You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN


ĐỀ TÀI 2:
PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
LỚP CC02 --- NHÓM 2 --- HK 211
NGÀY NỘP 28/10/2021
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Minh Hương

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Võ Quang Bảo 2010155
Phan Anh Trường Sơn 2053403
Đào Công Tài 2053409
Trần Tiền Hào 2052972
Liêu Mạnh Hưng 2053070

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
5. Kết cấu của đề tài.................................................................................................2
CHƯƠNG 1: TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN NAY.............3
1.1 Ý thức và tính sáng tạo của ý thức....................................................................3
1.1.1 Ý thức.............................................................................................................3
1.1.2 Tính sáng tạo của ý thức..............................................................................11
1.1.3 Vai trò tính sáng tạo của ý thức...................................................................12
1.2 Vai trò tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên......13
1.2.1 Hoạt động học tập và đặc điểm của nó........................................................13
1.2.2 Những năng lực cần có để việc học tập đạt được hiệu quả..........................15
1.2.3 Tính cấp thiết sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập.........................17
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.........................................................................................17
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY.............................................................18
2.1 Tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay.............................................18
2.1.1 Tổng quan hoạt động học tập của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa
Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay.........................................................................18
2.1.2 Đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong việc phát huy tính sáng tạo của ý
thức trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành
Phố Hồ Chí Minh hiện nay....................................................................................19
2.1.3 Nguyên nhân của những tích cực và hạn chế...............................................20
2.2 Giải pháp phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của
sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay.........22
2.2.1 Căn cứ của giải pháp...................................................................................22
2.2.2 Đề xuất giải pháp phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập
.............................................................................................................................. 24
của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay......24
2.2.3 Đánh giá tính hiệu quả của giải pháp..........................................................26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.........................................................................................29
KẾT LUẬN................................................................................................................30
TÀI LIÊU
̣ THAM KHẢO.........................................................................................31
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phai triết học quan tâm
nghiên cứu, nhưng tùy theo cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác
nhau, là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau, hai đường lối cơ
bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 1. Đứng vững trên lập
trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái quát những thanh tựu mới nhất của khoa
học tự nhiên và bám sát thực tiễn xã hội, triết học Mác-Lênin đã góp phần làm sáng tỏ
vấn đề ý thức, qua đó giúp con người thấy được ý thức phát triển và thay đổi đồng thời
với chuyển biến của xã hội.

Trong suốt quá trình phát triển của nhân loại, việc học tập đóng một vai trò rất
quan trọng. Thông qua việc học, con người tự ý thức được vị trí của bản thân trong thế
giới tự nhiên, họ phát triển xã hội từ những việc săn, bắn, hái, lượm, đưa xã hội loài
người lên nhiều nền văn minh tiên tiến hơn, tạo nên những bước đột phá về công nghệ
bằng những cuộc cách mạng công nghiệp từ 1.0 đến hiện tại nhân loại đang bước tới
cách mạng công nghiệp 4.0. Tất cả những thứ con người tạo ra đều bắt đầu từ việc học
tập. Học tập là một quá trình dài, là một cách để con người tiếp cận tri thức, nâng cao
trình độ, mở mang trí óc để khám phá những điều hay lẽ phải. Học là việc cần thiết
suốt đời bởi tri thức nhân loại là một kho tàng vô cùng phong phú, nó như biển cả
mênh mông mà sự hiểu biết của con người lại có hạn. Hiện nay với một trường đại học
kĩ thuật như trường Đại học Bách Khoa – Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh,
sinh viên trường ta luôn phải không ngừng tìm tòi, học hỏi và trao dồi kiến thức lẫn
kinh nghiệm để phát triển trong công việc và cuộc sống sau này.

Vì vậy, với vai trò to lớn của ý thức, vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là làm sáng tỏ
nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức theo triết học Mác – Lênin đồng thời phân tích
tính sáng tạo của ý thức, xác định rõ những thành tựu đã đạt được và những hạn chế
cần khắc phục trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại
Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, từ đó, đưa ra các biện pháp học tập hiệu quả
để sinh viên có thể tham khảo và vâ ̣n dụng vào việc học tập để khắc phục những hạn
1
Bô ̣ Giáo dục và Đào tạo (2010): Giáo trình Triết học Mác – Lênin (tái bản có sửa chữa, bổ sung), NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, trang 77.
1
chế còn cản bước sinh viên trong công cuộc tạo ra một môi trường học tập và phát
triển tốt.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức theo triết học Mác – Lênin.
- Tìm hiểu tổng quan hoạt động học tập của sinh viên Bách Khoa hiện nay.
- Phân tích thực trạng của hoạt động học tập của sinh viên Bách khoa hiện nay và
tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
- Điểm ra những mặt hạn chế và đưa ra giải pháp làm tư liệu hữu ích để đóng góp
vào việc nâng cao và phát huy tính sáng tạo của ý thức đối với trong hoạt động học
tâ ̣p của sinh viên ĐHBK TP.HCM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về mảng kiến thức triết học nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức và
nghiên cứu, đánh giá tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Bách khoa – Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

Phạm vi tìm hiểu trong giáo trình bộ môn triết học Mác- Lênin và các tài liệu khác
về nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức thuộc phần II chương V “Vật chất và ý
thức” Giáo trình Triết học Mác – Lênin Lênin (tái bản có sửa chữa, bổ sung), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội (2010) từ trang 84 - 91. Ngoài ra, phạm vi tìm hiểu còn dựa
vào các hoạt động thúc đẩy tinh thần học tập của các bạn sinh viên Đại Học Bách
Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây (2018-2021).
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận biện chứng và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
- Phương pháp đọc, tìm và nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, đối chiếu.
- Phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 02 chương và 04
tiểu tiết.

2
CHƯƠNG 1: TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN
NAY
1.1 Ý thức và tính sáng tạo của ý thức
1.1.1 Ý thức
1.1.1.1 Nguồn gốc của ý thức

Khi lý giải về nguồn gốc của ý thức, các trường phái triết học khác nhau có
những quan điểm khác nhau về nguồn gốc của ý thức. Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý
thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự
tồn tại, biến đổi của toàn bô ̣ thế giới vâ ̣t chất. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với
Platôn hay G. Hêghen khẳng định “ý niê ̣m tuyê ̣t đối” là bản thể, sinh ra toàn bô ̣ thế
giới hiê ̣n thực. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan với những đại diê ̣n tiêu biểu như G.
Béccơli, E. Makhơ lại cho rằng ý thức của con người là do cảm giác sinh ra, mà “cảm
giác” đó chỉ là cái vốn có của mỗi cá nhân, tồn tại tách rời, biê ̣t lâ ̣p với thế giới bên
ngoài. Đó là những quan điểm hết sức phiến diê ̣n và sai lầm của chủ nghĩa duy tâm.
Đối với chủ nghĩa duy vâ ̣t siêu hình, do trình đô ̣ phát triển khoa học đương thời còn
nhiều hạn chế và bị phương pháp siêu hình chi phối nên những quan niê ̣m về ý thức
còn mắc nhiều sai lầm. Các nhà duy vâ ̣t siêu hình đã đồng nhất vâ ̣t chất với ý thức, coi
ý thức là mô ̣t dạng vâ ̣t chất đă ̣c biê ̣t do vâ ̣t chất sinh ra. Tiểu biểu là Đêmôcơrít với
quan niê ̣m ý thức là do những nguyên tử đă ̣c biê ̣t liên kết với nhau tạo thành. Những
sai lầm, hạn chế của của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vâ ̣t siêu hình trong quan
niê ̣m về ý thức đã được các giai cấp bóc lô ̣t, thống trị triê ̣t để lợi dụng, lấy đó làm cơ
sở lý luâ ̣n, công cụ nô dịch tinh thần quần chúng lao đô ̣ng.

Đối với chủ nghĩa duy vâ ̣t biê ̣n chứng, dựa trên những thành tựu mới của khoa
học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã cho thấy được ý thức
xuất hiê ̣n đầu tiên là kết quả lâu dài của quá trình tiến hóa của giới tự nhiên; đồng thời,
nó là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hô ̣i – lịch sử của con người. Qua đó, chủ nghĩa
duy vâ ̣t biê ̣n chứng đã nêu lên nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hô ̣i của ý thức.

