Professional Documents
Culture Documents
(Nhóm 8) Bài Tập Tháng Thứ 2
(Nhóm 8) Bài Tập Tháng Thứ 2
GVHD: Lê Thanh Hà
Nhóm: 8 DS45.1
Câu 1: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2005? Nêu rõ các hình thức
sở hữu trong BLDS.
Câu 2: Có bao nhiêu hình thức sở hữu trong BLDS 2015? Nêu rõ các hình thức
sở hữu trong BLDS.
2
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
Câu 1: Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn
thì di chúc có giá trị pháp lý không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu vào thời điểm xác lập di chúc, người lập di chúc không minh mẫn thì di chúc
không có giá trị pháp lý.
- Căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 652, BLDS 2005 và Điểm a K1 Đ630BLDS
2015 quy định về Di chúc hợp pháp:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;”.
Câu 2: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm,
khi lập di chúc năm 2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm
đã quyết định như vậy?
- Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 382, theo Tòa phúc thẩm, khi lập
di chúc năm 2005 cụ Như không minh mẫn.
- Toà phúc thẩm đã quyết định như vậy vì lý do Bệnh xá Công an tỉnh An Giang
không có chức năng khám sức khoẻ để lập di chúc.
Câu 3: Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm
2005 cụ Như có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định
như vậy?
- Trong vụ việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2005 cụ Như
có minh mẫn.
- Toà giám đốc thẩm đã quyết định như vậy vì: ông On, ông Kiếm và ông Hiếu đều
có lời khai xác nhận tại thời điểm bà Như lập di chúc, trạng thái tinh thần của bà
Như vui vẻ, minh mẫn.
Bên cạnh đó, bác sĩ Tăng Diệu Hiền có kết luận tình trạng sức khoẻ và tinh thần của
bà Như được ghi trong Giấy chứng nhận khám sức khoẻ ngày 26/12/2004, trước
ngày bà Như lập di chúc 05 ngày không mâu thuẫn với lời khai xác nhận của ông
On, ông Kiếm và ông Hiếu.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
3
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
- Toà giám đốc thẩm công nhận di chúc hợp pháp và bà Như lập di chúc trong trạng
thái minh mẫn, vợ chồng ông Truyền, bà Hằng được hưởng theo di chúc của
bà Như.
- Quyết định trên của Toà giám đốc thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật về
thừa kế theo di chúc. Bà Như có đủ điều kiện về nội dung và hình thức của di chúc
theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và điều 630 BLDS 2015
nên hiển nhiên di chúc phải được công nhận là hợp pháp.
Người làm chứng cho việc lập di chúc cũng phù hợp với Điều 654 của BLDS 2005
và Đ632 BLDS 2015.
& Quyết định số 545/2009/DS-GĐT ngày 26/10/2009 của Tòa Dân sự
TANDTC.
- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Nguyệt
- Bị đơn: Bà Đỗ Thị Minh Thuyết
Theo đơn khởi kiện ngày 16/10/2001 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn là
vợ chồng ông bà Đỗ Thị Nguyệt và Lê Sơn Thủy trình bày như sau. Cha mẹ của bà
Nguyệt và bà Thuyết là cụ Kiệt và cụ Biết đã qua đời để lại di sản gồm 1 ngôi nhà
và vườn cây ăn trái với quyền sử dụng diện tích đất tại xã BÌnh Nhâm, huyện Thuận
An. Ngoài ra, khi còn còn sống cụ Biết có mượn của bà Minh 2.500.000đ. Bà
Thuyết, ông Thủy yêu cầu được hưởng thừa kế toàn bộ di sản của cụ Kiệt, cụ Biết
theo di chúc của cụ Biết lập ngày 15/09/2000.Ngoài ra, bà Thuyết còn công khai
như sau: Ngày 20/9/1997 cụ Biết đã lập tờ truất quyền hưởng thừa kế của bà Nguyệt
cùng chồng và con nuôi của bà Nguyệt đối với những tài sản chung và riêng của cụ
Kiêt và cụ Biết theo như tờ ủy quyền mà cụ kIệt đã đễ lại cho cụ Biết và di tặng cho
các cháu ngoại là ông Hùng, bà Diễm và ông Hoàng. Tờ Truất quyền do cụ Biết ký
tên và lăn tay.Tuy không có chứng cứ mới nhu7ng Tòa án nhân dân tỉnh BÌnh
Dương vẫn không chấp nhận di chúc của cụ Biết là di chúc hợp pháp phần di sản
của cụ Biết là không có căn cứ và chấp hành không nghiêm quyết định của Tòa án
cấp giám đốc thẩm. Quyết định hủy Bản án dân sự phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.
