You are on page 1of 16

Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

MỞ ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nước, xã hội, gia đình và bản thân mỗi người lao động. Bất cứ một
chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là một trong những yếu tố quyết định nhất,
năng động nhất trong sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà
ở là nhờ người lao động. Xây dựng giàu có, tự do dân chủ cũng là nhờ người lao động. Tri
thức mở mang, cũng nhờ lao động. Vì vậy lao động là sức chính của sự tiến bộ xã hội loài
người".
Trong quá trình lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội, con người luôn phải tiếp xúc
với máy móc, trang thiết bị, công cụ và môi trường... Đây là một quá trình hoạt động phong
phú, đa dạng và rất phức tạp, vì vậy luôn phát sinh những mối nguy hiểm và rủi ro... làm cho
người lao động có thể bị tai nạn hoặc mắc bệnh nghề nghiệp. Vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế
nào để hạn chế được tai nạn lao động đến mức thấp nhất.
Rung động trong sản xuất là một trong những tác hại nghề nghiệp thường gặp trong môi
trường lao động hiện nay. Nhằm mục đích tìm hiểu những nguyên lý cơ bản của sự rung động,
phân tích được sự ảnh hưởng của rung động tác động đến sức khỏe người lao động từ đó tìm ra
nguyên nhân và các biện pháp khắc phục. Nhóm đã chọn đề tài: “ Rung động trong sản xuất”.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 1


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Những khái niệm cơ bản về rung động
1. Khái niệm rung động

Rung động là các dao động cơ học trong vùng hạ âm và một phần âm tần.
Dạng rung động đơn giản nhất là điều hoà. Trong sản xuất thường gặp các dạng rung
động phức tạp, là tổng của nhiều dao động điều hoà.
Rung động của một vật thể là sự chuyển dịch tuần hoàn của trọng tâm vật thể đó khỏi vị
trí cân bằng.
Trong nhiều ngành sản xuất có sử dụng các thiết bị tạo ra rung động như: các máy đầm
rung, chèn đá (cho nền đường xe lửa) v.v... Và nhiều thiết bị khác khi làm việc có sinh ra rung
động như máy khoan đá (chạy điện hay khí nén), máy cưa cầm tay, máy tán rỉ xe chạy bằng khí
nén, ôtô, máy kéo, máy cầy, máy gặt v.v...
Các thiết bị nói trên khi làm việc đều sinh ra rung động một yếu tố có hại trong sản xuất.
2. Các đại lượng đặc trưng cho rung động

Các đại lượng vật lý đặc trưng cho rung động


Rung được định nghĩa là dao động của những giá trị chuyển dịch của điểm hoặc của hệ
cơ học, ít nhất là theo một phương toạ độ. Cũng như các chuyển động dao động khác các thông
số đặc trưng cho rung động gồm:
Độ dịch chuyển (x ), đơn vị của độ dịch chuyển là mét
Vận tốc rung (x’ ):: là đạo hàm theo thời gian của chuyển dịch rung. Đơn vị đo vận tốc
rung là m/s.
Gia tốc rung (x’’) là đạo hàm theo thời gian của vận tốc rung. Đơn vị đo gia tốc rung là
m/s2 .
Chu kỳ dao động (T): là khoảng thời gian nhỏ nhất ở các dao động tuần hoàn để mỗi
một giá trị của đại lượng dao động (đặc trưng cho rung) lặp lại. Đơn vị đo chu kỳ rung là giây.
Tần số dao động tuần hoàn (f): là đại lượng nghịch đảo của chu kỳ dao động. Đơn vị đo
tần số là Hz.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 2