 Nguồn gốc tự nhiên:

3
Dựa trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật
biện chứng cho rằng, ý thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức
sản sinh ra vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc
người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc con người , do đó khi bộ óc người bị tổn
thương thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy, không thể tách rời ý
thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc người.
Khoa học đã xác định con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời đã xác
định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp
bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên hệ với nhau và với
các giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ với nhau, điều khiển hoạt động của
cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ mang tính ý thức. Khi
khoa học kỹ thuật tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của
con người thì không có nghĩa là máy móc có ý thức như con người. Máy móc là một
kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc
không thể thay thế cho hoạt động trí tuệ của con người, không thể sáng tạo lại hiện
thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như trong con người. Do đó chỉ có con
người với bộ óc mới có ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người – một tổ chức vật chất cao – lại có thể sinh ra
được ý thức? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ vật chất giữa
bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất này hình thành nên quá trình
phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc người.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái
tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai
vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình này, vật nhận tác động bao giờ
cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để làm sáng tỏ nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.

4
Trong quá trình tiến hoá của thế giới vật chất, các vật thể càng ở nấc thang
cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu.
+ Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô
sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hoá (thay đổi kết
cấu, vị trí, tính chất lý – hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang
tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự
nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản
ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích
là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong
môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng
lực cam giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế
phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến
trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều
kiện đối với những tác động của môi trường sống. Tuy vâ ̣y, tâm lý động vật chưa phải
là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý
cơ thể và do quy luật của sinh học chi phối.
+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở con
người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vâ ̣t chất. Ý thức chỉ nảy sinh ở
giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức
bắt nguồn từ thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh phát triển thành.ý thức ra
đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Nội dung của ý
thức là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh
thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc là cơ quan phản ánh, song chỉ riêng bộ
óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động bên ngoài của thế giới khách quan
lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động của ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc con người (cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh)
cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

5
Tuy nhiên, sự ra đời của ý thức không phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do
nguồn gốc xã hô ̣i. Nguồn gốc tự nhiên chỉ là điều kiê ̣n cần, còn điều kiê ̣n đủ để quyết
định con người có ý thức chính là nguồn gốc xã hô ̣i.
 Nguồn gốc xã hô ̣i:
Để tôn tại, con người phải tạo ra những vật phẩm để thoả mãn nhu cầu của
mình. Hoạt động lao động sáng tạo của loài người có nhiều ý nghĩa thật đặc biệt. Ph.
Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đây sự ra đời của ý thức:
"Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
sức kích thích chủ yêu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dân
dân biên chuyên thành bộ óc con người" 2. Thông qua hoạt động lao động cải tạo thế
giới khách quan mà con người dã từng bước nhận thức được thế giới, có ý thức ngày
càng sâu sắc về thế giới.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động
cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng
tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động con người tách ra khỏi giới động vật.
Mô ̣t trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật
sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà
bắt giới tự nhiên phục vụ lợi ích của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm
cải tạo thế giới khách quan mà con người có thể phản ánh được thế giới khách quan,
mới có ý thức về thế giới đó.
Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là kết
quả hoạt động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách
quan, bắt thế giới khách quan bộc lô ̣ những thuộc tính những kết cấu, những quy luật
vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động
vào bộ óc con người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như vậy,
nếu không có lao động thì thế giới tự nhiên vẫn xa lạ, vẫn bí ẩn đối với con người, con
người không thể có cách nào khác ngoài lao động để có thể phản ánh đúng đắn thế giới
khách quan.
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của con người, làm biến đổi thế giới đó.Ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh

2
C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tâ ̣p, t. 20, Sđd. tr. 646.
6
sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế
giới xung quanh.Vì thế, có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức, tư tưởng,
hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu
óc con người trong quá trình lao động của con người.
Khi nghiên cứu về con người, C, Mác đã khẳng định: “Trong tính hiê ̣n thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hê ̣ xã hội” 3. Vâ ̣y nên, lao động
không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể xã hội. Vì
vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho nhau xuất hiện.
Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và
nhờ lao động mà hình thành nên. Nên ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội
dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và phát triển được.
Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp
trong xã hội, vừa là công cụ tư duy nhằm khái quát hoá,trừa tượng hoá hiện thực. Nhờ
ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải thuần tuý là hiện tượng cá nhân mà là
hiện tượng xã hội, do đó không có phương tiện xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội, ý thức là sản
phẩm cuả xã hội, là một hiện tượng xã hội.

1.1.1.2 Bản chất của ý thức

Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động sáng tạo.

Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.4

Trước hết, để hiểu bản chất của ý thức, chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý thức
đều là hiện thực nghĩa là đều tồn tại nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối
lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được
3
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 3, Sđd. tr.11.
4
V.I. Lênin (1980), Toàn tâ ̣p, t.18, Sđd. tr. 138.
7
phản ánh tức là vật chất, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là
ý thức. Cái phản ánh tức là ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan hay là
hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan lấy cái khách quan làm tiền đề bị cái khách
quan quy định không có tính vật chất.

Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh tức vật chất với cái
phản ánh tức ý thức, nếu coi phản ánh tức ý thức là hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn
giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất ý nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Thứ hai, khi nói đến cái phản ánh – tức ý thức – là hình ảnh của thế giới khách
quan, thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý
thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý
thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con
người mang tính năng động, sáng tạo, lại hiện thực theo nhu cầu của xã hội. Theo C.
Mác, ý thức chẳng qua là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải
biến đi trong đó.

Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có
trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không
có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tượng,
những huyền thoại, những giả thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao.
Những khả năng này càng nói lên tính phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý – ý
thức ở con người mà khoa học con phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản
chất của những hiện tượng ấy.

Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, ý thức đã ra đời. Cho nên quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người là quá trình lao động sáng tạo,
thống nhất giữa ba mặt sau:

 Trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi,
sông, mưa,…). Sự trao đổi thông tin này mang tính hai chiều, có định hướng,
có chọn lọc thông tin cần thiết.
 Mô hình hoá (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình “ sáng tạo” lại hiện thực theo
nghĩa mã hoá các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
8
 Chuyển mô hình từ tư duy sang hiện thực khách quan tức là quá trình hiện
thực hoá tư tưởng, thông qua những hoạt động thực tiễn biến đổi quan niệm
thành cái thực tại, biến đổi các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lùa chọn
những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm hiện thực hoá mục đích của mình. Ví dụ như con người sẽ xây
cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở
trên.
Sáng tạo là thuô ̣c tính đă ̣c trưng bản chất nhất của ý thức. Tính sáng tạo của ý
thức không có nghĩa là ý thức tạo ra vật chất. Sáng tạo ấy của ý thức là sáng tạo của sự
phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng
là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt của bản chất ý thức. Ý
thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội đã tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng
động, sáng tạo của bộ óc.
Từ kết quả nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiê ̣n thực khách quan trên cơ sở
thực tiễn xã hô ̣i – lịch sử.

1.1.1.3 Kết cấu của ý thức

Để nhâ ̣n thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm rõ tổ chức kết cấu của nó,
tiếp câ ̣n từ các góc đô ̣ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mă ̣t về cấu trúc, hoă ̣c
cấp đô ̣ của ý thức.