4
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
Câu 5: Liên quan đến vụ việc trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm,
khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa phúc thẩm
quyết định như vậy?
Trong Quyết định số 545, theo Tòa phúc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết
không còn minh mẫn. Vì theo như Quyết định 545 thì Tòa phúc thẩm cho rằng: “…
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cụ Biết lập di chúc ngày 03/01/2001 đã 84 tuổi;
trước đó vào tháng 11, 12 năm 2000 cụ Biết phải nhập viện điều trị với triệu chứng
theo chuẩn đoán là thiếu máu cơ tim, xuất huyết não, cao huyết áp; cụ Biết lập di
chúc ngày 03/01/2001 thì ngày 14/01/2001 cụ Biết chết, để cho rằng cụ Biết lập di
chúc trong tình trạng thiếu minh mẫn, sáng suốt là không có căn cứ…”.
Câu 6: Trong việc vừa nêu, theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001
cụ Biết có minh mẫn không? Vì sao Tòa giám đốc thẩm đã quyết định như
vậy?
Theo Tòa giám đốc thẩm, khi lập di chúc năm 2001 cụ Biết còn minh mẫn vì Tòa
giám đốc thẩm cho rằng: “ Đối với “Tờ di chúc” lập ngày 03/01/2001 do cụ Biết
đọc, ông Nguyễn Văn Thắng viết hộ, cụ Biết điểm chỉ vào di chúc, có ông Lương
Văn Dầm chứng kiến, sau khi viết xong thì ông Thắng và ông Dầm ký tên làm
chứng vào bản di chúc. Tại các lời khai của ông Lương Văn Dầm ngày 07/02/2002
(BL 62) và của ông Nguyễn Văn Thắng ngày 01/04/2002 (BL 64) đều xác nhận khi
lập di chúc, cụ Biết minh mẫn và đọc (nói) nội dung di chúc cho ông Thắng viết.
Mặt khác, ngày 04/01/2001 cụ Biết ký (điểm chỉ) hợp đồng cho bà Trần Hoài Mỹ
thuê vườn cây với thời hạn thuê 4 năm, theo lời khai của bà Mỹ ngày 11/03/2002
(BL 25) thì trước ngày ký hợp đồng 1 tuần, cụ Biết có gọi bà Mỹ dến để thỏa thuận
về việc thuê vườn cây và khi cụ Biết điểm chỉ vào bản hợp đồng thì cụ Biết là người
minh mẫn, còn chỉ dẫn cho bà Mỹ cách chăm sóc vườn cây. Do đó, căn cứ xác định
cụ Biết lập di chúc ngày 03/01/2001 trong tình trạng minh mẫn”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Theo nhóm, Toà giám đốc thẩm “công nhận di chúc của cụ Biết lập ngày
03/01/2001 là hợp pháp phần di sản của cụ Biết, phần di sản của cụ Biết, phần
của cụ Kiệt chia theo pháp luật; nhưng cả hai lần xét xử phúc thẩm lại vụ án này,
tuy không có thêm chứng cứ mới nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương vẫn
không chấp nhận di chúc của cụ Biết là di chúc hợp pháp phần di sản của cụ Biết
là không có căn cứ và cháp hành không nghiêm quyết định của Tòa án cấp giám
đốc thẩm” theo nhóm em là hợp lý vì ngày 03/01/2001 theo như Tòa cấp phúc
5
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
thẩm cho rằng bà Biết không còn minh mẫn vì “vào tháng 11, 12 năm 2000 cụ
Biết phải nhập viện điều trị với triệu chứng theo chuẩn đoán là thiếu máu cơ tim,
xuất huyết não, cao huyết áp” nhưng bà đã xuất viện và bệnh bà đã tuyên giảm
do đó bà mới đọc di chúc cho Thắng viết hộ và bà điểm chỉ như Tòa giám đốc
thẩm đưa ra lý do để quyết định bà Biết vẫn còn minh mẫn.