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

II. Sự lan truyền của rung động


Các máy móc, thiết bị trong sản xuất cũng như các phương tiện giao thông vận tải trong
quá trình hoạt động thường sinh ra những dao động mạnh, nhất là với các máy móc, thiết bị
làm việc với hành trình lớn, vận tốc cao. Những dao động này dưới dạng sóng cơ, thông qua
các bộ phận của máy, bệ máy, sàn nhà, kết cấu công trình v.v… lan truyền ra các môi trường
xung quanh làm cho các môi trường, vật chất xung quanh chịu tác động và bị dao động theo.
Trong quá trình dao động lan truyền, biên độ dao động sẽ dần giảm biên độ rồi ngừng lại
vì nói chung vật dao động nào cũng chuyển động trong một môi trường và chịu tác dụng ma sát
của môi trường truyền dao động. Tuỳ theo lực ma sát đó lớn hay nhỏ, dao động sẽ ngưng lại
nhanh hay chậm. Chúng ta gọi hiện tượng trên là sự tắt dần dao động. Trong đời sống và trong
kỹ thuật, có trường hợp sự tắt dần của dao động là không có lợi, người ta phải có biện pháp để
khắc phục nó (thí dụ như con lắc đồng hồ). Ngược lại, cũng có trường hợp sự tắc dần dao động
là có lợi, cần thiết (thí dụ như hệ thống giảm xóc của ôtô, xe máy, hay thiết bị tắt rung động lực
của các thiết bị máy móc có trọng lượng và mức dao động lớn v.v…).
Con người và các vật khi tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiến với nguồn rung,những rung
động được truyền tới cơ thể con người và các vật chịu tác động của rung động. Ở thời điểm ban
đầu, cơ thể người và các vật chịu tác động của rung động đồng thời thực hiện hai dao động: dao
động riêng tắt dần và dao động cưỡng bức dưới tác động của ngoại lực. Sau một thời gian rất
ngắn, dao động riêng tắt dần mất đi và khi đó dao động của cơ thể người và các vật chịu tác
động chỉ còn dao động cưỡng bức dưới tác dụng của ngoại lực. Nếu ngoại lực được duy trì lâu
dài thì dao động cưỡng bức cũng được duy trì lâu dài với tần số bằng tần số của dao động
cưỡng bức.
Về mặt toán học, dao động cưỡng bức xảy ra khi hệ có tác dụng của cáckích động ngoài.
Các kích động này có thể tuần hoàn hay va chạm.
Như thế cơ chế tác động của rung động đối với con người và các vật chịu tác động chính
là sự thực hiện dao động cưỡng bức của cơ thể dưới tác động củakích động lực hoặc kích động
học nào đó.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 3


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Trường hợp khi tần số của lực cưỡng bức bằng tần số riêng của hệ dao động (con người
hay các vật chịu tác động của dao động) thì biên độ của dao động cưỡng bức tăng nhanh đến
một giá trị cực đại, trường hợp này gọi là sự cộng hưởng dao động.
Cộng hưởng dao động là hiện tượng hay gặp trong đời sống và trong kỹ thuật, sản xuất,
nó có thể có lợi hoặc có hại cho con người. Trong thực tế có nhiều hiện tượng cộng hưởng có
hại, thí dụ như chiếc cầu, bệ máy, trục máy, khung xe, thành tầu, sàn tầu, v.v… Nếu vì một
nguyên nhân nào đó chúng dao động cộng hưởng với một vật dao động khác (thí dụ: một máy
phát điện lớn), chúng sẽ rung lên rất mạnh, và có thể bị gẫy, đổ, hoặc làm hư hại các chi tiết,
kết cấu …
III. Một số nguồn gây rung động trong sản xuất
Trong sản xuất có sử dụng các thiết bị khí động (sử dụng khí nén) và dụng cụ điện cầm
tay. Rung động của các thiết bị, dụng cụ này ảnh hưởng đến người công nhân chủ yếu ở một
vài bộ phận của cơ thể như bàn tay, cổ tay, khuỷu tay, vai v.v... Rung động loại này gọi là rung
động cục bộ. Một số thiết bị lớn hơn khi làm việc có rung động, nhưng để vận hành người công
nhân phải đứng, ngồi bên trên thiết bị hoặc trên bệ máy hoặc cả sàn đặt máy. Rung động này
tác động lên toàn bộ cơ thể người lao động gọi là rung toàn thân.
Trong các loại thiết bị, dụng cụ gây ra rung động cục bộ có các thiết bị, dụng cụ có tác
dụng dập và xoay dập được áp dụng rộng rãi trong công nghiệp mỏ, giao thông vận tải, đúc và
trong các quá trình sản xuất khác. Các thiết bị dụng cụ đó gồm búa - khoan dùng khí nén,
khoan điện, máy tán ri vê (sử dụng khí nén), máy dầm bê tông, máy lèn đá (chạy điện) cho nền
đường sắt và các dụng cụ cầm tay khác v.v... Các dụng cụ và thiết bị chạy bằng khí nén, điện
có cơ cấu và công dụng khác nhau và khác nhau về đặc tính rung động. Các búa khoan có tần
số dao động 25 ÷ 50 Hz, độ lệch 0,098 ÷ 0,5.10 -3 m. Máy khoan có điện tần số rung động 9 ÷
20 Hz và độ lệch là 1,0 ÷ 1,5 mm; nhưng cũng có
Những máy khoan có tần số rung động tới 90 Hz và độ lệch là 0,05 ÷ 0,3 mm.Búa khí
động dùng để tán rivê có số lần đập từ 900 ÷ 5000 lần trong một phút, tần số rung động là 30 ÷
60 Hz và độ lệch 0,5 ÷ 2.8 mm, nhưng cũng có nhữ ng búa có tần số rung động tới 100 Hz và
độ lệch là 0,25 ÷ 0,5 mm.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 4