 Theo chiều ngang, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí ….trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
+ Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và
diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có
nhiều loại khác nhau: tri thức về tự nhiên, về xã hội, vế con người. Tri thức có nhiều
cấp độ khác nhau như: tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày
của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa
học phản ánh trình độ con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Ngày nay, vai trò

9
động lực của tri thức với sự phát triển kinh tế, xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật . Loài
người đang bước vào nền kinh tế tri thức, là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra tri thức
giữ vai trò quyết định. Trong nền kinh tế tri thức , đa số các ngành kinh tế dùa vào tri
thức, dùa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy đầu tư vào tri
thức là yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.
+ Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực
tế xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một thái độ đặc biệt của sự phản
ánh thực tại, nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau, cũng như đối với thế
giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ một vị trí
quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm có thể mang tính
chất chủ động, chứa đựng sắc thái tình cảm tích cực, hoặc thụ động chứa sắc thái tiêu
cực. Tình cảm tích cực là một trong những động lực nâng cao năng lực sống của con
người. Tri thức kết hợp với xúc cảm, tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý trí
tích cực biến thành hành động thực tế mới phát huy được sức mạnh của mình.
+ Sự hòa quyê ̣n giữa tri thức với tình cảm và trải nghiê ̣m thực tiễn đã tạo
nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người hoạt đô ̣ng vươn lên trong mọi hoàn
cảnh.
+ Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy đô ̣ng mọi tiềm năng
trong mỗi con người vào hoạt đô ̣ng để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra.
Nhâ ̣n rõ vị trí, vai trò các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hê ̣ giữa các yếu
tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tâ ̣p, rèn luyê ̣n nâng cao tri thức, tình
cảm, niềm tin, ý chí trong nhâ ̣n thức và cải tạo thế giới.
 Theo chiều dọc, khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người, cần nhận thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức… Tất cả những
yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú,
nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.
+ Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ
với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh
dấu trình độ phát triển của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con
người cũng tự phân biệt, tách mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình
thông qua các mối quan hệ. Nhờ vậy ,con người tự nhận thức về bản thân mình như

10
một thực thể hoạt động có cảm giác tư duy, có hành vi đạo đức và có một vị trí trong
xã hội. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức cá nhân mà còn là tự ý thức của một xã hội,
của một giai cấp hay một tầng lớp xã hội về địa vị và về vai trò của mình trong hệ
thống những mối quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội
mình, của giai cấp mình. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp, hiện đại
hoá đất nước, trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi
chúng ta tự ý thức được vai trò của mình đối với đất nước.
+ Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý
thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng
đã biến gần như thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể,
là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động
tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm
thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất
chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt
động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà
vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
+ Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm
ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Trong
đời sống của con người, có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động
tác được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen đến mức chúng tự động xảy ra
ngay cả khi không có sự điều khiển của lý trí. Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý
- ý thức, tuy nhiên, không nên cường điệu hoá, tuyệt đối hoá và thần bí hoá vô thức.
Trong hoạt động của con người, ý thức vẫn giữ vai trò chủ đạo, quyết định hành vi của
cá nhân. Nhờ có ý thức điều khiển, các hiện tượng vô thức được điều chỉnh, hướng tới
các giá trị chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của
con người.
1.1.2 Tính sáng tạo của ý thức
Ý thức mang bản tính phản ánh, ý thức mang thông tin về thế giới bên ngoài, từ vật
gây tác động được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tín phản ánh quy định tính
khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy tính khách quan làm tiền đề,bị cái khách
quan quy định và có nội dung phản ánh thế giới khách quan.

11
Ý thức có bản tính sáng tạo do ý thức gắn liền với lao động. Bản thân lao đô ̣ng là
hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người. Ý thức không chụp lạc
một cách nguyên si, thụ động sự vật mà đã có cải biến, quá trình thu thập thông tin gắn
liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng
phản ánh gían tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động tác động vào thế
giới để phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt chủ quan của ý thức, ý
thức chỉ có thể xuất hiện ở bộ óc người, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu
tượng hóa, có định hướng, có chọn lọc tồn tại dưới hình thức chủ quan, là hình ảnh chủ
quan phân biệt về nguyên tắc hiện thực khách quan và sự vật, hiện tượng, vật chất,
cảm tính.

Phản ánh và sáng tạo có liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hiện thực
cho thấy: không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất phát, là
cơ sở của sáng tạo. Ngược lại không có sáng tạo thì không phải là sự phản ánh của ý
thức. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận và xử lý thông tin, là sự
thống nhất giữa các mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Vì vậy, C. Mác đã gọi ý
thức, ý niệm là hiện thực khách quan (hay là cái vật chất) đã được di chuyển vào bộ
não người và được cải biến đi trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Biểu hiện của sự phản ánh và sáng tạo, giữa chủ quan và
khách quan của ý thức là quá trình thực hiện hóa tư tưởng. Đó là quá trình tư tưởng
tìm cách tạo cho nó tính hiện thực trực tiếp dưới hình thức tính hiện thực bên ngoài,
tạo ra những sự vật hiện tượng mới, tự nhiên "mới" tự nhiên "thứ hai" của con người.
1.1.3 Vai trò tính sáng tạo của ý thức
Vai trò của tính sáng tạo của ý thức là trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản,
xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo là
sinh viên với ý thức của mình xác định các biện pháp thực hiện tổ chức các hoạt động
thực tiễn. Cuối cùng bằng sự nỗ lực và lý trí của mình, con người có thể quyết định
làm cho mình hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng thế giới khách quan,
vì tính sáng tạo của ý thức là cơ sở quan trọng trong việc xác định mục tiêu, phương
hướng và đề ra biện pháp chính xác và mang hiệu quả cao nhất.

12
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức đồng thời cũng vạch rõ sự tác động ngược lại vô cùng quan trọng của ý thức đối
với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có
tính độc lập tương đối nên có sự tác động ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
1.2 Vai trò tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên
1.2.1 Hoạt động học tập và đặc điểm của nó
1.2.1.1 Khái niê ̣m

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt đô ̣ng học tâ ̣p:

+ Theo N. V. Cudomina coi học tâ ̣p là nhâ ̣n thức cơ bản của sinh viên được thực
hiê ̣n dưới sự hướng dẫn của cán bô ̣ giảng dạy. Trong quá trình đó, viê ̣c nắm vững nô ̣i
dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt đô ̣ng nghề
ngiê ̣p tương lai.

+ Theo I. B. Intenxon xác định học tâ ̣p là loại hoạt đô ̣ng đă ̣c biê ̣t của con người
có mục đích nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các hình thức nhất định của
hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhâ ̣n thức và thực tiễn…

Nhìn chung, hoạt động học tập có thể được coi là hoạt động chuyên hướng vào sự
tái tạo lại tri thức ở người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Và để
tái tạo lại, người học không có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân
(động cơ, ý chí,…) càng phát huy cao bao nhiêu thì việc tái tạo càng diẽn ra tốt bấy
nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi người học. Việc học không chỉ dừng lại ở
việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học phải tiến đến những tri thức khoa
học, những tri thức có tính chọn lựa cao đã được khái quát hoá, hệ thống hoá.

Hoạt đô ̣ng học tâ ̣p của sinh viên cũng có bản chất như vâ ̣y và có thể định nghĩa:
Hoạt đô ̣ng học tâ ̣p ở đại học là mô ̣t loại hoạt đô ̣ng tâm lí được tổ chức mô ̣t cách đô ̣c
đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên gia
phát triển toàn diê ̣n sáng tạo và có trình đô ̣ nghiê ̣p vụ cao.

1.2.1.2 Đặc điểm

13
 Về đô ̣ng cơ học tâ ̣p: Động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được
hình thành dần dần trong quá trình học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của giáo viên. Nhu cầu giải quyết được mâu thuẫn “giữa một bên là “phải hiểu biết”
và bên kia là “chưa hiểu biết” (hoặc hiểu biết chưa đủ, chưa đúng)” là nguyên nhân
chính yếu để hình thành động cơ học tập. Ngoài ra, động cơ nói chung và động cơ
học tập nói riêng thường liên hệ mật thiết tới hứng thú của mỗi người. Nhờ có hứng
thú mà động cơ ngày càng mạnh mẽ. Vì thế vai trò của hứng thú trong học tập là rất
lớn. Trong học tập chẳng những cần có động cơ đúng đắn mà còn phải có hứng thú
bền vững thì học sinh mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất.
 Về phương tiê ̣n học tâ ̣p: Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng
cụ thể, và chủ thể phải có những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh
đối tượng. Trong hoạt động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách,
giáo trình, máy tính… mà nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là
mọi yếu tố của quá của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện
của học tập không có sẵn trong tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình
chủ thể tham gia hoạt động học tập. Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là
các hành động học tập: so sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá… Trong đó, so
sánh, phân loại là những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình
thành những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong tiện để
hình thành nên những khái niệm khoa học. Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học,
phương tiện chủ yếu là tư duy. Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan
trọng và cần thiết.
 Về điều kiê ̣n học tâ ̣p: Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện
của nó. Điều kiện đầu tiên đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực)
như: có sự hướng dẫn của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình…Và điều kiện thứ
hai đó là có sự vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực.
Đó là những tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học,
động cơ, ý chí, hứng thú của người học… Có đầy đủ những điều kiện đó, người học
dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có đối mặt với thầy thậm chí khi ra
trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình tương tác các