- Theo điểm a khoản 1 và khoản 5 Điều 630 BLDS 2015 quy định:
1.Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép. Bà Biết trong lúc lập di chúc còn minh mẫn.
Pháp luật cũng đòi hỏi người lập di chúc phải là người có khả năng nhận thức
bình thường vào lúc lập di chúc. Điều này có nghĩa là vào thời điểm lập di chúc,
sức khỏe tâm thần của người lập di chúc phải ở trong tình trạng hoàn toàn minh
mẫn, sáng suốt. Sự minh mẫn sáng suốt là điều kiện để di chúc được lập có hiệu
lực pháp luật. Bởi lẽ, chỉ có sự minh mẫn mới giúp cho ngươi lập di chúc nhận
thức rõ hành vi của mình, hiểu đúng việc mình làm. Có như vậy, di chúc được
lập mới thể hiện đúng, dích thực ý chs của người lập di chúc.
5.Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký
tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ
quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm
chứng.
- Theo Điều 634 BLDS 2015 quy định di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Người lập di chúc là người biết đọc, biết viết thành thạo nhưng không tự viết di
chúc (có thể vì lý do khách quan như bị run tay hoặc thương tích nhẹ ở tay
không thể cầm bút; hoặc có thể vì lý do chủ quan là không tự mình lập di chúc
bằng chữ viết tay, mà muốn đánh máy di chúc hoặc nhờ người khác viết hộ,
đánh máy hộ di chúc) thì phải được thực hiện trước mặt ít nhất hai người đủ điều
kiện làm chứng như quy định tại Điều 632 BLDS 2015.
- Ngày 03/01/2001 bà Biết lập di chúc do cụ Biết đọc, ông Nguyễn Văn Thắng
viết hộ, cụ Biết điểm chỉ vào di chúc, có ông Lương Văn Dầm chứng kiến, sau
khi viết xong thì ông Thắng và ông Dầm ký tên làm chứng vào bản di chúc.
Do đó, di chúc bà Biết lập 03/01/2001 được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận là
6
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
7
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
“Cụ Biết di tặng tài sản riêng và chung cho ba cháu ngoại là ông Hùng, bà Diễm
và ông Hoàng”.
Câu 11: Di tặng trên có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của Quyết
định cho câu trả lời?
- Di tặng trên không được Toà án chấp nhận.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời.
“Toà án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất quyền hưởng di sản” lập ngày
20/9/1997 và “Tờ di chúc” ngày 15/9/2000 bởi các văn bản này không phù hợp với
quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức văn bản là có căn cứ”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến di tặng.
- Hướng giải quyết của Toà án là hợp lí.
- Bởi lẽ căn cứ Khoản 5, Điều 667, BLDS 2005 thì khi một người để lại nhiều bản
di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật. Vì
vậy chỉ có “Tờ di chúc” lập ngày 03/01/2001 có hiệu lực pháp luật, mà trong tờ di
chúc này không có đề cập tới di tặng.
- Tuy nhiên, BLDS quy định, người để lại di sản chỉ “dành một phần di sản để di
tặng cho người khác” nhưng BLDS không cho biết “một phần di sản” là như thế
nào. Theo đó, bà Biết đã di tặng toàn bộ di sản của mình và do đó không phù hợp
với quy định trên.