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Các máy dầm dùng khí nén hoặc điện được dùng nhiều trong ngành đúc (làm khuôn) và
xây dựng, làm đường v.v... có số lần dập tới 650 lần trong một phút với tần số rung động là 10
÷ 15 Hz và độ lệch tới 15 ÷ 30 mm. Các máy dùng để gia công thô và tinh sản phẩm kim loại
(như đúc, hàn) có các đặc tính rung động khác nhau, có máy có tần số rung động là 20 ÷ 40
Hz, độ lệch là 0,04 ÷ 6 mm, hoặc ở tần số rung động là 80 ÷ 120 Hz và độ lệch là 0,038 ÷ 0,15
mm.
Các máy khoan sâu có số vòng quay 1500 ÷ 3500 vòng/phút và tần số rung động từ 30
÷ 450 Hz với độ lệch là 0,0015 ÷ 0,47 mm. Khi các máy đó làm việc, người công nhân đứng
thao tác trên sàn có rung động với tần số 18 ÷ 400 Hz.
Một số thiết bị dùng trong sản xuất dược phẩm, như các máy sấy chân không, tủ sấy
tầng sôi tạo ra mức rung động lớn trên sàn đứng vận hành, cách máy 1m đo được tần số rung
động 0,8 ÷ 2 Hz, độ lệch 0,013 ÷ 0,020 mm. Rung động toàn thân thường tác động đến công
nhân điều khiển các phương tiện vận tải, máy di động trên khoảng cách lớn như công nhân lái
xe tải, xe lu, máy kéo trong nông nghiệp. Rung động toàn thân còn tác động đến công nhân
điều khiển các phương tiện vận tải, công nghệ, các thiết bị di động hạn chế (chuyển dịch trên
những mặt bằng nhất định trong gian sản xuất hoặc khai thác mỏ) như công nhân lái máy xúc,
cần trục công nghiệp, máy liên hợp khai thác mỏ…

Hình 1.1: Một số nguồn gây rung động tác động đến người công nhân

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 5


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

IV. Tiêu chuẩn vệ sinh, máy đo, phương pháp đo và đánh giá rung động
1. Tiêu chuẩn
- TCVN 512 - 90: Rung toàn thân.
- TCVN 5127 - 90: Rung cục bộ.
- Tiêu chuẩn rung thực hiện theo Quyết định 3733/2002/QĐ – YT ngày 10/10/2002 của

Bộ Y tế.
2. Máy đo và phương pháp đo rung động

Máy đo rung động có nhiều loại khác nhau.

Về đại lượng đo có 2 loại chính:

- Máy đo độ dịch chuyển (mm), vận tốc rung động (mm/s, m/s), gia tốc rung động
(m/s2).
- Máy đo mức vận tốc rung động (dB), mức gia tốc rung động (dB).

Về kích thước máy đo, có 2 loại:

- Loại máy có kích thước nhỏ gọn, nhẹ ( máy đo xách tay) dung để mang đi hiện
trường đo.
- Loại máy có kích thước lớn hơn, nhiều tính năng hơn thường đặt cố định trong phòng
thí nghiệm.