14
yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động dạy và học. Trong đó, yếu tố
nội lực ở đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học của người học.
 Về mục đích học tâ ̣p: Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình
thành trong chủ thể dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để hiện thực
hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được
hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều
nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay
đổi chính chủ thể ở đây là người học. Và mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình
thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con
đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và
phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ nó lại trở thành công
cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo.
1.2.2 Những năng lực cần có để việc học tập đạt được hiệu quả
- Mô ̣t là, Sinh viên cần phải thay đổi nhận thức của sinh viên về việc “ học đại
học” . Học đại học khác học phổ thông ở chỗ lên đại học thì tự học là chính, thời gian
học ở nhà phải chiếm đa số. Nhưng phần lớn sinh viên hiện nay vẫn còn dành quá
nhiều thời gian của mình để phục vụ cho việc giải trí như là: sinh nhật, tiệc tùng, đi
chơi …

- Hai là, Triết học đã chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong
thế giới đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các môn học cũng vậy, chúng ta có thể
bắt gặp nhiều sự liên kết kiến thức giữa các môn học, lấy ví dụ các phạm trù “Quan hệ
sản xuất”, “Lực lượng sản xuất”, “Phương thức sản xuất” trong môn kinh tế - chính trị
có thể bắt gặp trong triểt học. Chỉ ra như vậy để thấy rằng chúng ta cần có sự liên hệ
giữa các môn học với nhau, giữa các bài học với nhau bởi hệ thống kiến thức được
trình bày theo một trật tự nhất định, bài sau có liên quan tới bài trước. Chúng ta cần
tránh tình trạng tách rời các môn học với nhau, coi như không có liên quan tới nhau.

- Ba là, sự liên hệ trong suy nghĩ và trong nhận thức khi học về một vấn đề nào đó
là rất quan trọng nhưng như vậy là chưa đủ bởi đó mới chỉ là mối liên hệ bên trong.
Chúng ta còn cần phải mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, cần thẳng thắn trao đổi và
bàn luận với bạn bè, với giảng viên. Cần đối chiếu lập trường, quan điểm của mình với

15
mọi người để tìm ra cái đúng, cái sai trong nhận thức về vấn đề bàn luận, đó chính là
mối liên hệ bên ngoài. Như vậy, liên hệ là một cách học mà chúng ta nên vận dụng.
Cần phải có cả liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài để nhằm bổ sung và hoàn chỉnh
hiểu biết của mình.

- Bốn là, sự học sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta chỉ tiếp thu kiến thức trên lớp và
dừng lại ở đó. Cái quan trọng là phải biết vận dụng được những điều mình đã học vào
thực tế cuộc sống và liên hệ với thực tế để làm rõ hơn kiến thức ở trên lớp. Bác Hồ đã
từng dạy chúng ta: “Học phải đi đôi với hành, lý thuyết phải gắn liền với thực tế”. Lý
thuyết mà không đựoc thực tế chứng minh thì chỉ là lý thuyết suông, còn thực tiễn mà
không dựa trên cơ sở của lý thuyết thì chỉ là lý thuyết sáo rỗng.

- Năm là, cần có sự nghiên cứu trước bài học ở nhà để khi vào lớp ta chỉ cần lắng
nghe và ghi chép ý chính, như vậy đã có thể giúp sinh viên nắm chắc được bài ngay
trên lớp, khi về nhà chỉ cần xem lại một lượt là có thể hiểu toàn bộ bài giảng. Ngoài ra
cần có sự nghiên cứu thêm tài liệu từ các nguồn khác nhau để bổ sung và hoàn thiện
hơn kiến thức của mình.

- Sáu là, cần đổi mới cả cách giảng dạy của giảng viên và cách tiếp thu của sinh
viên, chúng ta cần thẳng thắn loại bỏ phương pháp học đọc–chép truyền thống rất dễ
gây nhàm chán cho cả người dạy và người học. Chúng ta cần có thêm nhiều sự trao
đổi, thảo luận giữa các sinh viên và giữa sinh viên với giảng viên để biến cách học một
chiều thành cách học hai chiều có hiệu quả hơn.

- Bảy là, một điều rất quan trọng nhưng có lẽ không phải ai cũng biết đó là học ở
trên lớp không bao giờ là đầy đủ. Có lẽ một thói quen đã ăn sâu trong ý nghĩ các bạn
sinh viên đó là cứ phải đến trường thì mới gọi là học còn khi ở ngoài trường thì việc
học đối với chúng ta chỉ là thứ yếu. Chúng ta cần thay đổi suy nghĩ tiêu cực này bởi
như Galileo đã từng nói: “Anh không thể dạy cho người khác bất cứ điều gì, mà anh
chỉ có thể giúp cho người ấy tìm ra chân lý”. Vì vậy giáo dục nhà trưòng chỉ mang tính
chất gợi mở còn tương lai của chúng ta phụ thuộc vào chính chúng ta. Những con
người thành công trong cuộc sống là những con người biết học ở mọi nơi, mọi lúc, học
mọi người, bằng mọi cách và qua mọi nội dung.

16
- Vấn đề cuối cùng là sự quản lý thời gian học tập của sinh viên hiện nay. Từ thực
trạng đáng buồn là ngoài thời gian trên líp còn khi đã về nhà thì thời gian học tập một
cách tự giác của sinh viên là rất hạn chế. Vậy họ lãng phí thời gian đó vào việc gì, có
nghìn lẻ một lý do cho câu hỏi trên: ngủ, sinh nhật, đi chơi, đi shopping và thậm chí là
những việc không lành mạnh khác. Do đó khi ngồi vào bàn học là chân tay rã rời, hao
mắt, mệt mỏi và chẳng mấy chốc là không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ ập đến. Bao
nhiêu kiến thức họ tích luỹ được trên lớp không có cơ hội đựoc củng cố. Bài học rút ra
ở đây là cần phải sắp xếp thời gian giữa học tập và các hoạt động khác, trong đó, thời
gian dành cho học tập phải chiếm đa số và chúng ta cần phải tuân thủ chặt chẽ thời
gian biểu đó.
1.2.3 Tính cấp thiết sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập
Trong quá trình rèn luyện và học tập ở môi trường Đại học, tính sáng tạo của ý thức
giúp cho sinh viên có thêm nhiều phương pháp học tập mới cho phù hợp với hoàn
cảnh và môi trường học tập.

Thực trạng hiện nay, vẫn có một số sinh viên chưa tìm được hướng đi phù hợp cho
chính mình, họ vẫn áp dụng những lối tư duy và cách làm việc của các cấp học trước
đây. Sự thụ động trong học tập đã không còn phù hợp với sinh viên, như việc một bạn
sinh viên đợi giảng viên cho bài và về nhà làm xong đem đi nộp.

Điều đó cho thấy sự thiếu tính sáng tạo trong phương pháp học và cả tính chủ động
trong việc học. Một trường hợp khác, khi áp dụng những phương pháp mới cho việc
học tập, sinh viên vẫn còn khá cứng nhắc, áp dụng toàn bộ những phương pháp ấy mà
chưa xem xét đến tính chất và điều kiện của mỗi người là khác nhau, phải biến đổi linh
hoạt để có được kết quả tốt nhất.

Nhằm đem đến cho sinh viên nhiều hơn những cơ hội học tập và tiếp xúc với những
kiến thức mới, góp phần nâng cao nền giáo dục của nước Việt Nam, việc áp dụng tính
sáng tạo của ý thức vào thực tiễn sao cho phù hợp với những tính chất và điều kiện
hiện có của sinh viên là vô cùng cần thiết.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Tổng kết lại, qua Chương1, ta thấy được nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý
thức; ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Sáng

17
tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh
thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau về bản chất nhưng chỉ là
những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng định sức mạnh của con người
trong nhận thức và cải tạo thế giới.

Ý thức con người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách
chủ động, sáng tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động. Phải phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tổ thế giới
khách quan, đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động,
ỷ lại. Qua đó, vâ ̣n dụng tính sáng tạo của ý thức vào hoạt đô ̣ng học tâ ̣p của sinh viên
Viê ̣t Nam nói chung và sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh
nói riêng.

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1 Tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.1.1 Tổng quan hoạt động học tập của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa
Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành trên cả thế giới, Việt Nam không thể
tránh khỏi những ảnh hưởng nhất định về nhiều mặt như kinh tế, xã hội,… Nền giáo
dục nước ta cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng, khi các hoạt động giáo dục trực tiếp tại
trường lớp không thể diễn ra, thay vào đó thầy cô và học sinh, sinh viên phải tham gia
dạy - học trực tuyến.

