You are on page 1of 4

PHÂN TÍCH HỒN TRƯƠNG BA VÀ ĐẾ THÍCH

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết.
Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ
đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền
được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang
Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lý và nhân văn sâu sắc. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm
rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba.

Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu hiển
nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia,
nay phải sống mượn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của xác thịt thô
phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống không được là chính mình và bi kịch bị chính
những người thân yêu cự tuyệt – Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế Thích để quyết
chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.

“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày,
khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng
dữ dội ở Trương Ba. Thực ra cuộc đấu tranh đó đã được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn
đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và
đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là
cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách.

Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép
vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách
cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể
được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm
rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.

“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu
nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên
trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh
anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh
hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu
cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã
nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ,
trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong
một thể xác phàm tục tội lỗi.

“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được
sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội
dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia”
được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là
chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.

Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng
không chỉ Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả.
Vì vậy Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp
nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận.

Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên quan điểm sống của mình. Đế Thích lấy dẫn
chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng không thể sống là chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu
có được sống theo như những gì tôi nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính người lắm
khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế Thích thì:
“không ai được sống là chính mình”. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Bởi sống có nghĩa là tồn
tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận.
Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án.

Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của
người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”.
Đồ đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi,
sống ký sinh vào thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã
chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích,
sống là tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự
tồn tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.

Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của
Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn
cao đẹp. “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm
cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng
tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt.
Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với
nhau”. Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không
giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh
hàng thịt cũng mất”.

Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được
sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi
chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn
mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục
sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.

Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ
ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – sống là
sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này là xuất phát từ chính cuộc sống của Đế Thích. Tiên
phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng trực
tiếp lên tư tưởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.

Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”. Sự
phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý
giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương
Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống
tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tôi còn phải sang nhà chị
Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân
một thằng bé lên mười…”.

Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn
phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông
khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba
đó chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và
cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba
trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ông hãy cứu nó! Ông
phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.

Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của
Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ
có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Ông cũng khuyên nhủ
Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những
suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được
tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là
“cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.

Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những
người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người
yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người
yêu mến ông.

Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc
về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người
đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một
bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả
Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục.
Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong
và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống
chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh
hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó
Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và
chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn
coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được
cao đẹp.

Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật Trương Ba và Đế Thích trong Hồn Trương Ba, da
hàng thịt, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc
thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm
thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta
mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn. Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng
và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt
truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân
vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết lý
khách quan.

You might also like