Các máy đo rung động loại xách tay được dung phổ biến trong nước là các máy đo
VM61, VM62, VM63… của hãng Rion Nhật Bản, các máy đo của hãng Bruel & Kjaer Đan
Mạch như máy Vibration Meter Type 2511 ( thường dung với bộ lọc kiểu 1621).

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 6


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Model VA – 508C Vibration system Model VI – 100 Vi bration meter.

Hình 1.2: Ảnh chụp máy đo rung Model VA – 508C Vibration system và Model VI – 100 Vi
bration meter.

3. Tiêu chuẩn rung động trong sản xuất

Định mức vệ sinh của tiếng ồn và rung động trong sản xuất là giới hạn cho phép về tiếng
ồn và rung động, mà trong giới hạn đó người công nhân có thể lao động trong nhiều năm
không bị bệnh nghề nghiệp do tiếng ồn và rung động. Nhưng thực tế đã đạt đến giới hạn hoàn
toàn hợp vệ sinh đó, đòi hởi một chi phí khá lớn và yêu cầu kỹ thuật cao, do đó khi lập định
mức về vệ sinh người ta phải lấy điều kiện “ có thể chịu được” mà chưa phải là “ tối ưu”. Như
vậy định mức vệ sinh là sự thỏa hiệp giữa yêu cầu vệ sinh với khả năng kỹ thuật và kinh tế
trong một giai đoạn nào đó. Mỗi nước đều có tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành hoặc các
quy định bắt buộc thi hành hay khuyến khích thi hành.

Định mức rung động cho phép đối với con người trong sản xuất có 2 loại tiêu chuẩn, áp
dụng cho rung động toàn than ( tại chỗ làm việc) và rung động cục bộ

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 7


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

a. Mức rung động cho phép tại chỗ làm việc

Định mức tiêu chuẩn Việt Nam về giá trị cho phép của rung động tại chỗ làm việc được
thể hiện trong nội dung tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN 5126 – 90 do Ủy ban Khoa học và Kỹ
thuật Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định ban hành số 681/QĐ ngày 08 tháng 12 năm
1990.

Rung động tác động lên cơ thể người tại chỗ làm việc thường có tần số trong phạm vi từ
0.7 ÷ 90 Hz. Mức rung cho phép tác động lên cơ thể người quy định cho những loại sau:

Loại 1: Rung vận chuyển, tác động tại chỗ làm việc của công nhân của những máy di
động và các phương tiện vận tải khi làm việc. Ví dụ: điều khiển máy kéo trong nông nghiệp, xe
tải, máy làm đường…

Mức rung loại này không áp dụng cho phương tiện vận tải đường sắt, đường thủy và
đường không.

Loại 2: Rung vận chuyển – công nghệ, tác động tại chỗ làm việc của những máy có di
động hạn chế trên những khu vực nhất định của sản xuất công nghiệp và khai thác mỏ. Ví dụ:
điều khiển máy xúc, cần trục công nghiệp, máy liên hiệp khai thác mỏ.

Loại 3: Rung – công nghệ, tác động tại chỗ làm việc của những máy tĩnh tại, hoặc
truyền ra nơi làm việc không có nguồn rung. Ví dụ: công việc của người điều khiển máy công
cụ ở những chỗ không có nguồn rung khác

Đối với những chỗ làm việc có yêu cầu cao về cách rung thì phải có hệ số bổ sung, đặc
biệt phải có giới hạn riêng, chặt chẽ hơn. Ví dụ: chỗ làm việc của các phòng quản lý nhà máy,
phòng thiết kế, phòng thí nghiệm và những phòng dung để kiểm tra chất lượng sản phẩm trong
nhà máy…

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 8


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

b. Mức rung cục bộ cho phép

Đánh giá rung cục bộ thường là giá trị trung bình bình phương của vận tốc hoặc gia tốc
rung và thời gian tác động của rung.