Tuân thủ theo đúng Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, trường Đại học Bách
Khoa trực thuộc Đại Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã có những giải pháp
nhằm thích ứng với điều kiện khó khăn trong thời buổi dịch bệnh, khi chuyển hẳn sang
phương pháp học trực tuyến (online) thay vì học phối hợp (blended). Đồng thời, về
phía sinh viên đã có những đóng góp, sẻ chia với nhà trường cũng như nổ lực để có thể
tiếp thu một cách hiệu quả khối lượng kiến thức.

18
Về phía nhà trường, sau khi đã củng cố hệ thống dạy – học trực tuyến (BK
Elearning) kể từ khóa K19, đã bổ sung hệ thống thi cử online (BK Exam), các hình

thức kiểm tra khác như vấn đáp, thuyết trình nhóm nhằm đánh giá các môn học một
cách công bằng, khách quan. Ngoài ra nhà trường còn hỗ trợ sinh viên về tài liệu học
tập theo nhiều cách khác nhau như gửi bưu cục về tận nhà cho Tân sinh viên (Khóa
K21), cung cấp các giáo trình môn học trên BK-Elearning, …

Hình 1. Sinh viên tình nguyện Trường ĐH Bách khoa (Đại Học Quốc gia Thành Phố
Hồ Chí Minh) đóng thùng gửi tặng giáo trình cho tân sinh viên

Về phía sinh viên, ngoài việc học online theo thời khóa biểu đăng ký môn học, các
bạn còn tối ưu hóa các nền tảng học trực tuyến (Google meet, Zoom, …) để học nhóm,
trao đổi bài, đăng hỏi bài vào các nhóm hỗ trợ học tập của trường (nhóm Chúng Ta
Cùng Tiến trên Facebook,… ). Song song đó, khi việc ghi chép bài cũng được sinh
viên tối ưu hóa bằng các ứng dụng ghi chép trực tiếp trên điện thoại, máy tính,… bằng
các công cụ ghi chép online giúp có thể tham gia học mọi lúc mà không cần đến sách
vở, bút viết.

Tuy đã có sự cố gắng từ cả nhà trường, thầy cô và sinh viên để có thể học tập tại
nhà hiệu quả như ở trường nhưng vẫn có một số hạn chế không thể tránh khỏi.

19
2.1.2 Đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong việc phát huy tính sáng tạo của ý thức
trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí
Minh hiện nay
 Mă ̣t tích cực:
+ Trong quá trình học tập trực tuyến, các bạn sinh viên Bách Khoa đã tiếp
thu kiến thức một cách sáng tạo, chủ động thông qua nhiều hình thức: tự tra cứu thông
tin, học nhóm trực tuyến, trao đổi bài trên các nền tảng mạng xã hội, … Chính điều
này đã giúp ích cho việc phát triển các kỹ năng khác thông qua học tập như kỹ năng về
tin học cơ bản, kỹ năng tra cứu và chọn lọc thông tin từ nguồn mở, vô hạn (internet),…
+ Chính sự sáng tạo của các bạn sinh viên đã đảm bảo cho sự tiếp thu một
cách liền mạch kiến thức khi chuyển sang hình thức học online, đảm bảo tiêu chí
“không đến trường, nhưng không ngừng học”. Ngoài ra, khai thác tối đa mạng internet
giúp sinh viên rèn luyện không chỉ kỹ năng về học thuật, tra cứu mà còn là hoạt động
cùng nhau (teamwork) bất kể khoảng cách trong thời đại 4.0 mà mọi giới hạn bị phá
vỡ và mọi thứ được kéo gần lại với nhau.
 Mă ̣t tiêu cực:
+ Không thể phủ nhận lợi ích to lớn mà sang tạo trong học tập, nhưng bên
cạnh đó sự sáng tạo cũng tạo ra vô số tiêu cực, có thể kể đến như tiêu cực trong kiểm
tra thi cử do hình thức thi online, điểm danh rồi bỏ đi làm chuyện khác, sao chép bài
tập Bk Elearning, cùng vô số các mánh mẹo khác. Chính sự hình thức, thiếu ý thức ấy
vô tình là rào cản đối với sinh viên, làm nảy sinh tâm lý lười học, học cho qua môn là
rào cản đến với thành công của chính bản thân sinh viên. Không dừng lại ở đó mà sự
sang tạo trong việc học của sinh viên gắn liền với thiết bị điện tử, nên khi xảy ra sự cố
kết nối, hoặc nguồn điện sẽ dễ bị động, lệ thuộc. Chưa kể đến sự tập trung sẽ không
thể đạt được như khi học offline, bởi sự đa tác vụ (multi-task) mà chiếc điện thoại hay
laptop mang lại, khi bạn có thể vừa nghe giảng vừa lướt web, vừa nhắn tin cũng như
vô số các tác vụ khác, mà chính điều đó cũng là yếu tố làm giảm sự tập trung cho việc
học, tiếp thu từ giảng viên.

+ Có thể nói sự sang tạo là một trong những yếu tố tiên quyết cần có trong học tập,
sinh viên Bách Khoa cần chủ động sáng tạo để tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả,
tuy vậy cũng cần hạn chế những tiêu cực từ việc sáng tạo.

20
2.1.3 Nguyên nhân của những tích cực và hạn chế
Đứng trước một không gian mở, đối với sinh viên Bách Khoa mà nói là cơ hội đồng
thời cũng là thách thức to lớn, nên bên cạnh những mặt tích cực từ sự sáng tạo mang
lại cũng tồn tại những tiêu cực. Các nguyên nhân của tiêu cực và hạn chế cũng đến từ
nhiều khía cạnh từ khách quan và chủ quan mỗi sinh viên.

 Về mặt khách quan, cùng với sự phát triển của các sản phẩm công nghệ kỹ
thuật, có thể nói học tập tại nhà mang đến những tiềm năng vô hạn về sáng tạo với
muôn vàng cách học, tìm tòi, nghiên cứu tùy theo cách mà mỗi sinh viên Bách Khoa
khai thác tìm kiếm kiến thức. Chưa kể đến việc được lưu lại video sau mỗi buổi học,
tạo điều kiện để sinh viên có thể sắp xếp chủ động các môn học, cũng như xem lại
phần kiến thức chưa vững, không tham gia được do có việc đột xuất. Tuy vậy chính
sự thoải mái này lại là dao hai lưỡi đối với những sinh viên lười biếng, chủ quan, ỷ
lại vào video xem lại. Bởi vì tiếp thu kiến thức là một quá trình dài hạn có hệ thống,
nên khi để dồn nhiều video đến lúc gần thi mới xem, mới ôn thì sẽ dễ quá tải và kết
quả thất bại trong các bài kiểm tra, thi cuối kỳ là không thể tránh khỏi. Chưa kể hậu
quả có thể dẫn đến tư duy gian lận thi cử, khi mà không học hành vẫn muốn điểm
cao, qua môn, và chính sự sáng tạo lúc này lại là nguồn cơn của muôn vàn kiểu gian
lận và qua mặt giám thị, có thể kể đến là một loạt email hướng dẫn gian lận được các
bạn sinh viên phản ánh trên group K20.

