You are on page 1of 4

Mô hình phân tích chuỗi giá trị của M.

Porter
 Khái niệm: Mô hình phân tích chuỗi giá trị của M.Porter trong tiếng Anh được
gọi là Porter's Value Chain Analysis.
 Mô hình phân tích chuỗi giá trị của M.Porter đưa ra năm 1985 trong cuốn
Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance là công cụ
phân tích quan trọng để tìm hiểu các hoạt động bên trong một tổ chức sẽ tạo ra giá trị
cho khách hàng như thế nào. 
 Phân tích chuỗi giá trị dựa trên nguyên lí là các tổ chức tồn tại nhằm tạo ra giá trị cho
khách hàng của mình. Trong phân tích chuỗi giá trị, các hoạt động của tổ chức được
chia thành các nhóm hoạt động có thể tạo ra giá trị cho khách hàng. 
 Tổ chức có thể đánh giá năng lực của mình một cách có hiệu quả hơn bằng cách xác
định và đánh giá từng hoạt động. Mỗi hoạt động tạo ra giá trị được coi là một nguồn
lực để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho tổ chức. 

Qui trình thực hiện


Có ba bước để thực hiện phân tích chuỗi giá trị cho một tổ chức:

- Phân chia các hoạt động của tổ chức thành các hoạt động chính và các hoạt động hỗ trợ

- Phân tách chi phí cho từng hoạt động

- Xác định các hoạt động cơ bản tạo ra sự hài lòng của khách hàng và thành công của tổ
chức

(Tài liệu tham khảo: Tổ chức và quản lí tổ chức, Trung tâm đào tạo từ xa, ĐH Kinh tế
Quốc dân)

1. Từ những năm 1950, các hãng hàng không đã đầu tư rất nhiều vào ICT.
Vào năm 1962 American Airline giới thiệu Hệ thống đặt chỗ thông minh SABER
(CRS) và đồng thời mở rộng đội bay boeing 707 từ 8 máy bay lên 12 máy bay. Nhờ vậy
mà có sự tang trưởng vượt bậc về lưu lượng khách hàng không.
Cuối những năm 1990 các hãng hàng không đầu tư CNTT để phát triển giao diện với
người tiêu dùng và thương mại du lịch
CNTT-TT góp phần nâng cao hiệu quả, năng suất và khả năng cạnh tranh của cả
hai hệ thống liên tổ chức và nội bộ tổ chức. Nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của CNTT
mà giai đoạn này các hãng hàng không giá rẻ phát triển mạnh mẽ hơn cả. Ví dụ: easyJet
và Ryanair ( Creaton 2005), các đặt chỗ của họ bắt nguồn phần lớn thông qua Internet
vào năm 2002 và đã tiết kiệm chi phí rất lớn cho người tiêu dùng.
Ví dụ tiếp vào những năm 1980 các nhà điều hành hàng không nhận ra vận chuyển
hàng không là một phần nhỏ trong một chuyến du lịch trải nghiệm dài. Vì vậy CRS được
phát triển thành một hệ thống toán diện hơn mang tên Hệ thống phân phối toàn cầu
( GDS) cung cấp một loạt các sản phẩm du lịch khác. GDS phát triển hệ thống cơ sở dữ
liệu lập trình lên hành trình và các ghế trống từ các chuyến bay của tất cả các hãng hàng
không từ đó tăng tương tác người tiêu dùng tới các hãng hàng không. GDS nắm giữ hàng
triệu giá vé với lượt tương tác 40 triệu lượt truy cập mỗi tháng. Hơn thế, GDS phát triển
xử lí thông tin nhanh hơn, vưới 500.000 bản ghi tên hành khách và gần 2000 tin nhắn mỗi
giây. Kể từ những năm 1990, GDS là trọng tâm hoạt động xúc tiến, kiểm soát và phân
phối phần lớn số ghế của các hàng không.
Thống kê hoạt động của GDS

Công ty Giai Tổng Chi phí Thu nhập Thuế Thu nhập
đoạn doanh thu điều từ hoạt khấu ròng(m)
(million) hành động trừ(m)
(million) khác(m)
Sabre 31/2/99 $2434.6 $2062.1 $155.4 $196.0 $331.9
Galileo 31/2/99 $1526.1 $1213.2 $361.2 $143.0 $218.2
International
Amadeus 31/2/99 $1316.2 $1093.4 $25.2 $77.5 $170.4

