Cái riêng là một phạm trù của triết học dùng để chỉ một sự việc, hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn như một con người, một giai đoạn xã hội, một quá trình vận động,… Cái riêng là một chỉnh thể có thể tồn tại tương đối độc lập với nhiều thứ khác. Chẳng hạn như việc một sinh viên được giao bài tập của môn Triết học Marx - Lenin, môn Kinh tế - Chính trị Marx - Lenin, và mỗi phần bài tập đó chính là một cái riêng, mỗi môn mà sinh viên được giao bài tập cũng là một cái riêng. Lấy một ví dụ khác, có hai con chim bị nhốt trong hai lồng khác nhau lần lượt là lồng A và lồng B. Một con chim bị nhốt trong lồng A là một cái riêng a1, một con chim bị nhốt trong lồng B là một cái riêng b1, cái riêng a1 và cái riêng b1 khác nhau. Cái chung là một phạm trù của triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Ở ví dụ vừa rồi, bài tập của môn Triết học Marx - Lenin, môn Kinh tế - Chính trị Marx - Lenin, là một cái riêng, mỗi môn mà sinh viên được giao bài tập cũng là một cái riêng, tuy nhiên các bài tập của mỗi môn đều có điểm chung và được chung quy vào khái niệm “bài tập”, mỗi môn học mà sinh viên được giao bài tập đều có cái chung là những “môn học” và “môn học đại cương”. Một con chim bị nhốt trong lồng A là một cái riêng a1, một con chim bị nhốt trong lồng B là một cái riêng b1, tuy nhiên cả hai con chim bị nhốt trong lồng A và trong lồng B đều có những thuộc tính chung khiến chúng là chim như “là các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng, có cánh, có lông vũ và biết bay”. Trong cặp phạm trù “cái chung - cái riêng” còn xuất hiện một khái niệm liên quan chính là “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất có thể hiểu là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng kết cấu vật chất khác. Cái đơn nhất là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa cái riêng, cái chung và cái phổ biến. Ví dụ như quốc gia Nhật Bản là một cái riêng, ngoài các đặc điểm chung giống các quốc gia khác để có thể được quy vào khái niệm “quốc gia”, còn có những nét riêng chỉ có ở Nhật Bản như văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ, vị trí địa lý, lịch sử hình thành,... đó chính là cái đơn nhất, phân biệt Nhật Bản với các quốc gia khác trên thế giới. Lấy lại ví dụ con chim ở lồng A và lồng B, mặc dù mỗi chú chim là một cái riêng, nhưng đều có những cái chung là sự quy định chúng thuộc lớp chim, nhưng mỗi một con chim trong cả hai lồng đều có cấu tạo gen khác nhau, thể lực khác nhau, tính cách khác nhau,... mà chỉ có con chim đó mới có. 2.2 Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng Cái chung - cái riêng là một trong những cặp phạm trù của triết học, tồn tại khách quan và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thứ nhất, cặp phạm trù cái chung - cái riêng thể hiện ở mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng và các mặt, các yếu tố được lặp lại trong nó và trong các sự vật, hiện tượng khác. Nói một cách dễ hiểu thì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng. Ví dụ như không có “quốc gia” chung nào tồn tại bên cạnh Nhật Bản, Việt Nam, Mỹ,... Trong Nhật Bản, Việt Nam, Mỹ đều bao hàm một số thuộc tính chung quy định chúng là một “quốc gia”, một “khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.”. Chính cái chung “quốc gia” này phải thông qua những cái riêng như Nhật Bản, Việt Nam, Mỹ... để biểu hiện sự tồn tại của chính nó và nếu nó tách rời khỏi cái riêng đó thì chúng cũng không có bất cứ ý nghĩa nào, nói đúng hơn là chúng sẽ không tồn tại. Thứ hai, cặp phạm trù cái chung - cái riêng có mối liên hệ lẫn nhau giữa các thuộc tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó được xét như là như cái toàn bộ. Nói một cách dễ hiểu thì cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Chẳng hạn như mỗi con người là một cá thể riêng biệt, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài cái chung là mối liên hệ với xã hội và tự nhiên, không cá nhân nào là không phải chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Hoặc như nền kinh tế của mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng phong phú là những cái riêng, nhưng bất cứ nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi các quy luật chung như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng. Tóm gọn lại là “cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”. Ví dụ giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, vì vậy nên nó cũng mang những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế chẳng hạn như ra đời từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tức vào đầu thế kỷ XX; đại đa số công nhân xuất thân từ nông dân nghèo làm thuê cho chủ tư sản ở các đồn điền, xưởng máy, xí nghiệp...; trình độ khoa học kỹ thuật cũng như tay nghề của giai cấp công nhân còn thấp. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn có một số đặc điểm riêng như: chịu ba tầng áp bức từ đế quốc, phong kiến và tư sản; gắn bó chặt chẽ với nông dân và mang hai mối thù dân tộc và giai cấp nên có tinh thần cách mạng triệt để; kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; tiếp thu chủ nghĩa Marx – Lenin và chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)... Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện xác định. Sở dĩ như vậy là vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Tuy có cái chung - cái riêng xuất hiện nhưng mà cũng không có sự mâu thuẫn giữa cái chung - cái riêng, cái riêng trở thành cái toàn bộ, cái chung chỉ bộ phận. Ví dụ như sự thay đổi một đặc tính sinh học nào đấy của một loài sinh vật trước biến đổi của môi trường. Ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt, sau đó vì phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Cụ thể, vào khoảng 40 - 50 triệu năm trước, loài Pakicetus (tổ tiên của loài cá voi) là loài động vật có vú, có bốn chân, với kích cỡ bằng một con sói hiện đại đã bắt đầu xuống nước sinh sống, trước sự thay đổi môi trường sống đó mà đặc tính sinh học của loài Pakicetus bắt đầu thay đổi như việc bốn chân bắt đầu biến đổi thành mái chèo. Sau khi xuống nước, khối lượng của chúng dưới sự ảnh hưởng của trọng lực không còn quan trọng nữa cùng với quá trình phát triển của sinh vật phù du và nhuyễn thể trong kỷ băng hà vốn là thức ăn của chúng đã khiến loài cá voi có thể phát triển tới kích thước khổng lồ. Ban đầu những đặc tính trên của Pakicetus xuất hiện ở một cá thể riêng biệt chính là cái đơn nhất, sau đó vì phù hợp với điều kiện sống mới dưới nước mà đặc tính đó đã được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể, và trở thành cái chung. Những đặc điểm của Pakicetus trước đây và của loài cá voi trong từng thời kỳ của lịch sử tiến hóa cũng như những cá thể chứa đặc tính không phù hợp với điều kiện sống, điều kiện sinh tồn và sinh sản của loài sẽ mất dần đi và, từ cái chung của loài trở thành cái đơn nhất. 2.3 Ý nghĩa phương pháp luận Bởi lẽ cái chung là cái sâu sắc, là cái bản chất chi phối cái riêng, chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải những sai lầm. Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi một hoàn cảnh, điều kiện nhất định, cụ thể, khắc phục giáo bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể. Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá. Nếu đem áp dụng toàn bộ cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh, giáo điều. Ví dụ như trong giao thông, vượt đèn đỏ là hành vi vi phạm luật giao thông, vì vậy không có ai được quyền vượt khi tham gia giao thông. Tuy nhiên, điều này không thể áp dụng cho tất cả đối tượng vì khi xe cấp cứu, hoặc xe cứu hỏa cần phải vượt đèn đỏ bởi họ mang nhiệm vụ cứu người do đó không thể nào áp dụng nguyên tắc chung cho tất cả trường hợp, cần phải xem xét sự việc với cái nhìn cụ thể, khách quan. Hoặc như khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Marx - Lenin, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lý đó cho thích hợp, có vậy mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực tiễn. Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con người. Chẳng hạn như vào năm 1986, khi nhận ra trước đây với chế độ tập trung bao cấp không giúp cho nền kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng được. Tại Đại hội đại biểu lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện chính sách đổi mới, quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đó ta nghĩ nền kinh tế bao cấp là nền kinh tế đúng đắn nhất, là cái chung nhất nhưng sau này khi nhận ra sai lầm thì đây không phải là nền kinh tế phù hợp, lúc này cái chung biến thành cái đơn nhất.