nghiên cứu, nên trong phạm vi nghiên cứu của Luận án không
đi sâu phân tích nhóm hành vi lạm dụng này.
Có thể thấy, các hành vi lạm dụng cụ thể được quy định trong Luật cạnh tranh
2018 mới chỉ dừng ở mức gọi tên hành vi, chưa có những mô tả cơ bản, trong khi
Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành không có quy định hướng dẫn gì về các hành
vi lạm dụng, do đó, một mặt gây khó khăn cho việc tiếp cận, nhận thức hành vi từ
các chủ thể kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp để tuân thủ, tránh việc thực hiện
hành vi bị cấm, mặt khác cũng gây ra sự tùy tiện, lúng túng cho cơ quan thực thi
trong việc phát hiện, nhận diện và xử lý các hành vi lạm dụng bị cấm.
2.1.3. Quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường
2.1.3.1. Quy định về thẩm quyền xử lý
Theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 46 Luật Cạnh tranh 2018, cơ quan
cạnh tranh quốc gia của Việt Nam là Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thẩm quyền
tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về cạnh tranh đồng thời thực hiện chức năng tài phán, tiến hành tố tụng cạnh tranh,
xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh, trong đó có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường. Khoản 1 Điều 46 quy định địa vị pháp lý của Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia là cơ quan thuộc Bộ Công Thương. Về thành viên của Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia thì theo điều 48, có số lượng tối đa là 15 người, là công chức của Bộ Công
Thương, các Bộ, ngành có liên quan, các chuyên gia và nhà khoa học. Thành viên
của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm
theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.
Thẩm quyền điều tra các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được
giao cho cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh là cơ quan giúp việc của Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia theo quy định tại Điều 50 Luật cạnh tranh 2018. Cụ thể, Cơ quan
điều tra vụ việc cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thu thập, tiếp nhận thông tin nhằm phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm
pháp luật về cạnh tranh;
- Tổ chức điều tra vụ việc cạnh tranh;
104

- Kiến nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh;
- Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ điều tra trong quá trình điều tra phù hợp
với quy định của pháp luật;
- Nhiệm vụ khác theo phân công của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
Việc xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thuộc thẩm quyền của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Theo điều 60 Luật cạnh tranh 2018, Hội đồng xử
lý vụ việc hạn chế cạnh tranh do Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định
thành lập để xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh cụ thể. Hội đồng chấm dứt hoạt động
và tự giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ. Số lượng thành viên Hội đồng xử lý vụ việc
hạn chế cạnh tranh là 03 hoặc 05 thành viên, do Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia quyết định lựa chọn trong số các thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, trong
đó có 01 thành viên được phân công là Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế
cạnh tranh. Về nguyên tắc hoạt động, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Khi xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh,
Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh hoạt động theo nguyên tắc tập thể, quyết
định theo đa số. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,
Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng được quy định cụ thể tại Điều 61 Luật
cạnh tranh 2018.
Như vậy so với Luật cạnh tranh 2004, mô hình cơ quan cạnh tranh theo Luật
cạnh tranh 2018 đã thay đổi theo hướng sáp nhập hai cơ quan thực thi là Cục quản
lý cạnh tranh có nhiệm vụ điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh có nhiệm vụ xử lý, giải quyết các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Mô hình một cơ
quan cạnh tranh quốc gia duy nhất là Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia theo Luật cạnh
tranh 2018 sẽ khắc phục những nhược điểm của mô hình hai cơ quan theo quy định
của Luật cạnh tranh 2004, theo đó giảm thiểu được thời gian giải quyết vụ việc cạnh
tranh nói chung và vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói riêng. Cơ quan
xử lý, giải quyết vụ việc sẽ có sự tham gia từ giai đoạn bắt đầu tố tụng nên sẽ nắm
bắt, bám sát được vụ việc, quá trình điều tra cũng được giám sát, kiểm soát đảm bảo
đúng tố tụng, tính hiệu quả, hiệu lực trong thực thi chắc chắn sẽ được nâng lên.
Việc thiết kế chỉ một cơ quan cạnh tranh giúp quá trình giải quyết vụ việc cạnh
tranh được thông suốt, liền mạch, tránh kéo dài quá trình tố tụng qua nhiều cấp xử
lý, nhiều cơ quan có thẩm quyền, giúp giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề cạnh tranh
trên thị trường một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn; tránh được sự phân tán
105

nguồn lực khiến cho việc giải quyết vụ việc cạnh tranh chưa được tập trung, kết quả
giải quyết vụ việc luôn đi sau và không đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Việc xây dựng mô hình một cơ quan cạnh tranh cũng phù hợp với thông lệ của
pháp luật cạnh tranh thế giới. Theo thống kê sơ bộ, trong số hơn 100 quốc gia trên
thế giới có cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh, chỉ có tại Việt Nam là tồn tại mô
hình hai cơ quan cạnh tranh trong đó gồm một cơ quan điều tra và một cơ quan xử
lý vi phạm. Mô hình này tương tự mô hình của Pháp trước đây. Tuy nhiên, năm
2009, Pháp đã chuyển đổi mô hình hai cơ quan thành mô hình một cơ quan duy nhất
chịu trách nhiệm điều tra và ra phán quyết về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh. Một số nước có từ hai cơ quan cạnh tranh trở lên như Hoa Kỳ, Canada, Chile,
Trung Quốc, Ấn Độ... nhưng đều không phân biệt trách nhiệm giữa điều tra và xử lý
như Việt Nam, mà phân chia thẩm quyền theo từng nhóm hành vi vi phạm.
2.1.3.2. Quy định về trình tự, thủ tục điều tra và xử lý
Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh (hay tố tụng cạnh
tranh) nói chung và các vụ việc về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được quy
định tại chương 8 Luật cạnh tranh 2018.
Giai đoạn điều tra
Quy trình điều tra, xử lý các vụ việc về lạm dụng VTTLTT bắt đầu khi Ủy ban
cạnh tranh quốc gia nhận được thông tin về hành vi vi phạm từ các nguồn sau đây:
- Do các tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm quy định
của pháp luật cạnh tranh thông báo và cung cấp thông tin, chứng cứ theo quy định
của Điều 75 Luật cạnh tranh 2018;
- Khiếu nại của tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh;
- Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tự phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp
luật về cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 80 Luật cạnh tranh 2004, Thủ trưởng Cơ quan điều tra
vụ việc cạnh tranh ra quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh trong các trường hợp
sau đây:
- Việc khiếu nại vụ việc cạnh tranh đáp ứng yêu cầu về thời hạn khiếu nại là
3 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực
hiện; có hồ sơ khiếu nại hợp lệ và không thuộc trường hợp trả hồ sơ khiếu nại theo
quy định tại Điều 79 của Luật cạnh tranh 2018;
106

- Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp
luật về cạnh tranh trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm
pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.
Thời hạn điều tra vụ việc lạm dụng VTTLTT là 09 tháng kể từ ngày ra quyết
định điều tra; đối với vụ việc phức tạp thì được gia hạn một lần nhưng không quá 03
tháng. Trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điều 82 Luật
cạnh tranh 2018; tiến hành việc lấy lời khai theo quy định của Điều 83 và triệu tập
người làm chứng theo quy định của Điều 84 Luật cạnh tranh 2018.
Theo quy định của Điều 85 Luật cạnh tranh 2018, trong quá trình điều tra, khi
phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, điều tra viên vụ việc cạnh tranh phải báo cáo
Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh xem xét, kiến nghị Chủ tịch Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia chuyển một phần hoặc toàn bộ hồ sơ liên quan đến dấu hiệu
của tội phạm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp
luật; Trường hợp xác định không có căn cứ hoặc không khởi tố vụ án hình sự về tội
vi phạm quy định về cạnh tranh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lại hồ sơ cho
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia để tiếp tục điều tra theo quy định của Luật cạnh tranh.
Thời hạn điều tra được tính từ ngày Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhận lại hồ sơ.
Sau khi kết thúc điều tra, điều tra viên vụ việc cạnh tranh lập báo cáo điều tra
gồm các nội dung theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 Luật cạnh tranh 2018 để trình
Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra kết luận điều tra và chuyển hồ sơ
vụ việc cạnh tranh, báo cáo điều tra và kết luận điều tra đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia để tổ chức xử lý theo quy định.
Giai đoạn xử lý
Theo quy định tại Điều 91 Luật cạnh tranh 2018, trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được hồ sơ vụ việc, báo cáo điều tra và kết luận điều tra, Chủ tịch Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia phải ra quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc để xử
lý vụ việc lạm dụng VTTLTT.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập, Hội đồng xử lý vụ việc hạn
chế cạnh tranh có thể yêu cầu Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh tiến hành điều tra
bổ sung trong trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập chưa đủ để xác định
hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Thời hạn điều tra bổ sung là
60 ngày kể từ ngày yêu cầu.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được thành lập hoặc ngày nhận được báo
cáo điều tra và kết luận điều tra bổ sung, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
107

- Ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc lạm dụng VTTLTT khi bên khiếu
nại rút đơn khiếu nại và bên bị điều tra cam kết chấm dứt hành vi bị điều tra, cam
kết thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả; hoặc
- Mở phiên điều trần công khai và ra quyết định xử lý vụ việc lạm dụng
VTTLTT theo quy định tại Điều 94 của Luật cạnh tranh 2018.
Quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT có hiệu lực pháp luật ngay khi
kết thúc thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử lý vụ việc mà tổ
chức, cá nhân không có khiếu nại.
Giai đoạn khiếu nại
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử lý vụ việc lạm
dụng VTTLTT, tổ chức, cá nhân không nhất trí với một phần hoặc toàn bộ nội dung
quyết định xử lý vụ việc thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh
Quốc gia. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chủ tịch Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia có trách nhiệm thụ lý giải quyết, thông báo bằng văn bản cho
bên khiếu nại và các bên liên quan đến nội dung đơn khiếu nại; trường hợp không
thụ lý giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT bị khiếu nại vẫn tiếp tục được thi
hành, trừ trường hợp Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ra quyết định tạm đình
chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định đó nếu xét thấy việc thi hành
một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó
khắc phục. Quyết định tạm đình chỉ của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia hết
hiệu lực kể từ ngày quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh có hiệu lực pháp luật.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại, Chủ tịch Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định thành lập Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết
định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT bao gồm Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc
gia và tất cả các thành viên khác của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, trừ các thành
viên đã tham gia Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh; Thời hạn giải quyết
khiếu nại là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định thành lập Hội đồng giải quyết khiếu
nại. Đối với vụ việc phức tạp, thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày. Hội đồng giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT phải ra Quyết định giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo một trong các hướng:
- Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT.
- Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT.
108

- Hủy quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT để giải quyết lại
Trường hợp quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT bị hủy, Chủ tịch Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia giao lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh
hoặc thành lập Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật
này.
Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày ký.
Khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, tổ chức, cá
nhân có quyền khởi kiện một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc lạm dụng VTTLTT tại Toà án nhân dân cấp tỉnh
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận
được quyết định giải quyết khiếu nại. Trường hợp Tòa án thụ lý đơn khởi kiện
quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có trách
nhiệm chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh đến Tòa án trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
Về cơ bản có thể thấy các quy định về tố tụng của pháp luật về kiểm soát hành
vi lạm dụng VTTLTT của Việt Nam hiện nay là khá phù hợp, tương đồng với quy
định về tố tụng cạnh tranh của nhiều nước trên Thế Giới.
2.1.4. Hậu quả pháp lý của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Các biện pháp xử lý đối vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh được quy định tại
Điều 110 và Điều 111 Luật Cạnh tranh 2018. Theo đó, doanh nghiệp thực hiện hành
vi lạm dụng VTTLTT nói riêng và hành vi HCCT nói chung thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Về biện pháp xử lý vi phạm hành chính, theo Điều 110 Luật cạnh tranh 2018,
các hình thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm (i) Xử
phạt chính; (ii) Xử phạt bổ sung; và (iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả. Nghị
định 75/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực luật cạnh
tranh quy định chi tiết về các hình thức này.
Hình thức xử phạt chính áp dụng cho các vi phạm pháp luật cạnh tranh gồm có
cảnh cáo và phạt tiền. Theo Khoản 1 Điều 111 Luật Cạnh tranh 2018, mức phạt tiền
tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là
109

10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan
trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn
mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật
Hình sự. Như vậy, căn xứ để xác định mức phạt là tổng doanh thu của doanh nghiệp
có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm
thực hiện hành vi vi phạm và mức phạt tối đa là 10%. Như vậy, quy định về căn cứ
xác định mức phạt và giới hạn mức phạt tối đa của Luật cạnh tranh 2018 vẫn kế
thừa quy định của Luật cạnh tranh 2004. Tuy nhiên, những thiếu sót của Luật cạnh
tranh 2004 về xác định mức phạt trong trường hợp tổng doanh thu của doanh nghiệp
có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm
thực hiện hành vi vi phạm được xác định bằng 0 (không) và thiếu cơ sở thống nhất,
cụ thể để xác định mức phạt cụ thể đối với từng hành vi vi phạm đã được Luật cạnh
tranh 2018 khắc phục:
- Trường hợp tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị
trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm
được xác định bằng 0 (không) thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định
75/2019, áp dụng mức phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
- Mức phạt cụ thể cho từng hành vi lạm dụng VTTLTT theo quy định tại
Khoản 8 Điều 4 Nghị định 75/2019, là mức trung bình của khung tiền phạt được
quy định đối với hành vi đó. Nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm
xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình
tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức
tiền phạt tối đa của khung tiền phạt. Đối với mỗi tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng
nặng, mức tiền phạt xác định theo quy định tại khoản này được điều chỉnh giảm
hoặc tăng tương ứng không quá 15% mức trung bình của khung hình phạt. Tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng đã được hướng dẫn chi tiết tại Điều 5 Nghị định 75/2019.
Các biện pháp xử phạt bổ sung được quy định tại Khoản 3 Điều 110 Luật Cạnh
tranh 2018 và Khoản 2 Điều 3 Nghị định 75/2019 bao gồm:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt
động từ 06 tháng đến 12 tháng;
- Tịch thu tang vật vi phạm, phương tiện được sử dụng để vi phạm;
- Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương
Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm
110

pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục
hậu quả theo quy định tại Khoản 4 Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018 và Khoản 3 Điều
3 Nghị định 75/2019. Cụ thể:
- Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm
dụng vị trí độc quyền;
- Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng, thỏa
thuận hoặc giao dịch kinh doanh;
- Buộc cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu;
- Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh
nghiệp đã cản trở;
- Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng;
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Từ những quy định nêu trên có thể thấy quy định về xử lý hành vi lạm dụng
VTTLTT theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018 có một số điểm tiến bộ và hạn
chế sau đây:
Về những điểm tiến bộ
- Thứ nhất, quy định về áp dụng chế tài hình sự đối với các vi phạm của Luật
cạnh -tranh là một điểm tiến bộ của Luật cạnh tranh 2018 so với Luật cạnh tranh
2004, thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của nhà làm luật về tính chất nghiêm
trọng của hành vi HCCT nói chung và hành vi lạm dụng VTTLTT nói riêng, đưa
Việt Nam theo xu thế chung của nhiều nước trên Thế Giới trong việc coi hình sự
hóa các vi phạm cạnh tranh là cần thiết cho việc đảm bảo chính sách cạnh tranh hiệu
quả. Trong pháp luật cạnh tranh hiện đại, cơ sở để xử lý hình sự các hành vi HCCT
nói chung xuất phát trước tiên từ tính chất nghiêm trọng của các tác hại mà các hành
vi HCCT gây ra đối với người tiêu dùng và nền kinh tế. Theo đó, các hành vi phản
cạnh không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng do giá thành cao, lựa chọn ít mà
nó còn tạo ra lãng phí (deadweight loss), cản trở sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã
hội thông qua việc bỏ chi phí duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả, trì hoãn không
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và loại bỏ động lực nâng cao hiệu quả kinh
doanh [59]. Nhìn nhận từ khía cạnh xã hội, các hành vi như câu kết ấn định giá hay
áp đặt mức giá bất hợp lý, găm hàng tạo khan hiếm thị trường để tăng giá về bản
chất cũng có yếu tố chiếm đoạt như các tội “trộm cắp” hay “lừa đảo”. Quy định của
Luật cạnh tranh 2018 về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh là đảm bảo sự thống nhất với quy định của Bộ luật hình sự 2015
111

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) về Tội vi phạm quy định về cạnh tranh tại Điều 217.
- Thứ hai, quy định về mức phạt tiền tối đa 10% tổng doanh thu của doanh
nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề
trước năm thực hiện hành vi vi phạm là phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong mỗi vụ
việc, mức phạt tiền đối với mỗi hành vi vi phạm sẽ được xác định cụ thể trên tỷ lệ
phần trăm nhất định từ doanh thu trên thị trường liên quan, nhưng không được vượt
quá mức phạt tiền tối đa. Hành vi HCCT nói chung và lạm dụng VTTLTT nói riêng
thường liên quan đến những doanh nghiệp lớn trên thị trường, với tổng doanh thu
mỗi năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng, vì vậy mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của
doanh nghiệp trên thị trường liên quan được cho là mức đủ lớn, đủ tính răn đe
nhưng không dẫn đến hậu quả làm phá sản doanh nghiệp, có thể gây ảnh hưởng tiêu
cực đến thị trường. Đặc biệt, tổng doanh thu là căn cứ để xác định mức tiền phạt tối
đa là tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị trường liên quan, tức là tổng
doanh thu của doanh nghiệp đối với loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan
mà doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm chứ không phải là tổng doanh thu của
cả doanh nghiệp. Quy định này là hợp lý, khắc phục hạn chế của Luật cạnh tranh
2004 khi quy định căn cứ xác định mức phạt tiền là tổng doanh thu của cả doanh
nghiệp trong khi một doanh nghiệp có thể kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ
nhưng doanh nghiệp chỉ có hành vi vi phạm Luật cạnh tranh trong kinh doanh một
loại hàng hóa, dịch vụ nhất định. Thậm chí trong một số vụ việc, doanh thu phát
sinh từ việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan trực tiếp đến hành vi vi
phạm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy,
mức phạt dựa trên căn cứ “tổng doanh thu” của doanh nghiệp như Luật Cạnh tranh
2004 không phản ánh đúng mức độ tác động của hành vi vi phạm và không tương
xứng với thiệt hại trên thị trường do hành vi vi phạm gây ra.
- Thứ ba, việc sử dụng doanh thu của năm tài chính liền kề trước năm thực hiện
hành vi vi phạm chứ không phải là doanh thu của doanh nghiệp tại thời điểm vi phạm
nhằm đảm bảo tính xác định về mặt số liệu, đặc biệt có ý nghĩa đối với các trường hợp
đưa ra quyết định xử lý vào thời điểm chưa kết thúc năm tài chính hoặc chưa có số liệu
về tổng doanh thu trong năm tài chính của năm thực hiện hành vi vi phạm.
Có thể thấy, quy định của Luật cạnh tranh 2018 về căn cứ tính mức xử phạt là
tương đồng Luật Cạnh tranh của nhiều nước trên Thế Giới. Với quan điểm quyết
định xử phạt dựa vào các căn cứ hợp lý để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại, nhiều quốc
gia đã áp dụng nguyên tắc tính mức xử phạt căn cứ theo doanh thu trên thị trường
112

liên quan hoặc thị trường bị ảnh hưởng, đảm bảo tính hợp lý nhưng cũng mang sức
răn đe, cảnh báo của CQCT ở một số quốc gia.
Thứ tư, quy định của Nghị định 75/2019 về xác định mức phạt tiền cụ thể đã
khắc phục được thiếu sót của Nghị định 71/2014 khi đưa ra các căn cứ để xác định
mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm, nhưng không quy định cụ thể việc sử
dụng và đánh giá các căn cứ để xác định tỷ lệ tính mức phạt như thế nào. Điều này
gây khó khăn cho CQCT trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh
nghiệp vi phạm, thậm chí gây tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm hoặc
có thể dẫn đến việc tùy tiện trong quyết định mức phạt.
Thứ năm, đối với quy định về biện pháp xử phát bổ sung, việc tách riêng biện
pháp Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm ra khỏi
biện pháp Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành
vi vi phạm đã được quy định của Luật Cạnh tranh 2004 là hợp lý. Bởi lẽ, về bản
chất, khoản lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm không phải, và không thể là tang
vật hay phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ sáu, về các biện pháp khắc phục hậu quả, Luật cạnh tranh 2018 đã khắc phục
được hạn chế của Luật cạnh tranh 2004 khi quy định liệt kê cứng nhắc, điều chỉnh trực
tiếp theo biểu hiện bên ngoài của hành vi, do đó, một biện pháp có thể phù hợp đối với
một vài vụ việc với một hành vi vi phạm nhất định. Ví dụ: buộc loại bỏ các điều kiện
bất lợi đã áp đặt cho khách hàng chỉ áp dụng đối với các vi phạm liên quan đến hành vi
áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng; biện pháp buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đã mua nhưng không sử dụng chỉ áp
dụng đối với các vi phạm liên quan đến hành vi mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng...
Luật cạnh tranh 2018 đã áp dụng cả các biện pháp khắc phục hậu quả theo cấu
trúc (cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng VTTLTT, lạm dụng vị trí độc quyền) và cả
các biện pháp khắc phục hậu quả theo hành vi (các biện pháp còn lại). Về bản chất
các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định hiện hành đều hướng tới mục tiêu
chính là dừng, chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục, cải thiện tình trạng cạnh tranh
trên thị trường cũng như phòng ngừa những vi phạm có thể xảy ra trong tương lai.
Đặc biệt, các biện pháp theo khắc phục hành vi hiện nay đã quy định theo hướng
chung, điều chỉnh tác động của hành vi như hiện nay là phù hợp với xu thế của Luật
cạnh tranh các nước. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, nhóm biện pháp
113