Vận tải hàng không chiếm khoảng 65% tổng số thương mại điện tử du lịch. Người
ta ước tính rằng đặt chỗ qua internet đóng góp khoảng 5% tổng doanh thu của các hãng
hàng không trên toàn cầu. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa các khu vực và nhà cung
cấp dịch vụ. Tại Hoa Kỳ, 11% số ghế của các hãng hàng không được đặt trực tuyến trên
trang web của các hãng hàng không. Các hãng hàng không kiểu cách ở Mỹ là có 41% số
ghế của họ được đặt trực tuyến.
Trong một cuộc phỏng vấn, Giám đốc điều hành của British Airways, Rod
Eddington thừa nhận rằng BA đã chi 1,1 tỷ bảng Anh cho việc phân phối vào năm 2001.
Tất cả các hãng hàng không đã chi khoản tiền lớn để xây dựng thương hiệu trực
tuyến của mình. Những người tiên phong bao gồm các hãng hàng không lâu đời, chẳng
hạn như American. Các hãng hàng không mới như Bratthens, Rynair và Easyjet đã sử
dụng Internet từ giai đoạn đầu. Một số hãng thậm chí còn sơn máy bay của họ bằng địa
chỉ Internet và sắp xếp các chương trình khuyến mãi đặc biệt trên các tờ báo để thu hút
lượng truy cập vào các trang web của họ.
2. Các tính năng giúp các hãng hàng không giá rẻ tăng tính cạnh tranh:
- Mở ra thị trường lớn với các nhu cầu khác nhau của khách hang.
- Dễ dàng phân phối và cộng tác với các đối tác.
- Giao tiếp và giao dịch với các khách nhanh chóng thuận tiện.
- Phát hành vé điện tử / không giấy tờ;
- Giúp quản lí lợi nhuận
- Vé đơn không có hạn chế về lưu trú.
- Giới hạn hoa hồng và công bố giá vé điện tử.
- Khuyến mại trực tuyến.
- Hệ thống quản lý quan hệ khách hàng phát triển mạnh mẽ;
- Quảng cáo trực tuyến phát triển xúc tiến cho các hang hàng không giá rẻ bán vé
- Đặt chỗ trước cũng góp phần làm giảm chi phí rủi ro.
3. Tương lai
Hệ thống phân phối của các hãng hàng không trong tương lai sẽ phần lớn tập trung
vào việc kết nối với các Stakeholders thông qua mạng lưới Internet.
Hệ thống sẽ bao gồm các đối tác liên kết hệ thống và Extranet: mạng máy tính cho
phép kiểm soát truy cập từ bên ngoài với Hệ thống đường bay nội bộ
- Đối tác liên kết hệ thống và Extranet:
• Mua sắm: giao dịch và kết nối thông tin với các nhà cung cấp
• Phân phối, tiếp thị và hỗ trợ bán hàng với các đối tác
• Cộng tác theo chiều ngang với các hãng hàng không
- Hệ thống đường bay nội bộ:
• Hỗ trợ bán hàng và tiếp thị
• Hệ thống vận hành
• Hệ thống quản lý tài nguyên
Các hãng hàng không là một trong những tổ chức phụ thuộc lẫn nhau nhất trong
ngành du lịch. Các hãng hàng không nối mạng trong tương lai sẽ tận dụng lợi thế của
Internet cũng như các mạng nội bộ và các mạng ngoại vi để giao tiếp với tất cả các
bên liên quan của họ, để cải thiện hiệu quả nội bộ của họ và hiệu quả và tương tác với
tất cả các bên liên quan của họ một cách hiệu quả
Hệ thống phân phối sẽ tiếp tục phát triển với hệ thống quản lí toàn bộ chuỗi cung
ứng theo phương thức điện tử. Bán vé điện tử và thông tin liên lạc không cần giấy tờ
được kỳ vọng sẽ cải thiện dịch vụ khách hàng bằng cách giảm mức độ của bộ máy
hành chính, bằng cách tăng tính linh hoạt và bằng cách tăng tốc tất cả các quy trình
Ứng dụng Ki-ốt tự phục vụ sẽ ngày càng hỗ trợ du khách hơn trong việc đặt chỗ du
lịch, nhận phòng, nhận chở khách đến sân bay, chọn chỗ ngồi, kiểm tra thường
xuyên , yêu cầu nâng cấp, mua vé, in biên lai vé điện tử hoặc túi séc - tất cả mà không
cần xếp hàng chờ đại lý Thiết bị di động và không dây, chẳng hạn như điện thoại di
động, trợ lý kỹ thuật số cá nhân (PDA) và máy tính xách tay, đã được sử dụng để tìm
kiếm và đặt chuyến bay, thay đổi sắp xếp chuyến bay, truy xuất cập nhật thông tin đến
và đi, làm thủ tục và chọn chỗ ngồi.
Tương lai gần. CNTT-TT sẽ cho phép các hãng hàng không thiết lập mạng lưới
toàn cầu, phục vụ khách hàng tốt hơn và giao tiếp với đối tác của họ hiệu quả hơn trên
cơ sở toàn cầu. Họ sẽ cung cấp 'cấu trúc thông tin' để hợp tác chặt chẽ hơn với tất cả
các bên liên quan hiện có. Do đó, các hãng hàng không nối mạng của tương lai sẽ tận
dụng lợi thế của Internet mạng nội bộ và các mạng ngoại vi để củng cố vị thế, củng cố
thương hiệu và đóng góp vào lợi nhuận của nó.

You might also like