Các giá trị vận tốc và gia tốc được đánh g á trong vùng tần số từ 5,6 đến 1400 Hz, bao
gồm 8 giải ócta từ 8Hz đến 1000Hz.

c. Tiêu chuẩn rung đối với môi trường khu công cộng và khu dân cư

Các máy móc, thiết bị trong sản xuất cũng như các phương tiện giao thông vận tải, các
hoạt động xây dựng và sản xuất công nghiệp, trong quá trình hoạt động thường sinh ra những
dao động mạnh. Những dao động này dưới dạng song cơ, truyền trực tiếp tới cơ thể người, làm
cho cả cơ thể hoặc từng bộ phận của cơ thể dao động, hoặc lan truyền ra môi trường xung
quanh, các khu công cộng, khu dân cư ( bao gồm khu dân cư, khách sạn, nhà nghỉ, cơ quan
hành chính….) gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình, đến chất lượng cuộc sống
sinh hoạt của dân cư, điều dưỡng hoặc ảnh hưởng đến môi trường làm việc nơi công sở.

Ngoài các biện pháp kỹ thuật, tổ chức quy hoạch… việc định mức tiêu chuẩn tối đa cho
phép đối với rung động do ảnh hưởng của phương tiện giao thông, của hoạt động xây dựng và
sản xuất công nghiệp cũng là một giải pháp tích cực nhằm hạn chế tác dộng có hại của rung
động đối với môi trường khu công cộng và khu dân cư.

Trích dẫn dưới đây là tiêu chuẩn Việt Nam về giới hạn cho phép của rung động và chấn
động, rung động và va chạm do các hoạt động xây dựng và sản xuất công nghiệp, do phương
tiện giao thông vận tải đối với môi trường khu công cộng và khu dân cư ( bảng 1.1, 1.2 và 1.3)

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 9


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Bảng 1.1: Mức gia tốc rung cho phép trong hoạt động xây dựng (dB)
( TCNV 6962: 2001)

Thời gian áp Mức cho phép


Khu vực Ghi chú
dụng trong ngày (dB)

7 giờ - 19 giờ 75
Thời gian làm việc liên
Khu vực cần có môi
tục không quá 10 giờ/
trường đặc biệt yên tĩnh
ngày
19 giờ - 7 giờ Mức nền

7 giờ - 19 giờ 75
Khu dân cư, khách sạn, Thời gian làm việc liên
nhà nghỉ, cơ quan hành tục không quá 10 giờ/
chính và tương tự ngày
19 giờ - 7 giờ Mức nền

6 giờ - 22 giờ 75

Khu dân cư xen kẽ trong Thời gian làm việc liên


khu vực thương mại, tục không quá 14 giờ/
dịch vụ và sản xuất ngày
22 giờ - 6 giờ Mức nền

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 10


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Bảng 1.2: Mức gia tốc rung cho phép trong hoạt động sản xuất công nghiệp ( dB)

( TCVN 6962: 2001)

Mức cho phép và thời gian áp


Khu vực dụng trong ngày ( dB) Ghi chú
6 giờ - 18 giờ 18 giờ - 6 giờ

Khu vực cần có


môi trường đặc 60 55
biệt yên tĩnh

Mức gia tốc rung quy định trong bảng


là:
1) Mức đo được khi dao động ổn
Khu dân cư, định, hoặc
khách sạn, nhà 2) Là trung bình của các giá trị
nghỉ, cơ quan 65 60 cực đại đối với mồi giao động
hành chính và khi dao động được đo có chu
tương tự kỳ hay ngắt quãng, hoặc
3) Là giá trị trung bình của 10 giá
trị lớn nhất từ 100 giá trị đã đo
được của mỗi 5s hoặc tương
đương của nó khi các dao động
Khu dân cư xen là bất quy tắc và đột ngột
kẽ trong khu vực
70 65
thương mại, dịch
vụ và sản xuất

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 11


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Bảng 1.3: Giới hạn gia tốc rung cho phép của các phương tiện giao thong đường bộ tác
động đến môi trường khu công cộng và dân cư ( TCVN 7210 : 2002)

Thời gian áp Giới hạn


Khu vực Thời gian đo
dụng trong ngày dB m/s2
7 giờ - 19 giờ 65 0,018
Khu công cộng và dân
cư 19 giờ - 7 giờ 60 0,010