21
Hình 2. Email hướng dẫn gian lận cho bài thi trực tuyến được chia sẻ đến nhiều sinh
viên Đại học Bách Khoa.
Tuy vậy việc sử dụng đa dạng các hình thức như bài thực hành, tự luận, bài
tập nhóm, thuyết trình; xây dựng quy chế kiểm tra đánh giá đặc biệt cho tình huống
đặc biệt, đã giảm thiểu các gian lận, cũng như đánh giá khách qua quá trình học tập
của sinh viên.
 Về mặt chủ quan, những sự cố về đường truyền, kết nối kém cũng như
những hạn chế khách quan khác là không thể tránh khỏi trong quá trình học, nhưng
chiếm phần thiểu số, có thể chủ động liên hệ với thầy cô, bạn bè sau đó để được hỗ
trợ bổ túc phần kiến thức bị hổng.
Đã có không ít những sự cố gắng đổi mới, sáng tạo được ghi nhận trong công tác
dạy và học trực tuyến của nhà trường và sinh viên, khi phần lớn các bạn cảm thấy
thoải mái, không gặp nhiều khó khan với việc học tập, thi cử đánh giá của nhà trường.
Cũng như chuyển đổi nhịp nhàng giữa dạy học truyền thống và dạy học trực tuyến.
Ngoài ra một số môn thí nghiệm cũng có thể thực hiện mô phỏng ngay tại nhà nhờ áp
dụng các ứng dụng thực tế ảo, video hướng dẫn từ phía các thầy cô, giảng viên. Bên
cạnh đó cũng có những hạn chế không thể tránh khỏi, tuy vậy phần lớn có thể cải thiện
dựa trên ý thức chủ động, học tập của sinh viên.
2.2 Giải pháp phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh
viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay
2.2.1 Căn cứ của giải pháp
Quá trình học tập và tiếp thu kiến thức của một học sinh hoặc sinh viên đều bị tác
động bới các yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó, các yếu tố chủ quan đồng thời
cũng bị tác động bởi các yếu tố khách quan. Các yếu tố khách quan có thể là môi
trường học tập, thời gian ôn tập, kiến thức, phương pháp dạy,...Các yếu tố này đều ảnh
hưởng sự ý thức trong học tập và sự tiếp thu kiến thức của học sinh,viên sinh. Do đó,
đòi hỏi mỗi học sinh, sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Bách Khoa Thành Phố
Hồ Chí Minh nói riêng cần có sự điều chỉnh, sáng tạo trong tự ý thức học tập để phù
hợp với từng môn học ở bậc đại học cũng như làm giảm ảnh hưởng tiêu cực mà các
yếu tố khách quan mang lại. Sự điều chỉnh này có thể dựa trên thống kê của báo “Top

22
7 kĩ năng học đại học hiệu quả dành cho tân sinh viên” 5 . Dựa trên thống kê này,
ngoài điều chỉnh ý thức, thái độ trong học tập trong lớp, trong tự học thêm để bố sung
thêm kiến thức và trong ôn tập, tổng hợp kiến thức trước kiểm tra, thì tham gia các
hoạt động kĩ năng mếm cũng giúp ích cho hoạt động học tập của sinh viên, cụ thể là
tham gia hoạt động nhóm. Hoạt động học tập theo nhóm này là một phương pháp học
có thuật ngữ được gọi là Peer learning - “phương pháp học tập đồng cấp”6 . Phương
pháp này đã được nghiên cứu và nhận định tính hiệu quả và tầm quan trọng mà
phương pháp này mang lại cũng như dược ghi nhận lại thành một cuốn sách hướng
dẫn về phương pháp bởi một vị giáo sư là David Boud.

Theo công trình nghiên cứu của David Boud, “phương pháp học tập đồng cấp” là
một pháp học tập theo nhóm, mà theo đó là một tập hợp những sinh viên được hình
thành dựa trên mục đích là trao đổi kiến thức qua lại với nhau, và trong đó họ có cùng
một vai trò. Nói một cách khác thì đây là một nhóm mà không ai trong số đó là có vai
trò giáo viên hay chuyên gia của một lĩnh vực nào đó, có thể nói đây không phải là
một nhóm học phụ đạo.7 Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của nhóm thường sẽ sự chênh lệch
kiến thức mà dẫn đến sẽ có người đang giữ vai trò cao hơn nhưng điều này chỉ đúng ở
giai đoạn đầu, và người đó cũng không mất đi quyền lợi cơ bản mà nhóm này mang
lại. Thay vào việc trao đổi thông tin, thì người này được củng cố kiến thức hơn, vì theo
Albert Einstein, “Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ” .
Đây cũng là cách thức học hiệu quả mà phương pháp này mang lại, khi người chia sẻ
thông tin không những giúp người khác nắm được vấn đề mà còn giúp người chia sẻ
nắm vấn đề sâu sắc hơn.

Theo thống kê của David Boud, thông thường nhóm học đồng cấp được hình thành
từ những sinh viên trong cùng một lớp, nơi mà nhóm này có thể cùng nhau giải quyết
vấn đề học tập, bài tập mà giảng viên đặt ra cũng như có thể sắp xếp thời gian hoạt
động nhóm hiệu quả. Bên cạnh đó, David Boud cũng nhận định rằng “phương pháp
5
Hiền Nguyễn: “Top 7 kĩ năng học đại học hiệu quả dành cho tân sinh viên”, báo điê ̣n tử Kênh tuyển sinh số ra
ngày 19/10/2020, (https://kenhtuyensinh.vn/ky-nang-hoc-dai-hoc-hieu-qua-danh-cho-tan-sinh-vien), ngày câ ̣p
nhâ ̣t 19/10/2020, truy câ ̣p ngày 14/10/2021.
6
Thế Đan: “Phương pháp học tập peer learning”, báo điê ̣n tử Vnexpress số ra ngày 24/02/2020,
(https://vnexpress.net/phuong-phap-hoc-tap-peer-learning-4059478.html?
fbclid=IwAR2P_smpTuaf_CVakx2WZ7cdVAnIQLtKZwpS3M5gzd0CpHz_0bH3VQpN0pE), ngày câ ̣p nhâ ̣t
24/02/2020, truy câ ̣p ngày 14/10/2021.
7
David Boud: “What is Peer Learning and Why is it Important?”, báo nước ngoài số ra năm 2002,
(https://tomprof.stanford.edu/posting/418), truy câ ̣p ngày 14/10/2021.
23
học tập đồng cấp không phải là một chiến lược giáo dục đơn nhất mà đó là sự kết hợp
của nhiều hoạt động học tập. Trên thực tế, phương pháp này theo nhiều mô hình học
tập khác nhau”, đồng thời ông cũng chỉ ra nghiên cứu của Đại học Ulster, Vương
quốc Anh, đã tìm ra mười mô hình của phương pháp này. Từ mô hình giám sát truyền
thống trong đó sinh viên khóa trên dạy kèm cho sinh viên khóa dưới, đến các nhóm
học tập sáng tạo hơn, nơi mà sinh viên cùng khóa hỗ trợ lẫn nhau giải quyết những
vấn đề trong học tập và cuộc sống cá nhân.Ngoài ra, một số mô hình liên quan khác
như là tổ chức cuộc hội thảo, các nhóm học riêng tư, nhóm bạn thân, nhóm thí
nghiệm,nhóm làm dự án,triển khai các hoạt động nghiên cứu, hoạt cố vấn kinh nghiệm
và hoạt động xã hội. 8Trước công trình này, có thể nhắc tới trong ca dao tục ngữ Việt
Nam có câu, “học thầy không tay học bạn”. Đây là câu tục ngữ cũng đã góp phần
khẳng định rằng học từ bạn bè thì cũng có sự hiệu quả hơn khi học từ thầy cô.
2.2.2 Đề xuất giải pháp phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập
của sinh viên trường Đại Học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay
Với các vấn đề đã được đề cập ở phần trước thì các giải phát sẽ được xuất cần phải
đưa ra hướng giải quyết không chỉ mỗi các vấn đề do yếu tố chủ quan mà còn về của
yếu tố khách quan, nhằm để tạo điều kiện cho các sinh viên trường Đại học Bách Khoa
Thành Phố Hồ Chí Minh có thể phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học
tập. Đầu tiên về các yếu tố khách quan mà xuất phát điểm của loại yếu tố này là từ
phía chương trình,phương pháp dạy học và cũng như môi trường học tập của trường.
Đối với các vấn đề này thì về trường Đại học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh là
trường Đại học đào tạo kĩ sư hàng đầu trong khối Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ
Chí Minh nói riêng và toàn miền Nam nói chung, do đó việc phải xây dựng các
chương trình đào tạo phải phù hợp chuẩn đầu ra mà thi trường việc làm yêu cầu nên
không thể thay đổi theo năng lực hay ý muốn của sinh viên nhưng có hai yếu tố cần và
có thể thay đổi ở đây chính là phương pháp dạy học, môi trường dạy và học. Một là về
phương pháp dạy, cần hạn chế phương pháp dạy truyền thống, thay vào đó là khuyến
kích sinh viên tự học trước khi đến lớp và giáo viên là người hỗ trợ tổng hợp và giải
đáp thắc mắc của sinh viên. Bên cạnh đó, thay vì yêu cầu sinh viên làm bài tập cá nhân
thì nên áp dụng một mô hình làm việc nhóm của phương pháp học tập đồng cấp đã
được đề cập ở phần trước, có thể xem đây là cơ hội để giúp sinh viên thành lập nên
8
David Boud, “What is Peer Learning and Why is it Important?” (Tài liê ̣u đã dẫn).
24
nhóm học tập đồng cấp. Ngoài ra, nhà trường còn có dựa trên một mô hình khác cũng
đã được đưa ra ở phần trước của phương pháp học nhóm này mà tổ chức chương trình
học tập cùng nhau, trong đó có một sinh viên đã hoàn thành học phần sẽ đi hỗ trợ cho
những sinh viên đang học phần đó. Hai là về môi trường dạy và học. Trường cần đảm
bảo cung cấp đủ thiết bị hỗ trợ dạy học để cung cấp kiến thức cho sinh viên không chỉ
qua trang sách, đặc biệt đây là trường dạy về kĩ thuật thì cần có sự đổi hỏi thêm về các
thiết bị thực tiễn cho việc thí nghiệm và thực hành, từ đó tạo ra sự thu hút từ môn học.
Đồng thời, trường cũng cần tạo không gian tự học cho sinh viên như khu tự học, thư
viện,…. Đối với thư viện, cần trang bị đầy đủ không chỉ tài liệu cứng mà cần cả tài
liệu mềm. Ngoài sự thay đổi cần thiết của môi trường không thì nhà trường cũng nên
có các suất học bổng khuyến kích để tạo động lực học sinh viên cũng như các cuộc thi
nghiên cứu khoa học với các giải thưởng có giá trị.