khắc phục theo hành vi thường được đưa ra dưới dạng buộc một doanh nghiệp phải
thực hiện một số yêu cầu của CQCT hoặc chấm dứt thực hiện các hành vi có tác
động xấu tới môi trường cạnh tranh. Biện pháp khắc phục theo hành vi, vì vậy,
thường rất linh hoạt để phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh thị trường cũng như
đặc thù trong hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Trên thực tiễn, pháp
luật cạnh tranh của nhiều nước không quy định quá chi tiết, cụ thể về các biện pháp
khắc phục hậu quả mà đòi hỏi CQCT phải xem xét, đánh giá và quyết định về biện
pháp khắc phục hậu quả đối với từng vụ việc, từng ngành. Ví dụ: Luật chống độc
quyền Nhật Bản quy định CQCT có quyền yêu cầu doanh nghiệp vi phạm thực hiện
các biện pháp cần thiết để khôi phục cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, các
CQCT quốc tế đều có chung quan điểm cho rằng việc thiết kế được biện pháp khắc
phục hậu quả phù hợp, hiệu quả là một nội dung điều tra không kém phần quan
trọng so với điều tra xác định vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng.
Về những điểm còn hạn chế:
Thứ nhất, quy định về việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại còn chung
chung. Khoản 1 Điều 110 mới là quy định mang tính nguyên tắc về khả năng áp
dụng chế tài dân sự bồi thường thiệt hại cho các vi phạm về cạnh tranh nói chung
mà chưa rõ khả năng áp dụng cho vi phạm về lạm dụng VTTLTT nói riêng, cũng
như chưa có cơ chế cụ thể cho việc thực thi quy định này.
Thứ hai, quy định về mức phạt tiền tính theo tỷ lệ phần trăm dựa trên doanh
thu là hợp lý nhưng chưa đủ vì chưa phản ánh yếu tố thời gian vi phạm của doanh
nghiệp, do đó, có thể chưa đủ sức răn đe cũng như chưa công bằng trong việc áp
dụng với các doanh nghiệp với thời gian vi phạm khác nhau. Chẳng hạn một doanh
nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng trong khoảng thời gian kéo dài thì khoản lợi thu
được từ việc thực hiện hành vi lạm dụng có thể vượt quá 10% doanh thu một năm
từ hoạt động kinh doanh của nó.
Thứ ba, việc coi biện pháp Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện
hành vi vi phạm là một biện pháp xử phạt bổ sung là chưa hợp lý và khiên cưỡng. Bởi
vì việc tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm thực chất
có mục đích là khôi phục về tình trạng ban đầu nếu không có hành vi vi phạm. Khoản
lợi nhuận bị tịch thu do nó không thuộc về doanh nghiệp nếu nó không thực hiện
hành vi vi phạm về lạm dụng. Với mục đích khôi phục tình trạng ban đầu, biện pháp
này nên nằm trong nhóm các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong khi pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính xem xét khoản lợi nhuận bất hợp pháp dưới hình thức biện
pháp khắc phục hậu quả, pháp luật cạnh tranh cũng cần điều chỉnh để đảm bảo tính
114

nhất quán trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
2.2. Thực trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và thực tiễn thi hành
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
2.2.1. Thực trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.2.1.1. Nhận diện cấu trúc thị trường ở Việt Nam
Cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì sự thay đổi của
môi trường kinh doanh, đặc biệt là sự đổi mới và phát triển nhanh chóng của công
nghệ số, chuỗi cung ứng có tính chất toàn cầu... đã tạo ra các áp lực, các yếu tố thúc
đẩy sự thay đổi, hoàn thiện cấu trúc thị trường và thể chế thị trường ở Việt Nam.
Lý thuyết kinh tế đã chỉ ra, có bốn loại cấu trúc thị trường, là cạnh tranh hoàn
hảo, độc quyền thuần túy (độc quyền hoàn toàn), cạnh tranh độc quyền và độc
quyền nhóm. Các thị trường này được xác định bởi các yếu tố: số lượng và quy mô
của các doanh nghiệp; mức độ tập trung ngành; các điều kiện về chi phí và công
nghệ; các điều kiện về cầu; khả năng gia nhập và rút lui khỏi thị trường; mức độ
kiểm soát giá của các doanh nghiệp; Mặt khác, trong cấu trúc thị trường hiện nay thì
thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường độc quyền thuần túy chỉ tồn tại trên lý
thuyết. Hơn nữa, một cấu trúc thị trường để Nhà nước tạo lập môi trường cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh và tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển thì
trong cấu trúc đó không còn độc quyền kinh doanh và các hành vi biểu hiện của
quyền lực thị trường. Ở môi trường cạnh tranh thì không có sự tồn tại của độc
quyền kinh doanh. Một khi áp lực giữa sự thay đổi và cản trở sự thay đổi bị phá vỡ
thì một cấu trúc thị trường mới, hoàn thiện hơn sẽ được hình thành, đó là một xu thế
biện chứng và tất yếu.
Cấu trúc thị trường của Việt Nam đã có sự thay đổi cơ bản với những biểu
hiện sau đây:
- Có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chế cạnh tranh: Sự thay đổi mạnh mẽ về nhận
thức và thể chế cạnh tranh thể hiện rõ nét nhất ở việc Hiến pháp năm 2013 đã hiến
định và khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều được
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Điều 51). Tinh thần cơ bản của
Hiến pháp năm 2013 là không đồng nhất kinh tế nhà nước với doanh nghiệp nhà
115

nước (DNNN). Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chứ không phải DNNN là chủ
đạo. Hiến pháp năm 2013 tôn trọng đa hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư
nhân và quyền thừa kế về thu nhập hợp pháp (Điều 32) và (Điều 62) bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Các chủ thể kinh tế, bao gồm cả DNNN và DN ngoài nhà nước đều
được bình đẳng, cùng hoạt động theo cơ chế vận hành của thị trường trong cùng
một hành lang pháp lý chung. Đó là cơ sở pháp lý cao nhất và là nguyên tắc nền
tảng của bình đẳng, kinh doanh, cạnh tranh và sáng tạo. Luật cạnh tranh 2018 vừa
được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 nhằm khắc phục những hạn
chế của Luật cạnh tranh 2004 đã cho thấy nỗ lực của Nhà nước trong việc hoàn
thiện thể chế cạnh tranh.
- Giảm dần các doanh nghiệp Nhà nước, kéo theo sự giảm dần các doanh
nghiệp nắm giữ quyền lực thị trường và các doanh nghiệp cạnh tranh ngày càng mở
rộng thị phần trong cấu trúc thị trường. Sự đổi mới về thể chế đã dẫn đến kết quả
làm giảm dần tỷ lệ loại hình DN có quyền lực thị trường. Thực tiễn Việt Nam cho
thấy, loại hình Doanh nghiệp có quyền lực thị trường thường gắn liền với doanh
nghiệp độc quyền kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê và Cục Quản lý đăng ký kinh doanh thì loại hình doanh nghiệp này giảm
dần qua các năm (từ 3,83% năm 2005, đến nay giảm dần xuống mức gần 1%) với
nhiều lý do: Cổ phần hóa, thay đổi hình thức sở hữu, sáp nhập, giải thể, phá sản…
Trong khi đó, loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước hầu hết gắn liền với thị trường
cạnh tranh lại chiếm tỷ trọng lớn và tăng dần qua các năm.
Chủ trương tạo lập môi trường cạnh tranh, lành mạnh, công khai, minh bạch,
hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh đã được đề ra ngay từ Đại hội IX của
Đảng và được nhấn mạnh trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Nhiều biện pháp cải cách
đã được thực hiện nhằm tạo lập và phát triển thị trường cạnh tranh ở Việt Nam.
Theo đó, mức độ cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường đã được cải
thiện với số lượng chủ thể gia nhập thị trường tăng nhanh mạnh, đặc biệt trong
những năm gần đây.
Tuy nhiên, bức tranh cạnh tranh còn nhiều vấn đề đặt ra, thể hiện:
Một là, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế thị trường kém cạnh tranh.
Mặc dù thứ hạng của Việt Nam về chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2017 -
2018 đã được cải thiện đáng kể, đứng thứ 55/137 quốc gia, cải thiện khoảng 15 bậc,
từ hạng 70-75 (năm 2007). Tuy nhiên, với thứ hạng này, Việt Nam chỉ đứng trên
Philippines (56), Campuchia (94), Lào (98) trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt,
nếu xét riêng theo từng nhóm yếu tố thành phần cấu thành chỉ số NLCT tổng hợp
116

thì các yếu tố liên quan đến tính cạnh tranh của thị trường là rất thấp, thậm chí tụt
hạng so với năm 2015 - 2016. Cụ thể, mức độ cạnh tranh của thị trường trong nước
(Intensity of local competition) có thứ hạng 108 (tụt bậc so với năm 2016 đứng thứ
80/138); mức độ thống lĩnh thị trường (Extent of market dominance) ở thứ hạng 78,
hiệu quả của chính sách chống độc quyền (Effectiveness of anti-monopoly policy) ở
mức 94 (so với năm 2016 đứng ở thứ hạng 89/138 [22]
Hai là, tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Sự
bất bình đẳng trong cạnh tranh không chỉ giữa DNNN với khối tư nhân mà cạnh
tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với khối tư nhân
trong nước. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng nhiều ưu đãi hơn
từ tiếp cận các nguồn lực đến chính sách, hành vi đối xử của các cơ quan công
quyền, … Hiện tượng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thân hữu với
các doanh nghiệp không có quan hệ thân hữu đã và đang khiến cho nhiều doanh
nghiệp tư nhân không có quan hệ thân hữu (đặc biệt là đông đảo các DNNVV)
không thể tiếp cận nguồn lực để phát triển được.
Ba là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến, đặc biệt trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp, gây thiệt hại cho doanh nghiệp có chủ trương cạnh
tranh lành mạnh, người tiêu dùng và cộng đồng xã hội.
Bốn là, việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội kém hiệu quả chưa theo
tín hiệu thị trường, chưa tuân thủ quy luật cạnh tranh, đặc biệt là phân bổ vốn nhà
nước, đã tác động xấu đến hiệu quả và năng suất của nền kinh tế. Mặc dù có cải
thiện nhưng tốc độ tăng năng suất lao động bình quân khá thấp: 3,5%/năm 2006-
2010, 4,35%/năm 2011-2015 và 5,31% năm 2016. Khoảng cách với các nước
ASEAN-6 còn khá xa (ví dụ: 14,3 lần so với Singapore; 5,7 lần so với Malaysia).
Tăng năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, có thể thấy, mức độ cạnh
tranh thấp, cạnh tranh chưa công bằng, chưa bình đẳng; và do đó, cạnh tranh đúng
bản chất và ý nghĩa của nó chưa trở thành công cụ sàng lọc kẻ thắng, người thua
trên thị trường; chưa là động lực chủ yếu thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới, sáng
tạo, áp dụng khoa học công nghệ… để phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh,
năng suất lao động. Ngược lại, thực trạng cạnh tranh thị trường nói trên tạo ra tín
hiệu thị trường và động lực sai lệch, không khuyến khích đầu tư dài hạn, không
khuyến khích tập trung và tích tụ để phát triển, mà trái lại thúc đẩy ứng xử thiên về
đầu cơ hơn là đầu tư tạo ra lợi nhuận bền vững, tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội.
117

Theo đó, khó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của pháp luật cạnh tranh chính là
phải đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát hiện tượng thống lĩnh, độc quyền
thị trường nhằm duy trì động lực chính đáng cho phát triển, tăng trưởng kinh tế.
2.2.1.2. Tình trạng lạm dụng thế mạnh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn
chế cạnh tranh
Một nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh được thiết lập nhờ phân bổ
nguồn lực một cách hiệu quả trên nền tảng môi trường pháp lý minh bạch và rõ
ràng. Sau 30 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, tăng
trưởng kinh tế hàng năm khá ổn định, trở thành nền kinh tế năng động của khu vực
Đông Nam Á. Tính đến 01/01/2017 cả nước có gần 518 nghìn doanh nghiệp thực tế
đang tồn tại, tăng 176 nghìn doanh nghiệp và gấp 1,51 lần so với năm 2012 trong đó
có 505 nghìn doanh nghiệp thực tế hoạt động [23]. Qua số liệu thống kê cho thấy,
hiện đang có số lượng khổng lồ các thủ thể kinh doanh đang “ganh đua” trên thị
trường và do đó, sự cạnh tranh giữa các đối thủ trên cùng thị trường liên quan cũng
gay go và quyết liệt. Trong bối cảnh đó, nhiều lĩnh vực, do sự hạn chế về số lượng
đối thủ cạnh tranh trên thị trường, do sự khác biệt về năng lực, nguồn vốn và các
yếu tố về thể chế dẫn đến sự xuất hiện của những doanh nghiệp chiếm thị phần lớn
hoặc có khả năng nhanh chóng chiếm thị phần lớn trên thị trường. Các doanh
nghiệp này luôn có xu hướng mở rộng ảnh hưởng, quy mô trên thị trường bằng
những cách thức khác nhau, trong đó không loại trừ việc thực hiện các hành vi lạm
dụng. Các doanh nghiệp có thế mạnh, có vị trí thống lĩnh, dẫn dắt thị trường không
ngại tận dụng thế mạnh, vị trí của mình để chèn ép các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
doanh nghiệp yếu thế. Những doanh nghiệp yếu thế bị mất dần thị phần, thậm chí
phải rút lui khỏi thị trường liên quan, tìm kiếm cơ hội kinh doanh khác.
Trước khi có Luật cạnh tranh 2004, các doanh nghiệp yếu thế, người tiêu dùng
gần như không có chỗ dựa để đối phó với những công ty lợi dụng sức mạnh để
HCCT. Luật cạnh tranh 2004 ra đời đã định hình được khung pháp lý đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hướng đến việc hoàn thiện nền kinh tế có
tính cạnh tranh cao, các nguồn lực được phân bổ hiệu quả, hợp lý, tạo động lực tăng
trưởng kinh tế - xã hội. Với các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp có VTTLTT của Luật cạnh tranh, chắc chắn các doanh nghiệp lớn, có ưu
thế, có sức mạnh thị trường sẽ không thể tiếp tục “hồn nhiên” thực hiện các hành vi
mang tính đặc quyền, lạm dụng ưu thế của mình để chèn ép các đối thủ, bóc lột, gây
118

thiệt hại cho người tiêu dùng như trước đây. Ngược lại, người tiêu dùng, các doanh
nghiệp yếu thế trên thị trường đã có một công cụ pháp lý để nhận diện, phát hiện và
yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý các hành vi HCCT mang tính lạm dụng
VTTLTT. Rõ ràng, dư luận xã hội ngày càng cảnh giác hơn, chủ động phản ứng
trước hành vi của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường.
Các hành vi lạm dụng thế mạnh, VTTLTT để HCCT trên thực tế thường biểu
hiện ở các dạng hành vi lạm dụng liên quan đến giá (bán giá thấp nhằm loại bỏ đối
thủ, áp đặt giá bất hợp lý…) hay các hành vi áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp
khác ký kết hợp đồng…
Ngay trước thời điểm Luật cạnh tranh 2004 có hiệu lực (1/7/2005), vụ việc
Tổng công ty Viễn thông quân đội (Viettel) gửi văn bản cho các cơ quan có thẩm
quyền “kêu cứu” về việc Tổng công ty Bưu chính-Viễn thông Việt Nam (VNPT)
không đáp ứng đầy đủ nhu cầu kết nối của Vietel, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi của khách hàng. Hàng loạt thuê bao di động 098 của Viettel không thực
hiện được các cuộc gọi sang mạng VinaPhone hoặc các thuê bao điện thoại cố định
do VNPT quản lý, dẫn đến tình trạng nhiều khách hàng ngừng sử dụng dịch vụ,
khiến cho tốc độ phát triển thuê bao di động mới của Viettel giảm xuống chỉ còn
50% so với trước đây. Viettel cho rằng VNPT đã dùng sức mạnh của mình để chèn
ép đối thủ cạnh tranh. VNPT luôn tìm cách trì hoãn hoặc chỉ cho Viettel kết nối vào
mạng đường trục của mình với dung lượng hạn chế và điều đó đã ảnh hưởng xấu
đến khả năng phát triển của công ty này. Đây được coi là một vụ việc điển hình
trong rất nhiều các vụ việc doanh nghiệp thống lĩnh với sức mạnh thị trường “ngang
nhiên” chèn ép các đối thủ mới hay trục lợi, bóc lột người tiêu dùng. Khi những
hành vi như vậy chưa được điều chỉnh bởi Luật cạnh tranh thì các vụ việc như vậy
chưa được dư luận chú ý, thậm chí người tiêu dùng và các doanh nghiệp là nạn nhân
của những hành vi này gần như chỉ biết “chịu trận” vì không có công cụ pháp lý đủ
mạnh để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Kể từ thời điểm Luật cạnh
tranh 2004 có hiệu lực, các vụ việc lạm dụng VTTLTT nói riêng và HCCT nói
chung được nhận diện nhiều hơn, thu hút sự chú ý của cộng đồng doanh nghiệp, các
chuyên gia và dư luận nhiều hơn.
Năm 2010 Công ty TNHH Truyền thông Megastar bị sáu doanh nghiệp chiếu
phim kiện vì có hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh thể hiện ở việc áp đặt giá bán
hàng hoá, dịch vụ và áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua
bán hàng hóa dịch vụ. Megastar là một doanh nghiệp liên doanh giữa công ty văn
119

hóa Phương Nam (sở hữu 10% vốn điều lệ) và công ty Envoy Media Limited của
British Virgin Island (BVI) (sở hữu 90% vốn điều lệ) có công nghệ và vốn đầu tư,
rạp lớn, giá vé cao nên đứng ở vị trí thuận lợi khi đàm phán với các hãng phim lớn
trên thế giới. Đã có 4 trong số 5 hãng phim lớn tại Hollywood ký hợp đồng với
Megastar. Sau khi phim được nhập về, Megastar này sẽ phân phối lại cho các rạp
chiếu phim trên phạm vi cả nước. Theo thông lệ quốc tế và Việt Nam, doanh thu
bán vé sẽ được phân chia giữa rạp và công ty nhập phim theo một tỷ lệ được ấn
định từ trước, và phần phải trả cho phía nhập phim được coi là "mức giá thuê
phim". Với ưu thế nắm trong tay số lượng phim nhập áp đảo, Megastar đã nâng giá
thuê phim cho các rạp với lý do doanh thu cao thì chi phí thuê phim cũng phải tăng
lên. Bắt đầu từ tháng 6/2009, Megastar thay đổi cơ chế ăn chia doanh thu bán vé và
thực hiện việc áp đặt chính sách "Giá thuê phim tối thiểu" trên mỗi người xem là 25
nghìn đồng (sau thuế); nghĩa là nếu rạp A bán mỗi vé với giá dưới 50 nghìn đồng
thì phần Megastar hưởng là 25 nghìn đồng/vé. Tuy nhiên, nếu giá vé là trên 50
nghìn đồng, Megastar lại áp dụng tỷ lệ chia 50 - 50 như cũ. Chính sách "Giá thuê
phim tối thiểu" của Megastar đã đẩy các doanh nghiệp chiếu phim vào tình trạng
"dở khóc, dở cười": nếu không chấp nhận chính sách này thì không có phim để
chiếu, nếu muốn giữ nguyên giá bán vé thì bị lỗ nặng, còn nếu tăng giá thì ảnh
hưởng trực tiếp đến túi tiền khán giả (điều này đồng nghĩa với việc doanh thu sẽ bị
giảm sút nghiêm trọng). Theo tính toán, để có lãi, các rạp phải thu được 45% giá vé
tức là với mức giá có tỉ lệ 55% đạt ngưỡng 25.000 đồng và thuế VAT là 5%, giá vé
tối thiểu phải là 47.727 đồng. Vì vậy, các rạp buộc phải đi đến một trong 3 lựa
chọn: Chấp nhận tự do định giá vé xem phim theo khả năng chi trả của khán giả và
chất lượng dịch vụ của rạp. Nếu thấp hơn giá vé 47.727 đồng thì phần thu còn lại
của rạp là thấp, không bù lại chi phí hoạt động. Áp dụng giá vé cao hơn hay bằng
47.727 đồng thì sẽ mất lượng khán giả có mức thu nhập trung bình và thấp. Không
chấp nhận thuê phim của Megastar như thế thì các rạp chỉ có thể chiếu phim cũ và
không thể hoạt động. Theo đơn khiếu nại, vì chính sách này của Megastar, nhiều rạp
chiếu phim và nhiều doanh nghiệp điện ảnh trong nước bị sụt giảm từ 25 - 50%
doanh thu hoạt động cầm chừng. Và quyền lợi của khách hàng - người tiêu dùng bị
ảnh hưởng, không có cơ hội hưởng giá cạnh tranh. Megastar không chỉ ép các rạp
về mức giá thuê phim mà cả về các điều kiện phát hành, đảm bảo cho phim của
Megastar được chiếu ở phòng chiếu lớn nhất, giờ chiếu tốt nhất, tần suất cao nhất có
thể, các phim “bom tấn” phải thuê kèm phim khác… Ví như, để có Transformers,
120

Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân (Galaxy) phải lấy kèm phim hoạt hình Ice Age...
Trước yêu cầu đàm phán từ các doanh nghiệp điện ảnh trong nước, Megastar không
có bất kỳ phản hồi chính thức nào. Thâm chí, Megastar vẫn kiên quyết buộc các
doanh nghiệp điện ảnh khác phải chấp nhận các yêu cầu của mình. Sáu doanh
nghiệp gồm: Công ty cổ phần Sài Gòn Điện ảnh (Cinebox Hòa Bình), Công ty cổ
phần truyền thông Điện ảnh Sài Gòn (cụm rạp Đống Đa, Thăng Long, Toàn Thắng,
Vinh Quang), Công ty cổ phần phim Thiên Ngân (cụm rạp Galaxy), Công ty TNHH
một thành viên điện ảnh Hà Nội (cụm rạp Tháng Tám), Công ty cổ phần Điện ảnh
212 (Cinebox Lý Chính Thắng), Trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng Đồng
Nai (rạp Thanh Bình và Sông Phố) đã đồng loạt khiếu nại. Sau 04 năm, kể từ khi vụ
việc được thụ lý, Cơ quan quản lý cạnh tranh đã có kết luận và xử lý đối với hành vi
của Megastar.
Năm 2012, sau sự “ra đi” của EVN Telecom thì trên thị trường dịch vụ thuê
kênh gần như chỉ thuộc về 02 nhà khai thác có tiềm lực hạ tầng mạnh nhất là VNPT
và Viettel. Ngay sau đó, các DN viễn thông nhỏ không có hạ tầng, hoặc hạ tầng
chưa hoàn thiện đã "tố" VNPT và Viettel tăng giá thuê kênh khiến họ lao đao. Các
doanh nghiệp viễn thông nhỏ như Vietnammobile và Hanoi Telecom đưa ra dẫn
chứng về các hợp đồng thuê kênh với VNPT và Viettel đều cao gấp 2- 3 lần so với
mức giá thuê kênh cũ. Rõ ràng thị trường dịch vụ thuê kênh sau khi EVN Telecom
rút lui là sân chơi của hai ông lớn VNPT và Viettel nên mặc dù cả hai nhà mạng đều
đưa ra những giải thích và cơ quan quản lý nhà nước (Cục Viễn Thông, Bộ Thông
tin & Truyền thông) cũng khẳng định hành vi của VNPT và Viettel chưa đủ dấu
hiệu của hành vi lạm dụng nhưng dư luận vẫn cho rằng hoàn toàn có cơ sở để nghi
ngờ hành vi của hai ông lớn này là hành vi lạm dụng VTTLTT áp đặt giá bất hợp lý
nhằm trục lợi từ người tiêu dùng.
Chưa hết, tháng 10/2013, người dùng mạng cả nước bất ngờ khi 3 nhà mạng
Viettel, MobiFone và Vinaphone đã đồng loạt thông báo sẽ tăng giá cước 3G (truy
cập internet bằng các thiết bị di động). Mức tăng cao nhất hơn 40% so với giá cước
cũ. Trước đó, cả 3 nhà mạng cũng đã nhiều lần tăng giá cước 3G, gần nhất là đợt
tháng 4/2013 và tất cả các lần tăng giá cước, các nhà mạng đều đưa ra giải thích
giống nhau là cước 3G tại VN đang ở mức thấp nhất thế giới và như vậy về lâu dài
các nhà mạng sẽ không có lợi nhuận để tái đầu tư. Việc tăng giá cước của các nhà
mạng đã được Cục Viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông, chấp thuận. Thông
báo về việc tăng giá cước của 3 nhà mạng ngay lập tức đã vấp phải sự phản đối từ
phía người tiêu dùng. Nhiều ý kiến không đồng tình, phẫn nộ, thậm chí dọa tẩy chay
121

khi nhà mạng tăng một lúc gần 20% giá cước trong khi chất lượng dịch vụ 3G
không đảm bảo [24]. Nhưng thực tế là cả 3 nhà mạng chiếm đến hơn 95% thị phần
viễn thông cả nước và việc cùng nhau tăng cước vào một thời gian, mức cước giống
nhau cho thấy người tiêu dùng không còn sự chọn lựa nào khác nếu vẫn muốn sử
dụng 3G. Vụ việc cũng thu hút sự quan tâm của các chuyên gia pháp lý. Từ góc độ
quan hệ giao dịch dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự, việc gói cước 3G sẽ
được các nhà mạng điều chỉnh mà không cần có ý kiến của “thượng đế” được các
chuyên gia cho là vi phạm nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng. Từ góc độ Luật cạnh
tranh, các chuyên gia đều cho rằng có hai dấu hiệu để đặt nghi vấn về hành vi của 3
nhà mạng, đó là cả 3 nhà mạng đang ở VTTLTT và việc tăng giá cùng một thời
điểm. Hành vi của 3 nhà mạng có thể là thỏa thuận HCCT, bắt tay cùng ấn định
mức giá bất hợp lý để trục lợi từ người tiêu dùng hoặc có thể là hành vi lạm dụng
VTTLTT (trong trường hợp giữa các nhà mạng không có thỏa thuận, hay không
chứng minh được giữa họ có thỏa thuận) để tăng giá bất hợp lý nhằm trục lợi từ
người tiêu dùng. Trước phản ứng của dư luận, CQLCT, Bộ Công Thương đã tiến
hành thu thập, đánh giá các thông tin, tài liệu để xác minh sự việc. Trong văn bản
công bố kết quả xác minh vụ việc, CQLCT khẳng định 3 nhà mạng không bắt tay
tăng cước và chưa đủ cơ sở coi đây là hành vi lạm dụng VTTLTT áp đặt giá bán
hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng theo quy định của pháp
luật cạnh tranh. Kết luận của CQLCT chắc chắn chưa làm hài lòng người dùng
mạng ở Việt Nam khi mà thực tiễn người tiêu dùng phải bỏ ra một khoản tiền nhiều
hơn trước để mua một gói dịch vụ không tốt hơn.
Tháng 4/2014, CQLCT nhận được đơn khiếu nại của Công ty TNHH thương
mại-du lịch ABTours về việc công ty TNHH sản xuất - thương mại - dịch vụ - xuất
nhập khẩu Ánh Dương có hành vi "lũng đoạn thị trường", làm bóp méo môi trường
kinh doanh du lịch. Cụ thể, Công ty Ánh Dương đã có hành vi ký kết và thực hiện
hợp đồng với khách hàng trong đó có quy định các khách sạn này chỉ được nhận
khách du lịch từ Nga, Ukraina và các nước khác thuộc khối CIS do Ánh Dương
cung cấp. Nhiều khách sạn đã từ chối khách do Công ty AB Tours và các công ty
Du lịch lữ hành khác đưa đến mặc dù còn trống phòng. Trong hợp đồng ký giữa
Ánh Dương với 43 khách sạn trên địa bàn Khánh Hòa có những nội dung mang tính
chất HCCT như: “Bên A (các khách sạn) chỉ có quyền xác nhận các booking cho du
khách Nga, Ucraine, và các nước trong khối CIS bay bằng chuyên cơ đến Cam
Ranh của bên B (Công ty Ánh Dương) … (ngoại trừ các booking online)”; hoặc
“Khách sạn không được quyền bán, giới thiệu hoặc cho phép bất kỳ cá nhân, công
122

ty du lịch nào bán các tour khác cho khách hàng của Pegas. Hướng dẫn viên của
Pegas chịu trách nhiệm bán các tour này… khách sạn không được phép kí kết hợp
đồng với các công ty đối thủ của Pegas cung cấp dịch vụ bay từ Nga tới cảng Cam
Ranh”. Bên cạnh các hợp đồng công ty Ánh Dương ký với các khách sạn, công ty
Pegas Touristik còn ký hợp đồng trực tiếp với 8 doanh nghiệp khách sạn, trong đó
đều có điều khoản HCCT tương tự. AB Tours cho rằng, với điều kiện áp đặt như
vậy, thì những công ty mới tham gia thị trường du lịch như ABTours không thể tổ
chức tour được vì không có phòng. Như vậy, các công ty như AB Tours bị mất đi
đối tác, buộc phải mua lại phòng từ Ánh Dương. Các đơn vị lữ hành đang tổ chức
đưa khách Nga sang Việt Nam đều cho rằng thị trường du lịch bị chi phối bởi hành
vi lạm dụng VTTLTT từ phía Ánh Dương. Hành vi của Ánh Dương không chỉ vấp
phải sự phản đối của các công ty lữ hành du lịch mới như AB Tours mà còn gây bức
xúc, ấm ức cho chính những khách sạn là đối tác đã ký hợp đồng độc quyền với
Ánh Dương. Theo chủ một cơ sở kinh doanh khách sạn ở Nha Trang cho biết, nếu
không kể mùa cao điểm, khách sạn 30 phòng nghỉ của ông luôn đầy phòng trống.
Tuy nhiên, dù biết là để lãng phí nhưng vẫn không thể cho khách vào nghỉ bởi họ sợ
liên lụy đến các rắc rối pháp lý do đã ký hợp đồng với Công ty Ánh Dương. Với
những điều kiện trói buộc của hợp đồng, có những ngày phòng trống của nhiều
khách sạn lên đến 80% [25].
Có thể thấy hiện nay các thị trường có mức độ tập trung cao, có nghĩa là có
tồn tại doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp có VTTLTT thường là các lĩnh vực dịch
vụ. Năm 2010, CQLCT công bố “Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của
nền kinh tế” [8], trong đó, 05 lĩnh vực sản xuất được lựa chọn là nguyên liệu đầu
vào của các lĩnh vực công nghiệp then chốt và nguyên liệu đầu vào để sản xuất ra
những sản phẩm thiết yếu cho con người, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bao
gồm: sữa, thép, xi măng, thức ăn chăn nuôi và phân bón hóa học; còn 05 lĩnh vực
dịch vụ được lựa chọn đều là những lĩnh vực dịch vụ đã và đang hướng tới thị
trường mở và cạnh tranh: ngân hàng, bảo hiểm, phân phối xăng dầu, viễn thông,
hàng không. Báo cáo đã chỉ ra, môi trường cạnh tranh trong 5 lĩnh vực trên không
có bất kỳ mối quan ngại nào lớn. Về cấu trúc thị trường, không tồn tại các doanh
nghiệp/nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh nên khó tiềm ẩn các hành vi HCCT
do lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh. Trong khi đó, mức độ tập trung là khá cao
trong các lĩnh vực dịch vụ, số lượng doanh nghiệp trên thị trường không nhiều. Mặc
dù trên các thị trường dịch vụ vẫn tồn tại sự cạnh tranh khá quyết liệt nhưng do mức
độ, tập trung của thị trường cao, có tồn tại doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp có vị
123

trí thống lĩnh, tiềm ẩn khả năng xảy ra các hành vi phản cạnh tranh nên đây chính là
lĩnh vực cần có sự giám sát để ngăn chặn những hành vi lạm dụng có thể xảy ra.
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng cơ quan thực thi Luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi pháp luật về
lạm dụng VTTLTT là vai trò của CQCT. CQCT phải có tính độc lập, chuyên
nghiệp, được trao đầy đủ quyền hạn và thực sự minh bạch trong quá trình thực thi
nhiệm vụ thì mới đảm bảo khả năng phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc
lạm dụng VTTLTT. Các nước có kinh nghiệm quản lý cạnh tranh đều đặt ra yêu cầu
trước tiên là CQCT phải độc lập với các doanh nghiệp và với cả những cơ quan có
lợi ích gắn bó mật thiết với doanh nghiệp.
Mô hình CQCT của Việt Nam theo Luật Cạnh tranh 2004 là mô hình 2 cấp
gồm CQLCT (nay là Cục CT và BVNTD) và Hội đồng cạnh tranh. CQCT do Chính
phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy. CQCT là cơ quan cấp Cục,
trực thuộc Bộ Công thương. Đối với các vụ việc lạm dụng VTTLTT, CQLCT chỉ
đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan đến một vụ
việc. Trong khi đó, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập gồm từ
11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Công Thương, có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại
đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi HCCT nói chung và các vụ
việc lạm dụng VTTLTT nói riêng theo quy định của Luật Cạnh tranh. Với mô hình
như vậy đã tạo ra một số bất cập trong quá trình quản lý và thực thi pháp luật cạnh
tranh ở Việt Nam bởi những điểm sau:
- CQCT là cơ quan trực thuộc Bộ Công thương, trong khi Bộ Công thương lại
là cơ quan chủ quản của nhiều tập đoàn, DNNN lớn. Các DNNN đang giữ hầu hết
các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do đó, đối tượng điều tra của CQCT có thể
sẽ là các DN, tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, điều này có thể dẫn đến những
quan ngại về tính khách quan của vụ việc do quan niệm cơ quan nhà nước “vừa đá
bóng vừa thổi còi”.
- CQCT trực thuộc Bộ sẽ không đảm bảo được tính tự chủ về ngân sách hoạt
động, tự chủ về nhân sự cũng như hạn chế về thực quyền khó có thể đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của quản lý cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà
số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tăng lên một cách đáng kể.
- Đối với Hội đồng cạnh tranh, địa vị pháp lý của cơ quan này trong bộ máy
124

nhà nước cũng chưa được làm rõ, Văn phòng Hội đồng cạnh tranh là cơ quan
“thường trực, tham mưu” nhưng lại thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương nên
cũng không đảm bảo được tính độc lập. Các thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại
diện của các Bộ, ngành, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên cũng dẫn đến mâu
thuẫn, xung đột lợi ích, không đảm bảo tính độc lập, khách trong khi ra quyết định
xử lý, đặc biệt trong các vụ việc liên quan đến ngành, lĩnh vực có đại diện của Bộ
chủ quản là thành viên Hội đồng cạnh tranh.
- Mô hình 2 CQCT riêng biệt cũng khiến cho việc điều tra, xử lý thường kéo
dài, do thành viên của Hội đồng cạnh tranh không tham gia điều tra vụ việc ngay từ
thời điểm ban đầu, nên việc ra quyết định xử lý sẽ không được thấu đáo và chặt chẽ,
cộng thêm các thủ tục hành chính giữa hai cơ quan.
Theo Luật Cạnh tranh 2018, mô hình CQCT của Việt Nam đã được sửa đổi,
cụ thể chỉ có một CQCT duy nhất là Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thực hiện cả
nhiệm vụ điều tra và xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh. Sự thay đổi này có các ưu
điểm làm tinh gọn bộ máy, rút ngắn các thủ tục hành chính giữa hai cơ quan, từ đó
có thể rút ngắn quá trình tố tụng, đảm bảo việc giải quyết vụ việc cạnh tranh theo
kịp diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, yêu cầu quan trọng nhất là đảm bảo tính
độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của CQCT hiện vẫn chưa được đáp ứng.
Theo quy định tại Điều 46 Luật Cạnh tranh 2018 thì Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia là
Cơ quan thuộc Bộ công thương, và như vậy, những hạn chế về mô hình tổ chức và
địa vị của CQCT vẫn chưa được khắc phục, chắc chắn sẽ là trở ngại không nhỏ cho
việc thực thi các quy định của Luật cạnh tranh.
Trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ điều tra của cán bộ điều tra các vụ
việc vi phạm Luật Cạnh tranh nói chung, lạm dụng VTTLTT nói riêng còn có nhiều
hạn chế. CQCT có 33 người đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm làm
điều tra viên theo quy định của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, các điều tra viên không
chỉ tập trung làm việc tại các đơn vị phụ trách cạnh tranh mà lại công tác rải rác ở
các đơn vị chuyên môn khác. Việc huy động các điều tra viên ở các đơn vị chuyên
môn khác tham gia, theo đuổi quá trình điều tra một vụ việc HCCT kéo dài từ nửa
năm đến hơn một năm là tương đối khó khăn. Đây cũng là một hạn chế đối với việc
thực thi chính sách cạnh tranh một cách hiệu quả.
2.2.2.2. Kết quả điều tra, xử lý vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường giai
đoạn 2006 – 2017
So với nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Cạnh tranh và Cơ quan quản lý cạnh
tranh Việt Nam còn rất non trẻ. Tổng hợp từ các Báo cáo hoạt động thường niên cho
125

thấy, đến nay, CQLCT đã tổ chức điều tra 8 vụ việc HCCT, trong đó đã chuyển 5
hồ sơ vụ việc sang Hội đồng Cạnh tranh để xử lý theo quy định của pháp luật, tiến
hành thẩm định và cho hưởng miễn trừ đối với 01 vụ việc thỏa thuận HCCT. Trong
số 8 vụ việc HCCT đã điều tra, có 3/8 vụ việc xuất phát từ đơn khiếu nại của doanh
nghiệp và 5/8 vụ việc do Cơ quan QLCT tự khởi xướng điều tra. Với khoảng thời
gian hơn một thập niên, số vụ việc HCCT được điều tra và xử lý theo pháp luật
Cạnh tranh Việt Nam thật sự còn quá khiêm tốn. Mặc dù vậy, số vụ việc về lạm
dụng VTTLTT được điều tra và xử lý còn không chiếm được một nửa của con số
khiêm tốn đó.
Vụ việc lạm dụng VTTLTT đầu tiên được điều tra năm 2007 liên quan đến
khiếu nại của công ty TNHH Thương mại-Dịch vụ Tân Hiệp Phát đối với Công ty
liên doanh nhà máy bia Việt Nam. Đến nay, Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam
đã tổ chức điều tra 03 vụ việc lạm dụng VTTLTT trên tổng số 8 vụ việc HCCT bị
điều tra. Cả 03 vụ việc này đều xuất phát từ đơn khiếu nại của doanh nghiệp và đều
đã được Hội đồng Cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể các vụ việc
được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1: Số vụ việc lạm dụng VTTLTT điều tra, xử lý giai đoạn 2006-2018
Thời gian
STT Vụ việc
Thụ lý điều tra Xử lý

Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-dịch vụ Tân


1 2007 2010
Hiệp Phát và Công ty liên doanh nhà máy bia Việt Nam

Vụ việc giữa 04 doanh nghiệp điện ảnh và Công ty


2 2010 2014
TNHH truyền thông Megastar

Vụ việc giữa Công ty TNHH thương mại-du lịch


3 ABTours và Công ty TNHH sản xuất-thương mại dịch 2014 2016
vụ-XNK Ánh Dương

Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo thường niên Cục Quản lý cạnh tranh
Có thể thấy, từ khi Luật cạnh tranh 2004 có hiệu lực đến nay số vụ việc lạm
dụng VTTLTT bị điều tra, xử lý chỉ là 3 là quá ít. Điều này có thể phần nào được lý
giải bởi sự non trẻ, hạn chế về nguồn lực của Cơ quan Quản lý Cạnh tranh Việt
Nam, sự nhận thức hạn chế của Doanh nghiệp về Luật cạnh tranh, trong khi lạm
dụng VTTLTT là một vấn đề cạnh tranh mang tính phức tạp. Trong bối cảnh đó,
CQLCT đã rất nỗ lực trong việc đẩy mạnh công tác giám sát thị trường, được thể
126

hiện qua việc chủ động tiến hành điều tra tiền tố tụng đối với những thị trường, lĩnh
vực có dấu hiệu các doanh nghiệp thực hiện hành vi HCCT, trong đó có hành vi lạm
dụng VTTLTT vi phạm Luật cạnh tranh. Theo báo cáo Tổng kết 12 năm thi hành
Luật cạnh tranh [4], tính đến năm 2016, đã có tổng số 87 cuộc điều tra tiền tố tụng
được thực hiện.
Bảng 2.2: Số vụ việc HCCT giai đoạn 2006 – 2016
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Điều tra
5 3 7 7 10 10 14 12 10 4 5
TTT
Khởi xướng
0 1 1 1 1 2 1 0 1 0 0
điều tra

Quyết định 0 0 0 1 2 0 0 1 1 0 1

Nguồn: Báo cáo Tổng kết 12 năm thi hành Luật cạnh tranh
Biểu đồ 2.1: Số vụ việc HCCT giai đoạn 2006 - 2016

14
12
10 10 10
Số vụ việc

7 7
5 5
4
3
2 2
1 1 11 1 1 1 11 1
00 0 0 0 0 0 00 0

Điều tra tiền tố tụng Quyết định điều tra Quyết định xử lý

Nguồn: Báo cáo Tổng kết 12 năm thi hành Luật cạnh tranh
Điểm đáng lưu ý là, số vụ việc điều tra tiền tố tụng đi đến điều tra chính thức
lại rất thấp, đặc biệt đối với vụ việc lạm dụng VTTLTT, chưa có vụ việc nào được
điều tra chính thức từ điều tra tiền tố tụng chuyển sang (tất cả các vụ lạm dụng
VTTLTT đều được điều tra trên cơ sở đơn khiếu nại của doanh nghiệp). Trong khi,
phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng cho thấy, số vụ việc điều tra tiền tố tụng liên
quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền nhiều hơn so với các vụ việc
HCCT loại khác.
Biểu đồ 2.2: Phân loại vụ việc điều tra tiền tố tụng giai đoạn 2006 - 2014
127

4%

47% TTKT

49% Lạm dụng vị trí thống


lĩnh/độc quyền
Thỏa thuận HCCT

Nguồn: Báo cáo hoạt động của Cục quản lý Cạnh tranh

Báo cáo thường niên của Cục QLCT cho thấy, các vụ việc lạm dụng VTTLTT
được điều tra, xử lý thời gian qua rơi vào lĩnh vực dịch vụ nhiều hơn (2/3 số vụ là lĩnh
vực dịch vụ). Thời gian từ lúc thụ lý điều tra đến khi ra quyết định xử lý vụ việc đều
trên 2 năm, cho thấy mức độ phức tạp của các vụ việc về lạm dụng VTTLTT.