Đo trong khoảng
6 giờ - 22 giờ 70 0,030 thời gian không ít
Khu dân cư xen kẽ hơn 4 giờ
trong khu thương mại,
dịch vụ, sản xuất
22 giờ - 6 giờ 65 0,018

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 12


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA RUNG ĐỘNG

I. Ảnh hưởng của rung động tới con người, công trình đô thị và môi trường
Các máy móc, thiết bị trong sản xuất cũng như các phương tiện giao thông vận tải trong
quá trình hoạt động thường sinh ra những dao động mạnh, nhất là với các máy móc, thiết bị
làm việc với hành trình lớn, vận tốc cao. Những dao động này dưới dạng sóng cơ, truyền trực
tiếp tới cơ thể người, hoặc qua các bộ phận của máy, bệ máy, sàn nhà, và tới cơ thể con người,
làm cho cả cơ thể hoặc từng bộ phận của cơ thể dao động.
Con người trong trường hợp này được coi như một hệ cơ học đàn hồi có tần số dao động
riêng từ 4 ÷ 30 Hz và có khả năng chịu tác động của những dao động có tần số tới 5000 Hz.
Khi tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiến với nguồn rung, những rung động được truyền tới cơ thể.
Ở thời điểm ban đầu, cơ thể người đồng thời thực hiện hai dao động: dao động riêng tắt dần và
dao động cưỡng bức dưới tác động của ngoại lực. Sau một thời gian rất ngắn, dao động riêng
tắt dần mất đi và khi đó dao động của nó có thể chỉ còn dao động cưỡng bức dưới tác dụng của
ngoại lực.
Như thế cơ chế tác động của rung động đối với con người chính là sự thực hiện dao
động cưỡng bức của cơ thể dưới tác động của kích động lực hoặc kích động động học nào đó.
Khi tiếp xúc với rung động, cơ thể con người sẽ thực hiện dao động cưỡng bức và đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân của những biến đổi về tâm sinh lý trong cơ thể
cũng như là nguyên nhân của sự xuất hiện những bệnh về rung động.
Tuy thuộc vào một số yếu tố như: thời gian tiếp xúc với nguồn rung, vị trí tác động, đặc
tính của nguồn rung và giá trị của các đại lượng động học đặc trưng cho rung động (tần số, độ
lệch, vận tốc, gia tốc v.v...) mà ảnh hưởng của rung động tới cơ thể con người sẽ rất khác nhau.
Rung động tác động lên cơ thể người có hai loại: rung động toàn thân và rung động cục
bộ. Rung động chung (toàn thân thể) làm cho toàn thể cơ thể người dao động, còn rung động
cục bộ chỉ làm cho một phần cơ thể người bị rung động. Tác động của rung động toàn thân và
rung động cục bộ lên cơ thể người khác nhau.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 13