Để có thể phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh thì sự hỗ trợ từ phía nhà trường
chỉ có thể xem là điều kiện đủ, điều kiện cần thật sự ở đây là đến từ chính sự tự ý thức
trong học tập của mỗi sinh viên Bách Khoa. Mỗi sinh viên cần có một mục tiêu học
tập xác định và cụ thể ở từng giai đoạn bằng cách lập một danh sách việc cần làm có
thể là của mỗi năm, mỗi tháng, mỗi tuần, mỗi ngày. Các mục công việc có thể là hôm
nay học được một công thức mới hay đọc được vài trang sách cho đến là học bổng
mong muốn. Từ việc hoàn thành từng khoản công việc nhất định sẽ tạo động lực cho
bản thân duy trì việc học. Có được mục tiêu và động lực để duy trì mục tiêu là tiền đề
cơ bản cũng như tất yếu đề đạt được kết quả học tập hiệu quả, nhất là đối với bậc đại
học khi kiến thức mỗi môn rất nhiều và sâu, đồng thời hướng phát triển đa dạng đối
với từng ngàng của từng khoa. Chính vì vậy, khi biết được cụ thể sự phát triển của bản
than ở một giai đoạn cụ thể sẽ cho nền tảng cho sự lựa chọn ở tương lai, từ đây sẽ
tránh sẽ sai làm và tạo bản than sự sáng tạo trong ý thức tự học tập của bản thân. Khi
đã có được mục tiêu và động lực cho mục tiêu đó, thì yếu tố cần thay đổi tiếp theo là
phương pháp học. Ở bậc đại học, tự học là phương học hiểu quả, không quá phụ thuộc
vào kiến thức của thầy cô, và đặc biệt là sự tiếp thu hiệu quả vì bản thân mỗi người là
người thầy của chính người đó. Từ việc lựa chọn kiến thức sẽ và phải học, đến sự điều
chỉnh nhịp độ tiếp thu đều do chính bản thân sinh viên quyết định, điều này góp phần
25
tạo nên sự sáng tạo trong ý thức học tập của mỗi sinh viên khi mỗi người đều có sự
khác nhau về khả năng tự học. Bên cạnh việc tự học thì mỗi cá nhân sinh viên cần tìm
cho mình một nhóm học hiệu quả, nơi mà các sinh viên có thể trao đồi kiến thức từ sự
học của bản thân họ, khi họ truyền đạt lại kiến thức cho sinh viên khác cũng chính là
họ đang hiểu lại kiến thức ấy một cách sâu hơn. Bên cạnh đó, khi học nhóm , sinh viên
cùng khoa hay cùng ngành có thể tự ý thức được sự thiếu sót trong kiến thức qua trao
đồi, từ đó tạo ra những mục tiêu mới. Đồng thời học theo nhóm có thể phát triển kĩ
năng làm việc nhóm của bản thân, đây là một kĩ năng cần thiết mà công việc hiện nay
đều yêu cầu. Chính vì vậy, mỗi sinh viên cần nắm bắt khi giảng viên cho làm việc
nhóm để có thể thành lập một nhóm học hiểu quả khi ở trường cũng như là cơ hội cho
bản than sáng tạo,phát triển kĩ năng cho công việc tương lai.
2.2.3 Đánh giá tính hiệu quả của giải pháp
Các giải pháp được đề ra đã đạt một số thành công nhất định, giúp cho sinh viên
trường Đại học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh có thể phát huy tính sáng tạo của
ý thức trong hoạt động học tập và đạt hiểu quả học tập. Các học bổng đã trở thành mục
tiêu của đại đa số sinh viên, việc này không chỉ khuyển kích ý thức học tập của sinh
viên mà nhờ đó sinh viên còn tích cực tham các hoạt động nghiên cứu khoa học và đã
đạt được nhiều thành tựu.

26
Gần đây nhất, nhóm sinh viên tại Trường Đại học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí
Minh vừa chế tạo thành công pin mặt trời chất màu nhạy quang có sử dụng vật liệu

nanocomposite trên cơ sở graphene làm điện cực catot và anot. Pin có khả năng cải
thiện hiệu suất hơn 20% so với pin dùng vật liệu Pt và TiO2 truyền thống, đồng thời
giảm đáng kể lượng vật liệu Pt và TiO2 sử dụng. Thực tế cho thấy, sự gia tăng nhu
cầu sử dụng năng lượng hóa thạch trên phạm vi toàn cầu đã và đang kéo theo nhiều
vấn đề về ô nhiễm môi trường cũng như cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Các vấn đề trên đã thúc đẩy nhiều nhà khoa học nghiên cứu phát triển công nghệ
năng lượng tái tạo như mặt trời, điện, gió, và thủy triều.9

Hình 3. Nguyên lý hoạt động của pin DSSC (ảnh nhỏ: sản phẩm pin DSSC hoàn thiện
của đề tài)

Trước tình hình dịch Covid-19, nhóm nghiên cứu Phòng Thí Nghiê ̣m Trọng điểm
Đại Học Quốc Gia – Thành phố Hồ Chí Minh Công Nghệ Hoá Học & Dầu Khí đã chế
tạo và sản xuất khẩu trang khẩu trang vải cotton trên cơ sở graphene và nano bạc –
BK-GRAPHENE MASK có khả năng lọc được bụi mịn, kháng khuẩn và có thể ngăn
chặn được giọt lỏng có chứa virus corona. Nhóm nghiên cứu có thể sản xuất từ 200
đến 300 khẩu trang/tuần.
9
Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học&Công nghê ̣: “Chế tạo thành công pin năng lượng mặt trời từ vật
liệu nanocomposite trên cơ sở graphene”, báo điê ̣n tử số ra ngày 08/10/2021, (https://cesti.gov.vn/bai-
viet/CTDS5/che-tao-thanh-cong-pin-nang-luong-mat-troi-tu-vat-lieu-nanocomposite-tren-co-so-graphene-
2a16482f-3b22-4349-98ec-31e19f90afe6?fbclid=IwAR1L_nes4aofWoabTfuLHkV-
T2Vo1RT_uZtfTmlLs75uQpjqOxERZYId41Y), truy câ ̣p ngày 15/10/2021.
27
Hình 4. Khẩu trang “BK-Graphene Mask”

Các khu tự học và thư viện đã trờ thành nơi tập trung đông sinh viên trong trường,
theo công bố có… sinh viên đến thư viện mỗi ngày. Ngoài ra còn có sự tích cực tham
gia của một số sinh viên vào chương trình Study Buddy để hỗ trợ các sinh viên chưa
hoàn thành học phần, cũng như tìm hiểu lại kiến thức đã học và kiếm thêm thu nhập.
Bên cạnh các các chương trình hỗ trợ từ trường thì sinh viên trường Đại học Bách
Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh đã sáng tạo, tận dụng phương tiện mạng để thành lập
nên “Cộng đồng chúng ta cùng tiến”, đây là một cộng đồng học tập đã áp dụng tối đa
hiệu quả của phương pháp học tập đồng cấp khi có thể giải quyết vấn đề về thời gian
học và khoảng cách của các thành viên, và cũng như là số lượng sinh viên có thể trao
đổi học tập cùng nhau. Những điều này đã và đang làm cho sinh viên Đại học Bách
Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh có thể phát huy tính sáng tạo của ý thức trong hoạt
động học tập và trở thành một minh chứng cụ thể cho việc Đại học Bách Khoa Thành
Phố Hồ Chí Minh là trường Đại học đào tạo kĩ sư hàng đầu trong khối Đại học Quốc
Gia Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng và toàn miền Nam nói chung.