2.2.2.2. Việc thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường từ phía doanh nghiệp
Thực thi pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có VTTLTT nói riêng từ phía doanh nghiệp trước hết phản
ánh qua nhận thức của doanh nghiệp về luật cạnh tranh để vận dụng các quy định
của luật cạnh tranh vào hoạt động kinh doanh và mức độ hợp tác của doanh nghiệp
với các cơ quan quản lý cạnh tranh để phục vụ điều tra các vụ việc cạnh tranh.
Về việc vận dụng pháp luật cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Theo kết quả khảo sát được tiến hành bởi Cục quản lý canh tranh năm 2016, tỷ
lệ doanh nghiệp chưa bao giờ tham khảo các quy định của pháp luật cạnh tranh khi
xây dựng chính sách kinh doanh hoặc đàm phán với các đối tác chiếm tới tới
37.41%. Có thể thấy vấn đề văn hoá pháp lý và văn hóa cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam là một trong những yếu tố gây khó khăn cho các hoạt động thực
thi. Tư duy kinh doanh và cạnh tranh một cách tự do không theo một luật lệ nào
như ở thời kỳ sơ khai của kinh tế thị trường vẫn còn rất phổ biến, doanh nghiệp
chỉ cần đến cơ quan bảo vệ pháp luật khi vấn đề đã trở lên phức tạp. Các doanh
nghiệp không nhận thức được vai trò của pháp luật cạnh tranh, do đó, thường thiếu
chủ động trong việc tìm hiểu và nghiêm túc tuân thủ pháp luật cạnh tranh. Bên
cạnh đó, chính hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh của cơ quan
128

quản lý cạnh tranh cũng chưa thật sự hiệu quả, hấp dẫn, có thể thu hút sự chú ý và
làm thay đổi quan niệm, nhận định của doanh nghiệp.
Nhìn chung, ý thức tìm hiểu và tuân thủ pháp luật nói chung và Luật Cạnh
tranh nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, của doanh nghiệp nhỏ so với doanh
nghiệp lớn chưa cao. Kết quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp có 100% vốn tư
nhân hoặc có vốn đầu tư nước ngoài thường quan tâm đầu tư nhiều hơn cho công
tác cố vấn pháp lý với tỷ lệ doanh nghiệp đã thành lập bộ phận pháp chế lần lượt
chiếm 53% và 21%. Trong khi đó, các công ty tư nhân mặc dù chiếm tỷ lệ lớn trong
số các doanh nghiệp tham gia khảo sát, nhưng số doanh nghiệp đã thành lập bộ
phận riêng phụ trách việc tuân thủ pháp luật chỉ chiếm 11%.
Mức độ hợp tác cung cấp thông tin phục vụ điều tra của doanh nghiệp
Việc cung cấp thông tin của doanh nghiệp cho các cơ quan chức năng đóng
vai trò hết sức quan trọng cả trước và sau khi phát hiện hành vi có dấu hiệu lạm
dụng VTTLTT, đặc biệt có ý nghĩa ở giai đoạn điều tra, xử lý. Tuy nhiên, qua khảo
sát cho thấy ý thức của các doanh nghiệp trong việc hợp tác với CQCT để cung cấp
thông tin là chưa cao. Kết quả khảo sát cho thấy có 69.41% doanh nghiệp sẵn sàng
cung cấp thông tin theo đúng yêu cầu, có 30.29% doanh nghiệp trả lời tùy từng
trường hợp mới cung cấp và có chiếm 0.30% doanh nghiệp trả lời không cung cấp
thông tin. Điều này cũng phản ánh đúng thực tiễn thực thi trong một số vụ việc điều
tra CQCT đã không nhận được sự hợp tác đúng mực từ phía các doanh nghiệp mặc
dù đã gửi yêu cầu bằng văn bản. Có thể nói, doanh nghiệp chưa thực sự nhận thức cao
về sức ảnh hưởng của các hành vi vi phạm của doanh nghiệp khác, đồng thời cũng thể
hiện được sự chưa tin tưởng, còn e ngại vào CQCT cũng như thủ tục khiếu nại, điều
tra, xử lý của CQCT. Nhiều doanh nghiệp thường không sẵn sàng khiếu nại đối thủ
cạnh tranh do e ngại hoặc chính bản thân doanh nghiệp cũng áp dụng những biện
pháp phản cạnh tranh trong kinh doanh. Mặc dù vậy, nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng này là nhiều quy định của luật vẫn còn hạn chế, bất cập, một số vấn đề quan
trọng không được quy định rõ ràng và cần được giải thích và làm rõ.
2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc thi hành pháp luật về
kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Những hạn chế trong công tác thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có VTTLTT ở Việt Nam thời gian qua xuất phát từ những
nguyên nhân sau đây:
129

Nguyên nhân từ sự bất cập của các quy định cạnh tranh về kiểm soát hành vi
lạm dụng của doanh nghiệp có VTTLTT.
Như đã phân tích ở trên, các quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm
soát hành lạm dụng VTTLTT tồn tại nhiều bất cập, cả từ cách tiếp cận đến quy định
cụ thể. Đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới cùng với tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, các quan hệ cạnh tranh đã có những
thay đổi đáng kể và nhanh chóng. Nhiều chiến lược cạnh tranh mới, trong đó có cả
các hành vi phản cạnh tranh đã du nhập và được các doanh nghiệp vận dụng trong
hoạt động kinh doanh. Các hành vi phản cạnh tranh được thực hiện dưới nhiều hình
thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng cao. Thực tiễn đó đã làm cho
nhiều quy định của hệ thống pháp luật nói chung, Luật Cạnh tranh nói riêng vốn
được bắt đầu xây dựng từ những năm 1999 - 2000 nay đã không còn phù hợp với
thực trạng cạnh tranh, điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại và trong giai đoạn phát triển
tiếp theo của đất nước. Luật cạnh tranh 2018 đã phần nào khắc phục những hạn chế
của Luật Cạnh tranh 2004 song vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện để
đảm bảo khung pháp lý phù hợp cho việc thực thi chính sách cạnh tranh hiệu quả.
Nguyên nhân từ sự thiếu hài hòa, thậm chí mâu thuẫn giữa pháp luật cạnh
tranh và pháp luật chuyên ngành
Do đặc thù, thông lệ kinh doanh riêng của một số ngành, lĩnh vực như tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông… nhiều văn bản luật trong lĩnh vực chuyên
ngành đã quy định nhiều nội dung điều chỉnh mối quan hệ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong ngành nhưng lại không dẫn chiếu đến Luật Cạnh tranh, thậm chí
có nhiều nội dung mâu thuẫn, khác biệt lớn so với Luật Cạnh tranh. Thực trạng mâu
thuẫn, chồng chéo giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành như trên đã
làm giảm hiệu quả thi hành pháp luật cạnh tranh, không đảm bảo được sự hài hòa
giữa mục tiêu phát triển ngành và mục tiêu tạo lập, duy trì và thúc đẩy môi trường
cạnh tranh. Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chưa có “tiền
lệ” trước đó. Do đó, việc xây dựng và thực thi Luật Cạnh tranh với vai trò là Hiến
pháp của nền kinh tế thị trường gặp nhiều vướng mắc, khó khăn cả về lý luận và
thực tiễn.
Nguyên nhân từ sự thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa cơ quan cạnh tranh với
các cơ quan điều tiết ngành cùng thực thi nhiệm vụ bảo vệ môi trường cạnh tranh
Trong thời gian qua, việc triển khai hoạt động hợp tác với các cơ quan điều
130

tiết ngành mới chỉ dừng lại ở việc phát triển theo chiều rộng, chưa phát triển theo
chiều sâu dẫn đến kết quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Ví dụ, xuất phát
từ việc chồng chéo trong các văn bản pháp luật của Việt Nam điều chỉnh hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, có những hành vi có thể được xử lý tại các cơ quan
nhà nước khác nhau hoặc có sự đan xen lẫn nhau giữa các cơ quan này. Điều này
dẫn đến sự cần thiết phải hợp tác giữa các cơ quan để việc thực thi pháp luật mang
lại được hiệu quả cao hơn. Các quy định trong cơ chế hợp tác quản lý cũng cần phải
rõ ràng, minh bạch và đem lại hiệu quả.
Tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động hợp tác giữa cơ quan
quản lý cạnh tranh và cơ quan điều tiết ngành, quá trình hợp tác giữa các cơ quan
quản lý trong thực thi luật và chính sách cạnh tranh cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Trong đó, các cơ quan quản lý ngành phải coi trọng yếu tố cạnh tranh bình đẳng là
cơ sở để phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành. Từ đó nâng cao hợp tác với cơ
quan quản lý cạnh tranh trong quá trình tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh
trong nền kinh tế thị trường, đóng góp xây dựng kinh tế vững mạnh, hội nhập với
kinh tế thế giới.
Nguyên nhân từ sự hạn chế trong năng lực của cơ quan cạnh tranh
Trong công tác thi hành Luật Cạnh tranh, đặc biệt là giải quyết các vụ việc
lạm dụng VTTLTT, đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa đủ về số lượng,
thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, Cục CT và BVNTD hiện nay lại thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nuớc trong 2 lĩnh vực khác nhau gồm cạnh tranh, bảo vệ
quyền lợi nguời tiêu dùng. Do vậy, nguồn nhân lực thường xuyên thực hiện mảng
công việc trong lĩnh vực cạnh tranh là hạn chế, trong đó chủ yếu là các cán bộ trẻ,
thiếu kinh nghiệm thực tế, đặc biệt là kinh nghiệm điều tra, xử lý vụ việc. Số lượng
các Điều tra viên cạnh tranh được bổ nhiệm là 33 người, tuy nhiên do hạn chế về
nguồn nhân lực nên trong giai đoạn hiện tại, họ được bố trí công tác tại nhiều phòng
ban để thực hiện các nhiệm vụ trong các lĩnh vực về phòng vệ thương mại và bảo vệ
người tiêu dùng. Hơn nữa, số lượng các cán bộ có chuyên môn về pháp luật hiện
còn hạn chế nên việc tổ chức thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật cạnh
tranh trong thời gian qua còn gặp không ít các khó khăn, thách thức.Trong khi đó
công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ mặc dù đã được quan
tâm nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới nên còn gặp nhiều khó khăn
trong giải quyết các vụ việc cạnh tranh.
Nguyên nhân từ vai trò của cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan liên quan
còn hạn chế
131

Việc phát huy vai trò của cộng đồng doanh nghiệp, người tiêu dùng trong việc
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh còn nhiều bất cập. Thủ
tục khiếu nại, đòi hỏi về nghĩa vụ chứng minh, yêu cầu nộp tiền tạm ứng chi phí xử
lý vụ việc phức tạp, quá trình điều tra, xử lý vụ việc phải trải qua bốn cấp, nhưng
kết thúc vụ việc cá nhân, tổ chức đã khiếu nại gần như không đạt được lợi ích cụ thể
nào, không có cơ chế khởi kiện đòi bồi thường dân sự cho họ. Trình tự, thủ tục như
trên chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người tiêu dùng, tạo rào cản khiến họ
chưa tích cực trong việc phát hiện, tố cáo, cung cấp thông tin cho cho CQCT về
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhận thức về quy luật cạnh
tranh, yêu cầu đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng của một bộ
phận cơ quan, cán bộ quản lý Nhà nước và của các chủ thể trong quan hệ cạnh tranh
còn chưa đầy đủ. Ở một số lĩnh vực, vẫn còn những rào cản pháp lý hoặc chính sách
cho cạnh tranh.
132

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

1. Chương 2 của luận án đã thực hiện việc đánh giá các vấn đề pháp lý về
kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT theo pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam trên hai
phương diện. Đó là phân tích thực trạng các quy định trong văn bản pháp luật và
việc thực thi các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT trên thực tế.
2. Các quy định về lạm dụng VTTLTT của Việt Nam được xem xét, đánh giá
trên 4 nội dung: Quy định về xác định thị trường liên quan, quy định về xác định
VTTLTT, quy định về xác định hành vi lạm dụng VTTLTT và quy định về chế tài
xử lý. Trong bối cảnh Luật Cạnh tranh 2018 vừa mới có hiệu lực thi hành, việc phân
tích các quy định về lạm dụng VTTLTT được thực hiện chủ yếu đối với các quy
định của Luật cạnh tranh mới nhưng được tham chiếu, đánh giá trong tương quan so
sánh với Luật Cạnh tranh 2004. Kinh nghiệm của các nước về từng nội dung liên
quan cũng được nêu ra để so sánh, bình luận nhằm làm nổi bật những ưu điểm và
hạn chế của Luật Cạnh tranh Việt Nam. Luật Cạnh tranh 2018 đã có những điểm
tiến bộ nhất định, thể hiện cách tiếp cận phù hợp hơn, tuy nhiên vẫn tồn tại một số
hạn chế cần khắc phục và những nội dung cần lưu ý khi xây dựng các văn bản
hướng dẫn thi hành.
3. Thực tiễn thực thi quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường đã được Luận án phân tích dựa trên việc nhận diện tình trạng lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường trong nền kinh tế, thực tiễn công tác thi hành pháp luật của
các CQCT và việc tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp. Từ đó, Luận án đã rút
ra những nguyên nhân của những hạn chế trong việc thi hành pháp luật về kiểm soát
hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
133

CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

3.1. Phương hướng hoàn thiện


3.1.1. Đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế, thích ứng với môi
trường kinh doanh toàn cầu và phù hợp với các cam kết quốc tế
Song song với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thì việc chủ động
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới là yêu cầu đã được Đảng và Nhà nước
đặt ra. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định:
“Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm
trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn
mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các
ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”.
Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mang lại nhiều cơ hội nhưng
cũng đặt ra nhiều thách thức, trong đó, có cả thách thức về việc xây dựng và đảm
bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Các quy định của
pháp luật cạnh tranh và thiết chế thực thi phải có sự tương thích và bắt nhịp xu
thế chung trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh toàn cầu. Sự chuyển biến
nhanh chóng của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế đã tạo điều kiện
cho sự xuất hiện của nhiều phương thức cạnh tranh và kinh doanh mới. Các
phương thức cạnh tranh và kinh doanh mới đó đã và đang làm thay đổi cấu trúc
của nhiều thị trường quan trọng và tác động một cách trực tiếp đến các chủ thể
trên thị trường. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh
phải theo hướng đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo, thích ứng cao với thực tiễn
kinh doanh trong nước và quốc tế. Mặt khác, việc nỗ lực cải thiện môi trường
cạnh tranh, nâng cao sức hấp dẫn của thị trường, thu hút đầu tư cũng có ý nghĩa
đảm bảo cho sự hội nhập là thực chất.
134

Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong một nền kinh tế ngày càng đổi mới
và toàn cầu hóa là rõ ràng. Chính sách, pháp luật cạnh tranh được các quốc gia,
cộng đồng khu vực và quốc tế thừa nhận là công cụ quan trọng thực hiện chức
năng điều tiết nền kinh tế, khắc phục những khiếm khuyết của thị trường và
những tác động từ mặt trái của tự do hóa thương mại. Hầu hết các tổ chức kinh
tế, các diễn đàn thương mại, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới mà Việt Nam tham gia đều đặt ra những yêu cầu cơ bản về mục tiêu xây
dựng thiết chế pháp lý hoàn chỉnh để đảm bảo thị trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng. Các FTA thế hệ mới đều nhấn mạnh các điều khoản về chính sách
cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng và mang lại lợi ích cho tự do thương mại và
đầu tư và chống lại các hành vi phản cạnh tranh xuyên biên giới. Hiệu quả của
FTA chỉ thực sự được hoàn thiện khi các rào cản thương mại được loại bỏ song
song với việc loại bỏ các hành vi HCCT có thể diễn ra và gây hại đến thị trường.
Quy tắc cạnh tranh trong các FTA còn hướng đến tăng cường sự liên kết về kinh
tế và chính trị ở cấp khu vực cũng như để phối hợp xử lý có hiệu quả hơn các
hành vi phản cạnh tranh ở cấp độ xuyên quốc gia. Do đó, việc hoàn thiện và thực
thi pháp luật cạnh tranh cần coi sự phù hợp với các cam kết quốc tế là một yêu
cầu quan trọng.
Đặc biệt, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đưa tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế sang một giai đoạn mới, chuyển từ trọng tâm tự do hóa thương mại sang
giai đoạn hội tụ các nền kinh tế khu vực, tiến tới là nền kinh tế Thế Giới. Việc
hình thành thị trường toàn cầu sẽ đưa đến nhu cầu về chính sách và pháp luật
cạnh tranh chung. Hiện nay, Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD, diễn đàn
tranh luận về chính sách và pháp luật cạnh tranh OECD hay hoạt động của mạng
lưới cạnh tranh quốc tế ICN đều là những minh chứng cho nhu cầu về việc xây
dựng nền tảng pháp luật và chính sách cạnh tranh chung giữa các quốc gia. Mặc
dù không mang tính bắt buộc, song việc hoàn thiện các quy định và quá trình
thực thi pháp luật cạnh tranh nói chung và quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường nói riêng ở Việt Nam cần tham khảo Luật mẫu về cạnh tranh của
UNCTAD, tiếp thu kinh nghiệm, những gợi ý và khuyến nghị từ OECD và ICN
một cách có chọn lọc.
3.1.2. Duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng, hiệu quả nhưng không
cản trở mục tiêu đổi mới và tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp
Cạnh tranh vừa là quy luật vận động vừa là động lực phát triển của nền
135

kinh tế thị trường. Nền kinh tế phải có sự cạnh tranh mới thúc đẩy các doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả, tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao
với giá thành ngày càng giảm. Các doanh nghiệp dưới sức ép của cạnh tranh
cũng không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học, kỹ thuật mới, cải tiến
công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh, kinh doanh hiệu quả. Nhờ có cạnh
tranh, các doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn, tạo ra năng
suất lao động cao hơn, sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý hơn. Từ góc độ
người tiêu dùng, cạnh tranh giúp thỏa mãn được tối đa nhu cầu của người tiêu
dùng. Như vậy, chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường
phát triển, tăng cường phúc lợi xã hội, phúc lợi tiêu dùng. Chính sách cạnh tranh
phải hướng tới việc bảo vệ cạnh tranh, trước hết là bảo vệ môi trường có sự cạnh
tranh lành mạnh và bình đẳng, đồng thời bảo vệ các thành quả của cạnh tranh.
Những lợi ích mà luật cạnh tranh bảo vệ là những lợi ích công, chứ không phải
lợi ích của một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp cụ thể nào trên thị trường.
Tuy nhiên, bảo vệ lợi ích công, không bảo vệ lợi ích riêng của mỗi doanh nghiệp
không đồng nghĩa với việc để bảo vệ lợi ích công mà xâm phạm lợi ích hợp pháp
riêng, cản trở mục tiêu tăng trưởng và đổi mới của mỗi doanh nghiệp. Quy định
về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là lĩnh vực pháp luật mà yêu cầu trên là
rất thách thức. Có thể thấy, một chiến lược kinh doanh có thể đươc coi là hợp
pháp nếu được thực hiện bởi doanh nghiệp không có vị trí thống lĩnh thị trường
nhưng trở thành bất hợp pháp nếu được thực hiện bởi doanh nghiệp thống lĩnh
thị trường. Về mặt hình thức, sau khi nỗ lực đạt được vị trí thống lĩnh thị trường
thì dường như doanh nghiệp lại bị tước quyền thực hiện một số hành vi như các
doanh nghiệp bình thường khác. Do đó, đối với những hành vi mà doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường thực hiện, việc xác định giới hạn, phạm vi của những hành
vi bị coi là lạm dụng là cực kỳ quan trọng. Giới hạn hẹp quá sẽ bỏ sót những
hành vi mang tính chất phản cạnh tranh, dẫn đến bóp méo, cản trở cạnh tranh,
gây tác động xấu cho môi trường kinh doanh và tăng trưởng của nền kinh tế nói
chung. Giới hạn quá rộng hẳn nhiên sẽ hạn chế quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp thống lĩnh, cản trở doanh nghiệp phát triển, tăng trưởng một cách
chính đáng, Khi đó các doanh nghiệp sẽ không còn động lực để phát triển, không
cố gắng để đóng góp cho nền kinh tế. Bản thân một nền kinh tế không có các
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp dẫn dắt trong mỗi lĩnh vực cũng khó thoát khỏi
tình trạng manh mún, quy mô sản xuất nhỏ bé, tăng trưởng hạn chế.
136

3.1.3. Thể hiện rõ hơn yêu cầu về kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy
pháp lý
Cạnh tranh là hiện tượng mang bản chất kinh tế. Luật Cạnh tranh là phương
tiện được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh trên thị
trường. Do đó, trong việc hoàn thiện các quy định của luật cạnh tranh nói chung,
các quy định về lạm dụng VTTLTT nói riêng phải trên cơ sở kết hợp tư duy
pháp lý và tư duy kinh tế, phải tiếp cận từ góc độ kinh tế, tư duy kinh tế để giải
thích nguồn gốc, giải thích các hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh để
có sự can thiệp phù hợp. Thực tiễn hoạt động kinh tế rất đa dạng, các chủ thể
kinh doanh luôn không ngừng làm mới những phương thức kinh doanh để tối đa
hóa lợi nhuận. Các triết lý kinh doanh hiện đại cũng trở lên phức tạp hơn, dẫn tới
những thay đổi không ngừng trong quan điểm kinh doanh, phương thức cạnh
tranh. Do đó, các nhà làm luật nếu không có kiến thức kinh tế hiện đại, nhìn
nhận từ góc độ kinh tế để đánh gía hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh
doanh thì rất dễ dẫn đến việc kiểm soát, can thiệp quá sâu vào quyền tự do kinh
doanh của chủ thể kinh doanh. Việc tiếp cận hành vi chỉ dựa trên những nhận
diện mang tính hình thức sẽ có thể bỏ sót không xử lý những hành vi mang bản
chất lạm dụng nhưng cũng có thể xử lý những hành vi có cấu thành pháp lý được
quy định trong luật nhưng lại không có bản chất lạm dụng.
Các quy định pháp lý về việc đánh giá sức mạnh thị trường, xác định thị
trường liên quan hay xác định hành vi lạm dụng phải được xây dựng trên cơ sở
các phương pháp phân tích, đánh giá về kinh tế. Trong quá trình xử lý các vụ
việc cạnh tranh, bên cạnh những quy phạm pháp luật, CQCT cũng cần phải sử
dụng các phân tích, đánh giá kinh tế phục vụ cho việc đánh giá vụ việc.
Luật cạnh tranh 2004 được cho là dựa trên cách tiếp cận hình thức đã được
sửa đổi bằng Luật cạnh tranh 2018 với những thay đổi quan trọng khi nhấn mạnh
việc kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong đó nhấn mạnh
mục tiêu tăng cường hiệu quả cho công tác thực thi luật. Tuy nhiên, những thay
đổi lớn của Luật cạnh tranh 2018 chủ yếu liên quan đến quy định về thỏa thuận
HCCT và tập trung kinh tế. Các quy định về lạm dụng VTTLTT Luật Cạnh tranh
2018 mới về cơ bản vẫn giữ nguyên các nguyên tắc và cách tiếp cận của Luật
Cạnh tranh năm 2004. Điều quan trọng là giả thiết về VTTLTT của doanh
nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí thị phần và ngưỡng thị phần cố định. và sự
khác biệt giữa sự thống trị của cá nhân, sự thống trị của nhóm và vị thế độc
137

quyền đã được giữ lại. Các hành vi lạm dụng VTTLTT vẫn được quy định theo
cách liệt kê đóng khung. Dẫn đến, không phải tất cả các hành vi được thực hiện
bởi doanh nghiệp có VTTLTT, gây tác động hoặc có khả năng gây tác động
HCCT đều bị cấm, mà chỉ các hành vi lạm dụng được liệt kê cụ thể tại Luật cạnh
tranh và Luật khác mới bị cấm. Như vậy, các quy định của Luật cạnh tranh 2018
về hành vi lạm dụng VTTLTT vẫn giữ nguyên cách tiếp cận hình thức được ghi
nhận trong Luật cạnh tranh 2004. Ở nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, việc
vận dụng tư duy kinh tế, đánh giá, kết luận hành vi lạm dụng dựa trên việc phân
tích tác động của hành vi đối với môi trường cạnh tranh, đối với nền kinh tế là xu
thế chung trong nhiều năm trở lại đây và được coi là cải cách quan trọng của
Luật cạnh tranh các nước, mà đi đầu là luật cạnh tranh EU. Việc tham khảo kinh
nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như có quá trình thực thi
pháp luật cạnh tranh lâu đời trên thế giới là cần thiết.
3.1.4. Xác định rõ mối liên hệ giữa Luật cạnh tranh và các Luật chuyên ngành,
đảm bảo chính sách điều tiết ngành trong những lĩnh vực nhất định.
Tương tự với hoàn cảnh của các quốc gia phát triển trong những năm đầu của
thế kỷ trước, Việt Nam phải tiếp tục duy trì vai trò điều tiết quan trọng của các cơ
quan điều tiết ngành như: ngân hàng, năng lượng, đường sắt… trong khi thị trường
cùng với các thiết chế của nó chưa đủ sức tự vận hành trong một môi trường cạnh
tranh. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là việc thực thi quyền lực của các cơ quan điều
tiết ngành của Việt Nam được thực hiện trong một bối cảnh mới - thời đại hội nhập
sâu rộng, tháo bỏ các rào cản thị trường và cạnh tranh có tính quốc tế. Yêu cầu
mang tính thời đại này đã đòi hỏi các cơ quan điều tiết ngành phải thực thi nhiệm vụ
điều tiết kinh tế của mình phù hợp với một chính sách cạnh tranh theo định hướng
toàn cầu, phù hợp với các cam kết hội nhập của Việt Nam.
Tuy nhiên, điều rất đáng lưu ý là, việc áp dụng máy móc các quy định cùa
pháp luật cạnh tranh có khả năng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam trên các thị trường quốc tế theo định hướng của Chính phủ trong
các giai đoạn phát triển khác nhau. Để phát huy năng lực cạnh tranh quốc gia, trong
một số trường hợp, các mục tiêu của chính sách ngành được ưu tiên trước các mục
tiêu của chính sách cạnh tranh và tất nhiên, để tránh lạm dụng các mục tiêu ưu tiên
của chính sách ngành cần phải được lập, thẩm định, đánh giá và công bố công khai
trong các Chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ, trong các đạo luật và văn
bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.
138