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

1. Tác hại của rung động toàn thân

Rung động toàn thân thông thường tác động lên người trong tư thế ngồi hoặc đứng.
Rung động truyền từ máy qua chỗ tiếp xúc sàn máy, nền nhà, ghế ngồi và từ đó truyền đến
người. Mặc dù rung động được đặc trưng bởi nhiều chỉ số, nhưng theo Andreeva Galinina thì
khi đánh giá ảnh hưởng của nó lên cơ thể người, thì điều cơ bản là phải nói đến tần số rung
động.
Về mặt phản ứng của cơ thể với các dao động cơ học thì cơ thể là một hệ cơ học. Hệ cơ
học đó có tần số dao động riêng (ở tư thế đứng và ngồi) nằm trong các khoảng 4 ÷ 6 Hz, từ 10
÷ 12 Hz và từ 20 ÷ 25 Hz.
Nếu toàn thân dao động với tần số dưới 1 Hz thì các cơ quan nội tạng không xê dịch
tương đối với thân người, cả cơ thể dao động như một khối thống nhất. Cảm giác chủ quan của
những dao động đó giống như các hiện tượng lắc, tuy có khó chịu nhưng không gây ra bệnh
rung động. Rung động loại này thường xảy ra khi người đi tàu thuỷ, máy bay, ôtô v.v... Rung
động tác động tới cơ quan tiền đình, gây rối loạn thần kinh giao cảm, và người ta thường gọi là
hiện tượng say tàu, say xe v.v...
Khi rung động có tần số ở vùng 1 ÷ 20 Hz nó tác động tới người và gây ra hiện tượng
cộng hưởng dao động. Khi tần số rung động xấp xỉ tần số dao động riêng của thân người, hay
một số bộ phận cơ quan nội tạng, cảm giác khó chịu của con người tăng lên rõ rệt. Các dao
động theo phương thẳng đứng gây ra nhiều phản ứng trong cơ thể. Loại rung động này thường
gặp ở các phương tiện vận tải như xe lửa, ôtô, xe gạt hoặc máy kéo v.v... (thường được gọi là
rung xóc).
Hệ thần kinh và hệ tim mạch nhạy cảm nhất đối với tác động của rung động.
Mức độ tác động của rung động toàn thân lên cơ thể được biểu hiện qua:
- Trạng thái của các quá trình trong hệ thần kinh (hưng phấn và ức chế).
- Các phản ứng của hệ tim mạch (các biến đổi trong hoạt động của tim).
- Trạng thái chung: con người cảm thấy mệt mỏi và xuất hiện các cảm giác đau đớn khó
chịu khác liên quan đến rung động (ngứa, buồn nôn, nhức đầu, chóng mặt, cảm giác
chấn động các cơ quan nội tạng v.v...). Rung động loại này thường làm tăng thêm các
tổn thương có trước, nhất là ở cột sống, cơ quan tiêu hoá, hệ tim mạch và thường ít gây

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 14


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

các tổn thương trực tiếp. Rung động toàn thân ở tần số cao có thể gây một số rối loạn
thần kinh, tuần hoàn tiền đình v.v...
2. Tác hại của rung cục bộ

Rung động cục bộ thường gặp trong các công việc sử dụng các thiết bị, dụng cụ cầm tay
dùng khí nén, dùng điện, như búa khoan, búa tán ri vê, búa dũi ba via vật đúc hay mối hàn, máy
mài cầm tay hoặc các máy chạy bằng các động cơ xách tay (như máy mài cưa tay chạy xăng
v.v...). Các thiết bị này thường có tần số rung động 30 ÷ 400 Hz hoặc cao hơn nữ a.
Các mô xương truyền dao động cơ học rất tốt nên rung động có thể lan truyền đến tận
các phần xa nhất của cơ thể. Ngoài ra, khi sử dụng các thiết bị, người công nhân thường phải
đỡ một khối lượng thiết bị nào đó hay phải tì tay lên máy (khối lượng của máy thường nặng từ
10 ÷ 30 kg). Do đó, các hệ cơ luôn ở trạng thái căng, chính vì nguyên nhân này mà rung động
truyền dễ dàng hơn vào xương và các bề mặt của khớp. Các mặt khớp bị dịch chuyển xít lại gần
nhau hơn, và dễ va chạm với nhau khi có rung động. Quá trình này diễn ra lâu dài sẽ gây tổn
thương tới hệ xương khớp. Ví dụ như hiện tượng các đầu khớp bị mòn và vỡ ra làm xuất hiện
các mảnh xương vụn. Hiện tượng này là khởi điểm của hiện tượng gai xương và dị vật ở khớp.
Vị trí viêm khớp xương thường thấy nhất là khớp khuỷu tay. Các khớp khuỷu tay phải và vai
hay bị đau nhất. Bệnh biểu hiện bằng cách hình thành bên ngoài khớp các gai xương và xơ
cứng tức là nhữ ng cấu tạo xương nhỏ, biểu hiện bằng nhữ ng cấu tạo xương trong vùng thân
xương khuỷu tay và đôi khi thấy ở xương bả vai, bằng bệnh xơ cứng xương trên toàn bộ xương
chi trên.
Qua nghiên cứu nhiều trường hợp bằng X quang thì viêm khớp cổ tay cũng quan trọng
như ở khuỷu tay. Ở công nhân khoan đá bằng khí nén có thể có nhữ ng thay đổi trong xương cổ
tay và xương sống. Các xương cổ tay phát triển nhữ ng cấu tạo hình khối u, xơ cứng xương,
như biến dạng, xơ cứng xương hình hạt đậu, đôi khi hoại tử vô khuẩn xương hình bán nguyệt
(còn gọi bệnh Kienbock). Tải bản FULL (31 trang): https://bit.ly/3bWvdA6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Khi làm việc với các dụng cụ, thiết bị cầm tay có sử dụng khí nén, người công nhân phải
dùng lực đáng kể để chống lại sức bật của dụng cụ và định vị vị trí cần gia công cho chính xác.
Dụng cụ, thiết bị càng nặng, vật gia công càng cứng thì phải dùng nhiều ứng suất tĩnh. Sức bật
và ứng suất tĩnh của cơ bắp có ý nghĩa lớn trong các bệnh của khớp xương.