28
Hình 5. Chương trình Study Buddy trên trang web của Văn phòng Đào tạo Quốc tế
(OISP)

Hình 6. Nhóm học tập “Cộng đồng Chúng Ta Cùng Tiến” của sinh viên Bách Khoa
với hơn 19 000 thành viên

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Trong bất kì thời đại nào, học sinh, sinh viên đang và sẽ trờ thành nguồn nhân lực
lao động quan trọng của một Quốc gia, và đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hiện
đại hóa, công nghệ hóa, hội nhập thế giới hiện nay của Việt Nam. Do đó, để có một
nguồn nhân lực đông đảo chất lượng thì cần có sự thay đổi về phương pháp cũng như

29
môi trường giải dạy sao cho phù hợp chuẩn đầu ra không chỉ của Việt Nam nói riêng
mà còn của thế giới nói chung. Nhưng đồng thời bên cạnh đó cũng cần phải có sự sáng
tạo trong tự ý thức học tập từ chính những học sinh viên sinh. Bởi vì nếu chính những
học sinh, sinh viên đó thiếu đi sự sáng tạo và sự tự ý thức học tập thì cho dù có được
dạy bằng những phương pháp hay môi trường phù hợp thì cũng không thể phát huy tối
đa khả năng học tập và đạt hiệu quả học tập cao nhất. Chính vì vậy, mỗi cá nhân học
sinh, sinh viên phải nắm bắt cơ hội mà nhà trường, nhà nước đã cho và kết hợp với sự
sáng tạo trong tự ý thức học tập của mình để đạt được kết quả tối ưu nhất, kết quả này
không chỉ phục vụ cho tương lai mỗi chính bản thân những học sinh, sinh viên đó mà
còn phục vụ cho chính sách của nhà nước đặt ra, hỗ trợ cho việc công nghiệp hiện đại
hóa, công nghệ hóa, hội nhập thế giới.

KẾT LUẬN

“Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất” 10. Điều này đã cho ta thấy được tầm quan trọng
của ý thức mang lại cho con người chúng ta trong cuộc sống trong hàng nghìn năm
nay. Chính vì lẽ đó, chúng ta càng phải có sự tự ý thức trong hoạt động học tập, vì đây
là hoạt động giúp con người tiếp thu và cải thiện kiến thức, từ đó thay đổi đời sống của
con người. Ngày nay,vai trò của sáng tạo trong ý thức học tập ngày càng quan trọng
khi đứng trước thế kỉ XXI - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thời kì đầy thử thách
đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Chúng ta cần có sáng tạo trong sự tự ý thức học tập để có thể tiếp thu
kiến thức nhanh chóng và hiệu quả để tiến đến công nghệ hóa, hiện đại hóa Đất Nước
và hội nhập thế giới để có thế sánh nganh với các cường Quốc năm Châu như ý
nguyện của Bác Hồ vĩ đại đã để lại cho chúng ta. Để đạt được điều đó, thì chúng ta
phải kích thích và phát huy sự sáng tạo trong tự ý thức học tập ở thế hệ trể hiện nay,
thế hệ nắm vai trò chủ chốt cho tương lai Việt Nam.

10
Bô ̣ Giáo dục và Đào tạo (2010): Giáo trình Triết học Mác – Lênin (TLDD), tr. 80.
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bô ̣ Giáo dục và Đào tạo (2010): Giáo trình Triết học Mác – Lênin (tái bản có sửa
chữa, bổ sung), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tâ ̣p, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tâ ̣p, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. V.I. Lênin (1980), Toàn tâ ̣p, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Trần Huỳnh: “ĐH Bách khoa TP.HCM gửi tặng giáo trình tận nhà cho toàn bộ tân
sinh viên” , báo Tuổi trẻ online số ra ngày 06/10/2021, (https://tuoitre.vn/dh-bach-
khoa-tp-hcm-gui-tang-giao-trinh-tan-nha-cho-toan-bo-tan-sinh-vien-
20211006105613177.htm) ,truy câ ̣p ngày 16/10/2021.
6. Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học&Công nghê ̣: “Chế tạo thành công pin
năng lượng mặt trời từ vật liệu nanocomposite trên cơ sở graphene”, báo điê ̣n tử số
ra ngày 08/10/2021, (https://cesti.gov.vn/bai-viet/CTDS5/che-tao-thanh-cong-pin-
nang-luong-mat-troi-tu-vat-lieu-nanocomposite-tren-co-so-graphene-2a16482f-
3b22-4349-98ec-31e19f90afe6?fbclid=IwAR1L_nes4aofWoabTfuLHkV-
T2Vo1RT_uZtfTmlLs75uQpjqOxERZYId41Y), truy câ ̣p ngày 15/10/2021.
7. Hiền Nguyễn: “Top 7 kĩ năng học đại học hiệu quả dành cho tân sinh viên”, báo
điê ̣n tử Kênh tuyển sinh số ra ngày 19/10/2020, (https://kenhtuyensinh.vn/ky-
nang-hoc-dai-hoc-hieu-qua-danh-cho-tan-sinh-vien), ngày câ ̣p nhâ ̣t 19/10/2020,
truy câ ̣p ngày 14/10/2021.
8. Thế Đan: “Phương pháp học tập peer learning”, báo điê ̣n tử Vnexpress số ra ngày
24/02/2020, (https://vnexpress.net/phuong-phap-hoc-tap-peer-learning-
4059478.html?
fbclid=IwAR2P_smpTuaf_CVakx2WZ7cdVAnIQLtKZwpS3M5gzd0CpHz_0bH3
VQpN0pE), ngày câ ̣p nhâ ̣t 24/02/2020, truy câ ̣p ngày 14/10/2021.
9. David Boud: “What is Peer Learning and Why is it Important?”, báo nước ngoài
số ra năm 2002, (https://tomprof.stanford.edu/posting/418), truy câ ̣p ngày
14/10/2021.
10. Văn phòng Đào tạo Quốc tế – Đại học Bách Khoa: “CÙNG HỌC TIẾN BỘ VỚI
CHƯƠNG TRÌNH STUDY BUDDY”, số ra ngày 31/01/2018,

31
(https://oisp.hcmut.edu.vn/cuoc-song-sinh-vien/cung-hoc-tien-bo-voi-chuong-
trinh-study-buddy.html), truy câ ̣p ngày 17/10/2021.

32
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG ỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Học phần: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN (MSMH: SP1031)
Lớp: CC02 --- Nhóm 2 --- HK 211 --- Năm học: 2021

Đề tài: PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Nhóm Điể
ST
Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công đánh m Ký tên
T
giá BTL
- Xây dựng kế hoạch; Kiểm tra, giám sát
tiến độ thực hiện BTL, duyệt lại toàn bộ
1 2010155 Võ Quang Bảo BTL, nộp BTL; Liên lạc trực tiếp với A
Giảng viên hướng dẫn BTL trong tình
huống có vấn đề; Viết phần Mở đầu.
2 2053403 Phan Anh Trường Sơn - Viết chương 2 (mục 2.1). C
3 2053409 Đào Công Tài - Viết chương 1. B
4 2052972 Trần Tiền Hào - Viết chương 2 (mục 2.2) và Kết luâ ̣n. A

5 - Thực hiêṇ Bìa, mục lục, bảng đánh giá;


2053070 Liêu Mạnh Hưng Tổng hợp bài từ các thành viên, chỉnh A
sửa chung, hoàn thành Word.

Họ và tên Nhóm trưởng: Võ Quang Bảo --- SĐT: 0938525119 --- Email: bao.vovoquangbao@hcmut.edu.vn
Nhận xét của GV.........................................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)

TS. Nguyễn Thị Minh Hương Võ Quang Bảo

You might also like