Tuy nhiên, để tránh mục tiêu ưu tiên của chính sách ngành là vật cản đối với
cạnh tranh, các mục tiêu ưu tiên của chính sách ngành cần phải được tiến hành rà
soát định kỳ được ấn định trong các Chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ,
đảm bảo sự minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường của Việt Nam
3.2.1. Hiện đại hóa phương pháp tiếp cận trong việc xây dựng các quy định về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Như trên đã chỉ ra, một trong những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật
về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam trong thời
gian tới là Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý, việc tiếp cận
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường từ góc độ kinh tế, dựa trên cách tiếp
cận dựa trên tác động của hành vi được xem là phương pháp tiếp cận hiện đại.
Có thể thấy cách tiếp cận của Luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay với các
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là cách tiếp cận hình thức (formed
– based approach) và do đó, dẫn đến việc áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc
nhiên (per se rule). Việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường chủ yếu vẫn dựa
trên thị phần và việc xác định các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
vẫn dựa trên việc đáp ứng cấu thành các hành vi được liệt khép kín trong luật.
Theo cách tiếp cận hình thức, hành vi bị xem xét có cấu thành pháp lý phù hợp
với hành vi bị coi là lạm dụng được mô tả trong luật thì hành vi đó mặc nhiên
bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà không cần phải xem xét hành
vi đó có thực sự gây ra những tác động tiêu cực hay không (per se rules).
Việc vận dụng nguyên tắc tiếp cận dựa trên hình thức hành vi và nguyên tắc
vi phạm mặc nhiên trong việc đánh giá các hành vi lạm dụng của doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường về cơ bản sẽ tăng cường sự đảm bảo pháp lý đồng thời
giảm chi phí thực thi. Tuy nhiên, việc vận dụng này chỉ có ý nghĩa khi hành vi
được đề cập chỉ có tác động một chiều, nói một cách khác nó gần như là luôn
luôn hoặc ngược lại, hầu như không bao giờ gây ra các tác động tiêu cực đến kết
quả của cạnh tranh như gây thiệt hại cho người tiêu dùng hay làm giảm phúc lợi
xã hội. Thực tế, hầu hết các loại hành vi được quy định trong luật cạnh tranh về
lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể có cả tác động chống cạnh tranh và thúc đẩy
cạnh tranh và do đó không nên coi là chúng đương nhiên vi phạm. Rõ ràng,
chúng ta nên thận trọng khi can thiệp vào chức năng của thị trường trừ khi có
139

bằng chứng rõ ràng rằng thị trường đã không thực hiện tốt chức năng của nó. Do
đo, không nên cấm tuyệt đối mọi hành vi, trong mọi trường hợp mà nên trao
quyền cho CQCT trong việc đánh giá bản chất và tác động của hành vi để đưa ra
quyết định hợp lý.
Hiện nay, việc sử dụng các phân tích, các công cụ kinh tế trong việc áp
dụng luật cạnh tranh là một khuynh hướng chung và thật khó có thể tưởng tượng
được bất cứ phân tích nào về luật cạnh tranh lại tách rời với thực tiễn của nền
kinh tế. Cách tiếp cận dựa trên hiệu quả kinh tế cho rằng mục tiêu cuối cùng của
luật cạnh tranh là bảo vệ quyền của người tiêu dùng chứ không phải đối thủ cạnh
tranh. Sự cạnh tranh là cần thiết để các doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu và mong
muốn của người tiêu dùng và cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao với mức
giá thấp hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, cạnh tranh là một quá trình tự nhiên,
trong đó các doanh nghiệp hiệu quả hơn sẽ thay thế các doanh nghiệp kém hiệu
quả. Do đó, cách tiếp cận dựa trên tính kinh tế hay tác động của hành vi nhằm
tạo ra một nền kinh tế mang tính cạnh tranh hơn bằng cách nâng cao hiệu quả và
phúc lợi người tiêu dùng. Phân tích dựa trên hiệu quả kinh tế đòi hỏi một cuộc
điều tra sâu về kinh tế trong từng trường hợp để đánh giá tác động của hành vi của
các doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường cụ thể. Bằng việc tập trung vào hiệu
quả của hành vi hơn là hình thức của hành vi, thì các hành vi kinh doanh đa dạng
của các doanh nghiệp thống lĩnh nhằm HCCT sẽ ít có khả năng bị coi là vi phạm
luật cạnh tranh hơn. Cách tiếp cận mới này cũng đảm bảo rằng một số hành vi
mang tính HCCT dựa trên cách tiếp cận hình thức (formed – based approach) sẽ
được đánh giá một cách khách quan. Bởi thực tiễn kinh doanh cho thấy, các hành
vi kinh doanh có thể có những tác động khác nhau trong các hoàn cảnh khác nhau:
chúng có thể thúc đẩy đổi mới, cải tiến sản phẩm trong một số trường hợp trong
khi lại có thể bóp méo cạnh tranh trong các trường hợp khác. Do đó, phương pháp
tiếp cận dựa trên tác động của hành vi có thể phân tích các trường hợp này với
trọng tâm vào tác động thực sự của chúng đối với phúc lợi người tiêu dùng và tăng
hiệu quả kinh tế về tổng thể, do đó có thể cung cấp các phân tích khách quan và
chính xác nhất.
Việc sử dụng phương pháp tiếp cận kinh tế đặt ra yêu cầu sau đây mà việc
hoàn thiện Luật cạnh tranh phải đáp ứng:
- Sửa đổi quy định về xác định vị trí thống lĩnh thị trường theo hướng kết
hợp giữa việc sử dụng tiêu chí thị phần và các tiêu chí khác. Hiện nay, mặc dù đã
140

bổ sung mới quy định về sức mạnh thị trường đáng kể, là một tiêu chí phù hợp,
tuy nhiên, việc sử dụng tiêu chí này vẫn độc lập với tiêu chí thị phần dẫn đến có
những trường hợp việc xác định, nhận diện doanh nghiệp có VTTLTT (thực chất
là xác định doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể) lại chỉ cần dựa trên
duy nhất yếu tố thị phần là đủ, điều này chính là vẫn duy trì cách tiếp cận hình
thức trong đánh giá hành vi. Do đó, cần phối hợp sử dụng cả tiêu chí thị phần
cùng các tiêu chí khác theo quy định của Điều 26 Luật cạnh tranh 2018.
- Các quy định về xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
phải xây dựng theo hướng quy định mở. Cụ thể, có thể học hỏi kinh nghiệm của
EU trong việc xây dựng và liệt kê các dạng hành vi điển hành nhưng không đúng
khung hành vi bị cần ngăn chặn và xử lý trong những hành vi đã liệt kê mà cần
có điều khoản quét, cho phép CQCT xem xét, đánh giá và kết luận về hành vi
trong từng vụ việc cụ thể, bám vào bản chất của hành vi lạm dụng và trên cơ sở
phân tích các hậu quả kinh tế, các tác động tiêu cực của hành vi đối với thị
trường.
- Bãi bỏ các quy định quá chi tiết, cứng nhắc mô tả cấu thành từng hành vi
như trong Nghị định 116/2005 thay bằng các quy định mô tả nhưng mang tính
định hướng và gợi mở, nhấn mạnh trọng tâm vào tác động HCCT của hành vi.
Có ý kiến cho rằng cần bãi bỏ hoàn toàn các quy định mô tả riêng về từng hành
vi và trao quyền chủ động cho CQCT được nhận diện hành vi trong từng vụ việc
cụ thể. Tác giả cho rằng, trong bối cảnh kinh nghiệm thực thi Luật cạnh tranh ở
Việt Nam còn hạn chế, nhận thức của doanh nghiệp về luật cạnh tranh còn chưa
đầy đủ thì quy định như vậy là chưa phù hợp, nhất là các quy định của Luật
Cạnh tranh là ngăn cấm thì cần có cảnh báo đầy đủ và cụ thể cho doanh nghiệp
biết hành vi như thế nào sẽ là vi phạm.
- Có các quy định trao quyền cho CQCT có thể chủ động, linh hoạt trong
việc xác định thị trường liên quan, vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh của doanh nghiệp. Các vấn đề liên quan đến xác định thị trường liên
quan, vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng VTTLTT đều là những vấn đề
phức tạp, đòi hỏi những phân tích kinh tế và pháp lý chuyên sâu của một cơ quan
có chuyên môn. Việc nhận diện các nội dung trên nếu chỉ xác định qua các biểu
hiện bên ngoài của hiện tượng chắc chắn sẽ không phản ánh chính xác. Do đó,
141

ngoài việc xây dựng các quy định có khả năng khoanh vùng hiện tượng, hành vi
cao thì các phân tích cụ thể trong từng trường hợp là không thể thiếu.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về xác định thị trường liên quan
Xác định thị trường liên quan là vấn đề kỹ thuật chuyên sâu, đòi hỏi nhiều
đánh giá chi tiết theo lý thuyết kinh tế do đó, Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh quy
định Chính Phủ quy định chi về vấn thị trường liên quan mới chỉ được quy định
chung, mang tính nguyên tắc tại Khoản 1 Điều 9 là hợp lý. Để đảm bảo quy định
tại văn bản hướng dẫn của Chính phủ là phù hợp và có tính khả thi, cần lưu ý
những vấn đề được chỉ ra dưới đây.
Đối với quy định về thị trường sản phẩm liên quan:
Thứ nhất, kế thừa các quy định về xác định đặc tính của sản phẩm nhưng
cần bổ sung thêm các căn cứ phù hợp để xác định khả năng thay thế cho nhau
đối với dịch vụ.
Như đã phân tích ở trên, các căn cứ dùng để xác định đặc tính của sản phẩm
đang sử dụng là tính chất vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối
với người sử dụng và khả năng hấp thụ là những căn cứ chỉ có thể xác định khả
năng thay thế cho nhau được với hàng hóa. Do đó, không thể áp dụng để xác
định khả năng thay thế cho nhau về đặc tính đối với dịch vụ được. Bởi vậy cần
bổ sung các căn cứ phù hợp để xác định về đặc tính của sản phẩm có thể dùng để
xác định khả năng thay thế cho nhau đối với dịch vụ. Các căn cứ có thể bổ sung
đối với dịch vụ không nên quy định quá chi tiết mà chỉ nên quy định chung là
đặc điểm, thành phần và các đặc tính riêng biệt khác để đảm bảo sự linh hoạt,
phù hợp với thực tiễn vì dịch vụ rất đa dạng và đặc tính của dịch vụ có thể thay
đổi nhanh chóng phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của người cung ứng. Độ phức
tạp của sản phẩm có thể rất khác nhau: từ những thứ đơn giản như nước đóng
chai, đến các dịch vụ phức tạp, chẳng hạn như bán lẻ tạp hóa hoặc dịch vụ tư vấn
tài chính. Trong từng vụ việc, CQCT phải xác định đâu là đặc điểm quan trọng
nhất đối với người tiêu dùng.
Thứ hai, thay đổi các yếu tố của phép thử SNNIP để phù hợp với bản chất
của phép thử là sự tăng giá nhỏ nhưng đáng kể và không phải là tạm thời.
Việc áp dụng phép thử SNNIP của Việt Nam đã được chứng minh là có
những điểm không phù hợp, không phản ánh đúng bản chất. Quy định hiện nay
về mức tăng giá quá 10% chỉ đề cập đến cận dưới mà chưa đề cập đến cận trên,
142

chưa phản ánh đúng bản chất của sự tăng giá nhẹ, nhưng đáng kể. Kinh nghiệm
điều chỉnh của luật cạnh tranh các nước, đặc biệt là Hoa Kỳ và EU vốn được
coi là hai trụ cột của luật cạnh tranh Thế Giới đều quy định mức tăng giá từ 5%
đến 10% là nhẹ nhưng đáng kể. Bên cạnh đó, mức yêu cầu 50% trong tổng số
người được hỏi chuyển sang mua sản phẩm khác mới xác định hai sản phẩm là
thay thế cho nhau về giá là quá cao, không phù hợp với thực tế thị trường.
Ngoài ra, khoảng thời gian 6 tháng cũng chưa được coi là đủ dài. Kinh nghiệm
các nước cho thấy khoảng thời gian tăng giá để kiểm tra phản ứng của người
tiêu dùng trước sự tăng giá của sản phẩm thường từ 1 năm trở lên. Do đó,
không nên quy định quá chi tiết về việc vận dụng phép thử bằng những con số
cứng nhắc mà chỉ nên quy định về việc ghi nhận phương pháp đánh giá khả
năng thay thế về giá của sản phẩm dựa trên đánh giá độ đàn hồi chéo của cầu
và các yếu tố của phép thử nên quy định theo khoảng hoặc trao quyền cho
CQCT việc kết luận dụa trên những phân tích của từng vụ việc cụ thể. Mức
tăng giá được sử dụng để đưa vào phép thử nên nằm trong khoảng 5% - 10% để
phản ánh mức tăng giá nhẹ và đáng kể, khoảng thời gian tăng giá nên từ 1 năm
trở lên, và không nên đưa ra con số cụ thể về yêu cầu về số lượng người tiêu
dùng chuyển sang mua sản phẩm khác.
Thứ ba, quy định theo hướng không bắt buộc phải xác định thị trường sản
phẩm liên quan trên cả ba thuộc tính thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử
dụng và giá cả.
Như trên đã phân tích, việc quy định khả năng thay thế cho nhau của hàng
hóa, dịch vụ phải được xem xét “cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” có
thể dẫn đến kết luận về thị trường sản phẩm liên quan không phản ánh đúng thực
tế cạnh tranh trên thị trường. CQCT trên thế giới cũng sử dụng ba tiêu chí này để
đánh giá khả năng thay thế cho nhau của các hàng hóa, dịch vụ, tuy nhiên, cách
sử dụng linh hoạt, xem xét một cách tổng thể và tùy từng sản phẩm, dịch vụ đặc
thù, các tiêu chí mới được cân nhắc sử dụng nhằm phản ánh đúng nhất thực trạng
thực tế thị trường sản phẩm. Các quốc gia khi đánh giá thị trường sản phẩm liên
quan thường coi trọng hai thuộc tính cuối cùng là thuộc tính thay thế cho nhau
về mục đích sử dụng và giá cả. Còn thuộc tính thay thế về đặc tính thường được
xem xét tùy vào từng vụ việc. Chẳng hạn, trường hợp khi các sản phẩm được
xem xét là sản phẩm trung gian, sản phẩm phụ trợ được các công ty khác mua để
sử dụng trong quy trình sản xuất của họ và do đó phải đáp ứng một số yêu cầu
143

kỹ thuật để đáp ứng mục đích mà nó được mua, khi đó việc xem xét khả năng
thay thế về đặc tính là cần thiết.
Tùy từng trường hợp, CQCT có thể xem xét tổng thể tất cả các thuộc tính
hay một số các thuộc tính của hàng hóa, dịch vụ để kết luận về thị trường sản
phẩm liên quan.
Thứ tư, bỏ quy định ngưỡng cố định về tỷ lệ chi phí vận chuyển trên giá trị
của sản phẩm được suy đoán là người tiêu dùng chấp nhận để làm căn cứ xác
định thị trường liên quan.
Như đã phân tích, việc suy đoán chi phí vận chuyển và thời gian vận
chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa tăng không quá 10% là được người tiêu dùng
chấp nhận là mang tính khiên cưỡng. Việc kiểm định phản ứng của người tiêu
dùng và nhà sản xuất trong việc chuyển mua hoặc cung ứng sản phẩm trong một
khu vực địa lý nhất định sang mua hoặc cung ứng sản phẩm ở khu vực địa lý
khác cũng tương tự như kiểm định thuộc tính thay thế cho nhau về giá của các
hàng hóa, dịch vụ phải được đặt trong trạng thái “động”, CQCT sẽ kết luận về
ranh giới của thị trường địa lý liên quan dựa trên phân tích tính hiệu quả kinh tế
của việc tiêu dùng các sản phẩm ở các khu vực lân cận với khu vực địa lý đang
xem xét cho dù có sự gia tăng về chi phí và thời gian vận chuyển.
Bên cạnh đó, cần bổ sung các yếu tố khác mà CQCT có thể xem xét để kết
luận về ranh giới của thị trường địa lý liên quan là chi phí, thời gian người tiêu
dùng mua hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm khác (người tiêu dùng chủ động di
chuyển đến địa điểm khác chứ không cần đợi người cung ứng mang hàng từ khu
vực khác đến), đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ và khu vực địa lý đang cung ứng
hàng hóa, dịch vụ được xem xét và tập quán tiêu dùng.
3.2.3. Hoàn thiện quy định về xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Thứ nhất, xây dựng định nghĩa vị trí thống lĩnh thị trường.
Như đã phân tích, Luật Cạnh tranh Việt Nam hiện không có định nghĩa về
vị trí thống lĩnh thị trường, do đó, thiếu cơ sở cho việc xây dựng các căn cứ để
xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Về định nghĩa vị trí
thống lĩnh thị trường, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, có thể quy
định như sau:
Thống lĩnh thị trường là vị trí của doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp
nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên
144

thị trường liên quan và hành xử một cách độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách
hàng và người tiêu dùng.
Với định nghĩa này, phải hiểu mọi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường đều phải có sức mạnh thị trường đáng kể chứ không thể hiểu như quy
định của Luật cạnh tranh 2018: khi doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên
thị trường liên quan (nhưng không có sức mạnh thị trường đáng kể) hoặc có sức
mạnh thị trường đáng kể (trong trường hợp có thị phần dưới 30%) thì được coi là
có vị trí thống lĩnh thị trường.
Thứ hai, quy định lại các căn cứ xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Như đã phân tích, việc đưa ra ngưỡng thị phần cố định 30% với ý nghĩa là
giả thiết không thể bác bỏ về vị trí thống lĩnh thị trường là thấp và không linh
hoạt không đủ để khẳng định về vị trí thống lĩnh thị trường nếu không xem xét
thêm các yếu tố khác. Ngược lại, chỉ dựa vào các yếu tố khác để xác định là
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trong trường hợp doanh nghiệp có
thị phần trên thị trường liên quan thấp hơn 30% là khá chủ quan, có thể dẫn tới
những kiểm soát quá sớm đối với doanh nghiệp, cản trở doanh nghiệp nỗ lực
tăng trưởng. Do đó, thị phần được coi là yếu tố nhận diện quan trọng đầu tiên
nhưng cần được kiểm chứng qua việc xem xét các yếu tố khác để kết luận về vị
trí thống lĩnh thị trường. Để đánh giá chính xác hơn về sức mạnh thị trường của
doanh nghiệp, có thể học hỏi kinh nghiệm của các hệ thống pháp luật như EU
hay Hoa Kỳ trong việc sử dụng kết hợp cả yếu tố thị phần và các yếu tố khác.
Việc đưa ra các mức thị phần nhất định là cần thiết để xây dựng các giả định về
vị trí thống lĩnh thị trường nhưng không phải là mức thị phần cố định để khẳng
định về vị trí thống lĩnh thị trường. Ngưỡng thị phần 30% theo quy định của
Luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay nên được sử dụng kết hợp với các yếu tố
khác đủ để kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh thị trường. Các yếu tố cần xem
xét có thể bao gồm cấu trúc và các rào cản gia nhập thị trường; năng lực vượt
trội của doanh nghiệp; biến động thị phần trong một khoảng thời gian nhất định;
các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ, điều kiện tương quan thị
trường… Việc kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp mà không tính đến các yếu tố khác ngoài thị phần chỉ có thể khi doanh
nghiệp nắm giữ mức thị phần rất lớn mà theo kinh nghiệm các nước là không
dưới 70%. Mức thị phần rất lớn này có thể điều chỉnh giảm xuống cho phù hợp
với bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay khi mà quy mô của các ngành kinh
145

tế còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh đều là doanh nghiệp có
quy mô nhỏ và vừa.
Một điều quan trong là việc đánh giá sức mạnh thị trường để kết luận về vị
trí thống lĩnh thị trường phải luôn được đặt trong trạng thái động, do đó, việc quy
định các tiêu chí đánh giá vị trí của doanh nghiệp trên thị trường chỉ nên dưới
dạng nguyên tắc chung.
Tác giả đề xuất Điều 24 Luật Cạnh tranh 2018 được quy định lại như sau:
Doanh nghiệp (nhóm doanh nghiệp) được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể và được xác định căn cứ vào thị
phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan và hoặc các căn cứ khác được
quy định tại Điều 26 của Luật này.
Về ngưỡng thị phần giả định về vị trí thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp hay nhóm doanh nghiệp cùng với việc xem xét các căn cứ khác nên được
chuyển từ quy định của văn bản Luật xuống văn bản hướng dẫn để đảm bảo giá
trị lâu dài của Luật và đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn trong hiện tại và tương
lại gần của Nghị định.
Tác giả đề xuất Nghị định quy định về ngưỡng thị phần giả định về vị trí
thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp cùng với việc xem xét các căn cứ khác cụ
thể như sau:
- Doanh nghiệp có thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan thì được
xác định là có vị trí thống lĩnh thị trường;
- Doanh nghiệp có thị phần từ 30% đến dưới 50% trên thị trường liên quan
thì được xác định là có vị trí thống lĩnh thị trường, trừ khi có bằng chứng bác bỏ
khả năng có sức mạnh thị trường của doanh nghiệp;
- Doanh nghiệp có thị phần dưới 30% trên thị trường liên quan được xác
định là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có căn cứ xác định doanh nghiệp có
sức mạnh thị trường đáng kể.
- Doanh nghiệp có thị phần dưới 10% trên thị trường liên quan thì không có
vị trí thống lĩnh thị trường.
Đối với nhóm doanh nghiệp, tác giả đề xuất giữ nguyên các mức thị phần
giả định như hiện nay song giả thiết về nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường được thiết lập bởi các ngưỡng thị phần đó có thể bị bác bỏ nếu có
146