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 Trang 15


Rung động trong sản xuất GVHD: Võ Thị Kim Hân

Các rung động có tần số dưới 40 Hz thường gây tổn thương xương và khớp. Làm việc
có tiếp xúc với rung động không nhữ ng có tổn hại ở xương khớp mà còn ở cả cơ bắp, mạch
máu. Do phải dùng lực để chống lại sức bật và giữ khối lượng của dụng cụ mà cơ bắp của
người công nhân phải căng. Sự căng cơ thường xuyên có thể dẫn đến sự co giật thực sự. Chứng
teo cơ gây ra ở một số công nhân là do:
- Sức dập trực tiếp vào các cơ của bàn tay.
- Cơ không được nghỉ trong suốt thời gian làm việc.
Chứng teo cơ trong bệnh rung thường khu trú ở mô ngón tay cái và môngón tay út. Các
cơ cánh tay cũng bị tổn thương. Tuy nhiên, cơ cánh tay và cơ vai ít bị hơn. Sự căng cơ còn làm
cho cơ bám vào xương mạnh hơn. Do đó tạo ra những lồi xương hoặc can xi hoá gân mà ta có
thể nhìn thấy được khi chụp X quang.
Ngoài ra rung động còn gây ra các rối loạn mạch máu và vận mạch, đặc biệt là ở bàn
tay. Đó là hiện tượng Raynaud nghề nghiệp. Bệnh này thường do các rung động có tần số trên
40 Hz gây ra. Triệu chứng rõ rệt nhất của bệnh rung động là sự thay đổi trương lực của mạch
máu.
Sự thay đổi đó có thể có các tính chất khác nhau: co thắt, trạng thái co cứng- liệt của các
mạch máu ngoại vi. Sự thay đổi trương lực của mạch máu có lien quan với tần số rung động.
Andreevna Galanina cho rằng sự co thắt mạch ngoại vi xuất hiện khi có tác động của rung động
với tần số ở trong khoảng 35 ÷ 250 Hz. Theo Seyring thì 4 % công nhân có rối loạn mạch máu
Tải bản FULL (31 trang): https://bit.ly/3bWvdA6
sau 2 năm làm việc, Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
48 % sau năm thứ ba, 61 % sau năm thứ mười. Vị trí các rối loạn mạch máu hoàn toàn
khu trú ở các ngón tay cầm máy của bàn tay trái (đối với nhữ ng người thuận tay phải). Nhữ ng
ngón tay hay bị nhất là các ngón út, ngón đeo nhẫn và ngón giữ a.
Các yếu tố làm tăng tác động của rung động là cách cầm máy, thời gian tác động, độ rắn
chắc của đất đá ở nơi tiếp xúc với máy và môi trường có nhiệt độ thấp. Nhưng thường nhữ ng
dụng cụ, thiết bị gây rung động cũng kèm theo tiếng ồn cao, do đó gây ra nhữ ng chuyển biến
đáng kể trong trạng thái của hệ thần kinh trung ương, do vậy bệnh rung động sẽ tiến triển
nhanh hơn. Một số công trình nghiên cứu cho thấy rằng tác động phối hợp của tiếng ồn và rung
động thường gây bệnh lý thể hiện rõ hơn. Nhiệt độ thấp (hơn nhiệt độ môi trường không khí)

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 3183185 Trang 16

You might also like