Câu 13: Truất quyền thừa kế là gì? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Truất quyền thừa kế có thể hiểu là không cho hưởng quyền thừa kế. Nếu không
có việc truất quyền này thì đương nhiên người đó sẽ được hưởng thừa kế
- Cơ sở pháp lý: Điều 648 BLDS 2015
Câu 14: Trong Quyết định 2009, cụ Biết đã truất quyền thừa kế của ai? Đoạn
nào của Quyết định cho câu trả lời.
- Trong Quyết định 2009, không đề cập đến cụ thể chi tiết của “Tờ truất quyền
thừa hưởng di sản”, vì “Tờ truất quyền thừa hưởng di sản” này không phù hợp
với quy định của pháp luật nên bị huỷ bỏ. Toà án không đề cập gì thêm.
- Đoạn trong Quyết định: “Toà án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất
quyền là di sản" lập ngày 20-9-1997 và “Tờ di chúc " ngày 15 9-2000 bởi các
văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội dung và hình
thức văn bản là có căn cứ”
8
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
Câu 15: Truất quyền trên của cụ Biết có được Toà án chấp nhận không? Đoạn
nào của Quyết định cho câu trả lời.
- Truất quyền trên của cụ Biết không được Toà án chấp nhận.
- Đoạn của Quyết định: “Toà án cấp phúc thẩm không công nhận “Tờ truất
quyền là di sản" lập ngày 20-9-1997 và “Tờ di chúc " ngày 15 9-2000 bởi các
văn bản này không phù hợp với quy định của pháp luật cả về nội dung và hình
thức văn bản là có căn cứ”
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án liên quan
đến truất quyền thừa kế.
Hướng giải quyết trên của Toà án là hoàn toàn hợp lý. Vì hình thức văn bản và cả
nội dung của “Tờ truất quyền di sản” của cụ Biết là không phù hợp với quy định của
pháp luật. Do đó, “Tờ truất quyền di sản” không có hiệu lực pháp luật.
Câu 17: Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản nào? Đoạn
nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Cụ Biết đã định đoạt trong di chúc năm 2001 những tài sản: 1 căn nhà và đất vườn
cây ăn trái diện tích 6.278m2 là tài sản chung của cụ Kiệt và cụ Biết.
“Ngày 03/01/2001 cụ Biết lập di chúc có nội dung: Sau khi cụ qua đời thì bà
Thuyết được toàn quyền thừa hưởng phần tài sản là nhà và đất vườn cây ăn trái diện
tích 6.278m2”.
Câu 18: Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp
lý phần nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Theo Viện kiểm sát và Tòa dân sự, di chúc năm 2001 có giá trị pháp lý phần di sản
của cụ Biết.
“Tại các quyết định giám đốc thẩm số 61/GĐT-DS ngày 25/5/2004 và số
231/2006/DS-GĐT ngày 28/9/2006 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đều
huỷ các bản án dân sự phúc thẩm số 48/DS-PT ngày 21/4/2003 và số 122/2006/DS-
PT ngày 22/6/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương và giao hồ sơ vụ án cho
Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm lại theo hướng công nhân di
9
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
chúc của cụ Biết lập ngày 03/01/2001 là hợp pháp phần di sản của cụ Biết, phần di
sản của cụ Kiệt chia theo pháp luật,...”.
Câu 19: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát và
Tòa dân sự.
Hướng giải quyết trên là hợp lí. Bởi vì theo Điều 652, BLDS 2005 thì di chúc của
cụ Biết lập ngày 03/01/2001 là di chúc hợp pháp và có hiệu lực. Do đó cụ Biết có
quyền định đoạt tài sản của mình, và phần di sản thừa kế của cụ Biết phải được chia
theo di chúc. Còn về phần tài sản của cụ Kiệt, do cụ Kiệt chết mà không để lại di
chúc nên phần di sản thừa kế của cụ Kiệt được chia theo đúng pháp luật.