bằng chứng chứng minh về sự không tồn tại sức mạnh thị trường đáng kể của
nhóm doanh nghiệp.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về thị phần và các căn cứ khác để xác định sức
mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp
Thị phần theo quy định của Luật Cạnh tranh 2018 có thể được xác định
theo một trong bốn phương pháp được quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh
tranh, song như đã nêu, quy định của Luật Cạnh tranh 2018 mới chỉ là quy định
chung chung, các vấn đề chi tiết liên quan đến việc xác định thị phần được giao
cho Chính phủ chịu trách nhiệm quy định chi tiết trong thời gian sắp tới. Về nội
dung này, theo tác giả, Nghị định hướng dẫn thi hành cần làm rõ việc xác định
thị phần theo bốn phương pháp được nêu trong Luật Cạnh tranh 2018 cần ưu tiên
áp dụng phương pháp nào. Bởi thực tiễn có thể dẫn đến trường hợp kết quả thị
phần của doanh nghiệp là khác nhau khi áp dụng các cách khác nhau. Theo đề
xuất của tác giả, thông tin về doanh thu, doanh số hay số đơn vị hàng hóa bán ra,
mua vào của doanh nghiệp đều có ý nghĩa và giá trị để xác định thị phần của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, dữ liệu về doanh số hay doanh thu cần được ưu tiên
hơn, nhất là trong các vụ việc liên quan đến các loại hàng hóa trên cùng thị
trường liên quan nhưng có sự khác biệt tương đối. Trong trường các dữ liệu đầu
vào và đầu ra cho ra kết quả khác nhau về mức thị phần của doanh nghiệp thì ưu
tiên sử dụng kết quả dựa trên dữ liệu đầu ra. Bởi dữ liệu đầu ra phản ánh chính
xác hơn hiệu quả kinh doanh và quy mô của doanh nghiệp, cũng tức là phản ánh
chính xác hơn tương quan vị trí của nó trên thị trường liên quan.
Về các căn cứ để xác định sức mạnh thị trường đáng kể được liệt kê theo
quy định tại Điều 26 Luật Cạnh tranh 2018, Chính phủ có trách nhiệm quy định
chi tiết trong Nghị định hướng dẫn thi hành. Về nội dung này, tác giả có một số
đề xuất như sau:
- Quy định trao quyền cho CQCT, trong từng vụ việc cụ thể, được xác định
sức mạnh thị trường đáng kể dựa trên việc đánh giá các yếu tố được liệt kê tại
điều 26 Luật cạnh tranh 2018. Mỗi yếu tố được liệt kê tại Điều 26 đều có ý nghĩa
trogn việc đánh giá vị trí của doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Tuy nhiên,
tùy vào từng vụ việc cụ thể, đặc điểm của loại hàng hóa, dịch vụ, đặc điểm của
thị trường mà mỗi yếu tố có thể có tầm quan trọng khác nhau. Chẳng hạn như
đối với lĩnh vực hàng tiêu dùng thì khả năng nắm giữ, tiếp cận, kiểm soát thị
147

trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn cung hàng hóa, dịch vụ
là lợi thế quan trọng còn đối với các lĩnh vực như điện, viễn thông thì lợi thế về
công nghệ, hạ tầng kỹ thuật lại có ý nghĩa hơn...Do đó, không thể có công thức
chung trong việc đánh giá các yếu tố khác nhau để xác định sức mạnh thị trường
đáng kể của doanh nghiệp trong những vụ việc khác nhau.
- Đối với từng căn cứ, cần có giải thích cụ thể, bám sát việc trả lời các
câu hỏi:
+ Dựa vào đâu để đánh giá từng căn cứ. Chẳng hạn sức mạnh tài chính, quy
mô của doanh nghiệp được đánh giá dựa vào những yếu tố nào?
+ Từng yếu tố có vai trò đến đâu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp. Điều này giúp CQCT có thể giới hạn các yếu tố cần xem xét.
Chẳng hạn đối với yếu tố “Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng” thì có
phải doanh nghiệp cứ có quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng khác
nhau đều được coi là có lợi thế hay chỉ đối với một số cơ sở hạ tầng nhất định
mới được coi là có lợi thế?
- Riêng đối với rào cản gia nhập thị trường, cần nhấn mạnh vai trò và sự
cần thiết phải đánh giá yếu tố này trong tất cả các vụ việc. Không thể phủ nhận
là, một doanh nghiệp dù có thị phần lớn trong một thị trường liên quan có rào
cản gia nhập rất thấp sẽ khó có sức mạnh thị trường. Tuy nhiên, một doanh
nghiệp với thị phần lớn trong một thị trường có các rào cản gia nhập cao thì
khả năng có sức mạnh thị trường đáng kể của nó dễ dàng được xác lập và bảo
vệ. Do đó, cần có các quy định riêng, chi tiết về rào cản gia nhập thị trường vì
nó vừa có ý nghĩa trong việc xác định thị trường địa lý liên quan và xác định
sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp. Các rào cản gia nhập, mở rộng
thị trường là rất đa dạng, cần quy định việc xem xét kết luận về sự tồn tại cuẩ
rào cản gia nhập hay mở rộng thị trường là dựa trên tác động mà nó gây ra cho
thị trường chứ không phải là dựa trên các quy định mô tả mang tính hình thức.
Do đó, trên cơ sở khắc phục những hạn chế của Luật cạnh tranh 2004 và kinh
nghiệm của các nước, quy định cụ thể về rào cản gia nhập, mở rộng thị trường
có thể theo hướng:
+ Liệt kê các rào cản gia nhập, mở rộng theo từng nhóm, dựa trên sự phân
loại về các loại rào cản khác nhau, có khả năng minh họa ở mức độ cao nhất các
rào cản đang tồn tại trên thực tế hiện nay: rào cản pháp lý, rào cản quy mô, rào
148

cản kỹ thuật, rào cản tài chính, rào cản chiến lược từ các doanh nghiệp dẫn dắt
thị trường, ...
+ Với các nhóm rào cản khác nhau cần có sự giải thích để doanh nghiệp và
cơ quan thực thi có thể nhận diện được chính xác.
+ Có điều khoản quét để đảm bảo không bỏ sót các rào cản tồn tại trong
thực tế mà không được liệt kê trong luật.
Thứ tư, cần quy định việc xác định thị phần của doanh nghiệp là chỉ dấu
cho việc xác lập vị trí thống lĩnh thị trường phải trong một khoảng thời gian liên
tục nhất định tính đến thời điểm doanh nghiệp thực hiện hành vi.
Rõ ràng, thị phần của doanh nghiệp luôn biến động theo thời gian, nếu chỉ
xem xét ở trạng thái tĩnh như hiện nay cũng không phản ánh chính xác về sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp. Việc xem xét thị phần trên thị trường liên
quan trong quá khứ sẽ mang lại những thông tin đầy đủ hơn là chỉ căn cứ vào thị
phần được xem xét tại một thời điểm bởi nó không thể bộc lộ được hết bản chất
năng động của thị trường. Khi doanh nghiệp chiếm thị phần cao nhưng không ổn
định có thể là dấu hiệu cho thấy thị trường đang có sự cạnh tranh hiệu quả khi
mà các doanh nghiệp không ngừng đổi mới, vượt lên lẫn nhau. Còn khi một
doanh nghiệp có thị phần cao liên tục đó chính là chỉ dấu quan trọng cho việc
xác lập sức mạnh thị trường đáng kể.
Về khoảng thời gian liên tục cần thiết để xác định thị phần của doanh
nghiệp, không nên quy định cứng mà để CQCT chủ động vận dụng linh hoạt
trong từng vụ việc, phù hợp với đặc điểm của từng loại hàng hóa, dịch vụ, cũng
như đặc điểm của thị trường. Quan điểm này cũng được ghi nhận trong thực tiễn
giải quyết của các CQCT của một số nước như EU, Anh.
Trong vụ việc AKZO Chemie BV liên quan đến hành vi lạm dụng trên thị
trường cung ứng peroxit hữu cơ, căn cứ (grounds ) để Tòa án xác định vị trí
thống lĩnh của doanh nghiệp là:
...Thị phần của AKZO vẫn ổn định trong suốt thời gian xem xét và AKZO
luôn đẩy lùi thành công bất kỳ cuộc tấn công nào vào vị trí của mình bởi các nhà
sản xuất nhỏ hơn [48, đoạn 56]
và thị phần của AKZO được xem xét, xác định trong khoảng thời gian liên
tục nhiều năm:
149

...theo các tài liệu nội bộ của chính mình, AKZO đã có thị phần ổn định
khoảng 50% từ năm 1979 đến năm 1982 (Phụ lục 2 và 4 về tuyên bố phản đối và
Bảng A phụ lục cho tuyên bố đó). Hơn nữa, AKZO đã không đưa ra bất kỳ bằng
chứng nào cho thấy rằng thị phần của nó đã giảm trong những năm tiếp theo [48,
đoạn 59].
Trong khi đó, trong vụ Aberdeen Journals Limited, liên quan đến hành vi
lạm dụng trên thị trường cung cấp dịch vụ quảng cáo trên báo các báo địa
phương, thị phần của doanh nghiệp lại chỉ được xác định trong khoảng thời gian
vài tháng:
... đã hình thành thị trường sản phẩm liên quan là không gian quảng cáo
trên các báo địa phương ở Aberdeen - Tạp chí Aberdeen có thị phần là 78 % theo
doanh số (67 % theo sản lượng) trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3
năm 2000 [79, đoạn 309, 310]
3.2.4. Hoàn thiện quy định về xác định hành vi lạm dụng
3.2.4.1. Xây dựng hệ thống quy định đầy đủ cho việc đánh giá hành vi lạm dụng
Như đã chỉ ra tại mục 2.1.3.1, các quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường của Luật cạnh tranh 2018 vẫn mang tính đóng khung như Luật
cạnh tranh 2004. Khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh 2018 liệt kê các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm bao gồm 6 nhóm hành vi cụ thể (quy
định từ điểm a đến điểm e) và nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
bị cấm theo quy định của luật khác. Như vậy, không phải tất cả các hành vi được
thực hiện bởi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, gây tác động hoặc có
khả năng gây tác động HCCT đều bị cấm, mà chỉ các hành vi lạm dụng được liệt
kê cụ thể tại Luật cạnh tranh và Luật khác mới bị cấm.
Kinh nghiệm cho thấy cách quy định mang tính liệt kê khép kín, kết hợp với
mô tả chi tiết hình thức biểu hiện bên ngoài có thể dẫn đến bỏ sót các hành vi có
tác động HCCT trên thực tế nhưng chưa được liệt kê trong Luật, tạo kẽ hở pháp lý
để doanh nghiệp lách luật. Trong khi đó, trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay,
nhiều chiến lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi phản cạnh tranh đã du
nhập và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh doanh.
Luật Cạnh tranh 2018 đã có định nghĩa về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường nhưng còn chung chung chưa chỉ ra được các tiêu chí mang tính
150

bản chất để xác định như thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Thiếu sót
này khiến doanh nghiệp không hiểu được bản chất của hành vi để tránh; đồng
thời có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong nội bộ các CQCT, từ đó dẫn
tới thiếu định hướng, thậm chí nhầm lẫn trong quá trình thực thi. Việc thiếu một
định nghĩa chung hoặc các tiêu chí đó đồng thời dẫn tới việc phân nhóm, liệt kê
các hành vi chưa rõ ràng và chưa hợp lý.
Ngoài ra, các quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh chưa bao quát
được toàn điện các hành vi lạm dụng gây tác động HCCT. Thực tiễn kinh
nghiệm 13 năm thực thi Luật cạnh tranh 2004 cũng cho thấy, CQCT đã phải đối
mặt với nhiều vụ việc mà hành vi bị điều tra cũng có tác động HCCT giống với
những hành vi được Luật liệt kê. Tuy nhiên, do các hành vi đó không được liệt
kê và giải thích trong Luật hiện hành, nên CQCT không thể sử dụng Luật Cạnh
tranh để xử lý các hành vi đó.
Do vậy, cần thiết phải xây dựng hệ thống các quy định đầy đủ về đánh giá
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Cụ thể:
- Xây dựng định nghĩa về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường phản
ánh bản chất của hành vi;
- Liệt kê một số dạng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh cơ bản để minh họa
cho định nghĩa đã được nêu ra;
- Đưa ra một điều khoản quét (basket clause) để bao quát các hành vi thỏa
mãn bản chất đã được nêu ra ở định nghĩa nhưng không được liệt kê để tránh bỏ
sót các hành vi đa dạng trên thực tế.
Về định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, trên cơ sở phân
tích bản chất hành vi, nghiên cứu kinh nghiệm các nước, tác giả đề xuất quy định
như sau: Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi của doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường, khai thác quyền lực thị trường mà nó có để duy trì, tăng
cường vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, gây cản trở cạnh tranh, tổn hại
cho các đối thủ và khách hàng của doanh nghiệp.
3.2.4.2. Giải pháp hoàn thiện đối với quy định về từng hành vi lạm dụng cụ thể
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh
Cần thay đổi từ cách tiếp cận dựa trên hình thức của hành vi sang cách tiếp
cận dựa trên việc chứng minh, đánh giá tác động, hậu quả thực tế của hành vi.
151

Cần quy định việc kết luận về hành vi bán dưới giá thành nhằm loại bỏ đối thủ
ngoài việc thực hiện so sánh giá – chi phí thì cần xem xét các yếu tố khác như
khả năng bù lỗ của doanh nghiệp thống lĩnh, tác động của hành vi… Đặc biệt,
cần xem xét cấu trúc thị trường có tồn tại doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
thống lĩnh với mức thị phần cao và có sự hiện diện của rào cản gia nhập và rào
cản tái gia nhập thị trường hay không.
Về căn cứ giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ, cần nêu rõ giá bán hàng
hóa, giá cung ứng dịch vụ là mức giá nào, giá bán lẻ hay giá bán buôn hay trong
trường hợp nào thì là giá bán lẻ, trường hợp nào thì là giá bán buôn và trong
trường hợp doanh nghiệp bán với mức giá khác nhau giữa các khu vực trong
cùng một thị trường địa lý hoặc có sự chênh lệnh về mức giá bán ở những thời
điểm khác nhau thuộc thời kỳ điều tra thì xác định mức giá như thế nào để làm
căn cứ so sánh với chi phí.
Về căn cứ giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ, thay vì sử dụng giá
thành toàn bộ (cũng là chi phí toàn bộ bình quân, Avarage Total Cost – ATC) là
mức chuẩn để xác định hành vi định giá hủy diệt, nên sử dụng chi phí biến đổi
bình quân (Average Variable Cost - AVC) làm ngưỡng để thực hiện kiểm chứng
giá – chi phí trong việc đánh giá hành vi định giá hủy diệt. Cần có những đánh
giá sâu hơn để xác định khả năng sử dụng chi phí tránh được bình quân (Avarage
Avoidable Cost – AAC) như xu hướng hiện nay của Luật cạnh tranh nhiều nước.
Điểm a, Khoản 1, Điều 27 Luật cạnh tranh 2018 quy định hành vi Bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn
đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị
cấm. Như vậy, Luật cạnh tranh 2018 đã khắc phục được hạn chế của Luật cạnh
tranh 2004 bằng việc thay dấu hiệu mục đích của hành vi là “nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh”, vốn là dấu hiệu chủ quan, rất khó chứng minh bằng dấu hiệu
hậu quả của hành vi là “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh
tranh” là dấu hiệu khách quan, dễ dàng chứng minh hơn. Tuy nhiên, hạn chế về
việc sử dụng giá thành toàn bộ là mức chuẩn để so sánh với giá bán vẫn chưa
được khắc phục.
- Hành vi Áp đặt giá mua, giá bán hàng hoá dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
Qua phân những phân tích ở trên có thể thấy các tiêu chí đang được sử
dụng để xác định doanh nghiệp “áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý” như quy
152

định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116/2005 là quá cụ thể và
không khả thi, không thể chứng minh các tiêu chí đó trên thực tế. Đây là một rào
cản rất lớn dẫn đến tình trạng trên thực tế có hành vi vi phạm xảy ra nhưng do
quy định của luật quá cụ thể và không phù hợp dẫn đến việc không thể xử lý
hành vi vi phạm. Đặc biệt, việc quy định cấu thành quá phức tạp, không bám
được bản chất hành vi còn kéo theo việc tạo ra lỗ hổng pháp lý để các doanh
nghiệp dễ dàng vượt qua như đã phân tích trong chương 2. Theo kinh nghiệm xử
lý vụ việc của các quốc gia, trong vụ việc áp đặt giá mua, giá bán bất hợp lý, tính
“bất hợp lý” trong mỗi vụ việc được chứng minh theo các tiêu chí khác nhau,
phù hợp với đặc điểm, đặc tính của sản phẩm, dịch vụ cũng như cấu trúc thị
trường trong từng vụ việc khác nhau. Kinh nghiệm của EU, Hoa Kỳ thì tính bất
hợp lý (giá bán quá cao hay giá mua quá thấp) được xác định khi nó không có
liên quan hợp lý đến giá trị kinh tế của sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp
(căn cứ vào giá thành sản xuất), hoặc quá mức so với giá trị kinh tế trung bình
của hàng hóa, dịch vụ (căn cứ vào giá thị trường của hàng hóa dịch vụ).
Đối với hành vi ấn định giá bán lại, hiện nay luật cạnh tranh mới chỉ cấm
các doanh nghiệp thống lĩnh thực hiện hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu. Quy
định này là chưa đầy đủ. Trên thực tế, các doanh nghiệp thống lĩnh có thể lạm
dụng vị trí của mình để ấn định giá bán lại cố định hay ấn định giá bán lại tối đa
mà không có căn cứ xử lý. Những hành vi này đều mang bản chất HCCT, vi
phạm quyền tự do kinh doanh, quyền tự định đoạt về giá của doanh nghiệp
ngành dưới. Do đó, các quy định của pháp luật nên được mở rộng theo hướng
điều chỉnh không chỉ hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu mà cả hành vi ấn định
giá bán cố định và ấn định giá bán lại tối đa. Trong một số vụ việc nhất định,
các hành vi ấn định giá bán lại đều gây tổn hại tới môi trường cạnh tranh và
quyền lợi của người tiêu dùng, do đó, cần có sự can thiệp kịp thời của CQCT.
- Hành vi Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị
trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng.
Các phân tích ở chương 2 cho thấy, trong số các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh, độc quyền bị cấm theo Luật Cạnh tranh Việt Nam, nhóm hành vi này tương
đối khác biệt với hệ thống luật cạnh tranh của nhiều quốc gia. Hành vi này được
quy định ở mức đơn giản, sơ khai, nên chưa bao quát được các dạng hành vi
mới, đang xuất hiện ngày càng nhiều do sự biến đổi không ngừng của nền kinh
153

tế. Chính vì vậy, nếu theo quy định hiện hành, CQCT sẽ khó xử lý hành vi này
trong thực tiễn. Do đó, cần thay đổi cách tiếp cận nhóm hành vi này, một mặt liệt
kê, cập nhật, bổ sung thêm các dạng hành vi mới, trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm
của các nước. Mặt khác, quy định một điều khoản mang tính bao quát, bám vào
bản chất gây HCCT của hành vi để tạo cơ sở cho CQCT được xem xét các hành
vi một cách linh hoạt.
Việc bổ sung các dạng hành vi còn thiếu, cập nhật các dạng hành vi mới có
thể tham khảo từ kinh nghiệm của các quốc gia khác. Chẳng hạn, từ kinh nghiệm
xử lý của EU, Hoa Kỳ đối với nhóm hành vi này, các hành vi bổ sung, cập nhật
mới có thể bao gồm:
- Về hành vi Hạn chế sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ cần bổ sung
dạng hành vi: hạn chế sản xuất, cung ứng sản phẩm với chủng loại khác nhau;
hành vi đầu cơ, tích trữ hàng hóa; hành vi cố tình kéo dài thời gian cung ứng
hàng hóa, dịch vụ...
- Về hành vi Giới hạn thị trường, có thể bổ sung các dạng hành vi: cung
ứng hàng hóa cho các nhà phân phối/đại lý hay đối tác dựa trên sự phân bổ theo
mức định lượng nhất định; cắt giảm nguồn cung cấp cho các nhà phân phối nếu
họ không đồng ý tuân thủ chính sách bán hàng theo khu vực, theo nhóm khách
hàng của công ty thống lĩnh...
- Về hành vi Cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ, các dạng hành vi có
thể bổ sung bao gồm: Từ chối cung cấp thông tin kỹ thuật, công nghệ cần thiết là
nền tảng công nghệ cho đối tác để phát triển sản phẩm công nghệ mới trên thị
trường thứ cấp...
Cần lưu ý rằng các hành vi được liệt kê chỉ là những dạng phổ biến, chứ
không phải là sự liệt kê đầy đủ. Do đó, cũng cần thay đổi cách tiếp cận đối với
nhóm hành vi này, thay vì sử dụng nguyên tắc per se rule để kết luận về hành vi
mà không cần chứng minh, đánh giá tác động của hành vi thì nên sử dụng
nguyên tắc rule of reason để việc xem xét kết luận về hành vi phải dựa trên cả
việc đánh giá tác động, hậu quả của hành vi. Đặc biệt là đối với hành vi cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ thì tất cả những hành vi nhằm hạn chế việc tiếp
cận, sử dụng hoặc phát triển các công nghệ mới được chứng minh là gây ra hoặc
có nguy cơ gây ra thiệt hại cho khách hàng dù được thực hiện dưới bất kỳ hình
thức nào đều là vi phạm.
154

