You are on page 1of 44

HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM

PHÂN VIỆN MIỀN NAM


KHOA LÝ LUẬN & KHOA HỌC CƠ SỞ

Ths Bùi Văn Tuyển


Bộ môn: NNLCB CỦA CNMLN
SĐT: 0976.226.944
Email: buituyencn27@gmail.com
NỘI DUNG CHÍNH

I. Khái lược về phạm trù triết học


II. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
III.Nguyên nhân, kết quả
IV.Tất nhiên và ngẫu nhiên
V. Nội dung và hình thức
VI. Bản chất và hiện tượng
VII.Khả năng và hiện thực
1. Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn
nhất
•Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình nhất định.
•Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính,
những mặt, những yếu tố, những quan hệ… tồn tại phổ biến ở
nhiều sự vật, hiện tượng.
• Cái đơn nhất: Là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính…chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định
và không được lặp lại ở bất cứ kết cấu vật chất nào khác
Ví dụ
• Cái riêng
Ví dụ

• Cái chung
2. Quan điểm của CNDVNBC về
mối quan hệ qua lại giữa giữa
cái chung và cái riêng và cái đơn
nhất
Cho rằng cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng
có mối liên hệ hữu cơ với nhau được
thể hiện
- Thứ nhất: “cái chung” chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng mà biểu thị sự
tồn tại của mình
• Ví dụ: Không có một cái cây nói chung
nào tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt,
cây đào cụ thể; những cây trên đều có
những đặc tính chung, có rễ, có thân, có
lá, có quá trình đồng hóa, dị hóa để duy
trì sự sống.
- Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong
mối liên hệ với cái chung (không có cái
riêng tuyệt đối).
• Ví dụ: Một con người là một cái riêng
(không thể tồn tại độc lập được mà phải
gắn liền với thế giới tự nhiên (vật chất
hữu cơ) và xã hội loài người (quan hệ với
mọi người).
Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn
cái chung vì: ngoài đặc điểm giống với nhiều cái
khác, cái riêng còn có cái đơn nhất, cái đặc thù
chỉ nó mới có.
• Ví dụ: Giai cấp công nhân Việt Nam là “cái riêng”
bên cạnh cái chung với giai cấp công nhân ở các
nước trên thế giới bị bóc lột của giai cấp tư sản,
giai cấp không có tư liệu sản xuất… lao động gắn
liền với máy móc và có tính chất xã hội… Giai cấp
công nhân Việt Nam còn có những những đặc điểm
riêng: xuất thân từ giai cấp nông dân, ra đời gắn
liền với việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
cho nên gần gũi với giai cấp nông dân, bị chủ
nghĩa đế quốc thống trị. Những đặc điểm đó khác
với giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa.
3. Một số kết luận về mặt
phương pháp luận
• Vì cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái
chung nên không được tuyệt đối hóa cái riêng
• Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua
cái riêng, nên muốn tìm ra cái chung (bản chất, quy
luật, chính sách, v.v..) phải thông qua việc nghiên
cứu cái riêng. Mặt khác, khi áp dụng cái chung vào
cái riêng cần phải tính đến đặc điểm và những điều
kiện tồn tại cụ thể của cái riêng.
Ví dụ: Xem xét thiệt hại của một vùng nào đó bị
thiên tai ta phải xem xét từng hộ dân từng con
đường từng chi tiết bị thiệt hại nặng nhẹ rồi sau đó
ta mới liên hệ lại với nhau
Ví dụ
Bão (nguyên nhân) -> thiệt hại mùa màng (kết
quả xấu)
- Chủ nghĩa đế quốc là nguyên nhân
của chiến tranh xâm lược
Ví dụ
• + Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của
hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì phải xuất hiện
sau.
Tuy nhiên không phải mối liên hệ nối
tiếp nào cũng đều biểu hiện mối liên hệ
nhân quả.
Ví dụ:
- Ngày không phải là nguyên nhân của đêm
- - Mùa xuân không phải là nguyên nhân của mùa hè.
Ví dụ
• + Là nhà Tư bản thì nhất thiết phải bóc lột
công nhân đó là tất yếu.
Giống tốt, mạ khỏe, nước đủ, đủ phân, chăm sóc chu
đáo thì năng suất lúa cao đó là tất nhiên.
Ví dụ: Những yếu tố làm cho năng suất lúa tăng
cao cũng có thể do sâu rầy, bão tố ập tới thì mất
trắng đó lại là ngẫu nhiên.
Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và
ngẫu nhiên
+ Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho
mình xuyên qua vô số những cái ngẫu
nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của
tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên.
+ Không có tất nhiên thuần túy tách rời cái
ngẫu nhiên, cũng như không có cái ngẫu
nhiên thuần túy tách rời cái tất nhiên.
V. Cặp phạm trù Nội dung và hình thức
* Khái niệm:

-Nội dung tức phạm trù chỉ tổng hợp tất cả


những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật
-Hình thức là phạm trù chỉ phương thức
tồn tại vàphát triển của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệtương đối bền vững giữa các
yếu tố của sự vật đó.
+ Một cái bàn học: Toàn bộ những vật liệu gỗ,
đinh… là nội dung còn hình thức là sự sắp xếp
nguyên vật liệu đó
Ví dụ
+ Nội dung cơ thể sống là toàn bộ yếu
tố vật chất (tế bào, khí quan, quá trình
tạo nên cơ thể đó).
Hình thức: là cách sắp xếp trình tự các
tế bào của cơ thể để tạo thành con hay
cây gì đó.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức
+ Không có hình thức không chứa nội dung,
cũng như không có một nội dung nào mà
không tồn tại trong một hình thức nhất định.
+ Các yếu tố tạo thành sự vật vừa góp phần
tạo nên nội dung, vừa tham gia tạo nê nhình
thức. Vì vậy, nội dung, hình thức không tách
rời nhau mà gắn bó với nhau chặt chẽ.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Nội dung và hình thức luôn thống nhất với
nhau nên trong hoạt động thực tiễn, cần tránh
sự tách rời giữa nội dung và hình thức hoặc
tuyết đối hóa một trong hai mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức cho nên khi
xem xét sự vật, hiện tượng, trước hết cần căn
cứ vào nội dung của nó, muốn thay đổi sự vật,
hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung
của nó.
Ví dụ:
+ Nội dung về kinh tế: xây dựng kinh tế nhiều thành
phần.
+ Hình thức được biểu hiện:
- Kinh tế nhà nước: giai cấp công nhân
- Kinh tế tập thể: Giai cấp nông dân
- Kinh tế tư sản nhà nước: Giai cấp tư sản dân tộc.
- Kinh tế tư sản nước ngoài: Giai cấp tư sản 
- Kinh tế tư nhân
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
VI. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
*Khái niệm
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn
định ở bên tron sự vật, quy định sự vận
động và phát triển của sự vật đó.
- Còn hiệntượng là biểu hiện của những mặt,
những mối liên hệ ấy ra bên ngoài

Ví dụ:Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ


giữa điện tử và hạt nhân, còn những tính chất hóa học
của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố
khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên
kết giữa điện tử và hạt nhân. 
Ví dụ: + Bản chất của giai cấp tư
sản là bóc lột giai cấp công nhân và
người lao động bằng nhiều quy luật:
Quy luật giá trị thăng dư, quy luật
lợi nhuận…
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và
hiện tượng:
+ Thống nhất trong sự vật:
- Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn
hiện tượng bao giờ cũng là sự thể hiện của bản
chất;
- Không có bản chất thuần túy tách rời hiện tượng và
ngược lại, không có hiện tượng không thể hiện bản
chất;
- Bản chất khác nhau bộc lộ qua các hiện tượng
khác nhau;
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và
hiện tượng:
+ Thống nhất bao gồm mâu thuẫn:
- Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng phong
phú hơn bản chất;
- Hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng dưới dạng cải
biến;
- Bản chất tương đối ổn định, còn hiện tượng biến
đổi nhanh hơn bản chất;
- Bản chất ẩn dấu bên trong còn hiện tượng bộc lộ ra
ngoài.
Ví dụ
- Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội
lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính chất chiếm hữu tư
nhân tư bản đối với tư liệu sản xuất -> Giữa người bị bóc lột
(giai cấp vô sản) mâu thuẫn với người bóc lột (giai cấp tư
sản).
- Bản chất đó được biểu hiện bằng những hiện tượng vô cùng
phong phú và phức tạp: đó là cuộc khủng hoảng chu kỳ:
+ Nạn thất nghiệp thường xuyên xảy ta .
+ Cuộc sống xa hoa trụy lạc của giai cấp tư sản.
+ Đời sống cực khổ của giai cấp vô sản và người lao động
Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức, không được dừng lại ở hiện
tượng mà phải đi sâu tìm ra bản chất của sự
vật. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác
nhau mới nhận thức đúng được bản chất.
- Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật
nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn
cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện
tượng mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác
về sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
• Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, bóc lột nhân
dân các nước, gây mất trật tự an ninh về mặt chính trị. Bản
chất đó được biểu hiện bằng nhiều hình thức phức tạp: viện
trợ kinh tế, viện trợ có tính chất nhân đạo, hợp tác văn hóa,
du lịch… Những hình thức đó không biểu hiện đầy đủ bản
chất của sự vật và vấn đề.
• Có khi còn xuyên tạc bởi vẻ bề ngoài. Cho nên xem xét một
sự vật phải thật cặn kẽ để từ hiện tượng đến tận cội nguồn
của bản chất để có biện pháp phòng ngừa. Chúng thường
mang tính chất nhân quyền một cách trừu tượng, áp đặt cho
từng nước để gây mất ổn định đối với một quốc gia.
Hình ảnh minh họa về chủ nghĩa đế
quốc xâm lược và bóc lột nhân dân các
nước
Bạn A Học tập chăm chỉ và siêng năng dẫn
đến đỗ đại học
Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng
và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất, không tách rời, luôn chuyển hóa lẫn nhau.
- Khả năng trong những điều kiện nhất định thì biến
thành hiện thực.
- Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới và trong những
điều kiện nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực
Ví dụ
• Những năm 1986 – 1990: Là những năm nhân dân ta gặp rất
nhiều khó khăn về cuộc sống sinh hoạt (tiền mất giá, giá hàng
tăng…) => Đây là hiện thực.
• Đại hội Đảng lần thứ VI trước hiện thực như vậy đã khắc phục
những khó khăn, Đảng ta đã đề ra nhiều biện pháp, trong đó có
vấn đề đổi mới tư duy (trước tiên là tư duy kinh tế) dần dần từng
bước đổi mới toàn diện, thay đổi tình trạng kinh tế của xã hội:
bảo đảm trật tự an ninh xã hội, nâng cao, ổn định đời sống.
• => Khả năng
Kinh tế nước ta đã được khắc phục sau
những năm 1989 sau đại hội Đảng VI

You might also like