Câu 20: Sự khác nhau giữa “truất quyền thừa kế” và “không được hưởng di
sản” trong chế định thừa kế. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Không được hưởng di sản: Nếu người để lại di sản biết về những hành vi của người
thừa kế nhưng vẫn cho họ hưởng theo di chúc thì những người này vẫn được hưởng.
Căn cứ tại Điều 621 BLDS 2015 quy định về người không được hưởng di sản: “1.
Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người
để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản
theo di chúc”.
Người bị truất quyền hưởng di sản: Người viết di chúc không để lại di sản cho
người thừa kế và người này chỉ được hưởng nếu di chúc không có hiệu lực pháp
luật. Người này chỉ được hưởng di sản trong trường hợp tại Điều 644 BLDS 2015
quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: “1. Những người
sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế
10
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần
ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận
di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này”. Còn khi người khong
được hưởng di sản sẽ vẫn không được hưởng di sản trong bất kì trường hợp nào
được quy định tại Điều 644 BLDS 2015.
Do đó, truất quyền thừa kế theo ý chí của người để lại di chúc và không được hưởng
di sản thừa kế theo pháp luật là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Câu 21: Trong quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát Toà dân sự, bà Nga có
hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình không? Đoạn
nào của quyết định cho câu trả lời?
Trong quyết định năm 2008, theo Viện kiểm sát Toà dân sự, bà Nga có hành vi vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình. Đoạn của quyết định cho thấy
bà Nga có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình là: “Bà Nga là con nuôi
nhưng đã không cấp dưỡng bố mẹ khi tuổi già dẫn đến Hội chữ thập đỏ phải cung
cấp thức ăn. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 646 Bộ luật dân sự 1995, điểm
b khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005 người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại di sản không được hưởng di sản. Nên cần xác định bà Nga
không được hưởng di sản mới hợp đạo lí và đúng pháp luật”.
Câu 22: Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình thì bà Nga có được hưởng thừa kế di sản của
ông Bình không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Nếu có cơ sở khẳng định bà Nga có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi
dưỡng ông Bình thì bà Nga không được hưởng thừa kế di sản của ông Bình.
Cơ sở pháp lí: Điểm b khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 có quy định về người không
được quyền hưởng di sản.
“Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản.
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.
11
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. Bị coi là vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản khi người đó có nghĩa
vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng với người mà
người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật nhưng cố ý từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho người đó lâm vào tình trạng khổ sở
hoặc nguy hiểm đến tính mạng thì không có quyền hưởng di sản của người đó để lại
do có những hành vi bất xứng. Vì vậy bà Nga sẽ không được hưởng thừa kế di sản
của ông Bình nếu có cơ sở khẳng định bà có những hành vi vi phạm như trên.
Câu 23: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về hướng giải quyết trên của Tòa án liên
quan đến hành vi của bà Nga.
- Theo nhóm thì hướng giải quyết trên của Toà án liên quan đến hành vi của bà
Nga là hoàn toàn hợp lí.
- Toà án xác định bà Nga vẫn là con nuôi của ông Bình và bà Như là đúng vì chưa
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận, thủ tục chấm dứt việc nuôi
con nuôi. Nói cách khác là chưa có quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án
về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa ông Bình, bà Như và bà Nga. Và theo
các tài liệu có trong hồ sơ thì chưa có các cơ sở xác định bà Nga đã có hành vi
bạc đãi cha mẹ nên cũng không có cơ sở xác định bà Nga có hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ông Bình, bà Như để không được hưởng thừa
kế di sản của ông Bình, bà Như. Do đó bà Nga vẫn được hưởng phần di sản của
ông Bình theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất quy định tại điểm a khoản 1
Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” (do ông Bình mất không
có lập di chúc) là hoàn toàn hợp tình , hợp lí.
12
Nhóm 8 DS45.1 Những quy định chung về luật dân sự,
tài sản và thừa kế
13