- Hành vi Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch
tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham
gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
Quy định của Luật Canh tranh 2018 về hành vi này với dấu hiệu hậu quả là
dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở
rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác, như phân tích ở trên đã dẫn tới
hạn chế phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh với nhóm hành vi này. Bản chất
của hành vi là phân biệt đối xử, do đó, hậu quả trước tiên là một số đối tác bị đặt
vào tình thế bất lợi, trong khi một số đối tác khác có thể có được những ưu thế
cạnh tranh nhưng không bằng sự nỗ lực của chính họ. Do đó, hành vi này mang
tính can thiệp, bóp méo trật tự cạnh tranh giữa các đối thủ (cùng là đối tác của
doanh nghiệp thống lĩnh) trên thị trường. Hành vi phân biệt đối xử do doanh
nghiệp thống lĩnh thực hiện cũng mang lại kết quả tối đa hóa lợi nhuận cho chính
nó, khi các điều kiện thương mại khác nhau được đặt ra và doanh nghiệp có thể
khai thác lợi ích kinh tế nhiều hơn từ các khách hàng với những khả năng đáp
ứng khác nhau. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay, chỉ những hành vi phân biệt
đối xử mang tính loại bỏ mới bị coi là vi phạm theo Luật Cạnh tranh 2018, còn
những hành vi phân biệt đối xử nhưng nhằm mục đích trục lợi (nhằm tối đa hóa
lợi nhuận cho doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, khi các điều kiện thương mại
khác nhau được đặt ra và doanh nghiệp có thể khai thác lợi ích kinh tế nhiều hơn
từ các khách hàng với những khả năng đáp ứng khác nhau) hoặc có tác động bóp
méo trật tự cạnh tranh nhưng không dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản
doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
thì sẽ không bị coi là vi phạm. Do đó, theo tác giả nên sửa dấu hiệu hậu quả của
hành vi để đảm bảo tính bao quát cao hơn là “dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến
tác động HCCT”.
Đối với mô tả cụ thể cho hành vi, cần tránh mô tả cứng nhắc về sự tương tự
của giao dịch và sự phân biệt về các điều kiện thương mại.
Thay vì quy định các giao dịch mà hàng hóa, dịch vụ có giá trị hoặc tính
chất tương tự nhau thì được coi là các giao dịch tương tự nhau như hiện nay, cần
quy định việc xác định tính chất tương tự của giao dịch sẽ do CQCT quyết định
tùy từng vụ việc cụ thể trên cơ sở xem xét, so sánh nhiều yếu tố mà trước hết là
155

đối tượng (tính chất và giá trị), về khối lượng, số lượng giao dịch, về tính thường
xuyên, về thời gian thiết lập và thực hiện giao dịch...
Về việc áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cũng nên quy định
CQCT sẽ xem xét để kết luận là sự khác biệt về các điều kiện thương mại trong
từng trường hợp cụ thể, và nên tập trung vào yếu tố định lượng, yếu tố kinh tế
của giao dịch để đánh giá sự khác biệt như giá bán, tỷ lệ chiết khấu, giảm giá,
dịch vụ khách hàng... như kinh nghiệm của EU và Hoa Kỳ. Ngoài ra cũng cần có
quy định về ngoại lệ của hành vi, đó là khi doanh nghiệp thống lĩnh chỉ ra được
điều kiện thương mại áp đặt cho các giao dịch tương tự nhau là do các điều kiện
khách quan mang lại như sự tồn tại của các tình huống hoặc hoàn cảnh khách
quan thì sự khác biện về điều kiện thương mại sẽ được chấp nhận.
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có
khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường
hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
Phân tích quy định về nhóm hành vi cho thấy việc Luật Cạnh tranh 2018
tách thành hai hành vi riêng biệt là “Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác
trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn
đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ
doanh nghiệp khác” và “Yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có
khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường
hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác” chỉ dựa trên sự khác biệt về thời điểm áp đặt
các điều kiện của hai giao dịch trong khi bản chất của hành vi, lĩnh vực phát sinh
cũng như hậu quả gây ra thì như nhau là không cần thiết.
Bên cạnh đó, về dấu hiệu hậu quả dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn
cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp
khác cũng không thể hiện đầy đủ tác động của hành vi. Như đã phân tích hành vi
có thể có tác động gây ra thiệt hại cho khách hàng hay ngăn cản, loại bỏ doanh
nghiệp khác phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn nếu giữ cách hiểu
của Luật Cạnh tranh 2004 thì hành vi “Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hoá trừ
những hàng hoá thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng
hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật” và “Hạn chế về khách hàng
156

mua lại hàng hoá trừ những hàng hoá thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có
điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật” nằm trong
nhóm hành vi Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ. Nhưng rõ ràng hai hành vi này không gây ra tác động ngăn
cản, loại bỏ doanh nghiệp khác. Do đó, tác giả đề xuất gọi chung là hành vi
“Buộc khách hàng, doanh nghiệp khác khi giao kết hợp đồng chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có
khả năng dẫn đến tác động hạn chế cạnh tranh”.
Liên quan đến mô tả cụ thể của hành vi, tác giả cho rằng không nên quy
định việc áp đặt điều kiện tiên quyết “Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá
được cung cấp” cho khách hàng trước khi giao kết hợp đồng là nằm trong nhóm
hành vi này. Bởi lẽ, hành vi này có bản chất giống như hành vi Hạn chế sản
xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 27
chứ không phù hợp nằm trong nhóm hành vi này.
- Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác
Hành vi này đã được chỉ ra là bao trùm hai hành vi được quy định tại
Điểm d và đ Khoản 1 Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018 đó là:
- Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự
dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở
rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp
nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn
đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng
thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác
Do đó, cần bổ sung quy định để loại trừ hai hành vi nói trên ra khỏi
phạm vi điều chỉnh của hành vi Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị
trường của doanh nghiệp khác. Đồng thời những hạn chế của Luật Cạnh tranh
2004 về mô tả hành vi cũng cần được rút kinh nghiệm, khắc phục. Nghị định
116/2005 hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2004 đã mô tả hành vi theo cách liệt kê,
nhưng chỉ đề cập đến 3 hành vi, trong đó có hai hành vi được phân tích là
cùng bản chất, dẫn tới bỏ sót các hành vi có bản chất ngăn cản nhưng không
được mô tả trong điều luật. Trong khi đó, việc mô tả hành vi chỉ bám vào biểu
hiện bề ngoài dẫn tới bỏ sót hành vi cũng như quy chụp cho những hành vi
157

không có bản chất lạm dụng. Chẳng hạn như đối với hành vi thứ ba được liệt
kê là “Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia
nhập thị trường nhưng không thuộc trường hợp bán dưới giá thành toàn bộ
nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh”. Xét từ góc độ kinh tế, không phải mọi
trường hợp định giá của doanh nghiệp như vậy đều có thể kết luận là bất hợp
pháp. Doanh nghiệp có thể bán giá bằng hoặc cao hơn giá thành toàn bộ,
nghĩa là doanh nghiệp vẫn có lãi hoặc hòa vốn, hoặc trong bối cảnh cần thanh
lý hàng tồn, hết mùa vụ, nhằm mục đích khuyến mại, kích cầu... thì không thể
coi là bất hợp pháp, cho dù mức giá doanh nghiệp đưa ra có thể khiến cho các
doanh nghiệp khác không thể gia nhập thị trường. Do đó, có thể quy định mô
tả hành vi này như sau:
“1. Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp
khác là hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh cố tình tạo ra các rào cản có tác
động ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia hoặc mở rộng thị trường
nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điểm d và đ Khoản 1 Điều 27
Luật Cạnh tranh 2018.
2. Các rào cản có thể được tạo ra bằng việc doanh nghiệp thống lĩnh thực
hiện một hoặc một số hành vi sau đây:
- Hạ giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đến mức làm cho các doanh
nghiệp khác không thể gia nhập hoặc mở rộng thị trường;
- Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với các đối thủ cạnh tranh;
- Ưu đãi giảm giá cho khách hàng với điều kiện phải mua toàn bộ hoặc
phần lớn các hàng hóa, dịch vụ từ doanh nghiệp thống lĩnh;
- Các hành vi khác có tác động tác động ngăn cản các doanh nghiệp khác
tham gia hoặc mở rộng thị trường.
3. CQCT căn cứ vào hành vi của doanh nghiệp, đánh giá tác động của
hành vi để kết luận về hành vi lạm dụng trong từng vụ việc”.
3.2.5. Hoàn thiện quy định về các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng
Thứ nhất, xây dựng quy định cụ thể về cơ chế bồi thường thiệt hại đối với
hành vi HCCT nói chung và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói riêng.
Như trên đã phân tích, quy định về bồi thường thiệt hại cho các vi phạm về
cạnh tranh mới chỉ được ghi nhận chung chung tại Điều 110 Luật cạnh tranh
2018 mà chưa rõ khả năng áp dụng cho vi phạm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
158

trường nói riêng, cũng như chưa có cơ chế cụ thể cho việc thực thi quy định này.
Bên cạnh đó, quy định của Nghị định số 71/2014 quy định chi tiết về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, về vấn đề này lại dẫn chiếu đến các
quy định của pháp luật dân sự để giải quyết theo chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Điều này là không hợp lý bởi bồi thường thiệt hại do vi phạm
pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là do hành vi HCCT là rất đặc thù, không tương
đồng về bản chất với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như trong luật dân
sự. Kinh nghiệm ở các nước trên Thế Giới, điển hình như Hoa Kỳ cũng có
những nguyên tắc, quy định riêng áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại do hành
vi phản cạnh tranh gây ra. Theo Luật chống độc quyền Hoa Kỳ, các cá nhân, tập
đoàn, hiệp hội, thậm chí Chính quyền các tiểu bang đều có thể đưa đơn kiện và
đòi bồi thường thiệt hại về một hành vi phản cạnh tranh nếu đáp ứng các nguyên
tắc về bồi thường thiệt hại. Các nguyên tắc mà Hoa Kỳ áp dụng đối với các vụ
việc về bồi thường thiệt hại do hành vi phản cạnh tranh gây ra bao gồm:
- Có thiệt hại trong cạnh tranh: Nguyên đơn phải chỉ ra được thiệt hại mà họ
đòi bồi thường và thiệt hại đó phải là loại thiệt hại được Luật chống độc quyền
bảo vệ. Điều 4 Đạo luật Clayton cho phép bồi thường thiệt hại “cho những người
nào đã bị thiệt hại trong hoạt động kinh doanh hoặc thiệt hại về tài sản do một
hành vi vi phạm pháp luật chống độc quyền gây ra”. Thực tế, Tòa án Hoa Kỳ
không chấp nhận việc yêu cầu bồi thường cho thiệt hại trong hoạt động kinh
doanh của nguyên đơn do không thể tăng giá dịch vụ vì môi trường kinh doanh
bị tăng tính cạnh tranh bởi hành vi của bị đơn hay kể cả trong trường hợp bị đơn
thực hiện hành vi ấn định giá theo chiều ngang có thể gây thiệt hại cho hoạt động
kinh doanh của nguyên đơn với lý do những thiệt hại này không được Luật
chống độc quyền bảo vệ. Ngược lại, tòa án chấp nhận yêu cầu về bồi thường
thiệt hại của nguyên đơn do hành vi bán hàng với giá thấp bất hợp lý của bị đơn
(định giá hủy diệt hoặc bán giá thấp để các đối thủ cạnh tranh tiềm năng không
thể gia nhập hoặc mở rộng thị trường).
- Quyền được khởi kiện (standing): Yêu cầu này sẽ giới hạn phạm vi
nguyên đơn của vụ kiện, bởi ai cũng có thể nhận mình là người bị thiệt hại trong
kinh doanh, hoặc thiệt hại về tài sản do hành vi phản cạnh tranh của bị đơn gây
ra. Các Tòa án ở Hoa Kỳ thường yêu cầu nguyên đơn phải chứng minh mình là
nguyên đơn được “ưu tiên” bằng cách chỉ ra nhiều nhất các yếu tố chứng minh
thiệt hại của mình mối liên hệ trực tiếp nhất với hành vi của bị đơn.
159

- Quy tắc người mua trực tiếp: hành vi phản cạnh tranh của bị đơn có thể gây
thiệt hại cho người mua trực tiếp, những người sau đó mua hàng của người này, và
người tiêu thụ cuối cùng nhưng chỉ có người mua hàng trực tiếp mới có quyền khởi
kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi phản cạnh tranh của bị đơn.
Những quy định của Hoa Kỳ về vấn đề này có thể không hoàn toàn phù
hợp cho việc áp dụng trực tiếp vào Luật cạnh tranh Việt Nam, tuy nhiên sẽ có ý
nghĩa nhất định cho việc hoàn thiện cơ sở lý luận, từ đó xây dựng các quy định
cụ thể cho vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi HCCT ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, liên quan đến quy định về mức phạt tiền tính tối đa đối với hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (và đối với hành vi thỏa thuận HCCT) nên
bổ sung thêm yếu tố thời gian vi phạm của doanh nghiệp vào căn cứ tính để đảm
bảo đủ sức răn đe cũng như đảm bảo công bằng trong việc áp dụng với các
doanh nghiệp với thời gian vi phạm khác nhau. Cụ thể có thể quy định, mức phạt
tiền tối đa không quá 10% tổng doanh của doanh nghiệp vi phạm trên thị trường
liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm bắt đầu thực hiện hành vi vi
phạm nhân với số năm thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ ba, xây dựng quy định về mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh
nghiệp thực hiện hành vi vi phạm. Có thể sử dụng các các căn cứ như được quy
định tại Nghị định 71/2014 để xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi
phạm nhưng cần bổ sung quy định cụ thể việc sử dụng và đánh giá các căn cứ để
xác định tỷ lệ tính mức phạt như thế nào để làm cơ sở cho việc thực thi của
CQCT trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp vi
phạm, tránh việc tùy tiện trong quyết định mức phạt.
Thứ tư, chuyển biện pháp Tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực
hiện hành vi vi phạm sang nhóm các biện pháp khắc phục hậu quả. Như đã phân
tích việc xếp biện pháp này nằm trong nhóm biện pháp xử phạt bổ sung là chưa
hợp lý và khiên cưỡng. Bởi vì việc tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm thực chất có mục đích là khôi phục về tình trạng ban
đầu nếu không có hành vi vi phạm. Khoản lợi nhuận bị tịch thu do nó không
thuộc về doanh nghiệp nếu nó không thực hiện hành vi vi phạm về lạm dụng.
Với mục đích khôi phục tình trạng ban đầu, biện pháp này nên nằm trong nhóm
các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong khi pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính xem xét khoản lợi nhuận bất hợp pháp dưới hình thức biện pháp khắc phục
160

hậu quả, pháp luật cạnh tranh cũng cần điều chỉnh để đảm bảo tính nhất quán
trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
3.2.6. Hoàn thiện quy định về cơ chế thực thi
Một là, Tiếp tục hoàn thiện quy định về cơ quan thực thi cạnh tranh hướng
đến đảm bảo cao hơn yêu cầu về tính độc lập, trách nhiệm giải trình và minh bạch
Mặc dù Luật Cạnh tranh 2018 đã xây dựng mô hình một CQCT được cho là
phù hợp hơn so với mô hình hai cơ quan theo quy định của Luật Cạnh tranh
2004. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, với quy định hiện nay của Luật Cạnh
tranh 2018, tính độc lập của CQCT vẫn chưa được bảo đảm, ngoài ra yêu cầu về
tính minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của CQCT cũng cần
được quan tâm nhằm hướng đến một thể chế thực thi luật cạnh tranh hiệu quả.
- Về tính độc lập: Nhiều quan điểm cho rằng việc CQCT là một đơn vị
thuộc Bộ công thương như hiện nay là chưa hợp lý, làm ảnh hưởng đến tính độc
lập của CQCT và chắc chắn làm ảnh hưởng đến tính hiệu lực, hiệu quả của việc
thực thi pháp luật, chính sách cạnh tranh. Như quan điểm của phần đông các
nước được OECD ghi nhận, tính độc lập với quyền lực chính trị của một cơ quan
chức năng là yếu tố then chốt cho một chế độ cạnh tranh hiệu quả [14]. Các yếu
tố được coi là có ảnh hưởng đến tính độc lập của CQCT là (i) Vị trí người lãnh
đạo của CQCT do ai bổ nhiệm, (ii) CQCT nằm trong cơ cấu Chính Phủ hay
không? Và (iii) có tự chủ về ngân sách hoạt động hay không. Hoạt động chủ yếu
của cơ quan quản lý cạnh tranh là điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong bối
cảnh khi mà các DNNN vẫn đang nắm giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế thì chính các DN này là đối tượng điều tra của CQCT. Trong khi, Bộ
Công Thương lại là cơ quan chủ quản của nhiều tập đoàn, tổng công ty lớn thì
việc để CQCT trực thuộc Bộ Công Thương như hiện nay sẽ dẫn tới việc “vừa đá
bóng vừa thổi còi” và rõ ràng, CQCT sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ
của mình. Tuy nhiên, “không phải việc cơ quan nào nằm trong cơ cấu của một hệ
thống nào đó là đồng nghĩa với sự lệ thuộc của nó vào hệ thống. Trong một trật
tự nhà nước pháp quyền, sự độc lập của một cơ quan, tổ chức lại được thiết lập
bởi quy chế độc lập và việc thực hiện nó trên thực tế. Ngược lại, cũng trên thực
tế, đã không thiếu các cơ quan tổ chức, khi sắp đặt đặt với mong muốn là chúng
sẽ độc lập nhưng trên thực tế, khi hoạt động chúng bị chi phối bởi nhiều phía và
kết cục là “đứng một mình” nhưng vẫn không độc lập” [17]. Việc quy định vị trí
161

thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện và đặc điểm tình hình thị trường của
từng quốc gia. Do vậy, giải pháp hoặc là tách CQCT thành cơ quan độc lập không
thuộc Bộ Công thương hoặc là vẫn để nó trực thuộc Bộ Công thương nhưng phải
xây dựng các quy định về trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế trao quyền lực cho cơ
quan này để đảm bảo nó có quyền lực đủ mạnh, độc lập trong việc xử lý các hành vi
vi phạm luật cạnh tranh nói chung và vi phạm về lạm dụng VTTLTT nói riêng.
- Đảm bảo sự độc lập cho CQCT cũng cần tính đến quy định về thành viên
của CQCT cũng phải đảm bảo tính độc lập. Bởi vậy, cũng cần sửa đổi quy định
về thành viên tại Điều 48 Luật Cạnh tranh 2018 hiện nay, theo đó, bỏ quy định
Thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là công chức của Bộ Công Thương, các
Bộ, ngành có liên quan.
- Về trách nhiệm giải trình: Một khi CQCT được đảm bảo tính độc lập thì
sẽ làm phát sinh trách nhiệm giải trình với Tòa án, Quốc hội, Chính phủ hay công
chúng. Điều này đảm bảo tính đúng đắn trong hoạt động của CQCT, đặc biệt là
CQCT còn có thẩm quyền áp dụng xử phạt. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy,
CQCT cần thực hiện trách nhiệm giải trình trước Quốc hội ít nhất mỗi năm một
lần và để đại biểu Quốc hội chấn vấn trực tiếp hoặc bằng văn bản. Do đó, đồng
thời với việc đảm bảo cao hơn tính độc lập của CQCT thì cần có quy định cụ thể
về trách nhiệm giải trình trước Chính Phủ, Quốc hội và doanh nghiệp.
- Về tính minh bạch: Một khi CQCT được đảm bảo tính độc lập thì có nhu
cầu về minh bạch tiếp cận thông tin của doanh nghiệp, công chúng đối với các
vụ việc được CQCT điều tra, xử lý theo pháp luật. Do đó, cần có quy định về
trách nhiệm công khai thông tin của CQCT, nêu rõ phạm vi những thông tin bắt
buộc phải công khai và các hình thức công khai. Yêu cầu về tính minh bạch
trong hoạt động của CQCT vừa có ý nghĩa là công cụ để giám sát hoạt động của
CQCT, đảm bảo hoạt động đúng đắn của nó, vừa có ý nghĩa trong việc nâng cao
khả năng tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về luật cạnh
tranh, góp phần hạn chế hành vi vi phạm. Thực tiễn cho thấy các cơ quan thực
thi luật cạnh trạnh của Việt Nam thời gian qua tuy có công bố hồ sơ về các vụ
việc lạm dụng VTTLTT được điều ttra, xử lý. Song nội dung công bố thường chỉ
trong phạm vi một trang thông tin cho mỗi vụ việc, trong đó thường thiếu những
lý gỉai, cơ sở cho việc vận dụng các quy định luật vào các tình tiết cụ thể. Điều
này rõ ràng thể hiện tính thiếu minh bạch và hệ quả dẫn tới là tính tuân thủ pháp
luật từ cộng đồng doanh nghiệp cũng sẽ không cao.
162

Hai là, Xây dựng quy định về cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, chính sách
giữa cơ quan cạnh tranh với các cơ quan điều tiết ngành.
Thực thi pháp luật cạnh tranh là vấn đề rất phức tạp, bao trùm trong nhiều
lĩnh vực liên quan đến nhiều Bộ, Ban ngành cả Trung ương và địa phương, trong
khi đơn vị thực thi chỉ là cấp Cục thuộc Bộ thì chưa đủ mạnh, làm giảm hiệu quả
công việc. Bên cạnh đó, phân tích kinh tế đóng vai trò quan trọng, không thể
thiếu khi áp dụng các quy định pháp luật cạnh tranh trong các vụ việc cụ thể.
Những phân tích kinh tế mang tính đặc thù ngành sẽ là một thách thức rất lớn
cho cơ quan quản lý cạnh tranh. Trong khi đó, Luật cạnh tranh Việt Nam chưa
xây dựng được cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý cạnh tranh và
các cơ quan điều tiết ngành cùng thực thi nhiệm vụ bảo vệ môi trường cạnh tranh
sẽ là một hạn chế lớn làm giảm hiệu quả thực thi của Luật cạnh tranh. Do đó,
việc hoàn thiện các quy định của Luật cạnh tranh nói chung và quy định về hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói riêng cần tính đến việc xây dựng cơ
chế phối hợp giữa CQCT và các cơ quan quản lý ngành trong việc thực thi Luật
cạnh tranh. Một số giải pháp cụ thể để tăng cường phối hợp thực thi luật cạnh
tranh giữa các cơ quan liên quan như:
- Thường xuyên và định kỳ có sự trao đổi, tổng kết giữa lãnh đạo CQCT
với các cơ quan điều tiết ngành để tăng cường nhận thức về pháp luật cạnh tranh.
- Thường xuyên chia sẻ thông tin về tình hình thị trường, doanh nghiệp
thuộc phạm vi quản lý ngành.
- Cho phép CQCT được tham vấn các chính sách ngành trước khi ban hành
để đảm bảo các chính sách này phù hợp với các nguyên tắc cạnh tranh.
- Thường xuyên tiến hành rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp luật
chuyên ngành để chỉ ra những quy định không phù hợp với chính sách và pháp
luật cạnh tranh.
Ba là, hoàn thiện các quy định về cơ chế giám sát doanh nghiệp để phát
hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của
doanh nghiệp.
Kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT bao gồm các hoạt động xem xét để
nhận diện hành vi vi phạm, ngăn ngừa và loại bỏ hành vi vi phạm và xử lý hành
vi vi phạm. Do đó, để công tác kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT đạt hiệu
quả cao thì ngoài việc xây dựng các tiêu chí để xác định đâu là hành vi lạm
dụng VTTLTT, các biện pháp chế tài xử lý hành vi lạm dụng VTTLTT mà
163

quan trọng không kém là xây dựng được thiết chế giám sát doanh nghiệp để đối
chiếu với các tiêu chí mà pháp luật đã xây dựng, từ đó nhận diện kịp thời, ngăn
chặn kịp thời hành vi có dấu hiệu hoặc chớm thực hiện hành vi vi phạm. Thực
tranh thực thi pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT ở Việt Nam thời
gian qua đã cho thấy các vụ việc ít ỏi về lạm dụng VTTLTT được điều tra xử lý
đều xuất phát từ đơn khiếu nại của doanh nghiệp. Điều này cho thấy, hoạt động
giám sát thị trường, giám sát, kiểm tra doanh nghiệp của cơ quan Nhà nước là
chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, các quy định hiện nay cũng chưa khuyến khích
các doanh nghiệp khác trên thị trường chủ động phát hiện, cung cấp thông tin
cho cơ quan có thẩm quyền. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần thực hiện các
giải pháp sau:
- Cần rà soát và hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiếm tra, thực hiện
hậu kiểm của các cơ quan nhà nước, trong đó có Ủy ban cạnh tranh quốc gia
đối với doanh nghiệp.
- Cần xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giữa các cơ quan Nhà nước, đặc
biệt là Ủy ban cạnh tranh Quốc gia đối với các doanh nghiệp, các hiệp hội
ngành nghề.
- Hoàn thiện quy định về cơ chế cung cấp thông tin của doanh nghiệp
cho Ủy ban cạnh tranh quốc gia và các cơ quan nhà nước có liên quan. Một mặt
đảm bảo giữ bí mật thông tin của người cung cấp thông tin, mặt khác, cần đa
dạng và đơn giản hóa các cách thức cung cấp và tiếp nhận thông tin. Đặc biệt
cần có cơ chế khuyến khích, khen thưởng để thúc đẩy các doanh nghiệp chủ
động trong việc phát hiện và cung cấp thông tin.
- Xây dựng quy định về nghĩa vụ công khai thông tin của doanh nghiệp có
VTTLTT. Thực tế Luật cạnh tranh Việt Nam hiện chưa có quy định về nghĩa vụ
công khai thông tin của doanh nghiệp có VTTLTT. Điều này dẫn việc thực hiện
quyền giám sát thị trường, phát hiện và cảnh báo về hành vi vi phạm của doanh
nghiệp có VTTLTT chắc chắn bị hạn chế. Do đó, cần có những quy định về
nghĩa vụ công khai thông tin của doanh nghiệp có VTTLTT, trong đó cần cụ thể
về phạm vi, nội dung và hình thức công khai.
164

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


1. Tầm quan trọng của chính sách và pháp luật cạnh tranh đã được khẳng định
trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trong bối cảnh kinh tế nước
ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, sự phát triển của cách mạng
công nghệ 4.0, các quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam nói chung và chế
định kiểm soát cần đáp ứng những yêu cầu trong tình hình mới, thích ứng với môi
trường kinh doanh toàn cầu và phù hợp với các cam kết quốc tế.
2. Giải pháp tổng thể trong việc hoàn thiện các quy định về lạm dụng
VTTLTT là hiện đại hóa phương pháp tiếp cận hành vi lạm dụng VTTLTT, trên cơ
sở đó, các giải pháp cụ thể đối với từng nội dung được đề xuất. Bao gồm các giải
pháp hoàn thiện quy định về xác định thị trường liên quan, xác định VTTLTT, xác
định hành vi lạm dụng VTTLTT và hoàn thiện các quy định về biện pháp chế tài
cũng được đưa ra.
3. Liên quan đến hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm
dụng VTTLTT, Luận án cũng đưa ra những giải pháp về nâng cao tính độc lập,
minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan cạnh tranh. Cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan liên quan trong thực thi pháp luật cạnh tranh cũng được khẳng định là
có ý nghĩa quan trọng với việc nâng cao hiệu quả thực thi luật cạnh tranh.
165

KẾT LUẬN

Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một dạng hành vi hạn chế cạnh tranh
gây nhiều tác động nghiệm trọng cho thị trường. Mặc dù vậy, pháp luật cạnh tranh
vẫn là lĩnh vực pháp luật khá non trẻ ở Việt Nam, các nghiên cứu lý luận còn ít, các
quy định hiện hành về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT được nhận định là còn
gặp phải những vướng mắc đáng kể khi thực thi. Đây chính là tiền đề quan trọng
cho việc bắt tay nghiên cứu luận án này.
Với mục tiêu nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về
kiểm soát hành vi VTTLTT; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, đề từ đó đề xuất các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT. Luận án đã tập trung giải quyết được
các vấn đề sau đây:
1. Luận án đã tổng quan được các công trình nghiên cứu có liên quan trong và
ngoài nước về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT, tiếp cận theo hướng lý luận và
thực tiễn thực thi.
2. Luận án đã hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm
soát hành vi lạm dụng VTTLTT thông qua kết luận từ tổng quan tài liệu nghiên cứu.
Luận án cũng chỉ ra được kinh nghiệm về kiểm soát hành vi lạm dụng VTTLTT ở
một số quốc gia trên thế giới (Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ) Từ đó, rút ra một số bài học
kinh nghiệm cơ bản cho việc điều chỉnh bằng pháp luật với hành vi của các doanh
nghiệp thống lĩnh thị trường.
3. Luận án đã tiến hành phân tích thực trạng các quy định về lạm dụng
VTTLTT của Luật Cạnh tranh Việt Nam. Cùng với việc phân tích cấu trúc thị
trường, thực tiễn thực thi các quy định về lạm dụng VTTLTT. Luận án cũng chỉ ra
những mặt đạt được, những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế
làm căn cứ để xây dựng giải pháp cho việc hoàn thiện các quy định liên quan.
4. Trên cơ sở phân tích quan điểm, định hướng hoàn thiện luật cạnh tranh,
luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp để hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cả về hướng tiếp cận và quy định
cụ thể.
166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt


1. Nguyễn Lan Anh (2009), “Xác định thị trường liên quan và vấn đề nhận dạng vị
trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp theo pháp luật cạnh tranh ở Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 7, tr 19- 25.
2. Nguyễn Thị Vân Anh, “Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hạn chế
cạnh tranh của Việt Nam”, Tạp chí Luật học, 4, tr. 51-57.

3. Bảo Linh (2015), Quãng đời ngắn ngủi của bia tươi Laser, online
https://vtc.vn/quang-doi-ngan-ngui-cua-bia-tuoi-laser-d199683.html
4. Bộ công thương (2017), Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật cạnh tranh, Hà Nội.
5. Chính phủ (2005), Nghị định số 116/2005/NĐ- CP hướng dẫn một số điều của
Luật Cạnh tranh, Hà Nội.
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 71/2014/NĐ- CP quy định chi tiết Luật Cạnh
tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
7. Chính phủ (2019), Nghị định số 75/2019/NĐ- CP quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
8. Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2012), Báo cáo rà soát các quy định
của Luật cạnh tranh Việt Nam, Hà Nội.
9. Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương (2014), Báo cáo đánh giá cạnh tranh
trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế, Hà Nội
10. Cục quản lý cạnh tranh (2008), Báo cáo điều tra chính thức vụ việc KNCT-
HCCT- 0004 (Vụ việc Vinapco).
11. Cục quản lý cạnh tranh (2009), Báo cáo điều tra chính thức vụ việc KNCT-
HCCT- 0107 (Vụ việc Bia).
12. Cục quản lý cạnh tranh, Báo cáo thường niên cục quản lý cạnh tranh từ 2010
2017, có trên http://www.vca.gov.vn/Bublications.aspx?CateID=524
13. Dominique Brault (2006), Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của
Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị quốc gia, tập 1.
14. TS. Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, 2004.
15. Phạm Hoài Huấn, Nhữ Ngọc Tiến (2013), Pháp luật chống lạm dụng vị trí
thống lĩnh vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh về giá, NXB Chính trị quốc
gia – sự thật, Hà Nội.
167

16. Đoàn Trung Kiên (2006), “Nhận diện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học số, (1), tr.
35-42.
17. Trần Hoàng Nga (2011), Pháp luật chống định giá lạm dụng của EU, Hoa Kỳ,
Việt Nam – So sánh và kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật
học, chương trình Tiến sĩ liên kết Thụy Điển – Việt Nam.
18. OECD (2016), Báo cáo tổng quan của Ban thư ký OECD, Tính độc lập của các
cơ quan cạnh tranh – từ thiết kế đến thực tiễn hoạt động.
19. OECD (2018), Đánh giá của OECD về Luật và Chính sách Cạnh tranh, online
http://www.oecd.org/daf/competition/VietNam-OECD-Competition-Review-
2018-VIET.pdf
20. Nguyễn Như Phát (2004), “Độc quyền và xử lý độc quyền”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, 8, tr. 53- 59.
21. Từ điển Tiếng Việt (1998), NXB Đà Nẵng
22. PGS. TS. Nguyễn Như Phát, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận
giải các quy định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (2004), Luật cạnh tranh 2004
24. Quốc hội (2018), Luật cạnh tranh 2018
25. Nguyễn Ngọc Sơn (2005), “Xác định thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh
2004”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 11 (63), tr. 34-39.
26. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), “Hành vi định giá hủy diệt và việc ứng dụng trong
pháp luật cạnh tranh Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 19(1), tr. 25- 33.
27. Lê Văn Sua (2014), Nhìn lại vụ việc giữa công ty Tân Hiệp Phát và công ty liên
doanh bia Việt Nam – Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh,
online https://wikiluat.com/2016/05/15/nhin-lai-vu-viec-giua-cong-ty-tan-hiep-
phat-va-cong-ty-lien-doanh-bia-viet-nam-nhung-kien-nghi-hoan-thien-phap-
luat-ve-canh-tranh/
28. Nguyễn Thị Tình (2015), Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học.
29. Tổng Cục thống kê (2017), Thông cáo báo chí về kết quả sơ bộ Tổng điều tra
Kinh tế năm 2017,
https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382&ItemID=18686
30. Nguyễn Thanh Tú (2005), “Pháp luật về bán giá thấp nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 7, tr. 42- 48.
168

31. Viện Khoa học pháp lý , Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.
32. Vụ pháp chế - Bộ công thương, Báo cáo tổng hợp hiện trạng 5 năm thực thi
luật cạnh tranh 2005, Hà Nội 2011.
B – Tài liệu tiếng Anh
33. A. Jones, B. Sufrin (2011), EU Competition Law. Text, Cases and Materials,
Oxford University Press.
34. Australian Competition and Consumer Act 2010,
https://www.legislation.gov.au/Details/C2017C00369.
35. Bishop & Walker (2002), “The Economics of EC Competition Law: Concepts,
Application and Measurement”, Sweet& Maxwell, pp. 88.
36. Chakravarthi S. (2009), “New Indian Competition Law on the Anvil”,
Corporate Law Adviser, 42 (1), pp. 109- 123
37. Canoy M.F.M., van Damme E.E.C., & Rey, P. (2004), “Dominance and
monopolization”, in M. Neumann, & J. Weigand (Eds.), The International
Handbook of Competition, Cheltenham: Edward Elgar Publishing, pp. 210-289.
38. CFI, Case T-201/04, Microsoft v. Commission, 17/9/2007,
http://curia.europa.eu/en/
39. Craig Paul; de Búrca, Gráinne (2008), EU Law, Text, Cases and Materials, 4th
ed, Oxford University Press, Oxford.
40. Dibadj Reza (2007), “Article 82: Gestalt, Myths, Questions”, Santa Clara
Computer and High Technology Law Journal, 615, pp. 181- 197.
41. D. Gerber, "Fairness in competition law: European and U.S. Experience,"
Presentation at a Conference on Fairness and Asian Competition Laws, held on
March 5, 2004, in Kyoto, Japan.
42. E. Elhauge (2009), Tying, Bundled Discounts, and the Death of the Single
Monopoly Profit Theory, Harvard Law Review, Vol. 123 (2).
43. EC (1997), Commission Notice on the Definition of relevant market for the
purposes of Community competition Law, Official Journal C 372 of 9.12.1997.
44. EC Commission (2005), DG Competition Discussion Paper on the Application
of Article 82 of the Treaty to Exclusionary Abuses, Brussels, available at
http://ec.europa.eu/comm/competition/antitrust/art82/discpaper2005.pdf truy
cập ngày 17/12/2016
45. ECJ (1974), Case BRT v Sabam (C- 127/73).
46. ECJ (1979), Case Hoffmann-La Roche & Co. AG v Commission (C-85/76).
169

47. ECJ (1998), Case Kali and Salz v Commission (C-68/94 and C-30/95) ECR I-
1453.
48. ECJ (2000), Joined Case Ompagnie Maritime Belge Transports SA,
Compagnie Maritime Belge SA and Dafra-Lines A/S v Commission, Joined
Cases (C-395-6/96 P) ECR I-1365.
49. ECJ (1991), Case AKZO Chemie B.V v Commission (C-62/86) [1991] ECR I-
3359.
50. ECJ (1996), Tetrapak Interational SA v Commission (C-333/94P) [1996] ECR
I-5951.
51. ECJ (1981), Case NV Nederlandsche Banden Industrie Michelin v Commission
of the European Communities, C- 322/81.
52. ECJ (2000), Case Volkswagen AG v Commission of the European Communities
[2000] ECR II- 2707.
53. ECJ (2001), Case Aéroports de Paris v Commission of the European
Commission, C-82/01 P.
54. Eleanor M. Fox (1997), US and EU Competition Law: A Comparison, in
GLOBAL COMPETITION POLICY 339, 340, Edward M. Graham & J. David
Richardson eds.
55. Eleanor M. Fox (1986), Monopolization and Dominance in the United States
and the European Community: Efficiency Opportunity and Fairness, 61 Notre
Dame L. Rev. 98. Available at: http://scholarship.law.nd.edu/ndlr/vol61/iss5/5
truy cập ngày 19/2/2017
56. Eleanor M. Fox (2014), “Monopolization and abuse of dominance: Why Europe
is different”, The Antitrust Bulletin: Vol 59(1), p129 – 152.
57. Eleanor Fox & J. Ordover (1995), "Harmonization of Competition and Trade
Law: The Case for Modest Linkages of Law and Limits to Parochial State
Action”, prepared for Columbia University Law School Conference on
Multilateral Trade Regimes in the 21st Century, November 3-4, 1995.
58. Federico Etro (2007), The Economics of Competition Policy and Dominant
Market Position, Stockholm Netwwork.
59. Federico Etro (2006), The EU approach to Abuse of Dominance, Ed. ECG and
Intertic, Milan.
60. GCLC Research Papers on Article 82 EC (2005), Global Competition Center,
College of Europe, Brugge.
61. Geradin, Damien (2003), “The Necessary Limits to the Control of 'Excessive'
Prices by Competition Authorities - A View from Europe”. Tilburg University
170

Legal Studies Working Paper. Available at SSRN:


http://ssrn.com/abstract=1022678 truy cập ngày 06/3/2017
62. Goyder DG (2003), EC Competition Law, 4th ed, Oxford University, Press Oxford.
63. Hildebrand, Doris, “The Role of Economic Analysis in the EC Competition
Rules”, Kluwer Law International, Second Edition, The Hague/London/New
York, 2002, pp 126-170, 278-305.
64. Hylton (2003), Antitrust Law: Economic Theory and Common Law Evolution,
Cambridge University Press.
65. ICN (2007), Report on the Objectives of Unilateral Conduct Laws, Assessment
of Dominance/Substantial Market Power, and State- Created Monopolies,
prepared by the Unilateral Conduct Working Group.
66. ICN (2008), "Report on Predatory Pricing," prepared by the Unilateral conduct
Working Group for the 7th Annual Conference of the ICN in Kyoto.
67. John M. Connor, Albert A. Foer và Simch Udwin (2010), Criminalising Cartels:
An American Perspective, New Journal of European Criminal Law, Vol. 1 (2).
68. Johnson, Piet Jan Slot and Angus (2006), An Introduction to Competition Law,
Hart Publishing.
69. Kububa A. J. (2007), "Dominance and Abuse of Dominance," CUTS National
7UP3 Project, Etiopia.
70. Kroes N. (2006), Tackling Exclusionary Practices to Avoid Exploitation of
Market Power: Some Preliminary Thoughts on the Policy Review of Article 82,
in B Hawk (ed.) International Antitrust Law and Policy: Fordham Corporate
Law Institute Annual Proceedings 2005, New York Juris Publishing.
71. Laura Laze (2016), Economic and Legal aspects of the competition policy from
the European Union-Abuse of Dominance Position, PhD Thesis, University of
CLUJ NAPOCA.
72. Lars Hendrik Roller (2008), “Exploitative Abuses”, in Ehlermann and
Marrquis, eds., European Competition Law Annual 2007: A Reformed
Approach to Article 82 EC, Hart Publishing, Oxford.
73. Mosso CE and Ryan S (1999), “Article 82 – Abuse of a Dominant Position” in
J Faull and A Nikpay, The EC Law of Competition, Oxford University, Press
Oxford, pp. 146 – 212.
74. M. Van Der Woude (2008), “ Unfair and Excessive prices in the energy sector”
in Ehlermann and Mel Marquis, eds., European Competition Law Annual 2007:
A Reformed Approach to Article 82 EC, Hart Publishing, Oxford.
171

75. OECD (1993), The Glossary of Industrial Organisation Economics,


Competition Law and Policy Terms, Paris.
76. OECD (1996), Policy Roundtables: Abuse of Dominance and Monopolisation.
http://www.oecd.org/dataoecd/0/61/2379408.pdf truy cập ngày 17/3/2017.
77. Ordover Janusz A. and Saloner Garth (1989), Predation, Monopolization, and
Antitrust, in Handbook of Industrial Organisation, vol. 1, R. Schmalensee and
R.D. Willig, eds. Elsevier Science Publishing: Amsterdam.
78. Phillip Areeda và Donald F. Turner (1975), “Predatory Pricing and Related
Practices under Section 2 of the Sherman Act”, Harvard Law Review, Vol. 88
(4), pp. 697-733.
79. Pinar Akman (2008), Exploitative Abuse in Article 82 EC: Back to Basics?
Cambridge Yearbook of European Legal Studies 2008.
80. Pinar Akman (2015), The Concept of Abuse in EU Competition Law: Law and
Economic Approaches, Hart publishing.
81. Raybould D.M. & Alison Firth (1994), Comparative Law of Monopolies,
London: Graham & Trotman.
82. Report by the EAGCP, “An economic approach to Article 82”, Brussels,
7/2005, http://ec.europa.eu/dgs/competition/economist/eagcp_july_21_05.pdf
truy cập 29/7/2017.
83. Robert H. Bork (1966), “Legislative Intent and the Policy of the Sherman Act”,
Journal of Law and Economics, Vol 9(7).
84. Robert H. Bork (1978), The Antitrust Paradox: A Policy with War at Itself,
New York.
85. Robert H. Lande (1989), “Chicago’s False Foundation: Wealth Transfers (Not
Just Efficiency) Should Guide Antitrust”, Antitrust Law Journal, Vol 631.
86. Robert O’ Donoghue and Jorge Padilla (2013), The Law and Economics of
Arrtilce 102 TFEU, Hart Publishing.
87. Tadashi Shiraishi (2013), A Baseline for Analyzing Exploitative Abuse of a
Dominant/ Superior Position, UT Soft Law Review, Vol 5 (2013).
88. Thang Long Tran (2001), The Application of Competition Law to Anti-
Competitive Behaviours of State Monopolies – A Comparative Perspective,
Doctoral Dissertation, La Trobe University, Australia.
89. UK Competition Act 1998, https://www.legislation.gov.uk/ukpga/1998/41.
90. UK Case Aberdeen Journals Limited v Office of Fair Trading (No. 2) [2003]
172

91. UN (2010), The United Nations Set of Principles and Rules on Competition
Law, http://unctad.org/en/docs/tdrbpconf10r2.en.pdf truy cập ngày 12/7/2017
92. UNCTAD (2010), Model Competition Law,
http://unctad.org/en/Docs/tdrbpconf7d8_en.pdf truy cập ngày 08/5/2017
93. US Congress (1914), Clayton Antitrust Act,
http://www.stern.nyu.edu/networks/ShermanClaytonFTC_Acts.pdf truy cập
ngày 06/09/2017
94. US Congress (1890), Sherman Antutrust Act,
http://www.stern.nyu.edu/networks/ShermanClaytonFTC_Acts.pdf truy cập
ngày 19/11/2017
95. US Department of Justice, 1982 Merger Guidelines,
https://www.justice.gov/archives/atr/1982-merger-guidelines truy cập ngày
21/1/2018.
96. US Supreme court (1966), Case United States v. Grinnell Corp., 384 U.S. 563.
97. US Supreme court (1905), Case Swift & Co. v. U.S., 196 U.S. 375.
98. US Supreme court (1993), Case Spectrum Sports, Inc. v. McQuillan, U.S. 113
S. Ct 884.
99. US Supreme court (1965), Case Walker Process Equipments Inc. v. Food,
Machinery and Chemical Corp. 382 US 172.
100. Vedder H. (2006), “Competition Law and Consumer Protection: How
Comppetition Law can be used to Protect Consumers Even Bettern – Or Not?”,
European Business Law Review, Vol 83, pp. 83 - 109.
101. WEF (2018), Global Competitiveness Report,
http://reports.weforum.org/global-competitiveness-index-2017-2018/ truy cập
ngày 12/6/2018.
102. Whish R. (2005), Competition Law, Oxford University Press, London 2005.

You might also like